Sinh Hoạt Sống Đạo
(2015-2021)
Đồng Công: Những Ấn Tín Thần Linh
(Đồng
Công 70 Năm Ngọc Khánh Khai Dòng)
THĐC tâm phương Đaminh Maria cao tấn
tĩnh
Cảm
Nghiệm Đồng Công
Những
Ấn Tín Thần Linh
Những
Ấn Tín Thần Linh
Những
Ấn Tín Thần Linh
Những
Ấn Tín Thần Linh
Những Ấn Tín Thần Linh
Những Ấn Tín Thần Linh
2- Đồng Công Nẩy Sinh sau cuộc Di Cư vào Nam 1954:
Vì Đồng
Công là sản phẩm thần linh của Trời Cao, nên đã được Đấng muốn nó hiện hữu trên
đất nước Việt Nam cho người Việt Nam, tiếp tục tỏ mình ra nơi nó bằng các dấu ấn
tín thần linh trong giai đoạn lịch sử Nẩy Sinh của nó trong thời khoảng 20 năm,
từ năm 1955, khi Dòng Đồng Công bắt đầu lập cư ở Thủ Đức, cho đến năm 1975, khi
anh em Dòng cần phải vượt qua để có thể "giữ lấy Dòng và để truyền giáo".
Vậy đâu là những ấn tín thần linh của Thiên Chúa nơi Dòng Đồng Công khiến chúng
ta không thể chối cãi và càng phải tri ân cảm tạ Ngài cũng như tin tưởng cậy
trông vào Ngài hơn bao giờ hết và hơn ai hết?
Những ấn tín thần linh của Thiên Chúa nơi Dòng Đồng Công trong giai đoạn
nẩy sinh 20 năm này, về các cơ sở của Dòng, về các hoạt động phục vụ của Dòng,
về hoạt động truyền giáo của Dòng, nhầt là về việc huấn thánh của Đấng Sáng Lập.
Nếu tình trạng nảy sinh về các cơ sở của Dòng liên quan đến đức tin của Đấng
Sáng Lập thì tình trạng nảy sinh về các hoạt động phục vụ, nhất là hoạt động
truyền giáo của Dòng, liên quan đến đức mến của Ngài. Tuy nhiên, ấn tín quan
trọng nhất và cần thiết nhất trong giai đoạn 20 năm nẩy sinh này của Hội
Dòng Đồng Công chính là ở chỗ huấn thánh của Đấng Sáng Lập, bằng không tất cả
những nảy sinh bề ngoài về cơ sở, cũng như về hoạt động phục vụ và truyền giáo
chỉ là những phát triển tự nhiên hơn là những hoa trái siêu nhiên đậm dấu ấn tín
của Thiên Chúa.
Ấn tín Thần linh trên các cơ sở của Dòng liên quan đến đức tin của Đấng Sáng Lập
Theo bản
kê khai tài sản của Anh Cả về tài sản của Dòng trong thời gian Anh ở tù lần thứ
nhất 1975-1977, thì tất cả tài sản là 14 cơ sở của Dòng Đồng Công được Anh liệt
kê như sau:
@ Tại Thủ Đức giáo phận Sàigòn có 6 cơ sở: Cơ
sở 1: Nhà In, tòa báo Trái Tim, Nhà Cá; Cơ sở 2: Giáo sĩ Dưỡng
Đường; Cơ sở 3: Tu Viện Thánh Gia; Cơ sở 4: Trường Trung Tiểu học và
Ký Túc xá;
Cơ sở 5: Đệ Tử viện; Cơ sở 6: Nhà Gà Kitô Vương.
@ Tại Tỉnh Bình Định có 4 cơ sở: Cơ sở 1: Mỹ Chánh; Cơ sở 2: Phù Mỹ;
Cơ sở 3: Nhà Đá; Cơ sở 4: Qui Đức.
@ Tại Di Linh có 2 cơ sở: Cơ sở 1: Tu viện và Đồn điền Thiên Mẫu; Cơ sở
2: Dưỡng Lão Thượng.
@ Tại Đà Lạt có 1 cơ sở là Cư xá Rạng Đông.
@ Tại Phan Rí có 1 cơ sở là
Tu Viện Mẹ Thăm Viếng và Trường Đồng Công ở Lương Sơn.
