Chúa Nhật

Ngày 6/4: Á Thánh Henriette Delille  (1813-1862)

Là một phụ nữ da đen tự do (chứ không làm nô lệ).

Vừa có học thức lại vừa có duyên sắc.

Bỏ tất cả những cơ duyên lập gia đ́nh

để sáng lập hội ḍng Chị Em Thánh Gia, một cộng đồng chị em da đen.

Nữ chân phước nhân đă sống cả đời giữa thành phần nô lệ ở News Orleans

 

CHÚA NHẬT V MÙA CHAY



BÀI ĐỌC I: Jer 31:31-34
“Ta sẽ kư kết giao ước mới và Ta sẽ không c̣n nhớ tội lỗi nữa”


Bài trích sách Tiên Tri Giêrêmia.

Chúa phán: “Đây, tới ngày Ta kư kết giao ước mới với nhà Israel và nhà Giuđa, giao ước nầy không giống như giao ước Ta đă kư kết với tổ phụ của chúng trong ngày Ta cầm tay chúng dắt ra khỏi Ai Cập, giao ước ấy chính chúng đă phản bội, mặc dầu Ta thống trị chúng”. Chúa phán: “Đây là giao ước Ta sẽ kư kết với nhà Israel sau những ngày đó. Ta sẽ đặt lề luật của Ta trong đáy ḷng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta”. Chúa phán: “Người nầy sẽ không c̣n phải dạy người nọ, anh sẽ không c̣n phải dạy em rằng: “Ngươi hăy nh́n biết Chúa”, v́ mọi người từ nhỏ chí lớn đều nh́n biết Ta, v́ Ta sẽ tha tội ác của chúng, và sẽ không c̣n nhớ đến tội lỗi của chúng”.

Lời của Chúa.


Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Ôi lạy Chúa, xin tạo cho tôi quả tim trong sạch.

1. Lạy Chúa, nguyện thương tôi theo ḷng nhân hậu Chúa, xóa tội tôi theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa tôi tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy tôi sạch lâng tội ác.
2. Ôi lạy Chúa, xin tạo cho tôi quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người tôi. Xin đừng loại tôi khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi tôi.
3. Xin ban lại cho tôi niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng tôi. Tôi sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài.

BÀI ĐỌC II: Hebr 5:7-9
“Người đă học vâng phục và đă trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời”


Bài trích thở gởi tín hữu Do Thái.

Khi c̣n sống ở đời nầy, Chúa Kitô đă lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Đấng có thể cứu Người khỏi chết, và v́ ḷng thành tín, Người đă được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đă học vâng phục do những đau khổ Người chịu và khi hoàn tất, Người đă trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người.

Lời của Chúa.


CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: (Xin mời Cộng đoàn đứng)
Chúa phán: “Ai phụng sự Ta, hăy theo Ta, và Ta ở đâu, th́ kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó”


PHÚC ÂM: Joan 12:20-33
“Nếu hạt lúa ḿ rơi xuống đất thối đi, th́ nó sinh nhiều bông hạt”


Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, trong số những người lên dự lễ, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp Philipphê quê ở Bêtania, xứ Galilêa và nói với ông rằng: “Thưa Ngài, chúng tôi muốn gặp Đức Giêsu”. Philipphê đi nói với Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đáp: “Đă đến giờ Con Người được tôn vinh. Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa ḿ rơi xuống đất mà không thối đi, th́ nó chỉ trơ trọi một ḿnh, nhưng nếu nó thối đi, th́ nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống ḿnh th́ sẽ mất, và ai ghét sự sống ḿnh ở đời nầy, th́ sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hăy theo Ta, và Ta ở đâu, th́ kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói ǵ? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ nầy? Nhưng chính v́ thế mà con đă đến trong giờ nầy. Lạy Cha, xin hăy làm vinh danh Cha”. Lúc đó có tiếng từ trời phán: “Ta đă làm vinh danh Ta và Ta c̣n làm vinh danh Ta nữa”. Đám đông đứng đó nghe thấy và nói: đó là tiếng sấm. Kẻ khác lại rằng: “Một Thiên Thần nói với Ngài”. Chúa Giêsu đáp: “Tiếng đó phán ra không phải v́ Ta, nhưng v́ các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lănh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”. Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào.

Phúc Âm của Chúa.

 

Suy Niệm

 

 

Cuộc Vượt Qua của Vị Thiên Chúa Làm Người

được bắt đầu từ lúc nào?

 


Tại sao Chúa Giêsu không trả lời?

Nếu các bài Phúc Âm ba Chúa Nhật Mùa Chay trước Chúa Nhật Thương Khó hay Chúa Nhật Lễ Lá, như đă nhận định ở hai bài suy niệm Chúa Nhật 3 và 4 trước đây, có một ư nghĩa đặc biệt liên hệ với nhau, chẳng những ở từng chu kỳ mà c̣n ở cả ba chu kỳ với nhau nữa. Riêng chu kỳ Năm B này, chúng ta thấy các bài Phúc Âm theo Thánh Kư Gioan được Giáo Hội chọn rất hợp với những ǵ Chúa Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết về cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc Vượt Qua bao gồm ba phần khổ nạn, tử giá và phục sinh (x Mk 8:31, 9:31, nhất là 10:34). Trước hết, về phần khổ nạn, Chúa Giêsu cũng đă xác nhận ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 3, khi Người thách dân Do Thái “hăy cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày Tôi sẽ dựng lại”. Qua câu tiên báo này, dĩ nhiên Chúa Giêsu cố ư nói đến cuộc Vượt Qua của Người nói chung, thế nhưng, nếu so sánh với những ǵ Người sẽ tỏ cho biết thêm ở hai bài Phúc Âm Chúa Nhật 4 và 5, Người cũng có ư nói đến riêng việc thân xác Người sẽ bị hành hạ bởi đ̣n vọt, nhục nhă v.v. Sau nữa, về phần tử giá, Chúa Giêsu báo trước trong bài Phúc Âm Chúa Nhật 4, khi Người cho Nicôđêmô biết rằng Người sẽ bị đóng đanh vào thập tự giá: “Moisen treo con rắn trong sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy”. Sau hết, về phần phục sinh, Chúa Giêsu cũng bóng bẩy nói đến trong bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ 5 tuần này, khi Người nói với các môn đệ của Người về h́nh ảnh hạt lúc miến mục nát đi để sinh muôn vàn hoa trái, ở chỗ, Người chiến thắng quyền lực của tên vương chủ thế gian và làm cho con người tin tưởng nhận biết Người, như Người cho biết ở đoạn cuối của cùng bài Phúc Âm.

