Chuùa Nhaät

28/7: Thánh Celsus và Thánh Nazarius

Tử đạo thời hoàng đế Diocletian.

Thánh Ambrôsiô khám phá ra thi thể của các ngài

ở một ngôi vườn ngoài thành Rôma.

CHÚA NHẬT XVII QUANH NĂM


BÀI ĐỌC I: 1 Reg 3:5. 7-12
“Xin ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan”


Bài trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, tại Gabaon, ban đêm Chúa hiện ra cùng Salomon trong giấc mộng, và phán rằng: “Ngươi muốn ǵ th́ hăy xin, Ta sẽ ban cho ngươi”. Salomon thưa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa khiến tôi tớ Chúa cai trị kế vị Đavít thân phụ tôi. Nhưng tôi chỉ là một trẻ nhỏ, không biết đường đi nước bước. Tôi tớ Chúa đang sống giữa dân Chúa chọn, một dân đông đảo không thể đếm và ước lượng được. Vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa, và phân biệt lành dữ, v́ ai có thể xét xử dân này, một dân của Chúa đông đảo thế này”. Điều Salomon kêu xin như trên đă đẹp ḷng Chúa, nên Chúa phán cùng Salomon rằng: “V́ ngươi đă xin điều đó, mà không xin sống lâu, được giầu có, của cải, mạng sống quân thù, lại xin cho được khôn ngoan để biết xét đoán, th́ đây Ta ban cho ngươi điều ngươi xin, và ban cho ngươi tâm hồn khôn ngoan minh măn, đến nỗi trước ngươi không có ai giống ngươi, và sau ngươi không có ai bằng ngươi”.
Lời của Chúa.


Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Lạy Chúa, tôi yêu chuộng luật pháp của Chúa biết bao!

1. Lạy Chúa, tôi xưng thực kỷ phận của tôi, là tuân giữ những lời ban dạy của Ngài. Đối với tôi, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn.
2. Xin Chúa tỏ ḷng thương hầu ủy lạo tôi, theo như lời đă hứa cùng tôi tớ Chúa. Nguyện Chúa xót thương cho tôi được sống, v́ luật pháp Ngài là sự sung sướng của tôi.
3. Bởi thế nên tôi yêu quư chỉ thị Ngài hơn vàng và hơn cả vàng ṛng tinh khiết. Bởi thế nên tôi tự chọn tất cả huấn lệnh của Ngài, hết thảy đường lối gian tà tôi đều ghét bỏ.
4. Kỳ diệu thay những lời Ngài nghiêm huấn, bởi thế linh hồn tôi vẫn tuân theo. Sự mạc khải lời Ngài soi sáng, và dạy bảo những người chưa kinh nghiệm.


BÀI ĐỌC II: Rom 8:28-30
“Người đă tiền định cho chúng ta trở nên giống h́nh ảnh Con Người”


Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, chúng ta biết rằng những kẻ yêu mến Thiên Chúa, th́ Người giúp họ được sự lành, họ là những Người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh. V́ chưng, những kẻ Chúa đă biết trước, th́ Người đă tiền định cho họ nên giống h́nh ảnh Con Người, để Ngài trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc. Nhưng những ai Người đă tiền định, th́ Người cũng kêu gọi họ, và nhữ ai Người đă kêu gọi, th́ Người cho họ được vinh quang.
Lời của Chúa.


(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. --- Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đăo giảng cho anh em. --- Alleluia.


PHÚC ÂM: Mt 13:45-52
“Anh bán tất cả những ǵ anh có mà mua thửa ruộng đó”


Bài trích Phúc Âm theo Thánh Matthêô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: “Nước Trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia t́m được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả nhũng ǵ anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước trời cũng giống như người buôn nọ, đi t́m ngọc quư. T́m được một viên ngọc quư, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy. Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên băi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt th́ bỏ vào giỏ, c̣n cá xấu th́ ném ra ngoài. Trong ngày tận thế cũng vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào ḷ lửa, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng. Các ngươi có hiểu nhũng điều đó không”? Họ thưa rằng: “Có”. Người liền bảo họ: Bởi thế, nhũng thầy thông giáo am tường về Nước Trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái mới cũ trong kho ḿnh”.
Phúc Âm của Chúa.