Còn 2 cơ sở nữa không được Anh Cả liệt kê là Tu Viện Tiệc Ly ở Lái Thiêu và một
nơi nữa ở Quận Bố Đức tỉnh Phước Long, vì bấy giờ 2 cơ sở này không thuộc về
Dòng nữa. Ngoài ra, Anh Cả không liệt kê dẫy Nhà 30 gian là vì dẫy nhà này
thuộc về Tu viện Thánh gia. Khi khai báo tài sản, Anh Cả liệt kê theo thứ tự
thời gian, như 6 cơ sở ở Thủ Đức có từ giữa cho đến hạ bán thập niên 1950, 4 cơ
sở ở Tỉnh Bình Định Giáo phận Qui Nhơn có trong thời khoảng hạ bán thập niên
1950 đến hạ bán thập niên 1960, và 4 cơ sở nữa, ở Di Linh 2, Đà Lạt 1 và Phan Rí
1 có trong thời khoảng đầu thập niên 1970.
Nhưng vấn đề đặt ra ở đây để thấy được ấn tín thần linh của Trời Cao đó là Anh
Cả lấy tiền ở đâu để kiến thiết những cơ sở đầu tiên của Dòng ở Thủ Đức khi Dòng
mới di cư vào nam, trong khi đó anh em Dòng hơn 100 người chẳng làm gì ra tiền,
trái lại Anh Cả còn phải có tiền để đáp ứng nhu cầu ăn uống, may mặc và di
chuyển cho bằng ấy anh em Dòng nữa.
Nếu không ai trong chúng ta biết được tất cả những gì là thâm cung bí sử của
vấn đề lạ lùng này, ngoài một mình Anh Cả, vị cũng có thể trả lời với chúng ta
rằng "Anh cũng chẳng biết nữa. Chỉ biết rằng khi cần thì tự nhiên tiền tới tay
vào đúng lúc của nó sau khi xin Chúa giúp", thì chúng ta không thể nào phủ
nhận được bàn tay quan phòng thần linh vô cùng huyền diệu của Thiên Chúa, Đấng
đã tỏ mình ra nơi đức tin của vị đã được Ngài chọn để sáng lập Dòng cho Ngài. Đó
là lý do chúng ta mới có thể tuyên xưng rằng: Ấn tín
Thần linh trên các cơ sở của Dòng liên quan đến đức tin của Đấng Sáng Lập.
Ấn tín Thần linh nơi các hoạt động phục vụ của Dòng liên quan đến đức mến
của Đấng Sáng Lập
Khẩu
hiệu của Dòng Đồng Công là "không để được phục vụ mà là phục vụ - non ministrari
sed ministrare" (Mathêu 20:28). Bởi thế, những hoạt động phục vụ nào có thể, anh
em Đồng Công đều tự nguyện phục vụ hay đáp ứng phục vụ. Trước hết, những
hoạt động phục vụ do chính Đấng Sáng Lập chủ trương anh em Dòng cần phải đảm
nhiệm, bao gồm 2 lãnh vực chính: 1- Giáo dục giới trẻ bằng cách mở các trường
trung tiểu học, như ở Quận Thủ Đức Thành phố Sài Gòn từ năm 1956, ở Xã Mỹ Chánh
Quận Phù Mỹ Tỉnh Bình Định từ năm 1959, ở Nhà Đá Xã Mỹ Hiệp Quận Phù Mỹ Tỉnh
Bình Định 1968, và ở Lương Sơn Phan Rí 1974; ngoài ra, Dòng còn giáo dục tinh
thần cho giới trẻ ở cấp đại học nữa, bằng cách mở cư xá sinh viên miễn phí, như
Cư Xá Sinh Viên Rạng Đông ở Đà Lạt. 2- Chăm sóc các cha hưu dưỡng, bằng cách lập
Giáo sĩ Dưỡng đường Đồng Công ở ngay sát với Nhà Mẹ cũng là Tu Viện Thánh Gia ở
Thủ Đức từ năm 1956.