Thế nhưng, để làm cho nhân loại nhận biết Người, tức để làm cho cuộc Vượt Qua của Người như hạt lúa miến mục nát đi trổ sinh hoa trái, Người cần đến những chứng nhân, thành phần sẽ được Người ban cho Thánh Linh và sai đi rao giảng Tin Mừng cho tất cả mọi tạo vật tới tận cùng trái đất (x Jn 20:22; Mk 16:15; Acts 1:8). Đó là lư do chúng ta thấy trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đă liên kết số phận của thành phần môn đệ chứng nhân của Người với chính thân phận hy sinh và Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người. Đúng thế, nếu bài Phúc Âm tuần thứ 3 Chúa Giêsu nói với chung dân Do Thái (thành phần sau này vu oan cho Người để Hội Đồng Do Thái viện cớ sát hại Người – Mt 26:61) về việc khổ nạn của Người, và nếu bài Phúc Âm tuần thứ 4 Người nói với Nicôđêmô (nhân vật sau này sẽ giúp vào việc táng liệm Người trong mồ đá – Jn 19:39) về việc tử giá của Người, th́ bài Phúc Âm tuần thứ 5 tuần này Người nói với các môn đệ (thành phần được kêu gọi làm chứng nhân cho Người – Jn 15:27) về việc phục sinh sau khi Người trải qua khổ nạn và tử giá. Chúa Giêsu quả thực đă liên kết thân phận của các môn đệ với thân phận của Người trong bài Phúc Âm hôm nay, ở chỗ, ngay sau khi nói đến thân phận của Người như hạt lúa miến là thân xác của Người được gieo xuống và mục nát đi ở mảnh đất Do Thái, Người liền nói ngay đến nguyên tắc chung để có thể theo Người, theo một Đấng Vượt Qua, đó là: “Ai yêu sự sống ḿnh sẽ mất, c̣n ai ghét sự sống ḿnh trên thế gian này th́ giữ được nó cho sự sống trường sinh”. Sau đó, Người áp dụng nguyên tắc hay Đường Lối Vượt Qua này vào trường hợp môn đệ của Người, v́ bấy giờ Người đang nói với các vị: “Ai phụng sự Thày th́ hăy theo Thày, để Thày ở đâu, th́ tôi tớ của Thày cũng ở đó”. Vấn đề “ở đâu” của Chúa Giêsu và “ở đó” của những ai theo Người, phục vụ Người đây, theo chiều hướng của bài Phúc Âm hôm nay, th́ c̣n chỗ nào khác ngoài trên cây thập giá và trong mồ đá: “Họ tinh tuyền và theo Con Chiên đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới” (Rev 14:4); “Tôi tớ không hơn chủ của ḿnh. Họ sẽ bắt bớ các con như đă bắt bớ Thày” (Jn 15:20). Tuy nhiên, chính nhờ thân phận tṛ hoàn toàn giống Thày như thế mà thế gian mới nhận biết Thày nơi họ, nơi chứng từ đẫm máu của họ.

Phải chăng đó là lư do, khi các môn đệ (Philip và Anrê) đến tŕnh với Chúa Giêsu về điều các người Hy Lạp muốn xin được gặp Người, Người đă không trả lời với họ qua hai môn đệ này dứt khoát là Người có muốn gặp những người dân ngoại ấy hay không, mà lại lợi dụng dịp ấy để nói với các môn đệ về cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc Vượt Qua sẽ được thành phần môn đệ của Người, thành phần tôi tớ phục vụ Người, tham dự (x Jn 13:8;13:36;14:3), điển h́nh nhất là trường hợp của tông đồ Phêrô như được Người cho biết trước bên bờ hồ Tibêria (x Jn 21:18). Qua thái độ và lời lẽ của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta cảm thấy h́nh như Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ là Người thực sự và hết sức muốn gặp gỡ thành phần dân ngoại, thành phần chưa hề biết Người, nhưng Người sẽ không trực tiếp gặp họ, như Người vốn trực tiếp gặp gỡ dân Do Thái của Người với tư cách là một Đức Kitô Thiên Sai theo như những ǵ đă được Thánh Kinh của dân tộc này nói tới, mà là gián tiếp qua các môn đệ, thành phần chứng nhân của Người, thành phần có khả năng dẫn loài người đến với Người, đến gặp Người bằng đức tin của họ. Và, nếu cuộc tử nạn của Chúa Giêsu như hạt lúa miến mục nát đi sinh nhiều hoa trái thế nào, thành phần môn đệ chứng nhân của Người cũng thế, cũng trổ sinh hoa trái nơi việc tái sinh các linh hồn như vậy. “Ai phục vụ Thày sẽ được Cha tôn vinh” là ở chỗ này, như lời Chúa Giêsu nói tới trong bài Phúc Âm hôm nay, ngay sau khi Người nói đến việc Thày tṛ cùng ở một nơi, chịu chung số phận Vượt Qua.