 

Chúa Nhật XVII Thường Niên Năm A (28/7/2002)


Cuộc T́m Thấy và T́m Kiếm cần Trao Đổi



Tiếp theo loạt dụ ngôn về Triều Đại Thiên Chúa từ tuần trước, tuần này bài Phúc Âm cũng có các dụ ngôn khác về mầu nhiệm Nước Trời. Nếu tuần trước có ba dụ ngôn, nhưng chỉ có dụ ngôn đầu là dụ ngôn được Giáo Hội nhấn mạnh thế nào, th́ trong bài Phúc Âm tuần này, dù có 3 dụ ngôn, Giáo Hội cũng chỉ nhấn mạnh đến hai dụ ngôn đầu mà thôi, đó là dụ ngôn “Triều đại Thiên Chúa giống như một kho tàng có người t́m thấy trong một thửa ruộng”, và dụ ngôn “Nước Trời giống như người thương gia đi t́m kiếm những viên ngọc quí”. C̣n dụ ngôn thứ ba Giáo Hội không buộc đọc, đó là dụ ngôn “Triều đại Thiên Chúa cũng giống như một rọ lưới được thả dưới hồ để thu góp đủ mọi thứ”. Phải chăng Giáo Hội chỉ nhấn mạnh vào hai dụ ngôn đầu trong bài Phúc Âm hôm nay là v́ hai dụ ngôn này hợp với chủ đề Chứng Tá Giáo Hội của Mùa Phụng Vụ Thường Niên Hậu Phục Sinh? Vậy chủ đề Chứng Tá Giáo Hội trong hai dụ ngôn đầu của bài Phúc Âm này như thế nào và ở chỗ nào?

Ở đây Chúa Giêsu không cắt nghĩa rơ ràng cho các tông đồ nghe về hai dụ ngôn này, như Người đă làm với dụ ngôn “người gieo giống” ở bài Phúc Âm Chúa Nhật hai tuần trước, và dụ ngôn “Triều Đại Thiên Chúa giống như người kia gieo giống tốt trong thửa ruộng của ḿnh” ở bài Phúc Âm tuần vừa rồi, v́ Người muốn đáp lại lời yêu cầu của các tông đồ. Phải chăng không hỏi ǵ về các dụ ngôn khác có nghĩa là các tông đồ đă hiểu được ư nghĩa của các dụ ngôn vắn gọn ấy rồi chăng? Không biết các tông đồ đă hiểu ra sao về hai dụ ngôn này, nhưng, xét về ư nghĩa, đây là một cặp dụ ngôn có ư nghĩa giống nhau, như cặp dụ ngôn “hạt cải” và “nắm men” ở bài Phúc Âm tuần trước vậy. Nếu cặp dụ ngôn “hạt cải” và “nắm men” có ư nghĩa giống nhau ở chỗ tác dụng của chúng từ bên trong thế nào, th́ cặp dụ ngôn “kho tàng trong ruộng” và “hạt ngọc quí giá” cũng có ư nghĩa giống nhau ở chỗ trị giá trao đổi như vậy. Và, nếu cặp dụ ngôn tuần trước, nói đúng hơn nếu cả ba dụ ngôn của bài Phúc Âm tuần trước, nhấn mạnh đến vai tṛ của người ban phát, như người gieo giống tốt trong ruộng của ḿnh, người lấy hạt cải gieo trong ruộng của ḿnh, và người đàn bà lấy men vùi vào ba đấu bột, th́ cặp dụ ngôn tuần này lại nhấn mạnh đến vai tṛ của người nhận lănh, người t́m được kho tàng chôn giấu trong ruộng, và người t́m được viên ngọc trai quí giá. Như thế, Triều Đại Thiên Chúa hay Vương Quốc của Thiên Chúa chẳng những là Mạc Khải Thần Linh, liên quan đến Thiên Chúa, đến Đấng tỏ ḿnh ra, mà c̣n là “Đức Tin Tuân Phục” (x Rm 1:5, 16:26), liên quan đến con người lănh nhận Mạc Khải Thần Linh của Ngài nữa.

