IV- Cấp Trật T.C. muốn Mạc Khải

 

Xác Tín 8

 

Tất cả mọi tạo vật nhận được mạc khải của Thiên Chúa nơi Lời nhập thể.

 

Mạc Khải

 

"Ánh sáng chiếu trong tăm tối, một thứ tối tăm đã không thắng được ánh sáng" (Jn.1:5).

 

Nhận Thức

 

Theo mạc khải của Thánh Kinh Tân Ước, "Thiên Chúa là ánh sáng, trong Ngài không có tối tăm" (1Jn.1:5). Do đó, việc Thiên Chúa mạc khải thì cũng chẳng khác gì như việc "ánh sáng chiếu trong tăm tối".

 

"Tăm tối" được "Thiên Chúa là ánh sáng" chiếu soi đây là gì, nếu không phải, tuyệt đỉnh của nó, là hình ảnh biểu hiệu cho sự chết, "một thứ tối tăm không thắng được ánh sáng" và sẽ biến tan khi ánh sáng chiếu tới, một thứ tối tăm của "tất cả mọi tạo vật" không phải là Thiên Chúa, một thứ tối tăm tiềm ẩn ở nơi bản chất của tất cả những gì không phải là "ánh sáng thật" (Jn.1:9). Bởi thế, dù theo bản tính tự nhiên có "tốt lành" mấy đi nữa, chúng cũng cần phải được "Thiên Chúa là ánh sáng" chiếu soi cho thì mới biết được thân phận đích thực của mình trước nhan Ngài, như Ngài đã "gọi" hay đã "thấy" nó trong ý định tạo dựng của Ngài (xem trang 83), nhờ đó, chúng mới được kiện toàn bằng sự sống thần linh, một "sự sống là ánh sáng soi con người".

 

Thế nhưng, nếu "tất cả mọi sự nhờ Người (Lời) mà được hiện hữu" (Jn.1:3) thì chúng cũng sẽ không thể nào "có sự sống" (Jn.1:4) mà không "hiện hữu trong Người (Lời)" (Jn.1:4). Bởi vì, theo Thánh Kinh Tân Ước:

"Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống này ở nơi Con Ngài. Ai có Con là có sự sống' ai không có Con Thiên Chúa cũng không có sự sống" (1Jn.5:11-12)

 

1-         Thiên Thần Lãnh Nhận Mạc Khải của Thiên Chúa nơi Lời Nhập Thể

 

Theo nhận thứ 3, trang 74, về hệ luận thứ nhất, thì Thiên Thần là "ánh sáng" được Thiên Chúa dựng nên trong ngày tạo dựng thứ nhất. Tuy nhiên, theo hệ luận thứ hai, cũng trang 74, Thiên Thần, đối với "những sự hữu hình", tuy cũng vô hình giống như Thiên Chúa, nhưng không tự mình mà có, nên các vị cũng không phải là Thiên Chúa.

 

Do đó, bản chất là "ánh sáng" thiêng liêng của các thiên thần chỉ nói lên tính chất là kiến thức siêu nhiên nơi các vị để các vị có khả năng nhận biết "Thiên Chúa vô hình" mà thôi, chứ không phải bản chất là "ánh sáng" này của các vị cũng là "ánh sáng" như "Thiên Chúa là ánh sáng".

 

Thật vậy, "ánh sáng" nơi Thiên Chúa đây không phải là "ánh sáng" nơi các Thiên Thần, bởi vì "ánh sáng" nơi Thiên Chúa này biểu hiệu cho "Thiên Chúa là Thần Linh" (Jn.4:24) và là phản ảnh của sự sống thần linh nơi Thiên Chúa, "một sự sống sáng soi con người" (Jn.1:4).

 

Chính vì "Thiên Chúa là Thần Linh" mà Thiên Chúa mới có thể thấu nhập "tất cả mọi tạo vật", tức mới có thể hiện diện ở khắp mọi nơi, trong "tất cả mọi tạo vật", đồng thời mới có thể "thấy những gì kín ẩn" (Mt.6:4,18), nhất là mới có thể thông mình cho tạo vật của mình, ở trong tạo vật của mình bằng ân sủng và nên một với tạo vật của mình trong sự sống thần linh. Trong khi đó, theo bản chất của mình so với "những sự hữu hình", Thiên Thần có là "ánh sáng" đi nữa cũng không thể nào tỏ ra mình có thể giống "Thiên Chúa là Thần Linh" như vậy.

 

Theo mạc khải từ Thánh Kinh Tân Ước, các Thiên Thần là thành phần thuộc về "những sự vô hình", thành phần gồm có "các thiên tòa hay là các thiên chủ, các thiên phủ hay là các thiên năng". Thành phần thuộc về "những sự vô hình" mang thiên hiệu "thiên tòa hay thiên chủ, thiên phủ hay thiên năng" này đã được Sách Khải Huyền mô tả rõ ràng.

 

"Các thiên tòa" là các thiên thần có nhiệm vụ luôn luôn trực tiếp chầu chực Thiên Chúa: "đứng chung quanh ngai... để thờ lạy Thiên Chúa" (Rev.7:11).