Tuy nhiên, tại sao ngay sau khi nói câu ấy, tức sau khi nói về thân phận Vượt Qua của cả Thày lẫn tṛ, Chúa Giêsu liền thảm năo than lên: “Giờ đây linh hồn Thày bối rối chẳng biết phải nói sao – Chẳng lẽ Cha ơi, xin hăy cứu Con khỏi giờ này? Thế nhưng, cũng chính v́ giờ này mà Con đă đến. Lạy Cha, xin hăy tôn vinh danh Cha!”. Phải chăng, như trong Vườn Cây Dầu Người đă đau buồn đến nỗi chết được, đến nỗi xuất mồ hôi máu v́ nghĩ đến thành phần hư đi thế nào, th́ ở đây, vào lúc ấy, Chúa Giêsu nghĩ đến một tông đồ Giuđa vô cùng đáng thương sẽ bị hư đi (x Jn 17:12), v́ người tông đồ này chẳng những ra tay phản nộp Người mà c̣n tuyệt vọng tử tử (x Mt 27:5) bởi không tin tưởng vào ḷng thương xót tha thứ vô biên bất tận của Người như tông đồ Phêrô (x Mt 26:75). Cái đau khổ tận cùng của Vị Thiên Chúa Làm Người ở đây đó là bị loài người phủ nhận t́nh yêu thương toàn thiện, nhưng không, tận tuyệt và vô đối của Người, ở chỗ, họ không tin rằng Người có thể yêu thương họ đến như thế, một t́nh yêu Người giành cho từng người một, và t́m kiếm cho bằng được con chiên lạc duy nhất để mang về đàn của Người (x Lk 15:1-7). Thế nhưng, cũng như trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đă chấp nhận uống cạn chén đắng vô cùng đau xót ấy.

Câu trả lời của Chúa Kitô là…

Như thế, nếu nỗi đớn đau vô cùng nhức nhối này cũng là những ǵ thuộc về cuộc Khổ Nạn hay Tử Giá của Con Thiên Chúa Làm Người, th́ không phải cuộc Khổ Nạn và Tử Giá của Người chỉ được bắt đầu từ khi Người bị bắt trong Vườn Cây Dầu (x Jn 18:12), mà là được bắt đầu ngay từ khi Lời Nhập Thể, ngay từ khi Thiên Chúa Làm Người để Người có thể, qua nhân tính của nhân loại, cảm thấy cái xót xa của ḿnh bằng con tim nhân loại, khi bộ óc của Người nghĩ đến tương lai của thành phần hư đi, và bộc lộ cái chua xót của ḿnh nơi môi miệng loài người “bằng những lời than khôn tả” (Rm 8:26; x Jn 12:27; Mk 14:36). Nói một cách chính xác và thực tế hơn nữa th́ cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô được bắt đầu từ lần đầu tiên khi Người tiết lộ cho các môn đệ biết về Cuộc Vượt Qua của Người (x Mk 8:31), và được bắt đầu từ chính tâm hồn của Người, một tâm hồn đă bị quằn quại bởi những giây phút “buồn rầu đến nỗi chết được” (Mt 26:38), những giây phút “linh hồn Thày hiện nay bối rối chẳng biết phải nói làm sao”, như Người đă thú thực trong bài Phúc Âm hôm nay. Và Cuộc Vượt Qua đă xẩy ra trước tiên ngay trong tâm hồn của Người, khi Người mong cho ư Đấng đă sai Người được nên trọn, như Người đă ngoan ngoăn thân thưa với Cha Người trong bài Phúc Âm hôm nay: “Lạy Cha, xin hăy tôn vinh danh Cha”, một thái độ Vượt Qua của Người Con đẹp ḷng Cha đến nỗi, khi nghe thấy như vậy, theo Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại, “bấy giờ từ trời có tiếng phán: ‘Cha đă tôn vinh danh Cha rồi và sẽ c̣n tôn vinh danh Cha nữa’”.

Thiên Chúa “tôn vinh danh” của Ngài đây nghĩa là ǵ và ra sao, nếu không phải Người muốn tỏ cho riêng dân Do Thái và chung loài người (mà đám đông trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy có cả dân Do Thái và những người Hy Lạp dân ngoại) biết Ngài thực sự là ǵ và như thế nào, như Ngài đă mạc khải tên của Ngài cho Moisen biết ở bụi cây bốc lửa song không bị thiêu rụi (x Ex 3:14), một danh xưng Ngài đă tỏ cho dân Do Thái biết tỏ tường qua cuộc vượt qua của họ, từ t́nh trạng họ bị làm tôi người Ai Cập cho tới khi vào Đất Hứa. Nếu danh Thiên Chúa là tất cả những ǵ diễn tả bản tính vô cùng chân thiện của Ngài, như Ngài đă từ từ tỏ ra cho dân Do Thái biết theo gịng Lịch Sử Cứu Độ của họ cho đến khi Lời Nhập Thể là “hiện thân của bản thể Cha” (Heb 1:2) xuất hiện, th́ việc Thiên Chúa tôn vinh danh Ngài đây, theo ư nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay nói riêng, cũng chính là việc Ngài tôn vinh Con Ngài, như Con Ngài đă thân thưa với Ngài khi mở đầu Lời Nguyện Hiến Tế kết thúc Bữa Tiệc Ly: “Lạy Cha, giờ đă đến rồi! Xin Cha hăy tôn vinh Con Cha để Con Cha được tôn vinh Cha” (Jn 17:1). Vậy nếu Thiên Chúa tôn vinh danh ḿnh là tôn vinh Con Ngài như thế th́ “Cha đă tôn vinh danh Cha rồi”, như trong bài Phúc Âm nói đên đây là lúc nào, nếu không phải là hai lần điển h́nh được các Phúc Âm Nhất Lăm kể lại, lần thứ nhất ở sông Dược Đăng khi Chúa Giêsu chịu phép rửa thống hối bởi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả (x Mk 1:11), và lần thứ hai ở trên núi biến h́nh (x Mk 9:7). Và “Cha sẽ c̣n tôn vinh nữa” đây sẽ là lúc nào và ra sao, nếu không phải lúc Cha làm cho Con sống lại từ trong kẻ chết (x Acts 2:24), làm cho Con trở thành “hoa trái đầu mùa của kẻ chết để Con được toàn quyền trong hết mọi sự” (Col 1:18; x Mt 28:18).

