|
CHÚA NHẬT XIII QUANH NĂM
BÀI
ĐỌC I: Sap 19:1, 13-15; 2:23-25
“Bởi ác quỷ ghen
tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian”
Bài trích sách Khôn
Ngoan.
Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng
khi người sống phải chết. Người tạo thành mọi sự cho có. Người tạo dựng mọi
người trên mặt đất đều lành mạnh, chúng không có nọc độc sự chết, và không có
địa ngục ở trần gian. V́ chưng, công chính th́ vĩnh cửu và bất tử. Thiên Chúa đă
tạo dựng con người giống h́nh ảnh Chúa, để sống vĩnh viễn. Nhưng bởi ác quỷ ghen
tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian: kẻ nào thuộc về nó th́ bắt chước nó.
Lời của Chúa.
Đáp ca: (Xin mời Cộng
đoàn thưa)
Lạy Chúa, tôi ca tụng
Chúa v́ đă giải thoát tôi.
1.
Lạy Chúa,
tôi ca tụng Chúa v́ đă giải thoát tôi, và không để quân thù hoan hỉ về tôi. Lạy
Chúa, Chúa đă đưa linh hồn tôi thoát xa âm phủ, Ngài đă cứu tôi khỏi số người
đang bước xuống mồ.
2.
Các tín đồ
của Chúa, hăy đàn ca mừng Ngài, và hăy cảm tạ thánh danh Ngài. V́ cơn giận của
Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng ḷng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời.
3.
Lạy chúa, xin nhậm lời, và xót thương tôi, lạy Chúa, xin
Ngài gia ân cứu giúp tôi. Chúa đă biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho tôi;
Lạy Chúa là Thiên Chúa của tôi, tôi sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời.
BÀI ĐỌC II: 2 Cor
8:7, 9, 13, 15
“Sự dư thừa của
anh em bù đắp lại sự thiếu thốn của những anh em nghèo khó”
Bài trích thơ thứ hai
của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, cũng như anh em vượt trổi về mọi
mặt: về ḷng tin, về hùng biện, về sự hiểu biết, về mọi h́nh thức nhiệt thành,
cũng như về ḷng bác ái của anh em, th́ anh em cũng phải vượt trổi trong việc
phúc đức nầy. V́ anh em biết ḷng quảng đại của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta,
mặc dù giàu sang, Người đă nên thân phận nghèo khó, để nhờ việc nghèo khó của
Người, anh em nên giàu có. Nhưng không lẽ để cho kẻ khác được thư thái, mà anh
em phải túng thiếu, nhưng phải làm sao cho đồng đều. Trong hoàn cảnh hiện tại,
sự dư giả của anh em bù đắp lại chỗ thiếu thốn của anh em, hầu có sự đồng đều
như lời đă chép rằng: “Kẻ được nhiều, th́ cũng không dư, mà kẻ có ít, cũng không
thiếu”.
Lời của Chúa.
(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. — Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là
sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. — Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc
5:21-42
“Hỡi em bé, Ta
bảo em hăy chỗi dậy”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đă xuống thuyền trở về bờ bên
kia, có đám đông dân chúng tụ họp quanh Người, và lúc đó Người đang ở bờ biển.
