|
CHÚA NHẬT XXIII QUANH NĂM
BÀI
ĐỌC I: Is 35:4-7a
“Tai người điếc sẽ mở ra và người câm sẽ nói được”
Bài trích sách Tiên tri
Isaia.
Các ngươi hăy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can
đảm lên, đừng sợ! Nầy đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính Người sẽ
đến và cứu thoát các ngươi. Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc
sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được, v́
nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối nước sẽ chảy nơi đồng vắng. Đất khô cạn
sẽ trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở nên suối nước.
Lời của Chúa.
Đáp ca: (Xin mời Cộng
đoàn thưa)
Linh hồn tôi ơi, hăy
ngợi khen Chúa.
1.
Thiên Chúa
trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên
Chúa cứu gỡ những người tù tội.
2.
Thiên Chúa
mở mắt những kẻ đui mù, Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị kḥm lưng khuất phục,
Thiên Chúa yêu quư các bậc hiền nhân. Thiên Chúa che chở những khách kiều cư.
3.
Thiên Chúa
nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên
Chúa sẽ làm vua tới muôn đời, Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời
nầy sang đời khác.
BÀI ĐỌC II: Jac 2:1-5
“Không phải Thiên Chúa đă chọn người nghèo để hưởng nước Người đó sao?”
Bài trích thơ Thánh
Giacôbê Tông đồ.
Anh em thân mến, anh em là những người tin vào Đức
Giêsu Kitô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh em đừng thiên vị. Giả sử trong lúc anh
em hội họp, có người đi vào, tay đeo nhẫn vàng, ḿnh mặc áo sang trọng; lại cũng
có người nghèo khó đi vào, áo xống dơ bẩn, nếu anh em chăm chú nh́n người mặc áo
rực rở mà nói: “Xin mời ông ngồi chỗ danh dự nầy”. C̣n với người nghèo khó th́
anh em lại nói rằng: “C̣n anh, anh đứng đó”, hoặc: “Anh hăy ngồi dưới bệ chân
tôi”. Đó không phải là anh em xét xử thiên vị ở giữa anh em và trở nên những
quan xét đầy tà tâm đó sao? Anh em thân mến, xin hăy nghe: Không phải Thiên Chúa
chọn người nghèo trước mắt thế gian, để nhờ đức tin, họ trở nên giàu có và được
hưởng nước Người đă hứa cho những kẻ yêu mến Người đó sao?
Lời của Chúa.
(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. — Lạy Chúa, xin hăy nói, v́ tôi tớ
Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời. — Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc
7:31-37
“Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon, đến
gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng
Người và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt
ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn ngước mắt lên trời,
Người thở dài và bảo: Ephpheta, nghĩa là “hăy mở ra”, tức th́ tai anh ta mở ra,
và lưỡi anh ta được tháo gỡ và anh nói được rơ ràng. Chúa Giêsu liền cấm họ đừng
nói điều đó với ai. Nhưng Người càng cấm, th́ họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ
đầy ḷng thán phục mà rằng: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc
nghe được và người câm nói được”.
Phúc Âm của Chúa.
Suy Niệm
HĂY MỞ RA
Trần Mỹ Duyệt
Què! Đui! Hủi! Điếc! Đó
là 4 điều tệ hại ghê gớm. Và đó cũng là những đại họa cho cuộc đời một người
cũng như của chung nhân loại. Mắc vào một trong 4 chứng tật này, là bước vào một
nhà tù vô h́nh và mang trong ḿnh một bản án chung thân vĩnh viễn. Không hề mong
có ngày giảm án, hoặc phóng thích.
Xưa nay chưa hề nghe có
một lương y, một bác sĩ tài danh nào như Hoa Đà bên Trung Quốc trước đây mà có
thể làm cho một cái chân đă què hay đă cụt được mọc ra lành lặn mà người bệnh có
thể đi, đứng, chạy, hoặc nhẩy được.