Vấn đề ở đây là tại sao Thiên Chúa cần phải tôn vinh danh Ngài? Theo bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đă cho biết đó là để cho con người biết: “Tiếng phán đó không phải v́ Tôi mà là v́ quí vị”. Bởi v́, có nhận biết Thiên Chúa như Ngài là, qua Mạc Khải Thần Linh của Ngài nơi Cựu Ước cũng như Tân Ước, con người mới được sự sống trường sinh, mới được hiệp thông với Thiên Chúa. Thế nhưng, để con người có thể nhận biết danh của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất này, Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô cần phải “tỏ Cha ra” (Jn 1:18). Ở chỗ nào, nếu không phải bằng việc Người đến không phải để làm theo ư ḿnh mà là ư Đấng đă sai (x Jn 6:38), tức là “Người đă vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Phil 2:8), “để trở nên căn nguyên phần rỗi đời đời cho những ai tín phục Người” như được Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay xác tín (Heb 5:9), cũng là những ǵ chính Người đă khẳng định tiên báo ở câu cuối cùng của bài Phúc Âm hôm nay: “Một khi Tôi bị treo lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi”. “Tất cả mọi người” được Chúa Kitô Tử Giá “kéo lên” đây nghĩa là ǵ, nếu không phải là tất cả mọi người, dù là kẻ dữ, thành phần hư đi đời đời, đặc biệt trong ngày chung thẩm, đều nh́n nhận chân lư đă được Chúa Giêsu mạc khải cho Nicôđêmô trong bài Phúc Âm tuần trước, một chân lư cũng đă được Người chứng thực hùng hồn nhất và sống động nhất trên Thập Giá: “Thiên Chúa đă yêu thương thế gian đến nỗi đă ban Người Con duy nhất của Ngài, để ai tin vào Con sẽ không bị chết song được sự sống đời đời. Thiên Chúa không sai Con Ngài đến để thế để luận phạt thế gian, song để thế gian nhờ Con mà được cứu độ”.
 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
 

 

 

T̀M YÊU SỰ SỐNG

Trần Mỹ Duyệt



Thiên Chúa là Đấng đầy quyền năng và phép tắc. Ngài có thể làm được mọi sự: “Không có ǵ mà Thiên Chúa không làm được” (Luc 1:37). Có thể v́ vậy mà Ngài ưa làm những chuyện xem như trái với lư luận và sự hiểu biết của con người. Những cái mà trí khôn con người cho là không đúng và không thể chấp nhận được. Tin Mừng của Gioan hôm nay đă dẫn chứng về điều này đối với đ̣i hỏi của Thiên Chúa, một đ̣i hỏi mà con người cho là không hợp t́nh, hợp lư: “Ai yêu sự sống ḿnh th́ sẽ mất, và ai ghét sự sống ḿnh ở đời này, th́ sẽ giữa được nó cho sự sống đời đời” (Gio 12:25).

Câu nói trên của Chúa Giêsu rơ ràng là không hợp với lư luận tự nhiên và nếp sống tự nhiên của con người. Đă là con người, ai cũng ham sống và sợ chết. Bản năng t́m cầu sự sống này là bản năng chính đáng. Và nếu có ai nói rằng tôi ghét tôi và tôi không muốn sống nữa, lập tức người đó được cho là có những tư tưởng yếm thế, bi quan và chán đời. Trong những trường hợp mà sự thù ghét ấy lên cao có thể đem lại cái chết, người ấy sẽ được đưa vào các bệnh viện tâm thần và được chữa trị với bệnh lư là “có tư tưởng tự tử, hoặc có hành động tự tử”.

Người đời chẳng cho là khôn ngoan và cần thiết trong việc việc thu tích tiền bạc, của cải, thực phẩm và những nhu yếu phẩm để đề pḥng những mất mát, thiếu hụt và bất trắc cho cuộc sống là ǵ? Ai mà chẳng lo lắng, t́m thầy, chạy thuốc mỗi khi đau yếu, bệnh tật. Trong thế giới văn minh ngày nay, người ta c̣n nghĩ ra những phương tiện bảo đảm cho cuộc sống bằng những hệ thống bảo hiểm. Bảo hiểu sức khỏe, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm nhà, bảo hiểm xe, bảo hiểm quí vật. Nhiều người c̣n lo xa hơn, bảo hiểm cặp mắt, bộ ngực, cặp đùi, và đôi bàn tay của ḿnh. Và chỉ khi nào làm như thế, họ mới an tâm. Thế nhưng, Chúa Giêsu lại nói: “Ai yêu sự sống ḿnh th́ sẽ mất” (Gio 12:25). Như vậy, là con người toan tính sai? Hoặc như vậy là Thiên Chúa đ̣i hỏi một điều vô lư?!