Bỗng có một ông trưởng hội đường tên là Giairô đến. Trông thấy Người, ông sụp
lạy và van xin rằng: “Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để
nó được khỏi và được sống”. Chúa Giêsu ra đi với ông ấy, và đám đông dân chúng
cũng theo chen lấn Người tứ phía. Vậy có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đă
mười hai năm. Bà đă chịu cực khổ, t́m thầy thuốc, tiêu hết tiền của mà không
thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn
trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, v́ bà tự nhủ: “Miễn sao
tôi chạm tới áo Người th́ tôi sẽ được lành”. Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm
thấy trong ḿnh đă được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh
đă xuất phát tự ḿnh, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: “Ai đă chạm đến áo
Ta?” Các môn đệ thưa Ngài rằng: “Thầy coi đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà
Thầy c̣n hỏi: “Ai chạm đến Ta?” Nhưng Người cứ nh́n quanh để t́m xem kẻ đă làm
điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, v́ biết rơ sự thể đă xẩy ra nơi ḿnh, liền
đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà: “Hỡi con,
đức tin con đă chữa con, hăy về b́nh an và được khỏi bệnh”. Người c̣n đang nói,
th́ người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng: “Con gái ông chết rồi, c̣n
phiền Thầy làm chi nữa? Nhưng Chúa Giêsu đă thoáng nghe lời họ vừa nói, nên
Người bảo ông trưởng hội đường rằng: “Ông đừng sợ, hăy cứ tin”. Và Người không
cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê. Các ngài đến nhà ông
trưởng hội đường và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước
vào và bảo họ: “Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó”.
Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ
đứa bé và những môn đệ đă theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa
nhỏ nói rằng: “Talitha, Koumi”, nghĩa là: “Hỡi em bé, Ta truyền cho em hăy chỗi
dậy”. Tức th́ em bé đứng dậy và đi được ngay, v́ em đă được mười hai tuổi. Họ
sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy và bảo họ
cho em bé ăn.
Phúc Âm của Chúa.
Suy Niệm
Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh
Mùa
Thường Niên hậu Phục Sinh được bắt đầu từ Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Tuy
nhiên, ba Chúa Nhật đầu tiên của giai đoạn Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh này lại
được Giáo Hội cử hành thứ tự ba Mầu Nhiệm cao cả và hết sức quan trọng đối với
đức tin Kitô giáo, đó là Mầu Nhiệm Thánh Thần, Mầu Nhiệm Ba Ngôi và Mầu Nhiệm
Thánh Thể, những mầu nhiệm liên quan đến Sự Sống Thần Linh, v́ chủ đề của Mùa
Thường Niên hậu Phục Sinh là chủ đề về Mầu Nhiệm Chúa Kitô - Sự Sống Tái Sinh,
tiếp theo chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tỏ Hiện của Mùa Vọng, Giáng Sinh
và Thường Niên Hậu Giáng Sinh, và chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Thông Ban
của Mùa Chay và Phục Sinh.
Chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh
theo chu kỳ phụng vụ năm B cho thấy rơ ràng qua các bài đọc trong phần Phụng Vụ
Lời Chúa Chúa Nhật XIII Thường Niên. Trước hết, ở bài đọc một, Sách Khôn Ngoan
cho biết sự sống phát xuất từ Thiên Chúa, “Đấng không tạo nên sự chết, cũng
không mừng ở t́nh trạng bị hủy hoại của sinh linh… V́ Thiên Chúa h́nh thành con
người để được bất tử”, c̣n sự chết phát xuất từ ma quỉ là tên “ghen tương” đă
làm cho “sự chết lọt vào thế gian”. Ở bài đáp ca, Thánh Vịnh 30 đă cảm nhận: “Ôi
Chúa, Ngài đă đưa tôi lên từ âm phủ, Ngài đă bảo tŕ tôi khỏi thành phần lao
xuống hố thẳm… Ngài đă biến nỗi than khóc của tôi thành niềm hoan hỉ….”. Ở bài
đọc thứ hai, bức Thư Thứ Hai của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côrintô đă cho thấy
sự sống thực sự của người Kitô hữu là ở chỗ hiệp thông và chia sẻ: “Chính v́ anh
em được phong phú về mọi phương diện, về đức tin và tài diễn giải, về kiến thức,
về tất cả mọi quan tâm cũng như về ḷng ưu ái của chúng tôi đối với anh em, mà
anh em cũng phải rộng lượng về công việc bác ái nữa… T́nh trạng dồi dào của anh
em lúc này đây phải đáp ứng các nhu cầu cần thiết của những người khác, để t́nh
trạng dư dật của họ một ngày nào đó lại bù đắp cho cảnh thiếu thốn của anh em…”.