Một cách tương tự, chưa
thấy vị bác sĩ nào có thể làm cho một con mắt hay hai con mắt đă mù, nhất là mù
tự bẩm sinh có thể nh́n thấy ánh sáng. Khoa học văn minh ngày nay có thể giúp ta
nối vơng mặc, ghép vơng mô, cắt mộng mắt, hoặc chỉnh lại độ cận, độ viễn do con
mắt kém v́ lăo hóa, hoặc bệnh tật. Nhưng tuyệt nhiên không ai đă có thể phục hồi
nhăn lực của một con mắt đă mù. May ra chỉ có những người dư tiền, nhiều của có
thể thay mắt của một người, hoặc mang mắt giả như một h́nh thức thẩm mỹ.
Riêng đối với chứng nan
y, cố hữu đă có ngay từ thời xa xưa là bệnh hủi th́ cho đến ngày nay khoa học
cũng đành bó tay. Những bệnh nhân này ngày ngày bị tra tấn bởi hàng triệu, triệu
những con vi trùng rúc rỉa và xoi mói tận tim gan, và xương tủy. Họ không những
đau đớn nh́n thấy từng phần thân thể ḿnh rụng xuống, mà c̣n bị bao vây và xa
cách bởi những cái nh́n lạnh nhạt, đôi khi khinh bỉ của đồng loại. Họ là những
người đang chết dần đi trong câm nín và tuyệt vọng.
C̣n những người điếc th́
sao? Đối với họ, thế giới âm thanh, thế giới của tiếng nói, và thế giới của
những lời th́ thầm yêu đương là những ǵ hoàn toàn xa lạ. Họ không hiểu người
khác và người khác cũng không mong hiểu họ. Bức tường âm thanh và ngôn ngữ là
một nhà tu vô h́nh chôn kín đời họ. Họ cô đơn và lặng lẽ. Họ nh́n người khác
cười, nói mà không hiểu.
Việt Nam ta có câu
“thanh, sắc” để ám chỉ về những hấp dẫn và thu hút của ḷng người. Nhưng đối với
những người câm, điếc, mù, ḷa những hấp dẫn ấy dường như bị chôn kín, hoặc ít
ra chỉ có trong trí tưởng tượng. Họ làm sao nghe được những lời dịu ngọt, th́
thầm “anh yêu em” hoặc “em yêu anh”. Họ làm sao có thể hạnh phúc với thế giới
muôn màu sắc của người và cảnh vật chung quanh đang diễn ra trước mắt họ. Đối
với họ, đời là một băi tha ma trống vắng, yên lặng, và là một màu đen tang chế.
Nhưng nếu con người phải
sợ hăi, kinh hoàng, than khóc và bó tay trước những căn chứng hiểm nghèo và vô
phương cứu chữa ấy, th́ Thiên Chúa lại làm được. Con người không làm được, hoặc
không vượt qua được những giới hạn ấy, nhưng “Đối với Chúa th́ không có ǵ mà
không thể làm được” (Lc 1:37).
Và đó là lư do tại sao trong Thánh Kinh ghi lại những lần Chúa Giêsu đă chữa cho
người què đi được, chỉ bằng một câu nói: “Hăy đứng dậy vác giường mà về” (Mt
9:6). Hoặc đối với người mắc chứng phong cùi, Ngài cũng chỉ bảo họ: “Ta
muốn anh lành sạch” (Mt 8:3), th́ lập tức người bệnh được lành sạch. Và hôm
nay, cũng bằng một câu nói rất đơn giản “Ephphetha” tức là hăy mở ra, Ngài lại
cho một anh điếc và câm nghe và nói được.
Theo Thánh Máccô, th́
Chúa Giêsu đă chữa cho một thanh niên câm và điếc trước sự chứng kiến và bỡ ngỡ
của nhiều người. V́ Ngài chỉ cần nói một lời “Ephphetha! Hăy mở ra!” (Mc
7:34)
là đem anh vào thế giới của âm thanh, của ngôn ngữ và của tiếng nói. Anh sung
sướng v́ từ nay sẽ cảm thông được với mọi người. Anh hạnh phúc v́ mọi người cũng
có thể cảm thông và hiểu được anh. Đúng thế, Chúa Giêsu đă dùng quyền năng ḿnh
để bảo tai và lưỡi anh là “hăy mở ra”, và lập tức chúng vâng lời.