Trong các hoạt động phục vụ, ngoài hai hoạt động chính yếu được kể đến trên đây,
một liên quan đến giới trẻ là hoạt động giáo dục, và một liên quan đến giới già
là hoạt động chăm sóc các cha hưu dưỡng, anh em Đồng Công còn phục vụ đáp ứng
những nhu cầu ở những nơi nào cần nữa, chẳng hạn phục vụ xây cất chủng viện từ
bán thập niên 1960 cho Giáo phận Đà Nẵng của ĐC Phạm Ngọc Chi cai quản từ
năm 1963;
phục vụ Tiểu Chủng viện Simon Hòa Đà Lạt, cuối thập niên 1960 và tiền
bán thập niên 1970, và phục vụ Đại Chủng Viện Minh Hòa Giáo phận Đà Lạt vào tiền
bán thập niên 1970; các hoạt động phục vụ Đại học Thụ Nhân Đà Lạt vào đầu thập
niên 1970, như coi đồn điền Dijrato ở Di Linh và đồn điền Đại Nga ở Bảo Lộc Lâm
Đồng, như làm quản lý cho viện đại học này và coi Cư xá sinh viên Trương Vĩnh
Ký Đà Lạt của họ. Nếu tính cả cho đến hiện nay, 2023, chứ không chỉ trong
giai đoạn 20 năm ấy, thì Dòng Đồng Công còn được mời gọi phục vụ các cha hưu
dưỡng ở một số Giáo phận, như ở Giáo phận Bùi Chu ngoài Bắc, và đi giúp mục vụ
cho nhiều dòng nữ ở TGP Sài Gòn v.v.
Tất cả những hoạt động phục vụ này, dù tự nguyện theo chủ trương hay đáp ứng
theo lời mời gọi, cũng đều xuất phát từ đức bác ái yêu thương, một đức bác ái
yêu thương trước hết ở nơi Đấng Sáng Lập, bởi Ngài đã ý thức được Đức ái là bản
chất của đời sống tu trì và là mục đích trọn hảo của đời sống thánh hiến, và nhờ
các hoạt động phục vụ hoàn toàn vì đức ái như thế, anh em Dòng mới nên giống
Chúa Kitô, Đấng "đến không để được hầu hạ mà là hầu hạ" (Mathêu 20:28), do đó
nên Đức Ái mới là tinh thần chính yếu trong 3 tinh thần của Dòng Ngài lập. Như
thế thì tất cả những hoạt động phục vụ của anh em Dòng Đồng Công vì bác ái yêu
thương theo gương Chúa Kitô, tự bản chất của chúng, đã trở nên ấn tín thần linh
của Thiên Chúa rồi vậy.
Ấn tín Thần linh nơi các hoạt động truyền giáo của Dòng liên quan đến đức mến
của Đấng Sáng Lập
Trong các hoạt động phục vụ của Dòng Đồng Công, truyền giáo là hoạt động chính
yếu nhất của Dòng, vì Dòng Đồng Công là Dòng Truyền Giáo, và Đấng Sáng Lập
Dòng đã khấn truyền giáo trọn đời vào ngày 2/2/1942 để bắt đầu thi hành vai trò
là Trưởng ban Truyền giáo của Giáo phận Bùi Chu, một vai trò Ngài tự nguyện
xin Đức Cha cho được đảm nhiệm để bắt đầu tuyển sinh và tìm nơi lập Dòng, sau
khi Ngài được soi động sáng lập Dòng ngày 4/4/1941. Vì Dòng được lập ra cho
Người Việt Nam nên thánh để xứng đáng và có khả năng truyền giáo cho Việt Nam mà
ngay sau khi Dòng được Đấng quan phòng thần linh đưa vào nam, Ngài đã sắp xếp
cho Dòng trở thành những thợ gặt ở một vùng truyền giáo đang đầy những lúa
chín.
Thật vậy, Nước Việt Nam nói riêng và toàn cõi Á Châu nói chung, dân số chiếm quá
một phần ba thế giới, thế mà đã gần hai ngàn năm nay, Tin Mừng của Chúa Cứu Thế
chưa được mấy người đón nhận, đa số còn tin vơ thờ quấy, mà các môn đệ của Chúa
- các nhà truyền giáo - đặt chân đến miền xứ này thì như muối bỏ biển! Có lẽ vì
sự khẩn thiết cấp bách đó mà Chúa quan phòng đã nhờ bàn tay Từ Mẫu Maria Trinh
Vương Thương Xót cho hình thành một Dòng mới có trọng trách “Truyền giáo cho dân
ngoại Việt Nam và Á đông”. Đó chính là Dòng Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc. Chính vì
muốn “truyền giáo cho dân ngoại Việt Nam và Á đông” như thế mà Đấng Sáng Lập đã
muốn nhân cơ hội quốc biến 1975 đưa cả Dòng sang lánh nạn tại một nước
nào đó ở Đông Nam Á, để vừa lánh nạn vừa truyền giáo. Nhưng không ngờ
Chúa lại muốn Dòng sang truyền giáo ở ngay đệ nhất cường quốc Hoa Kỳ.