C̣n ở bài đọc chính là bài Phúc Âm th́ sao?
Bài Phúc Âm Thánh Marcô thuật lại hai phép lạ một lúc. Phép lạ chữa cho một
người đàn bà bị loạn huyết 12 năm và phép lạ hồi sinh cho đứa con gái của một
viên chức hội đường. Tuy nhiên, phần thuật về phép lạ chữa lành bệnh loạn huyết
của người đàn bà được Giáo Hội để trong ngoặc đơn, không cần đọc. Nghĩa là Giáo
Hội muốn nhấn mạnh đến phép lạ hồi sinh mà thôi, một phép lạ trực tiếp liên hệ
tới chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh của Mùa Thường Niên hậu Phục
Sinh. Dĩ nhiên Chúa Kitô đến, trước hết và trên hết, không phải là để hồi sinh
phần xác con người, mà là phần hồn của họ. Vẫn biết khi cứu độ con người là Chúa
Kitô cứu toàn thể con người của họ, tức cứu cả hồn lẫn xác, một thân xác sẽ được
phục sinh vào ngày tận thế. Tuy nhiên, nếu cái làm cho con người ra dơ bẩn phát
xuất từ bên trong con người mà ra, chứ không phải từ bên ngoài, từ thân xác (x
Mt 15:18-20), th́ linh hồn con người mới cần cứu trước nhất và trên hết; để rồi,
là nguyên lư sống tự nhiên của thân xác, linh hồn chẳng những sẽ là nguyên tố
làm cho thân xác sống lại trong ngày sau hết, mà c̣n là tác nhân sống siêu nhiên
cho thân xác nữa, một sự sống thần linh của linh hồn và với linh hồn ngay khi
con người con sống trong thời gian và không gian, đến nỗi, như được thấy nơi các
vị thánh, thân xác của họ, của các ngài, nhờ được thông phần quyền lực phục sinh
của Chúa Kitô, có thể làm được cả những việc phi thường về đức bác ái, (chưa kể
đến những đặc sủng làm phép lạ, nói tiên tri v.v.), những việc con người phàm
tục và tự nhiên không thể nào tự ḿnh làm được, trái lại, nếu thành tâm, sẽ phải
hết ḷng cảm phục và nhận ra chân lư.
Thế nhưng, sự
sống của linh hồn đây là ǵ, nếu không phải là “nhận biết” Thiên Chúa (x Jn
17:3). Ngay từ ban đầu sự chết đă lọt vào thế gian vào chính lúc con người phủ
nhận Thiên Chúa của ḿnh, tự động tách khỏi nguồn sống linh thiêng của ḿnh,
bằng việc làm theo ư riêng, phản ngược lại với ư muốn tối cao vô cùng chân thiện
của Thiên Chúa. Đó là lư do, để hồi sinh sự sống thiêng liêng cho con người,
“Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) đă tỏ ḿnh ra cho họ, để họ có thể thực sự
nhận biết Ngài mà được sự sống, mà được tái sinh (x Jn 3:3,5). Chúa Kitô, Lời
Nhập Thể, là tất cả những ǵ Thiên Chúa muốn tỏ cho loài người biết về bản thân
toàn thiện Ngài cũng như về ư định toàn mỹ của Ngài, là tuyệt đỉnh Mạc Khải Thần
Linh trong Lịch Sử Cứu Độ của dân Cựu Ước. Người đến “để tỏ Cha ra” (Jn 1:18),
để làm cho chung con người và riêng Giáo Hội, qua thành phần chứng nhân tiên
khởi, “nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu
Kitô” (Jn 17:3), nghĩa là để làm cho con người được sự sống, ở chỗ “nhận biết”
Thiên Chúa qua Người và nơi Người. Và để làm cho con người, nhất là thành phần
môn đệ làm nền tảng cho Giáo Hội của Người sau này, có thể nhận biết Người thực
sự là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, Chúa Kitô đă tỏ ḿnh ra cho họ, qua lời
người nói và việc Người làm, lời vô cùng khôn ngoan và việc vô cùng quyền phép,
những chứng từ được thành phần thiện tâm, dù bị mù từ lúc mới sinh cũng có thể
nhận biết chân lư, nhận biết Người (x Jn 9:33,38).