Nhưng nếu tai và lưỡi con
người mau mắn nghe lời Thiên Chúa, th́ ngược lại, chính con người lại tỏ ra
bướng bỉnh, và bất phục tùng. Điều này thường xẩy ra cả trong đời sống tự nhiên
và siêu nhiên. Tưởng chỉ là chuyện đùa, nhưng đó là sự thật, v́ con người đă
không vâng lời Thiên Chúa bằng chính tai và lưỡi của họ. Chứng kiến phép lạ Chúa
mở tai và lưỡi người câm và điếc, dân chúng hôm đó bỡ ngỡ và sung sướng quá, và
v́ thế mặc dù Chúa đă ngăn cấm, họ vẫn cứ làm rùm beng chuyện này. Người này kể
cho người kia. Người kia kể lại cho người khác, cứ thế câu truyện được mau chóng
lan rộng, và họ không cần biết là Chúa cấm hay không cấm: “Chúa Giêsu liền
cấm họ đừng nói điều đó với ai. Nhưng Người càng cấm, th́ họ càng loan truyền
mạnh hơn”. (Mc 7: 36). Họ đă loan truyền quyền năng Thiên Chúa, đă muốn giới
thiệu việc làm của Ngài theo cảm quan và lối suy nghĩ riêng của họ.
Ta có thể bào chữa cho
những hành động ấy khi cho rằng v́ quá vui mừng, và quá thán phục việc Chúa làm
nên họ không thể tự ḱm hăm nổi mà không nói ra, v́ xưa nay đă có ai làm được
những việc phi thường như thế. Ngoài ra, có thể họ nghĩ rằng nói ra như vậy là
một lối diễn tả và bộc lộ niềm cảm khích, biết ơn và tri ân: “Họ đầy ḷng
thán phục” (Mc 7: 37).
Trong đời sống tâm linh,
những việc theo cảm t́nh, và ư riêng như thế rất tai hại, v́ nó ngược lại với
Thánh Ư của Thiên Chúa. H́nh ảnh của đám đông nô nức và ồn ào hôm ấy, khác hẳn
với h́nh ảnh của những người làm công trong tiệc cưới Cana. Tại Cana, khi Đức Mẹ
nói với những người làm công: “Ngài bảo ǵ hăy làm như vậy” (Gio 2:5), họ
chỉ âm thầm múc nước đổ đầy các chum như Chúa Giêsu đă bảo họ. Chính thái độ
vâng phục và theo ư Chúa ấy, và qua sự hợp tác của con người, Chúa Giêsu đă thực
hiện phép lạ đầu tiên là biến nước lă hóa thành rượu ngon.
“Hăy mở ra” (Mc 7:34)!
Hăy vâng lời. “Hăy làm những ǵ Ngài
bảo”, đó là yếu tố căn bản và quyết định để làm nên phép lạ. Không những ta phải
cần để cho lỗ tai và miệng lưỡi mở ra trước lời của Thiên Chúa, mà chính con
người ḿnh cũng phải làm chuyện đó. Phải mở miệng ra để ca khen t́nh yêu Chúa.
Thực tế, nhiều người nghe lời Chúa, nhưng ít kẻ hiểu và yêu mến, thực hành lời
Ngài. Bởi v́ họ đă không lắng nghe kỹ lời Ngài. Và nghe rồi th́ lại không làm
điều Ngài bảo. Kết quả là không bao giờ họ trở thành chứng nhân cho t́nh thương
ấy.
Không lắng nghe, th́ làm
sao hiểu? Và nếu không hiểu th́ làm sao yêu mến? Và nếu không yêu mến th́ sao
giữ lời Ngài, nhất là làm cho người khác cũng yêu mến và nắm giữ?!!! Thiên Chúa
đang nói với con người và mỗi người qua từng biến cố cuộc đời họ, hoặc qua muôn
kỳ công, tạo vật mà Ngài đă tạo dựng. Và Thiên Chúa cũng đang lắng nghe tâm
sự của con người. Hăy mở ra. Chỉ khi nào con người mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài
vào cuộc đời ḿnh, lúc ấy họ mới có thể để Ngài đồng hành, và lúc ấy họ mới có
thể đi bên Ngài vào mọi ngơ ngách của cuộc đời.