Khai sinh giữa kỷ nguyên tân tiến, giữa lúc cao trào vô thần và duy vật đầy tràn
như vũ bão, Dòng Đồng Công đã được hân hạnh đón tiếp tầng lớp thanh thiếu niên
xung phong gia nhập để hiến mình làm dụng cụ chinh phục các linh hồn về cho
Chúa. Mặc dầu buổi sơ khai, nhân tài vật lực còn thiếu sót, các nhà truyền giáo
chưa đủ số để tung ra các cánh đồng truyền giáo, nhưng thời cơ thuận tiện đã
đến, đồng lúa Việt Nam, nhất là Miền Trung nước Việt đã chín mùi, một phần vì
những lý do chính trị, nhân dân đua nhau quay về tìm chân lý: Phong trào tòng
giáo đã dâng cao khắp Miền Nam tự do, và bột phát mạnh mẽ nhất tại bốn tỉnh
miền Trung, Quảng Nam – Quảng Ngãi – Bình Định - Phú Yên.
Trước làn sóng “tòng giáo” ồ ạt đó, Toà Thánh liền đặc cử Đức Cha Phêrô Maria
Phạm Ngọc Chi, một Giám Mục xuất sắc, có biệt tài tháo vát, có óc tổ chức, sở
trường về hoạt động truyền giáo hợp với khẩu hiệu của ngài: “Vâng lời
Thầy con thả lưới” (Laxabo rete in Verbo Tuo. Lc 5,5), làm giám mục
Tông toà quản trị địa phận Qui Nhơn (5.7.1957), một địa phận có đông lương dân
xin tòng giáo nhất thời đó. Địa phận Qui Nhơn lúc bấy giờ gồm bốn tỉnh: Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên, toà giám mục đặt tại Qui Nhơn, tỉnh lỵ
tỉnh Bình Định. Là Giám Mục ân nhân của Dòng Đồng Công (vì Ngài đã vận động để
Dòng chóng được Toà Thánh thẩm tra Hiến pháp hồi còn đặt trụ sở tại Liên Thuỷ,
Bùi Chu, Bắc Việt), đầu tháng 9-1957, Đức Cha đã tới Dòng Đồng Công tại Thủ Đức
đề nghị với Bề Trên cho một số tu sĩ Dòng ra truyền giáo tại địa phận của ngài.
Thấy được Ấn tín Thần Linh của Trời Cao như thế, cho dù bấy giờ Dòng mới di cư
vào nam, nhân lực còn ít ỏi, kinh nghiệm truyền giáo thì chưa có, nhưng Đấng
Sáng Lập cũng không thể nào không tích cực và mau mắn đáp ứng, và phái đoàn
truyền giáo đầu tiên của Dòng, 1 linh mục và 2 đệ tử, lên đường vào ngày
15/10/1957 từ Thủ Đức ra Qui Nhơn. Cánh đồng Truyền giáo bao la, mà số thợ gặt
lại ít, mặc dầu đã tăng cường đợt hai (4 anh hạn thệ, 1 cộng sự viên và bao gồm
5 giáo dân 1 nam 4 nữ), và bất ngờ được tiếp viện bởi đợt 3 (với 2 anh hạn
thệ), tất cả là 15 người, 1 linh mục Đồng Công, 7 tu sĩ Đồng Công, 1 đệ tử Đồng
Công, 1 cộng sự Đồng
Công và 5 giáo dân, nhưng chưa thấm vào đâu, dầu vậy các tay thợ Truyền giáo
cũng được phân chia ra các khu vực ở các xã thuộc phạm vi Truyền giáo được Dòng
phục vụ, đó là 6 xã trong tổng số 15 xã thuộc quận Phù Mỹ: Xã Mỹ Lợi, Mỹ Thắng,
Mỹ Đức, Mỹ Phong, Mỹ Tho và Mỹ Chánh.