Trong bài Phúc Âm theo Thánh Kư Marcô cho Chúa Nhật XIII Thường Niên năm B, Chúa
Kitô đă tỏ ḿnh ra cho riêng viên chức hội đường đến van xin Người chữa bệnh cho
đứa con gái 12 tuổi của ông, cũng như cho chung dân chúng nhạo cười Người khi
nghe thấy Người nói “con bé có chết đâu, nó chỉ ngủ thôi”, bằng cách hồi sinh
đứa con gái vừa bị chết. Việc hồi sinh về phần xác của bé gái này chỉ là phương
tiện để Người hồi sinh, đúng hơn, tái sinh sự sống thần linh nơi đám người Do
Thái có mặt ở đó bấy giờ, nghĩa là làm cho họ tin Người hơn, chấp nhận Người
thực sự là Đấng Thiên Sai, và qua Người, nhận biết Đấng đă sai Người. Đó là lư
do, khi ông bố của em gái này được báo tin là em chết rồi đừng phiền đến Người
nữa, Người đă trấn an ông bố: “Đừng sợ. Hăy vững tin”. Kết quả là, như bài Phúc
Âm tŕnh thuật, “thấy vậy, họ bàng hoàng sửng sốt”.
Thế nhưng, cho dù con người có tin tưởng nơi Người qua những phép lạ Người làm
như thế, đức tin của con người vẫn có thể bị lung lay và thử thách, như thành
phần môn đệ ở sát bên Thày, nghe thấy Thày, nh́n thấy Thày, đụng chạm Thày (x.
1Jn 1:2), nhưng vẫn bỏ rơi Thày như tất cả mọi môn đệ, nhất là đă cả gan dại dột
phản bội Thày như Giuda, và trắng trợn phũ phàng chối bỏ Thày như Phêrô. Đó là
lư do Chúa Kitô Phục Sinh, sau khi tái sinh con người bằng nước, tức tái sinh họ
bằng những chứng từ Người thực hiện qua nhân tính của Người, Người c̣n cần phải
tái sinh họ trong Thần Linh nữa (x Jn 3:5), sau khi Người sống lại từ trong kẻ
chết (x Jn 20:22; 7:37-39). Có thế, có được rửa trong Thần Linh, họ mới có thể
trở thành nhân chứng của Người (x Lk 24:48), Vị Thần Linh sẽ làm chủ tác động họ
như một Quyền Lực từ trên cao (x. Acts 1:8), khi Ngài hiện xuống vào ngày Lễ Ngũ
Tuần tại Giêrusalem (x Acts 2:1-4). Bởi thế, đức tin trọn vẹn nhất và nguyên
chính nhất là đức tin của thành phần nhân chứng tông đồ, một đức tin tông truyền
qua hàng giáo phẩm, thành phần thừa kế Thánh Phêrô và tông đồ đoàn. Cũng là một
đức tin đă đực rao giảng khắp thế giới cũng qua các vị thừa sai tông đồ, tiêu
biểu nhất là Thánh Phaolô.
Chúa Nhật XIII Thường Niên năm nay 2003 theo chu kỳ phụng vụ năm B là ngày 29/6,
tức trùng vào chính ngày Lễ Trọng kính hai Vị Đại Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô.