“Chúa có lời ban sự
sống đời đời” (Gio 6:68),
điều mà Thánh Phêrô đă tuyên xưng và được Thánh Gioan ghi
lại, hôm nay đă được Thánh Máccô ghi lại dưới một h́nh thức khác. Lời ban sự
sống đời đời ấy không những nuôi sống tâm hồn, mà c̣n chữa lành thân xác con
người. Lời Ngài là sức mạnh và là lời đầy uy lực. Nhưng cái khó ở đây, là liệu
con người có để cho Chúa hành động theo ư Ngài, và có đón nhận Thánh Ư ấy hay
không. Hay chỉ cái tai, cái lưỡi họ vâng lời Ngài, c̣n chính họ th́ lại cứ làm
theo những ǵ mà thị hiếu, cảm quan, và nhất là ư của riêng ḿnh sai khiến.
Không phải chúng ta tự ḿnh nghe được lời
Chúa
mà là chính Lời Chúa làm cho chúng ta nghe được Lời Người
Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIII Thường Niên Năm B tuần này tŕnh thuật việc Chúa
chữa lành cho một người câm điếc ở miền Thập Thành. Nếu chủ đề của Mùa Thường
Niên Hậu Phục Sinh là Mầu Nhiệm Chúa Kitô Sự Sống Tái Sinh th́ phép lạ chữa lành
câm điếc của Chúa Giêsu có liên hệ như thế nào? Trước hết, chúng ta chẳng những
cần phải nhớ lại ư nghĩa của bệnh hoạn tật nguyền với tội lỗi, sau đó phải c̣n
để ư tới tiến tŕnh và cách thức chữa lành của Chúa Giêsu nữa.
Về ư nghĩa của bệnh nạn tật nguyền liên quan đến tội lỗi, chúng ta vẫn được Giáo
Lư dạy cho biết đau khổ và sự chết nơi thân xác là hậu quả của tội lỗi, của
nguyên tội. Tuy nhiên, bệnh nạn tật nguyền, t́nh trạng bất toàn về sự sống thể
lư và không toàn vẹn của thân xác con người, chẳng những là thực tại của đau khổ
và là hiện thân của sự chết thể lư, mà c̣n là tiêu biểu cho tội lỗi nữa. Thật
thế, những thứ tật nguyền như mù ḷa, câm điếc, bất toại, kể cả chính t́nh trạng
tột cùng tối hậu của đau khổ là chết chóc, thậm chí cả t́nh trạng bị quỉ ám,
cũng đều nói lên ư nghĩa và tác dụng của tội lỗi nơi con người.
Con người tội lỗi không phải là con người mù ḷa hay sao, và tội lỗi không làm
cho con người càng bị mù ḷa hay sao? Đó là lư do Chúa Giêsu đă nói với viên
chức trong Hội Đồng Do Thái là ông Nicôđêmô rằng: “Con người chuộng tối tăm hơn
ánh sáng, v́ các việc họ làm đều gian ác. Ai làm điều gian ác th́ ghét ánh sáng;
họ không đến gần ánh sáng v́ sợ các việc làm của họ bị bại lộ” (Jn 3:19-20).
Trong trường hợp chữa lành cho một người mù từ lúc mới sinh, sau khi nghe Chúa
Giêsu khẳng định: “Tôi đến thế gian để phân rẽ thế gian, để làm cho kẻ mù được
thấy c̣n kẻ thấy bị mù”, các người Pharisiêu nói với Người rằng: “Thế th́ ông
cho chúng tôi toàn là những kẻ mù hay sao?”, nên đă được Người xác nhận: “Nếu
quí vị mù th́ quí vị vô tội, đằng này quí vị nói ‘chúng tôi thấy’ nên tội của
quí vị vẫn c̣n đó” (Jn 9:39-41). Nguyên tội chính là tác động mù ḷa đầu tiên
của con người, ở chỗ, con người đă bỏ Đấng Tạo Hóa của ḿnh để đi nghe theo tên
cám dỗ bùi tai, và sau khi đă phản bội Chúa là Thiên Chúa của ḿnh rồi, con
người đă đâm ra mù quáng, không biết giơ tay hái cây trường sinh cũng được Thiên
Chúa trồng ở giữa vườn cùng với cây biết lành biết dữ (x Gen 2:9) mà ăn để tự
giải độc gây ra bởi trái cấm oan nghiệt, lại cuống lên sau khi mở mắt ra thấy
ḿnh trần truồng liền ẩn trốn và đổ thừa cho nhau (x Gen 3:7,12-13).