Đức Tin Tuân Phục, theo tinh thần Phúc Âm, được thể hiện ở chỗ bỏ ḿnh, ở chỗ trao đổi, thậm chí ở chỗ hy sinh trao đổi cả mạng sống ḿnh v́ đức tin nữa (x Mt 16:25; Jn 12:25). Đó là lư do cặp dụ ngôn chính của bài Phúc Âm hôm nay nhấn mạnh đến việc trao đổi giữa con người với những sự vật đáng giá, như với thửa ruộng và với viên ngọc quí. Tuy nhiên, trong cặp dụ ngôn trao đổi của hèn lấy của trọng ở bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy ít là hai chi tiết cần chú ư sau đây liên quan đến ư nghĩa của chính những ǵ Chúa Giêsu muốn mạc khải cho chúng ta biết về mầu nhiệm Nước Trời: chi tiết thứ nhất đó là vấn đề liên quan đến tác động của Đức Tin Tuân Phục nơi thành phần lănh nhận Mạc Khải Thần Linh, và chi tiết thứ hai liên quan đến đối tượng cần phải được con người lănh nhận Mạc Khải Thần Linh trao đổi.

Về tác động của Đức Tin Tuân Phục nơi thành phần lănh nhận Mạc Khải Thần Linh. Nếu ở dụ ngôn thứ nhất, dụ ngôn “kho tàng trong ruộng”, tác động của con người lănh nhận Mạc Khải Thần Linh là “t́m thấy”, tức bất ngờ khám phá ra những ǵ đă có sẵn ở đâu đó, th́ ở dụ ngôn thứ hai, dụ ngôn về “hạt ngọc quí giá”, tác động của con người lănh nhận Mạc Khải Thần Linh là “t́m kiếm”, tức phải mất công t́m mới thấy, chứ không phải tự nhiên mà vớ được như trường hợp của người trong dụ ngôn “kho tàng trong ruộng”. Tuy nhiên, dù bất ngờ “t́m thấy” (find), hay phải vất vả “t́m kiếm” (search for) đi nữa, tác động chung của thành phần lănh nhận Mạc Khải Thần Linh cần phải thực hiện cũng hoàn toàn giống hệt như nhau, đó là việc họ cần phải trao đổi, là việc họ cần phải “bán đi tất cả những ǵ ḿnh có mà mua lấy” những ǵ đáng giá và quí giá ấy. Vậy những ǵ cần phải được trao đổi ấy đáng giá và quí giá ra sao mà con người lănh nhận Mạc Khải Thần Linh cần phải thực hiện cách tương xứng mới có thể chiếm hữu?

Về đối tượng cần phải được con người lănh nhận Mạc Khải Thần Linh trao đổi. Hai báu vật cần phải được trao đổi một cách tương xứng đây là “thửa ruộng” ở dụ ngôn thứ nhất, và “ngọc quí” ở dụ ngôn thứ hai. Chúng ta nên lưu ư là, ở dụ ngôn thứ nhất, vật cần phải được trao đổi không phải là chính “kho tàng được chôn giấu trong ruộng” mà chỉ là “thửa ruộng”. Vậy “thửa ruộng” đây là ǵ, trước hết, nếu không phải (có thể được hiểu) là nhân tính Chúa Kitô, thửa ruộng chất chứa kho tàng thần tính vô cùng cao quí của Người, mà “nếu ai chấp nhận Người th́ Người ban cho họ quyền làm con cái Thiên Chúa” (Jn 1:12). Sau nữa, c̣n (có thể được hiểu) là các vị thừa sai, thửa ruộng chất chứa trong ḿnh kho tàng Tin Mừng Sự Sống hay Sứ Điệp Cứu Rỗi được Chúa Kitô trao phó cho họ “trong tăm tối”, “trong âm thầm” (Mt 10:27), để rồi “ai chấp nhận các con là chấp nhận Thày… ai tiếp nhận một tiên tri v́ là tiên tri th́ lănh nhận phần thưởng của tiên tri”, như lời Chúa Giêsu khẳng định với các tông đồ trước khi sai các vị đi rao giảng ở Phúc Âm Chúa Nhật XIII cách đây 4 tuần về thái độ của thành phần lănh nhận Mạc Khải Thần Linh.