Lễ hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô không phải là Lễ Buộc Obligation, (tức nếu
bỏ không dự mà thiếu lư do chính đáng th́ mắc tội trọng), như 1 lễ về Các Thánh
1/11, 2 lễ về Chúa là Lễ Giáng Sinh 25/12 và Lễ Thăng Thiên Thứ Năm sau Chúa
Nhật Thứ Sáu Phục Sinh, và 3 lễ về Mẹ là Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12, Lễ Mẹ Thiên Chúa
1/1 và Lễ Mẹ Mông Triệu 15/8. Tuy nhiên, trong bốn bậc lễ của Giáo Hội, lễ tùy -
optional, lễ nhớ -memorial, lễ kính – feast, lễ có kinh vinh danh như lễ kính
từng vị tông đồ, và lễ trọng - solemnity, lễ có cả vinh danh và tin kính, như Lễ
Thánh Giuse 19/3, Lễ Truyền Tin 25/3, Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả 24/6, và
Lễ Hai Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ 29/6. Những vị được Giáo Hội cử hành ở bậc
Lễ Trọng, dù không buộc, có một vai tṛ quan trọng trong nhiệm cuộc cứu độ, tức
liên quan đến đức tin. Thánh Phêrô tiêu biểu cho quyền bính Chúa Kitô trong việc
chăn dắt đàn chiên Giáo Hội (x Mt 16:16-18), c̣n Thánh Phaolô tiêu biểu cho ánh
sáng Chúa Kitô chiếu tỏa trước muôn dân (x Acts 13:47).
Thật vậy, những mầu nhiệm của Kitô giáo không phải chỉ là những thực tại liên
quan đến “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24), như Mầu Nhiệm Ba Ngôi, Mầu Nhiệm
Nhập Thể, Mầu Nhiệm Phục Sinh, Mầu Nhiệm Thánh Thể, Mầu Nhiệm Tiền Định, mà c̣n
bao gồm cả những mầu nhiệm khác nữa, như Mầu Nhiệm Thánh Mẫu, Mầu Nhiệm Đau Khổ,
Mầu Nhiệm Đức Tin, Mầu Nhiệm Giáo Hội v.v. Giáo Hội quả thực là một mầu nhiệm, ở
chỗ, chẳng những Giáo Hội giống như một hạt cải đức tin nhỏ bé nhất, nhỏ bé đến
nỗi giác quan không cảm thấy ǵ, nhỏ bé nhất trong các hạt giống tôn giáo, nhưng
lại là một đức tin mọc lên thành một cây vĩ đại nhất, một tôn giáo vươn khắp nơi
trên thế giới, mà c̣n là một tảng đá đầy những hèn yếu xác thịt, nhưng lại bất
khuất trước bất cứ một quyền lực thế gian nào, đến nỗi càng bị bắt bớ sát hại từ
đầu tới nay lại càng phát triển. Chính Mầu Nhiệm Giáo Hội bền vững là một bằng
cớ hiển nhiên và sống động nhất chứng thực Chúa Kitô quả thực vẫn luôn ở cùng
Giáo Hội cho đến tận thế.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
CON BẢO THẦY LÀ AI?!
Trần Mỹ Duyệt
Từ ngày được Chúa Giêsu tuyển chọn và huấn luyện, hôm nay, lần đầu tiên các môn
đệ mới qua kỳ thi lên lớp. Kỳ thi này thay thế cho những chạy chọt, xin xỏ của
anh em Giacôbê và Gioan, hoặc như những lần gấu ó nhau tranh dành ngôi thứ. Đề
tài của cuộc thi là chính Đức Kitô. H́nh thức thi là “hỏi và đáp”. Nhưng v́
không phải là một khoa thi được sửa soạn và tổ chức có trường sở, và v́ đề tài
và câu hỏi lần này mang tính chất ch́m lắng, thâm sâu từ nội tâm con người, do
đó, Chúa Giêsu đă dùng một hoàn cảnh có tính cách bất ngờ. Theo tâm lư, th́
những phản ứng bất ngờ như nói lỡ lời là một phản ảnh của tiềm thức, tức là ư
tưởng ấy đă có sẵn trong đầu óc. Và Chúa Giêsu đă dùng tâm lư phản tỉnh ấy để
trắc nghiệm xem các môn đệ đă hiểu và biết về Ngài bao nhiêu. Ngài muốn biết,
Ngài đă chiếm vị trí nào trong suy tư, và trong đời sống của các môn đệ Ngài. Và
các ông phải trả lời 2 câu hỏi:
1- “Người ta bảo Con Người là ai?” (Mt 16:13).