Riêng ở xã Mỹ Chánh nổi tiếng với trường Trung Học Toàn Mỹ của Dòng Đồng Công,
trường trung học đầu tiên và duy nhất vào thời đó ở Quận Phù Mỹ để giáo dục cho
giới trẻ. Ngày 13 tháng 7 năm 1959, văn phòng trường
trung học Toàn Mỹ, một danh xưng ám chỉ đến Đức Maria Toàn Mỹ (Tota
pulchra), mở cửa bắt đầu ghi danh nhận học
sinh lớp đệ thất (tức lớp 6). Được 5 niên khóa (1959-1960, 1960-1961,
1961-1962, 1962-1963, 1963-1964), vì chiến
sự mỗi lúc một gia tăng, trường phải đóng cửa
ngày
29-9-1964, và được mở lại vào năm 1968. Trong
thời khoảng 1968-1974, các
lớp không dạy đủ các môn học theo chương trình nhà nước, mà có thể gọi là bổ túc
văn hoá thì đúng hơn, và số học sinh chỉ trên dưới 300 em, cả nam lẫn nữ.
Cho dù không còn Toàn Mỹ, nhưng Toàn Mỹ cũng vẫn
tồn tại nơi lòng người, trong lòng của các em học sinh một thời được thụ huấn
bởi các vị thừa sai Đồng Công. Thật vậy, biết bao nhiêu
năm nhìn lại, nhiều cậu bé học sinh Toàn Mỹ năm xưa đến từ những làng quê nghèo
túng, cứ hết giờ học lại phải cắt cỏ chăn trâu, vất vả phụ giúp gia đình,
lúc này đã thành ông nội, ông ngoại ở thành phố có cuộc sống ổn định; con cái
học hành thành đạt kỹ sư, tiến sĩ, không ít người đang sống ở các nước văn minh
Âu, Mỹ. Đôi khi thầy trò cũ gặp nhau được nghe tiếng nói của con tim: “Không
có Toàn Mỹ chúng con không có ngày nay”.
Ấn tín Thần linh nơi việc huấn thánh của Đấng Sáng Lập
Nếu tất cả những gì hợp với đức tin và đức ái đều đẹp lòng Chúa, như các hoạt
động phục vụ và truyền giáo của anh em Dòng Đồng Công như được đề cập đến trên
đây, nghĩa là được Chúa chấp nhận, như Ngài đóng dấu Ấn tín Thần linh của Ngài
trên các hoạt động của họ, như là việc
của
Ngài, thì càng là Ấn tín Thần linh nơi việc huấn thánh của Đấng Sáng Lập
Dòng Đồng Công. Bởi vì, Vị Thiên Chúa là tình yêu vô cùng nhân hậu còn muốn gì
hơn nơi loài tạo vật được Ngài dựng nên theo hình ảnh của Ngài và tương tự như
Ngài là con người, nếu không phải là muốn họ được thánh hóa, được nên giống
Ngài, nhờ đó họ xứng đáng được hiệp thông thần linh với Ngài là mục đích Ngài
dựng nên họ, nhất là những ai được trở nên thành phần con cái thừa nhận của Ngài
trong Chúa Giêsu Kitô Con của Ngài.
Tuy nhiên, chính vì việc huấn thánh cho Người Việt Nam nên thánh và làm thánh
này của mình, mà Đấng Sáng Lập Dòng đã phải chịu đựng biết bao nhiêu là đau đớn,
bởi thấy một số
anh em Dòng của Ngài lơ là với LTĐC, đặc biệt là không ít anh em (kể cả những
tâm hồn tưởng là 'thánh sống') bỏ ra không theo đuổi LTĐC của Ngài nữa, nhất là
những anh em Dòng (vào bè với nhau) muốn thay đổi nếp sống tu trì bình dân,
nghèo khổ, phục vụ của Đồng Công như Ngài chủ trương theo tinh thần Phúc Âm cùng
gương Chúa, Mẹ và Các Thánh, một chủ trương hoàn toàn ngược lại với các dòng tu
ngoại quốc đàn anh, trong tâm trí của những người anh em cấp tiến này, có vẻ
giầu sang hơn, trí thức hơn và thế giá hơn Đồng Công. Chưa kể đến một ít trường
hợp anh em Dòng mưu toan không muốn Ngài làm Tổng Giám đốc nữa, muốn hạ bệ ngài,
thậm chí âm mưu lừa đảo Ngài và trả thù Ngài vào những ngày cuối đời của Ngài.