C̣n “ngọc quí” ở dụ ngôn thứ hai đây là ǵ, trước hết, nếu không phải (có thể được hiểu) là thành phần “chiên lạc nhà Yến Duyên”, đối tượng được Chúa Kitô sai các tông đồ đi loan báo “Triều đại Thiên Chúa đă tới”, trong Phúc Âm Chúa Nhật XI các đây 6 tuần; sau nữa, (c̣n thể thể được hiểu) là thành phần “chiên chưa thuộc về đàn” (Jn 10:16) là chung nhân loại hay Dân Ngoại cũng vậy, thành phần cao quí đến nỗi “Thiên Chúa đă không tiếc Con Ḿnh, song đă phó nộp Người v́ tất cả chúng ta” (Rm 8:32). Chưa hết, “ḥn ngọc quí giá” đây cũng có thể hiểu được là con chiên thứ 100, con chiên lạc duy nhất trong đàn 100 con (x Lk 15:4-7), là đồng bạc bị rơi mất song được t́m thấy (x Lk 15:8-10), là đứa con thứ phung phá gia tài của cha trở về (x Lk 15:11-24), là đứa con cả hoang đàng v́ gần cha mà lại chẳng hiểu cha ḿnh ǵ cả (x Lk 15:25-32), là tên thu thuế tội lỗi lên đền thờ đấm ngực cầu nguyện ra về được công chính hóa (x Lk 18:13-14), là người phụ nữ tội lỗi có tiếng trong thành song yêu nhiều nên được tha nhiều (x Lk 7:36-50), là một trưởng ban thu thuế Zakêu nhận lỗi và đền trả gấp bốn những ǵ ḿnh đă làm thiệt hại người khác (x Lk 19:1-10), là người trộm lành thống hối và bênh chữa Chúa Kitô trên thập giá (x Lk 23:40-43) v.v.

Căn cứ vào tác động bất ngờ “t́m thấy” và vất vả “t́m kiếm” này, cũng như căn cứ vào vị trí (gần gũi và xa cách) của đối tượng cần phải được trao đổi một cách tương xứng, chúng ta có thể suy đoán ư nghĩa về dụ ngôn “kho tàng trong ruộng” và “ḥn ngọc quí giá” trong bài Phúc Âm hôm nay như thế này.

Trước hết, tác động bất ngờ “t́m thấy” là tác động của thành phần Dân Do Thái, v́ họ chỉ cần lấy đức tin chân chính do cha ông họ để lại, được ghi nhận trong bộ Thánh Kinh (Cựu Ước) của họ, là họ có thể nhận ra ngay được Đấng Thiên Sai họ đợi trông (x Jn 1:19-22; Mt 11:3), Vị được Gioan Tẩy Giả nói với họ rằng “có một Đấng ở giữa các người mà các người không biết” (Jn 1:26). Tác động “t́m thấy” c̣n có thể áp dụng cho cả thành phần Kitô hữu nữa, thành phần cũng phải sống Đức Tin Tuân Phục mới có thể nhận ra “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1:23), mới có thể nhận ra “Lời đă hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14), để nhờ đó, như tông đồ Phêrô trước Con Người sống động, họ có thể tuyên xưng “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16), hay như tông đồ Tôma trước Con Người phục sinh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi” (Jn 20:28).

C̣n tác động vất vả “t́m kiếm” xa xôi là tác động của thành phần Dân Ngoại, như của trường hợp ba chiêm tinh gia đạo sĩ từ Đông Phương đến để triều bái Vua Dân Do Thái mới sinh (x Mt 2:1-2, 9-11), hay của người Samaritanô nhân lành đă vội vàng tận t́nh ra tay cứu giúp kẻ lạ mặt đang ngấp ngoái nửa sống nửa chết bên đường v́ bị bọn thổ phỉ ra tay cướp đoạt (x Lk 10:30-37). Tác động “t́m kiếm” này c̣n có thể áp dụng cho cả thành phần Kitô hữu chứng nhân tông đồ, thành phần sau khi “t́m thấy” kho tàng Lời Chúa được chôn giấu” trong thửa ruộng Thánh Kinh, “t́m thấy” kho tàng Thánh Thể được chôn giấu nơi Phụng Vụ, đă dấn thân lên đường để “t́m kiếm” và phục vụ những viên ngọc quí là thành phần “những người anh em bé mọn nhất” của Chúa Kitô được Người đồng hóa với chính Người trong hoàn cảnh sống khốn khó nhất trên đời của họ (x Mt 25:40, 45).