2- “C̣n các con, các con bảo Thầy là ai?” (Mt 16: 15).
Thánh kư kể lại, trong khi thầy tṛ đến địa hạt Cêsarê Philípphê, Chúa Giêsu bất
ngờ hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Con Người là ai?” (Mt 16:13). Các ông đă dựa
vào ư kiến quần chúng trả lời: “Người th́ bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ th́ bảo là
Elia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó” (Mt 16: 14). Nếu quần
chúng quan niệm và nh́n Chúa Giêsu như những nhân vật vừa kể, th́ quả thật, quần
chúng không hiểu ǵ về Ngài. Nhưng điều đó không quan trọng, điều quan trọng là
Ngài muốn biết các môn đệ nghĩ ǵ về Ngài. Do đó, Ngài hỏi tiếp: “C̣n các con,
các con bảo Thầy là ai?” (Mt 16: 15), và Thánh kư không ghi lại câu trả lời của
các ông. Sự im lặng này có nghĩa là các ông không hiểu Thầy ḿnh tí nào cả. Cũng
như đám đông quần chúng, các ông chỉ biết một cách hết sức lơ mơ và hời hợt về
Thầy ḿnh.
Rất may, trong số các ông có một người đă trả lời đúng, và được coi như đỗ thủ
khoa: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống” (Mt 16:16). V́ là một câu trả
lời đúng, nên Chúa Giêsu đă trao bằng và lời khen thưởng ngay: “Simon con Gioan,
con có phúc, v́ chẳng phải xác thịt hay huyết nhục đă cho con biết, nhưng là
Chúa Cha trên Trời. Phần Thầy, Thầy cho con biết: Con là đá, trên đá này, Thầy
sẽ xây Giáo Hội Thầy, và cửa Hỏa Ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con
ch́a khóa nước trời. Sự ǵ con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự
ǵ con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở (Mt 16: 18-19).
Nhưng đừng tưởng Phêrô chỉ nói suông câu nói ấy, và trả lời theo kiểu “chó ngáp
phải ruồi”, tức là ăn may đâu. Không phải thế, mặc dù tính t́nh của Phêrô có bộc
trực, nóng nẩy. Và mặc dù khả năng tri thức của Phêrô lúc bấy giờ chưa chắc đă
hiểu thấu đáo những ǵ ông nói về Chúa Giêsu, về Mầu Nhiệm Nhập Thể, và về Thiên
Chúa, nhưng ḷng mến và sự nhiệt thành đă cho ông cảm nhận được điều ông tuyên
xưng, đặc biệt, ư tưởng ấy đến từ Chúa Cha, Đấng đă mạc khải cho ông. Những điều
này đă làm nền tảng cho sự dấn thân và trung thành của Phêrô.