Con người tội lỗi không phải là con người câm điếc hay sao, và tội lỗi không làm
cho con người càng trở thành câm điếc hay sao? Thật ra, ngay từ ban đầu con
người không phải là thành phần câm điếc bẩm sinh, v́ ngay sau khi nghe tên cám
dỗ xui dại, miệng con người c̣n nhắc lại những ǵ tai họ đă nghe thấy chính Chúa
là Thiên Chúa của ḿnh dặn bảo (x Gen 3:2-3), những ǵ đă được Ngài in ấn hay
ghi khắc sâu xa trong lương tâm làm người của họ. Và sau khi con người đă sa ngă
phạm cái tội đầu tiên được gọi là nguyên tội ấy, con người vẫn c̣n nghe thấy
tiếng Chúa di động trong vườn địa đường như tiếng lương tâm ray rứt, và đă trả
lời những vấn đề được Ngài đặt ra (x Gen 3:8-13). Thế nhưng, việc nghe được
tiếng Chúa mà c̣n phạm tội không phải là dấu chứng tỏ con người chủ động muốn
trở thành câm điếc hay sao, ở chỗ họ đă muốn bịt tai trước tiếng nói của lương
tâm để có thể âm thầm làm theo ư riêng của ḿnh? Ngày nay con người đă đến bậc
câm điếc rối loạn, đến nỗi chẳng những không nghe được tiếng lương tâm, ở chỗ đă
mất ư thức tội lỗi, nhưng lại nghe được những tiếng quái gở khác, được thể hiện
điển h́nh qua các việc họ cho phép hôn nhân đồng tính và tạo sinh ngoại nhiên.
Con người tội lỗi không phải là con người bất toại hay sao, và tội lỗi không làm
cho con người càng trở thành bất toại hay sao? Thật vậy, ngay từ ban đầu, con
người đă tỏ ra bất lực trước những ǵ ḿnh biết là tốt, là sự sống mà không làm
theo, không làm nổi, trái lại, làm theo những ǵ sai trái, những ǵ mang lại
chết chóc cho ḿnh. Hậu quả ngay sau nguyên tội là con người đă không có đủ can
đảm để nhận sự thật, lại đi đổ lỗi cho nhau. Nghĩa là, cho dù có thể làm được (theo
quyền năng tự do) những ǵ không được làm (vô luân và tội lỗi) nhưng con người
thật sự bị bất toại trước sự lành và hoàn toàn trở thành bất toại trước sự thật.
Bởi đó, tự do không phải là muốn làm ǵ th́ làm, mà là làm những ǵ hợp với sự
thật để có thể đạt được sự thiện, tức làm những ǵ khiến con người nên hoàn
thiện hơn, đạt được cùng đích chân thật của ḿnh, bằng không, nó sẽ làm cho con
người trở thành một thứ nô lệ phục vụ đam mê nhục dục, làm tay sai của sự dữ,
làm hiện thân của tử thần. Một con người nghiện ngập không thể chừa bỏ không
phải là một kẻ bất toại hay sao?
Con người tội lỗi không phải là con người bị chết chóc hay sao, và tội lỗi không
làm cho con người càng bị chết chóc hay sao? Đúng thế, tội lỗi được thể hiện rơ
nhất nơi t́nh trạng chết chóc của thân xác. Nếu chết là trường hợp linh hồn ĺa
xác, hay xác trở thành vô hồn, th́ một khi con người phạm tội là con người không
c̣n được Thiên Chúa hằng hữu ở với họ nữa, nghĩa là một khi Thiên Chúa là nguyên
lư hiện hữu của con người và nơi con người không c̣n ở với họ nữa th́ toàn thể
hữu thể của họ trở thành như một cái xác vô hồn, mang đầy những tính chất chết
chóc, cho tới ngày họ thực sự là bụi đất trở về với đất bụi (x Gen 3:19). Thực
tế cho thấy, sau nguyên tội, thậm chí kể cả sau khi lănh nhận Bí Tích Rửa Tội
tái sinh, con người vẫn c̣n ở trong tội lỗi, vẫn mang trong ḿnh những dấu vết
của tội lỗi, mầm mống của tội lỗi, vẫn đầy những tính mê nết xấu trong tâm hồn,
và vẫn phải chịu đau khổ rồi chết đi nơi thân xác. Nếu chết là t́nh trạng phân
ly giữa hồn và xác th́ cuộc sống con người là một cái chết liên lỉ về tâm linh,
ở chỗ, như Thánh Phaolô cảm nghiệm những ǵ tôi muốn th́ tôi không làm, c̣n cái