Vậy, qua cặp dụ ngôn “kho tàng trong ruộng” và “ḥn ngọc quí giá” trong bài Phúc Âm hôm nay, chiều hướng Chứng Từ Giáo Hội có thể được hiểu theo ư nghĩa “t́m kiếm” sau khi “t́m thấy” là như vừa được cảm nhận và chia sẻ. Chung Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay cũng cho thấy, theo chiều hướng của bài đọc một, “kho tàng trong ruộng” đây là đức khôn ngoan, một kho tàng ở ngay trong bản thân Salomon, được bộc lộ qua lời nguyện cầu của vua, một kho tàng vua đă phải trao đổi bằng các phúc lộc trường thọ, giầu sang và thắng trận mà vua có thể được Thiên Chúa ban cho nếu vua xin; và theo chiều hướng của bài đọc hai, “ḥn ngọc quí giá” đây đó là h́nh ảnh Con Thiên Chúa, một h́nh ảnh vô cùng cao cảù được “những ai Thiên Chúa biết trước th́ Ngài cũng tiền định cho được chia sẻ”, một h́nh ảnh họ cũng cần phải trao đổi bằng việc sẵn sàng chấp nhận tất cả những ǵ xẩy ra ngoài ư muốn của họ, ở chỗ, họ chẳng những chấp nhận đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa, mà nhất là c̣n để cho Thiên Chúa tự do công chính hóa họ “theo ư định của Ngài”, nhờ đó, họ mới có thể thực sự là chứng từ sống động của “h́nh ảnh Con Ngài”.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



VIÊN NGỌC QUÍ NƯỚC TRỜI
                                                                                  Trần Mỹ Duyệt

 


Trong trích đoạn Phúc Aâm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu đă đề cập tới thái độ khôn ngoan của những tay chuyên đi lùng ngọc quí trong thương trường, và Ngài muốn áp dụng sự khôn ngoan ấy vào việc đầu tư vào nước trời. Qua h́nh ảnh người thương gia sau khi t́m được viên ngọc quí đang ẩn dấu trong một thửa ruộng, người ấy sẵn sàng bán tất cả tài sản ḿnh mong sở hữu được thửa ruộng ấy, v́ ông mong làm chủ được viên ngọc quí.

Trong sự khôn ngoan t́m kiếm viên ngọc quí Nước Trời, Chúa Giêsu cũng đ̣i hỏi chúng ta một sự chọn lựa dứt khoát, và đôi khi rất nghiệt ngă, đó là sự hy sinh đến chính mạng sống ḿnh – không phải là gia tài ḿnh – v́ viên ngọc Nước Trời. Hạnh tích Thánh Giuse Melchoir Garcia Sampedro Xuyên mà Giáo Hội mừng kính cũng vào Chúa Nhật tuần này đă diễn tả đầy đủ ư nghĩa của một sự chọn lựa rất khó khăn nhưng cũng đầy khôn ngoan này. Ta có thể nói, Ngài cũng là một tay biết săn lùng ngọc quí.

Thánh Giám Mục Giuse Metchior Garcia Sampedro Xuyên

Thánh Giuse Sampedro Xuyên với 37 tuổi đời, 9 năm truyền giáo, và 3 năm trong thiên chức Giám Mục, cai quản một giáo phận lớn nhất vào thời Ngài và cũng là Giáo Phận chịu nhiều bách hại nhất. Cuộc đời Ngài là một tấm gương sáng ngời của một người luôn trung thành từ những việc nhỏ mọn nhất đến những việc lớn lao nhất. Một cuộc đời mô phỏng ư chí chiếm thủ nước trời và các linh hồn - viên ngọc quí nhất của đời Ngài - đến nỗi không ngần ngại hy sinh chính mạng sống ḿnh.