Thật vậy, nếu đọc Thánh Kinh, ta sẽ thấy rằng mặc dù Chúa Giêsu hứa thiết lập
Giáo Hội Ngài trên tảng đá Phêrô, nhưng phải đợi đến khi Ngài thật sự thấy được
tấm ḷng của ông, đó là lần gặp gỡ chót trước khi Chúa về trời. Trên băi biển
Galilê hôm ấy, cũng bằng một thái độ rất t́nh cờ, Chúa Giêsu đă hỏi Phêrô một
lần nữa về câu hỏi mà Ngài đă hỏi các môn đệ trước đó, nhưng bằng một h́nh thức
khác: “Simon, con Gioan, con có mến Thầy hơn những người này không?” (Gio
21:15). Lần này, Simon – Phêrô - có lẽ c̣n đang mặc cảm và áy náy về sự “phản
bội” của ḿnh, nên không dám mạnh miệng nói là “mến thầy hơn những người này”,
nhưng chỉ dám trả lời: “Vâng, Thầy biết con mến Thầy” (Gio 21:15), khiến Chúa
Giêsu đă phải lập lại thêm hai lần nữa: “Simon, con Gioan, con có mến Thầy không?”
(Gio 21: 16-17). Phêrô, với ḷng nhiệt thành và tính bộc trực sẵn có đă trút bỏ
được cái mặc cảm tội lỗi của ḿnh, nên tin tưởng và thẳng thắn trả lời: “Lậy
Thầy, Thầy biết tất cả. Thầy biết con mến Thầy” (Gio 21:18). Và từ đó, Phêrô đă
trở thành Giáo Hoàng, đă trở thành đá tảng của Ṭa Nhà Hội Thánh mà Chúa Thánh
Thần sẽ khởi công xây cất khi Ngài ngự xuống.
Nếu Chúa Giêsu hôm nay có hỏi mỗi người chúng ta câu hỏi mà Ngài đă hỏi các môn
đệ: “C̣n các con, các con bảo Thầy là ai?” (Mt 16: 15), và câu hỏi mà Chúa Giêsu
đă hỏi riêng Phêrô: “Simon, con Gioan, con có mến Thầy không?” (Gio 21: 16, 17),
chắc sẽ có nhiều người “rớt đài”, v́ trả lời không được, hoặc trả lời không thật
với ḷng ḿnh. Và đây là điều mà những ai cho ḿnh là môn đệ Chúa Giêsu phải suy
nghĩ lại. Nhiều khi ta tự cho ḿnh biết nhiều về Chúa Giêsu, đọc nhiều về Chúa
Giêsu, nghe nhiều và nói nhiều về Chúa Giêsu, nhưng tự thâm tâm, ta chưa cảm
nhận, chưa sống, và chưa thực hành những ǵ ḿnh biết về Chúa Giêsu. Do đó, ta
không dám nói như Phêrô: “Thầy biết tất cả. Thầy biết con mến Thầy” (Gio 21:18).
Là Kitô hữu, ít nhiều ai cũng biết sơ lược về tiểu sử con người mang tên Giêsu:
Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa. Đấng mặc xác phàm làm con Đức Trinh Nữ Maria
và dưỡng phụ Giuse. Sinh tại Belem dưới thời vua Hêrôđê. Tuổi thơ cùng với gia
đ́nh sống tỵ nạn bên Ai Cập, và sau đó tái định cư tại Nagiarét. Nghề nghiệp là
thợ mộc. Bắt đầu hành đạo lúc 30 tuổi. Bị các trưởng tế, kỳ lăo, và luật sĩ ghen
ghét. Bị cáo gian và kết án tử h́nh một cách bất công bởi Philatô lúc 33 tuổi.
Bị hành quyết trên đồi Golgotha bằng cách đóng đinh. Phục sinh ngày thứ ba. Lưu
lại thêm 40 ngày, và về trời sau đó. Nhưng câu hỏi ở đây là làm sao tôi biết
được những điều này là thật. V́ việc Chúa đến trần gian là việc được các Thánh
Kư ghi lại trong Phúc Aâm, và các biến cố ấy đă xẩy ra cách đây 2000 năm, những
việc đó tôi nào có thấy. Hoặc cũng chỉ là đọc qua sách vở, nghe qua người này,
người khác. Vậy làm cách nào, và bằng h́nh thức nào tôi có thể trả lời với chính
Chúa câu hỏi mà Ngài muốn hỏi tôi. Tôi có dám bằng chính cuộc sống ḿnh chứng
minh và xác tín về những điều này không? Mặt khác, Chúa Giêsu lại muốn nghe
chính miệng tôi nói về Ngài: “C̣n các con, các con bảo Thầy là ai?”. Do đó, bài
học của Phêrô, câu trả lời của Phêrô chính là điều mà Chúa Giêsu muốn t́m thấy
nơi mỗi Kitô hữu. Không phải là “người ta bảo”, mà là “Thầy biết tất cả. Thầy
biết con sẽ trả lời Thầy là……”.