ǵ tôi ghét th́ tôi lại làm (x Rm 7:15), tôi không làm điều lành tôi muốn làm mà
là điều xấu tôi không muốn làm (x Rm 7:19). Nếu hiện tượng lạnh ngắt, cứng đơ và
nặng trịch nơi thi thể của người chết là dấu hiệu cho thấy sự sống không c̣n nơi
họ thế nào, th́ con người c̣n sống động nơi thân xác đây thật sự cũng mang trong
ḿnh những tính chất hay dấu vết của sự chết thiêng liêng như vậy. Dấu vết chết
chóc về tâm linh thứ nhất nơi con người đó là tâm hồn con người “lạnh ngắt” và
dửng dưng trước t́nh trạng cùng khổ của tha nhân, kể cả người thân yêu nhất của
ḿnh; việc các cường quốc thực hiện mưu đồ tân thực dân đối với các nhược quốc
trong thế giới ngày nay, cùng với trào lưu ly dị và phá thai hiện tại không phải
là hiện tượng lạnh ngắt ḷng người hay sao? Dấu vết chết chóc về tâm linh thứ
hai nơi con người đó là phản ứng của con người “cứng đơ” trước tiếng lương tâm,
ở chỗ họ không thể đáp lại sự thật tối cao và sự thiện chân chính là những ǵ
làm cho họ hoàn toàn sống tự do và hạnh phúc trường sinh vinh phúc. Dấu vết chết
chóc về tâm linh thứ ba nơi con người đó là hành động của con người “nặng trịch”
trước việc làm lành lánh dữ.
Con người tội lỗi không phải là con người bị quỉ ám hay sao, và tội lỗi không
làm cho con người càng trở thành ô uế hay sao? Sự kiện hay hiện tượng con người
bị quỉ ám là dấu chứng tỏ rơ ràng nhất cho thấy con người không c̣n sự sống thần
linh là Thiên Chúa ở nơi bản thân họ. Con người của họ đă bị thần dữ chiếm đoạt
và làm chủ, xui khiến họ làm những ǵ bất xứng với phẩm giá của họ, và họ trở
thành dụng cụ, thành tay sai hay thừa sai gieo rắn “văn hóa sự chết” cho hắn.
Ngoài trường hợp bị quỉ ám thực sự, b́nh thường con người c̣n bị các thứ thần ô
uế ám nữa. Đó là các thứ đam mê nhục dục, tính mê nết xấu nơi họ, nhất là các
thứ ngẫu tượng do họ tạo ra, như đă được đề cập đến trong bài chia sẻ tuần trước
về “bảy thần ô uế khác”. Trường hợp bị quỉ ám hay các thứ thần ô uế ám là trường
hợp con người c̣n bị chi phối và điều khiển bởi “quyền thống trị của tối tăm”
(Col 1:13), “quyền lực sự chết” (Heb 2:14), “quyền lực tội lỗi” (Rm 3:9), “quyền
lực của tên gian ác” (1Jn 5:19).
Tóm lại, việc trừ thần ô uế, hồi sinh kẻ chết và việc chữa lành các thứ tật
nguyền bệnh hoạn, như việc chữa lành cho một người câm điếc trong bài Phúc Âm
tuần này, chúng ta thấy Chúa Giêsu, đúng như lời Thánh Gioan xác tín: “Con Thiên
Chúa tỏ ḿnh ra là để phá hủy các việc làm của ma quỉ” (1Jn 3:8), tức là Người
đến để cứu con người khỏi tội lỗi và sự chết, đúng hơn Người đến là để tái sinh
con người “bởi trên cao” (Jn 3:3), “bởi nước và Thần Linh” (Jn 3:5), nhất là
bằng Cuộc Vượt Qua của Người, ở chỗ Người chết đi để tiêu diệt sự chết và sống
lại để phục hồi sự sống. Như thế, nơi mỗi phép lạ, cách riêng phép lạ chữa lành,
đều có hai phần, phần Chúa tỏ ḿnh ra và phần con người nhận biết, chẳng khác ǵ
như việc ánh sáng chiếu trong tăm tối và xua tan tối tăm vậy. Nếu con người,
nhất là thành phần nạn nhân của tật nguyền bệnh hoạn, như người câm điếc trong
bài Phúc Âm tuần này, nhờ thân xác họ được chữa lành mà tâm linh họ nhận biết
“Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc tôi” (Lk 1:47), th́ không phải là họ được Lời Nhập
Thể là Chúa Kitô tái sinh hay sao? V́ “sự sống đời đời” chính là ở chỗ nhận biết
Chúa là Thiên Chúa của ḿnh (Jn 17:3), là trở về với nguyên lư hiện hữu tối cao
của ḿnh.