Sinh ngày 29 tháng 4 năm 1821 tại San Pedro de Arrojo, thuộc tỉnh Oviedo, Tây Ban Nha. Tuy thuộc ḍng dơi quí tộc, nhưng gia đ́nh Ngài đến thời thân phụ đă trở nên khánh kiệt và nghèo nàn. Tuy có chủ ư muốn hiến thân làm linh mục, nhưng măi đến năm 12 tuổi, ư định Ngài mới được thành h́nh. Ngày ngày phải đi bộ đến trường để chuẩn bị cho việc học hành, những ngày nghỉ phải giúp việc đồng áng với cha mẹ.

Tốt nghiệp triết và thần học năm 1844, thầy được chọn làm giáo sư phụ tá dậy luân lư. Ở vào thời điểm này, thầy vẫn vui vẻ giúp đỡ cha mẹ trong việc đồng áng mỗi khi có dịp về nghỉ tại quê nhà. Sự chọn lựa của thầy Giuse lúc này đă đến chỗ dứt khoát. Thầy muốn hiến thân hơn nữa trong sứ mạng tông đồ và t́m kiếm ngọc báu nước trời. Thầy sẵn sàng hy sinh chiếc ghế giáo sư để gia nhập ḍng truyền giáo Đa Minh với ước vọng sang truyền giáo tại Việt Nam. Năm 24 tuổi, thầy nhập Ḍng, và ngày 18 tháng 8 năm 1846, thầy tuyên khấn trọng thể trong Ḍng Đaminh. Năm sau, ngày 29 tháng 5 năm 1847, thầy lănh chức linh mục, và 9 tháng sau, tân linh mục Giuse Sampedro cùng bốn bạn ḍng sang Phi-luật-tân và ở đây cha Sampedro lại một lần nữa từ chối chiếc ghế giáo sư để xin được sang truyền giáo tại Việt Nam.

Tại Việt Nam cha Sampedro học tiếng Việt Nam, và được đặt tên là Xuyên kỷ niệm nơi cha lần đầu đặt chân tới là Đông Xuyên. Ngày 16 tháng 9 năm 1855, cha được chọn làm Giám Mục phụ tá cho Đức Giám Mục Sanjurjo An. Lễ tấn phong được cử hành rất trọng thể tại làng Bùi Chu.

Cuộc đời tông đồ của vị Giám Mục trẻ trung với một giáo phận đông nhất thời đó không diễn ra mấy huy hoàng như thánh lễ tấn phong, nhưng đă đi vào những ngày tăm tối của bắt bớ và ruồng rẫy. Sau khi đă lẩn trốn trong cơn cấm cách nhiều nơi tại Quần Cống, Thôn Đông rồi đến Kiên Lao, ngày 8 tháng 7 năm 1858, Ngài bị bắt tại Kiên Lao. Những ngày cuối của cuộc đời vị Tử Đạo đă mở màn. Và sau những tra tấn dă man của quan quân thời đó, Ngài được đưa ra pháp trường Bẩt Mẫu ngày 28 tháng 7 năm 1858 và chịu hành quyết một cách hết sức man rợ bằng h́nh phạt lăng tŕ. Trước hết vị Tử Đạo bị căng thây giang rộng hai chân, hai tay ra bốn phía. Tiếp đến năm lư h́nh với 5 thanh gươm thật sắc bắt đầu từng người một chặt một cái chân, hai cái chân, một cái tay, hai cái tay, và sau cùng mới chặt đầu. Ngày 29 tháng 4 năm 1951, Đức Thánh Cha Piô XII đă tôn phong Ngài lên hàng Á Thánh, và ngày 19 tháng 8 năm 1988, cùng với 116 bạn Tử Đạo Việt Nam, Ngài được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong lên hàng Hiển Thánh, và lễ kính Ngài là 28 tháng 7 hằng năm.

Này bạn thân, bạn nghĩ thế nào về sự chọn lựa và kết quả của việc chọn lựa mà Thánh Giám Mục Giuse Xuyên đă thực hiện. Có thể là quá đáng không khi bạn và tôi nghe lời Chúa Giêsu nói ở một nơi khác: “Được lời lăi cả và thế gian mà mất linh hồn nào được ích ǵ!”