Thầy là ǵ? Là tất cả suy tư của con, tất cả lẽ sống của con, tất cả hiểu biết
của con, tất cả niềm tin, cậy, và mến của con. Thầy biết tất cả. Thầy biết con
biết về Thầy như thế đó. Đến đây, chắc cũng sẽ có người thấy “khớp”, và không
dám trả lời, bởi v́ “thầy biết tất cả”, th́ e rằng Thầy cũng biết rơ là con đang
nói xạo, đang muốn làm ra vẻ đạo đức, và đang đóng kịch. Thế th́ bậy quá. Tội
lỗi quá. Lư do đơn giản là đời sống của con không phản ảnh trung thực điều con
biết và điều con nói về Thầy.
- C̣n con, con bảo Thầy là ai?
- Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống.
Câu trả lời này Thánh Phêrô đă trả lời rồi. Kitô hữu hôm nay không cần phải lập
lại nữa. Nhưng điều mà mọi người phải làm là đặt lại vấn đề rằng trong cuộc sống
thường ngày, nhất là trong hành tŕnh Đức Tin, tôi có tin thật như thế không?
Hay cũng chỉ là “người ta bảo”. Đức Giáo Hoàng này dậy. Đức Hồng Y kia nói. Đức
Giám Mục này bảo. Linh mục kia giảng. Nhà thần học này, nhà tu đức kia, nhà chú
giải Thánh Kinh nọ viết, chứ tuyệt nhiên tôi không hề cảm, không hề nhận thức,
và không hề chứng minh xác tín ấy trong đời sống hằng ngày của tôi.
Theo Chúa lên núi Taborê để được chia sẻ vinh quang sáng láng, tuy vất vả nhưng
cũng là một điều kỳ thú. Theo Chúa trong những lúc Chúa làm phép lạ, bẻ bánh, và
được trao bánh cho những người khác, tuy có bận rộn, mệt mă nhưng cũng là một
điều hănh diện, và việc này tạo hứng khởi. Theo Chúa để vào Giêrusalem là một
đoạn đường đầy hiển hách, và hănh diện. Nhưng theo Chúa vào vườn Cây Dầu để cảm
thông được với Ngài gánh nặng của tội lỗi nhân loại. Theo Chúa vào dinh Philatô
để chứng kiến cảnh Chúa bị tra tấn dă man, kết án bất công để hiểu thế nào về
cái giá phải trả cho tội lỗi con người. Sau cùng, theo Chúa lên đồi Canvê để
chịu đóng đanh, và chết đi cho tội lỗi để cảm nhận được giá trị của Ơn Cứu Độ.
Những cái đó mới là điều mà Chúa Giêsu muốn tôi đáp lại qua câu hỏi của Ngài:
“C̣n con, con bảo Thầy là ai?”.
Do đó, chỉ khi nào tôi thâm tín và khám phá ra những người chung quanh tôi,
những biến cố xẩy ra trong đời tôi để hướng tầm nh́n về với ư nghĩa cứu độ, và
nước trời, lúc ấy tôi mới có thể nói như Phêrô đă nói: “Thầy biết tất cả. Thầy
biết con mến thầy”. Và lúc ấy câu trả lời: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa
Hằng Sống” mới thực sự là câu trả lời của tôi.
|
|