Có thể vì chủ trương nên thánh và làm thánh của Ngài cho anh em Dòng của Ngài
theo cửa hẹp của Phúc Âm, không hợp với khuynh hướng tự nhiên vốn xu hướng về
đường rộng của con người, dù là những tâm hồn tu trì, nhất là vào thời buổi thế
giới càng ngày càng văn minh tân tiến, khi mà các dòng tu đang chuyển mình thích
nghi đến độ rơi vào tình trạng bị khủng hoảng đời sống tu trì và ơn gọi tận
hiến, mà Đấng Sáng Lập Dòng Đồng Công đã dứt khoát "mở sổ khấn" vào năm 1968, để
những anh em nào cảm thấy không thể theo đuổi LTĐC thì tự động rút lui, còn
những ai ở lại thì phải dứt khoát nên thánh và làm thánh, ở chỗ hoàn toàn tin
tưởng phó thác đời mình cho Chúa - Mẹ như một trẻ thơ ở mọi nơi, trong mọi lúc
và hết mọi sự.
Cũng chỉ vì LTĐC là nên thánh và làm thánh trước hết và trên hết mà Anh Cả đã có
những chọn lựa và quyết định dứt khoát với những gì tác hại đến LTĐC, căn cứ
theo nguyên tắc Phúc Âm: "được lời lãi cả
và thế gian mà mất linh hồn nào có ích chi?" (Mathêu 16:26), hay không hợp
với LTĐC, cũng dựa vào huấn dụ trọn lành của Chúa Kitô: "Trước
hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài" (Mathêu 6:33).
Sự kiện Anh Cả đóng cửa trường Trung Tiểu Học cùng Ký Túc Xá Đồng Công Thủ Đức
cuối niên khóa 1969-1970 là một thí dụ điển hình nhất chứng thực chủ trương Anh
Cả muốn anh em Dòng của Anh nên thánh và làm thánh trước, cho dù ngôi trường
này đang nổi tiếng nhất miền nam Việt Nam và đang là một nguồn kinh tài của
Dòng.
Nếu những gì hợp với ý Chúa và đẹp lòng Chúa đều là Ấn tín Thần linh của
Ngài, đều là việc của Ngài, thì việc Đấng Sáng Lập Đồng Công huấn thánh cho anh
em Dòng của mình nên thánh và làm thánh theo ơn gọi của chung Kitô hữu, nhất là
theo LTĐC hợp với tinh thần Phúc Âm và gương của Chúa - Mẹ cùng các thánh, thật
sự là Ấn tín Thần linh chính yếu nhất trong các Ấn tín Thần linh của Dòng Đồng
Công, và đồng thời cũng là Ấn tín Thần linh chi phối tất cả các Ấn tín Thần linh
khác nơi Dòng Đồng Công vậy.
Ấn tín Thần linh này thậm chí còn rạng ngời hơn nữa, ở chỗ, trong khi đường lối
huấn thánh của Đấng Sáng Lập ngặt nghèo như vậy, hoàn toàn nghịch lại với khuynh
hướng hưởng thụ của tuổi trẻ, nhất là lúc chính Đấng Sáng Lập bị án tù chung
thân, rồi xuống 20 năm, khiến Dòng Đồng Công kể như tàn rụi, ấy thế mà chính
giới trẻ chưa tu lại kéo nhau đến tìm hiểu thăm dò, và giới trẻ đã tu trong Dòng
bấy giờ, dù mới là tuyển sinh hay đệ tử sinh hoặc thỉnh sinh hay tập sinh, vẫn
bất chấp mọi gian khổ và gian nguy nhất định tu chui cho tới cùng, mới cả là một
phép lạ chứ không còn là một sự lạ nữa.
Sau thời gian Anh Cả đi tù về lần 2 năm 1993, ơn gọi Đồng Công gia tăng đến độ
lớp khấn XVII hơn 100 người, không đủ chỗ ở trong Dòng, phải chia ra làm nhiều
nơi ở ngoài Dòng mới đủ. Bấy giờ anh em Dòng ở Hoa Kỳ cứ nghe thấy anh em Dòng ở
Việt Nam lên tới 500 – 600, không biết lấy tiền ở đâu để sống. Trong khi các
Dòng có đời tu trì thoải mái hơn Đồng Công đang bị khủng hoảng ơn gọi thì Đồng
Công ngặt nghèo hơn lại dồi dào ơn gọi hơn ở đâu hết, thì không phải là Ấn tín
Thần linh hay sao?