Nhưng phải đi vào ư nghĩa cốt lơi của lời Ngài, ta mới thấy rằng Chúa Giêsu đă nói đúng, và thật sự là thế. Một khi con người hoang mang, lo lắng, và băn khoăn về cuộc sống, họ sẽ bị chôn bám vào những giá trị và lo lắng vật chất. Làm ǵ c̣n giờ để hướng tâm hồn ḿnh về những giá trị siêu nhiên. Sống như vậy, rơ ràng là đă làm mất đi ư nghĩa của cuộc đời. V́ khi con người đề cao hoặc bị lệ thuộc vào vật chất, vật chất sẽ ngự trị và khống chế. Lúc đó, con người sẽ phải lo lắng, băn khoăn t́m cầu thỏa măn những nhu cầu vật chất đến nỗi không bao giờ cảm nhận được nguồn vui và sự b́nh an của tâm hồn. Lo lắng, bất an, suy tư, trăn trở là hệ lụy của đời sống vật chất. B́nh an, hạnh phúc, thảnh thơi, và tín thác là hoa trái của đời sống tâm linh. Con người không thể t́m được b́nh an và hạnh phúc khi bị chôn bám, và lệ thuộc vào vật chất. Thánh Augustine sau những chuỗi ngày dài miệt mài với những thú vui vật chất đă phải thú nhận: “Trái tim tôi được dựng nên cho Thiên Chúa. Nó sẽ không ngừng thao thức cho đến khi được an nghỉ trong Ngài”.

Về mặt xă hội, một người lúc nào cũng chỉ bo bo nghĩ đến ḿnh, đến bản thân ḿnh, làm ǵ có giờ cho những hành động bác ái, và những đóng góp với xă hội. Yêu ḿnh hay t́m ḿnh theo nghĩa này, là tự ḿnh thu gọn trong cái vỏ ṣ ích kỷ. Những người này sẽ không bao giờ cảm nghiệm được niềm vui và hạnh phúc khi mở rộng ṿng tay đón tiếp, hoặc giúp đỡ người khác. Và sự mất mát ở đây là mất mát của tâm linh. Cuộc sống của những người ích kỷ sẽ không bao giờ được hạnh phúc, và thoải mái v́ họ luôn luôn có những người nghèo khó quanh ḿnh. Luôn luôn có những người đang chờ đến nụ cười, khóe mắt và bàn tay bác ái của họ. Nhưng v́ họ tự khép kín tâm hồn, nên trước mắt họ, sau lưng họ, và chung quanh họ là một đoàn lũ những người có thể làm họ mất vui ngay khi họ ngồi trên đống tiền, hoặc xa hoa trong lụa là, gấm vóc.

Theo tâm lư học, một người lúc nào cũng t́m ḿnh, cũng lo lắng cho ḿnh quá sẽ trở thành bệnh hoạn ngay trong ư nghĩ lo lắng ấy. Những bệnh nhân mang hội chứng biếng ăn, hoặc ngược lại, hội chứng ham ăn. Những bệnh nhân mang hội chứng lo lắng và hốt hoảng về sự sống của ḿnh là một thí dụ. Nhiều người, nhất là giới trẻ v́ quá lo lắng đến thân h́nh, đến việc lên cân xuống kư nên đă mất đi hứng thú của việc ăn uống. Họ tự ép ḿnh phải nhịn ăn và không dám ăn cho đến khi kiệt sức và có thể chết. V́ lư do sắc đẹp, và v́ mặc cảm mập ph́.

Ngược lại, có những người lại bị thu hút bởi miếng ăn. Họ không thể tự kiềm chế trước vấn đề ăn uống. Đối với những người này, th́ cần phải ăn cho thỏa măn cái miệng, và đầy dạ dầy. Kết quả là cả thân xác và tâm hồn của họ bị bạc nhược, bị nhận ch́m vào thú vui ăn uống. Họ trở thành mập ph́, và rất nặng nề.

Ngoài ra, cũng có những người v́ quá lo lắng đến sức khoẻ của ḿnh, nên luôn luôn mang mặc cảm ốm đau. Họ sẽ ăn không ngon, ngủ không yên nếu chưa t́m gặp được bác sĩ này, nha sĩ khác, hoặc chưa thử qua thứ thuốc này hay thuốc khác. Đối với họ, chỉ cần nghe tên bệnh là tự nhiên thấy ḿnh bệnh. Họ đi hành hương, đi cầu khấn và t́m ṭi mọi cách để được chữa lành, được khỏa lấp cái lo lắng rất bệnh hoạn của ḿnh, là ḿnh chỉ có thể chữa được bằng một phép lạ.

Như vậy, điều Chúa Giêsu nói về việc t́m ḿnh, lo lắng cho ḿnh có thể làm mất đi sự sống ḿnh là đúng. Nhưng ư nghĩa ấy chắc phải nằm trong lănh vực tâm linh. Chúa Giêsu đă khẳng định: “Ai yêu sự sống ḿnh th́ sẽ mất, và ai ghét sự sống ḿnh ở đời này, th́ sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”. Nhưng tại sao lại phải ghét sự sống ḿnh th́ mới giữ được nó? Hiển nhiên, đây là ư nghĩa tâm linh. Ngoài ra, đây đâu có phải là lần đầu tiên Ngài đặt điều kiện cho những ai muốn theo Ngài. Rải rác trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đă nhiều lần thẳng thừng đ̣i hỏi tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài, muốn vào nước trời, phải có thái độ dứt khoát ấy. Lư do là v́ không ai hơn Ngài, Chúa Giêsu đă hiểu thế nào về một đời đời hạnh phúc. Và thế nào là cái giá phải trả cho đời đời hạnh phúc ấy. Nếu nó dễ dăi, chắc Ngài không cần phải từ trời xuống thế, và cũng chẳng cần phải chấp nhận đi vào con đường đau thương, và đón nhận thập tự. Nếu đời đời hạnh phúc kia chỉ tầm thường hơn những yếu tố cấu thành cuộc đời và cuộc sống vật chất của con người, chắc chắn Ngài không thể bắt con người phải làm cuộc trao đổi gắt gao như thế.