Chưa hết, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, chúng ta c̣n thấy cách thức Chúa
Giêsu chữa lành ngươiụi câm điếc nữa. Vẫn biết, với quyền năng vô hạn của ḿnh,
Chúa Kitô có thể chữa lành bằng bất cứ cách nào dễ nhất và nhàn nhất, chẳng hạn
phán một lời “Ephrata”, “hăy mở ra” cũng đủ, đằng này, trước khi phán lời quyết
liệt đó, Người c̣n phải dẫn anh ta ra khỏi đám đông, rồi đặt các ngón tay vào lỗ
tai của anh ta và bôi nước bọt lên miệng anh ta nữa mới được. Nếu từng tác động
Chúa Giêsu làm đều không phải là vô nghĩa th́ những tác động Người chữa lành câm
điếc cho nạn nhân của bài Phúc Âm Chúa Nhật này cũng phải có một ư nghĩa nào đó?
Trước hết, Chúa Giêsu không chữa lành câm trước mà là điếc trước. Bởi v́, b́nh
thường người bị điếc bẩm sinh sẽ là người cũng bị câm luôn, v́ một khi bộ phận
tiếp nhận âm thanh của họ là đôi tai bị hỏng th́ bộ phận phát thanh của họ là
miệng lưỡi của họ cũng bị tịt luôn. Đó là lư do Chúa Giêsu đă chữa thính giác
của nạn nhân đă rồi mới tới khả năng phát ngôn của anh ta. Phúc Âm đă ghi lại rơ
ràng thứ tự này như sau: “Tức th́ tai anh ta mở ra… và bắt đầu nói năng b́nh
thường”. Ở đây chúng ta thấy rằng cần phải nhận được mạc khải đă mới có thể loan
truyền mạc khải. Chắc hẳn người câm điếc được chữa lành này không hề nghe thấy
lời Chúa Giêsu phán “hăy mở ra”, nhưng chính quyền năng của lời này đă làm cho
tai anh ta mở ra và nghe thấy. Ở đây chúng ta c̣n thấy một điều quan trọng khác
nữa, đó là không phải chúng ta tự ḿnh nghe được lời Chúa mà là chính Lời Chúa
làm cho chúng ta nghe được Lời Người.
Sau nữa, ba cử chỉ Chúa Giêsu làm nơi nạn nhân trước khi Người phán lời “hăy mở
ra” mang ư nghĩa ǵ, nếu không phải đều là những ǵ cần thiết để nạn nhân có thể
được chữa lành sau lời truyền phán “hăy mở ra” của Người. Tự Người không cần
phải làm thêm ba cử chỉ này, nhưng sở dĩ Người làm như thế là v́ để sửa soạn cho
nạn nhân câm điếc, thành phần cần hội đủ ba điều thiết yếu ấy để có thể nghe
thấy và nói được. Tu đức đă cho thấy rơ ba tác động cần thiết đối với một tâm
hồn vốn bị câm điếc trước mạc khải thần linh, ba tác động có thể giúp họ chẳng
những nghe được tiếng Chúa mà c̣n đáp ứng lời Chúa là ở chỗ, họ cần phải sống
yên tĩnh, xa lánh t́nh trạng ồn ào của thế gian, để nhờ đó chuyên chú lắng nghe
Chúa nói qua những ǵ Người đă dùng ngón tay của Người ghi khắc trong ḷng họ (x
Rm 2:15), và sau đó sẵn sàng loan truyền những ǵ (như nước miếng chẳng hạn)
“phát ra từ miệng Thiên Chúa” (Mt 4:4).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL |
|