Không biết đây có phải là một kinh nghiệm riêng tư và là một cái nh́n chủ quan không, nhưng thường ngày, tôi vẫn chứng kiến điều mà Chúa Giêsu đang đề cập đến ở đây, là con người tự nhiên, con người của tự ái và của những đam mê, nhục dục. Thường ngày, tại văn pḥng tôi vẫn gặp những trường hợp không phải là người ta đứng bên này, hay bên kia sông mà chửi bới, mà moi móc, rủa xả nhau, nhưng là chỉ cách xa bằng một sợi tóc. Tôi nói vậy, v́ hai người ai cũng cho rằng ḿnh đúng, ḿnh có lư, và nhất là ḿnh thương yêu, lo lắng cho nhau. Người ta không phải là một ngày, một tuần, một tháng, nhưng có khi triền miên hận thù nhau, chung cuộc cũng chỉ v́ cái tôi rất lớn lao của ḿnh.

Tóm lại, điều kiện Chúa Giêsu đưa ra cho những ai muốn chiếm hữu được sự sống đời đời là một đ̣i hỏi không phải là vô lư. Nếu không sẵn sàng bỏ đi cái tôi ích kỷ, cái tôi luôn luôn tự cho ḿnh là nhất, là đúng, th́ không cần nói chi đến sự sống đời đời, mà ngay sự sống trần gian con người cũng đă gặp phải những khó khăn. Người mà luôn luôn t́m ḿnh, sống với ḿnh và cho ḿnh bằng cái nh́n, và quan niệm “t́m ḿnh” như thế, họ là những người hết sức khổ sở và lạc lơng dưới bầu trời hạnh phúc của nhân sinh. Lư do họ chẳng bao giờ được như ư ḿnh, và những người khác cũng chẳng bao giờ có thể làm hài ḷng họ.

Muốn theo Chúa. Muốn vào thiên đàng hạnh phúc. Điều kiện duy nhất là bỏ ḿnh, là quên ḿnh và không t́m ṭi cái tôi trong cuộc sống. Điều kiện tuy khắt khe, nhưng không làm con người thất vọng. Sức nặng của nó. Sự va chạm cồng kềnh của nó cũng chỉ như một cái đầu máy, làm chạy chiếc xe cuộc đời con người đến bến hạnh phúc Thiên Đàng mà thôi: “Ai yêu sự sống ḿnh th́ sẽ mất, và ai ghét sự sống ḿnh ở đời này, th́ sẽ giữa được nó cho sự sống đời đời” (Gio 12:25).

 


“và trong giờ lâm tử Amen”
 

 


Trong bài Phúc Âm hôm nay, ở câu cuối cùng, Chúa Giêsu đă tuyên bố: “Khi nào Tôi bị treo lên, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi”. Lịch sử Giáo Hội đă chứng kiến những tâm hồn đă được Chúa Kitô thu hút hết sức lạ lùng. Trước hết, ngay trên đồi Tử Giá, là người trộm lành Do Thái và viên đại đội trưởng Dân Ngoại Rôma, sau đó là Saulê hung hăng trên con đường đi bắt đạo v.v. Trong cộng đồng Việt Nam cũng thế, chúng ta thấy có những cuộc trở lại rất lạ lùng, mới đây nhất là của ca sĩ Duy Khánh, người ca sĩ 67 tuổi, sau mấy tuần lễ hôn mê đă xin gặp linh mục Công Giáo sau khi hồi tỉnh; trước đó c̣n có nhà văn Nguyên Sa ở Orange County và Duyên Anh ở Âu Châu, có nhạc sĩ Vũ Thành An vừa lănh chức Phó Tế Vĩnh Viễn ở Porland Oregon, và có Thi Sĩ Bàng Bá Lân ở Việt Nam, nhất là có cựu hoàng Bảo Đại là gịng dơi của những vị tiên vương ra tay sát hại Công Giáo.


Thật vật, trở về đây không phải là trở về với Giáo Hội Công Giáo cho bằng trở về với chính Chúa Kitô “là Chân Lư” (Jn 14:6), tức công nhận Người là Đấng Cứu Độ duy nhất, một niềm tin được thể hiện qua việc lănh nhận Phép Rửa bởi Giáo Hội Công Giáo. Tuy nhiên, không phải chỉ có những cuộc trở về nơi thành phần không phải Kitô hữu, mà c̣n xẩy ra ở chính thành phần môn đệ Chúa Kitô nữa, những cuộc trở về của những đứa con hoang đàng, như hai trường hợp sau đây:


Trước hết là trường hợp của nữ tu Anna người Ư thuộc Ḍng Chị Em Lao Động Thánh Gia Nazarét, người đă kể lại truyện đời của ḿnh trong một cuộc phỏng vấn với tờ nguyệt san Ư Mondo Voc của các tu sĩ Rogationist để khuyến khích ơn gọi tu tŕ như sau: “Năm 19 tuổi tôi bắt đầu nhẩy disco, và tôi nhẩy cho tới năm 21 tuổi. Đó là ba năm rất gay go đă làm tôi lầm lạc. Tôi thường đi nhẩy disco hằng đêm và ở đó cho tới 8 giờ sáng. Tôi thường nhẩy ở hộp đêm cho tới 4 giớ sáng rồi từ 4 giờ tới 8 giờ sáng. Tôi thường nhảy không nghỉ ở chỗ nhẩy disco khác. Tôi thậm chí đi tới cả những nơi khác ngoài Milan nữa, như Amsterdam để ở đó khoảng bốn năm ngày. Tôi kiếm những sàn nhẩy disco danh tiếng nhất; để rồi từ đó tôi đă liên hệ với đàn ông và rượu chè…. Câu chuyện xẩy ra là có một lần không biết sao tôi lại vào nhà thờ. Tôi đă bắt đầu đi nhà thờ vào Chúa Nhật. Trong nhà thờ tôi đă sướt mướt khóc, nhận thức được một Sự Hiện Diện khác. Tôi đă thấy giới trẻ yêu nhau rất chân thành và rất hạnh phúc trong một thế giới thực tế này, chứ không phải là thứ thế giới giả tạo như thế giới tôi đang sống… (Trong) cuộc tĩnh tâm ở Spello tại khu ẩn tu Carlo Carritto. Tôi đă nguyện cầu, đă suy nghĩ sâu xa. Thế rồi, vào một buổi tối, trong Khuôn Viên Thánh Clara ở Assisi, ngước mắt lên trời và thiên nhiên, tôi đă có được một nhận thức rơ ràng Thiên Chúa là Đấng Hóa Công và chúng ta là tạo vật của Ngài. Con tim của tôi tràn đầy niềm vui khôn tả. Tôi bắt đầu nhẩy, nhưng lần này không phải là để lôi kéo đàn ông mà là để tạ ơn Thiên Chúa và chúc tụng Ngài. Tôi đă thấy được những ǵ tôi t́m kiếm… Vấn đề không phải là quá thích đi hay không thích đi đến những sàn nhẩy disco mà là để cho ḿnh bị nhốt vào những thứ liên hệ nhân loại bất thoả nguyện. Chúng ta hăy đi đến các sàn nhẩy disco với một ḿnh Chúa Giêsu mà thôi. B́nh thường giới trẻ thích đi t́m cảm giác và những cảm giác này mạnh hơn về ban đêm, thế nhưng cuộc sống thường về đêm lại hay sống như cuồng loạn làm con người ra hư hỏng”.


Tiếp đến là trường hợp của kư giả Domenico del Rio cũng người Ư vừa được an táng ngày 28/1/2003, người đă qua đời năm 76 tuổi, một kư giả được đồng nghiệp cho là một trong những phóng viên nhật báo hay nhất ở Vatican. Ông sinh ở Rôma, đi tu Ḍng Capuchin, chịu chức linh mục và đi khắp thế giới như một nhà truyền giáo. Tuy nhiên, ḷng nhiệt thành của ông đối với Giáo Hội đă khiến ông có một tinh thần chỉ trích gắt gao, đến nỗi, sau Công Đồng Chung Vaticanô II, ông đă xin hồi tục, để rồi, sau khi được Ṭa Thánh tha phép, ông đă lập gia đ́nh. Là kư giả cho tờ La Repubblica, ông đă cay cú phê b́nh các chuyến tông du hải ngoại của Đức Thánh Cha, cho rằng động lực của những chuyến đi này là do bởi “khuynh hướng vinh thắng” hơn là để truyền bá phúc âm hóa. Bởi thế, năm 1985, Văn Pḥng Báo Chí Vatican đă không cho phép ông được cùng đi với Đức Thánh Cha đến Mỹ Châu Latinh. “H́nh phạt” này, như ông cắt nghĩa với đồng nghiệp của ông, đă làm thay đổi cuộc đời của ông. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă gặp riêng ông sau vụ này, và qua cuộc gặp gỡ ấy, ông đă khám phá ra con người của Đức Giáo Hoàng. Từ đó trở đi, ông đă bỏ giờ ra t́m hiểu cuộc đời của Đức Thánh Cha, bằng cách viết 5 cuốn sách, cuốn cuối cùng là “Karol Cả” (Karol the Great) sắp được xuất bản ở Ư. Vị phóng viên cho tờ Corriere della Sera là Luigi Accattoli cũng là bạn thân của ông đă đến thăm ông một tuần trước khi ông chết ở Bệnh Viện Gemelli Rôma. V́ ông không muốn cho bạn bè biết ông đang nằm nhà thương, Accattoli đă hỏi ông rằng ông có điều ǵ muốn nhắn với họ hay chăng. Ông liền trả lời: “Xin anh hăy nói với Đức Giáo Hoàng! Tôi xin anh nói với ĐGH rằng tôi cám ơn Ngài. Tùy anh làm sao có thể nói với Ngài điều này. Nói với Ngài rằng tôi hết ḷng cám ơn Ngài về việc Ngài đă giúp tôi tin tưởng. Tôi có rất nhiều điều ngờ vực và nhiều cái khó tin. Tôi đă được sức mạnh đức tin của Ngài trợ giúp. Thấy việc Ngài tỏ ḷng tin rất mănh liệt mà tôi cũng được mạnh sức. Tôi đă nhận được sức hỗ trợ này khi thấy Ngài cầu nguyện. Khi Ngài ‘phó ḿnh trong tay Thiên Chúa’, việc phó ḿnh này hiển nhiên đă cứu được mọi sự cho Ngài vậy”.


Đó là hai trường hợp trở lại trong thành phần Kitô hữu, sau đây là một hiện tượng hay một phong trào trở lại đang xẩy ra tại Nam Dương, một quốc gia đông tín đồ Hồi Giáo nhất thế giới. Trong cuộc viếng thăm Ṭa Thánh ngũ niên của Hội Đồng Giám Mục Nam Dương hôm 29/3/2003, ĐGM phát ngôn viên của các vị là Martinua Situmorang giáo phận Padang đă cho biết “con số Công Giáo đă được rửa tội là 6.5 triệu, ngoài ra c̣n có ít là từ 2 đến 3 triệu dự ṭng và nhiều người khác đang cảm thấy bị đức tin Công Giáo thu hút và tuyên bố ḿnh là người Công Giáo dù chưa được rửa tội. Ở Nam Dương, chính quyền công nhận 5 tôn giáo là Hồi giáo, Phật giáo, Ấn giáo, Công giáo và Tin Lành… Tôn giáo của ai được ghi rơ trên các giấy tờ căn cước của người đó. Các cộng đồng Công Giáo của chúng tôi th́ năng động, hào hứng chia sẻ đức tin, cho dù đường c̣n dài, và rất nhiều người đang chờ để nghe Tin Mừng Phúc Âm. Tuy nhiên, không có vấn đề dụ giáo trong những dịch vụ về tôn giáo hay nơi những hoạt động xă hội và giáo dục của chúng tôi, những hoạt động được dân địa phương cảm mến. Mục đích chính của chúng tôi là cống hiến những dấu hiệu cụ thể của đức bác ái Kitô Giáo”. ĐGM Petrus Canisius Mandagi giáo phận Ambon ở quần đảo Molucca, nơi xẩy ra những cuộc đụng độ giữa Tin Lành và Hồi Giáo trong những năm gần đây cho biết con số Công Giáo ở vùng của ngài đang tăng phát: “Trong những cuộc đụng độ ấy, các cộng đồng Công Giáo địa phương bênh vực phẩm giá của hết mọi người, bất kể tôn giáo, và thay v́ đứng về phe bên này bên kia trong cuộc xung đột, họ hoạt động cho vấn đề ḥa giải. Việc làm chứng từ ấy đă dẫn nhiều người muốn biết hơn nữa về đức tin Công Giáo”.


Sau hết, ở Việt Nam, việc trở lại của thi sĩ Bàng Bá Lân đă xẩy ra như sau. Trong cuốn sách xuất bản năm 2000 tại Việt Nam của ông Phạm Đ́nh Khiêm, với tựa đề Chứng Từ Người Ra Đi (ở xem trang 240-246), tác giả đă thuật lại cuộc đời của thi sĩ Bàng Bá Lân, một thi sĩ nổi tiếng của Việt Nam. Vốn là người ngoại giáo, nhưng nhờ gương sống đạo của một số bạn hữu và đồng nghiệp người Công Giáo, ông đă xin được rửa tội theo Công Giáo vào tháng 2 năm 1988, trong khi ông bị bán thân bất toại v́ tai biến mạch máu năo lần thứ hai. Tám tháng sau, ông qua đời lành thánh tại Sài G̣n, thọ 77 tuổi. Trong số những bạn hữu của ông, có hai cô học tṛ tên là Hải và Thanh là hai chị em ruột người Công Giáo. Tháng 6 năm 1984, thi sĩ Bàng Bá Lân bị tai biến mạch máu năo lần thứ nhất, phải vào bệnh viện điều trị. Trong dịp này Hải và Thanh ngày đêm thay phiên với gia đ́nh ông đến bệnh viện săn sóc cho ông. Những lúc vắng vẻ, hai cô đă hát những bài thánh ca cầu nguyện cho ông, đồng thời cũng để xoa dịu cơn đau đớn của ông. Sau khi xuất viện, ông đă sáng tác bài thơ mang tực đề Cảm Hóa để tặng hai cô như thế này:


Ta vốn thiếu niềm tin từ thuở nhỏ,
Không bao giờ tin là có Thiên Đường.
V́ chỉ ham khoa học với văn chương,
Cũng chẳng biết Niết Bàn là đâu hết!
Từng thấy những sư sống không thanh khiết,
Và gặp nhiều linh mục chẳng chăn dân.
Cũng hám lợi danh, chức vị cơi trần,
Bỏ Bác Ái, Từ Bi, làm chính trị.
Ta chán ngán bọn lạm danh tu sĩ:
Cạo trọc đầu chưa hẳn đă là sư.
Ta buồn chán không muốn làm phật tử,
C̣n nhiều bạn thương ta th́ lại cứ
Muốn ta thành đệ tử Chúa Giêsu,
Đức Mẹ Maria, Đức Mẹ hiền từ,
Tặng kinh sách muốn khiến ta nghiền gẫm.
Nhưng ta thấy đức tin chưa cần lắm,
Miễn làm sao không hại đến gia thanh.
Ngửa trông lên chẳng hổ với cao xanh,
Cúi ḿnh xuống không thẹn ḿnh với đất.
Song càng ngày càng thấy đời bạc ác,
Người với người, lang sói vẫn c̣n thua!
Thiếu niềm tin ta cảm thấy bơ vơ,
Nhưng chỗ tựa tinh thần chưa nhất quyết.
Từ gặp hai em, nghe ḷng tha thiết,
Cảm mến thương hơn ruột thịt người thân.
Em đối với ta cũng rất ân cần,
Nhất từ lúc ta gặp hồi vận nạn.
Chăm sóc thày thật hết ḷng, không quản,
Sớm chiều vô bệnh viện chẳng hề sai.
Tiếp thức ăn và an ủi đêm ngày,
Thanh c̣n hát thày nghe kinh cầu nguyện.
Giọng du dương làm ta thêm quyến luyến,
Yêu thương người, yêu cả Chúa cao sang.
Giọng hát đưa ta vào cơi mơ màng,
Ta tưởng thấy cửa Thiên Đàng rộng mở.
Và từ đó nh́n Nhà Thờ ngờ ngợ,
Phải chăng đây là chỗ tựa tinh thần?
V́ t́nh thương dành cho khắp con dân,
Giầu bác ái ấy là con của Chúa.
Bây giờ đây ta thật ḷng cảm hóa,
Nhờ hai em, con của Chúa cao sang,
Càng thương em càng mến Chúa muôn vàn…

(11-9-1984)
Bàng Bá Lân

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, bài chia sẻ cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 4/4/2003