 

"Các thiên chủ" là các thiên thần nắm quyền cai quản những gì Thiên Chúa trao phó, như "những thiên thần đứng ở bốn góc trái đất: các vị cầm giữ bốn hướng gió trái đất để cho không có một hướng gió nào thổi trên đất hay biển hoặc qua cây cối... Những thiên thần được ban cho quyền hành tàn phá đất đai và biển khơi" (Rev. 7:1-2). 

 

"Các thiên phủ" là các thiên thần truyền khiến những gì Thiên Chúa muốn thực hiện, như "thiên thần từ phía đông đến cầm ấn tín của Thiên Chúa hằng sống. Ngài kêu cả tiếng cho bốn thiên thần được ban cho quyền hành tàn phá đất đai và biển khơi"" (Rev.7:2), hay như "một thiên thần khác xuất hiện cầm một hương án bằng vàng. Ngài đến đứng vào chỗ của mình tại bàn thờ hương và được đưa cho một số lớn hương để bỏ trên bàn thờ hương trước ngai, cùng với các kinh nguyện của tất cả mọi vị thánh Thiên Chúa" (Rev.8:3), hoặc như "thiên thần đặt chân phải trên biển và chân trái trên đất và vang lên một tiếng lớn như tiếng rống của sư tử" (Rev.10:2-3), hay như các thiên thần trong đoạn 14 của Sách Khải Huyền.

 

"Các thiên năng" là các thiên thần thi hành ý định của Thiên Chúa, như "bảy thiên thần được trao cho bẩy chiếc kèn ... sửa sọan thổi lên" (Rev.8:2,6' xem 8:7-12'9:1-21'11:15-19), hay "bảy thiên thần (được truyền): 'Hãy đi mà đổ xuống trái đất bảy bình thịnh nộ của Thiên Chúa" (Rev. 16:1).

 

Thế nhưng, theo Sách Khởi Nguyên, chính trong ngày tạo dựng thứ nhất, Thiên Chúa chẳng những dựng nên "những sự vô hình" là các đẳng thiên thần này, Ngài còn tỏ mình ra, tức mạc khải, cho các vị nữa.

Việc Thiên Chúa muốn tỏ mình cho thành phần thuộc về "những sự vô hình" là "ánh sáng" trong ngày tạo dựng thứ nhất này đã nói lên ý định của Ngài trong việc tạo dựng nên "tất cả mọi tạo vật" là để tỏ mình ra cho chúng.

 

Bởi vì, "ánh sáng" nơi "những sự vô hình" đây là gì, nếu không phải là hình ảnh biểu hiệu cho kiến thức siêu nhiên để nhận biết Thiên Chúa vô hình, Đấng Tạo Hóa Tối Cao Chí Thánh của mình, Đấng muốn mạc khải cho mình.

 

Do đó, "ánh sáng" là các thiên thần vô hình đây cũng phải được "ánh sáng thật" (Jn.1:9) là Lời nhập thể chiếu soi nữa mới thực sự phản chiếu "Thiên Chúa là ánh sáng", bằng không, dù tự bản chất có là "ánh sáng" chăng nữa, trước nhan "Thiên Chúa là ánh sáng", "những sự vô hình" đó cũng chỉ là "bóng tối".

 

Đứng thế, theo mạc khải được ghi nhận trong Sách Khởi Nguyên, chính trong ngày tạo dựng thứ nhất, "Thiên Chúa đã phân ánh sáng ra khỏi tối tăm" (Gen.1:4).

 

"Ánh sáng" và "bóng tối" sau khi được Thiên Chúa phân loại trong chính ngày Ngài dựng nên "ánh sáng" đây phải là biểu hiệu cho thần lành (là ánh sáng) và thần dữ (là tối tăm). Do đó, việc "Thiên Chúa đã phân ánh sáng ra khỏi tối tăm" đây chính là việc Thiên Chúa tỏ mình Ngài ra cho thành phần mà Ngài đã tạo dựng nên như là "ánh sáng".

 

Thế nhưng, Thiên Chúa chỉ tỏ mình Ngài ra cho thành phần là "ánh sáng" trong ngày tạo dựng thứ nhất bằng chính "ánh sáng thật" là Lời nhập thể mà thôi. Tức "Thiên Chúa là ánh sáng" tỏ cho các thiên thần biết ý định nhập thể của Ngài, như được Sách Khải Huyền tiết lộ.

"Bà sinh hạ một người con - một người con trai được định liệu để chăn dắt tất cả mọi dân nước bằng chiếc gậy sắt. Con bà được đưa lên cùng Thiên Chúa và lên ngai của mình" (Rev.12:5).

 

Phải, "người con trai" này không ai khác hơn chính là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Jn.1:14), Đấng mà, theo Sách Khải Huyền cho thấy: "con rồng đứng trước người nữ sắp sinh con, chực chờ để nuốt đi con của bà khi người con được hạ sinh" (Rev.12:4).

 

Việc "đứng trước người nữ sắp sinh con, chực chờ để nuốt đi con của bà" của con rồng này chính là thái độ con rồng tỏ ra chống đối ý định nhập thể của Thiên Chúa (xin xem thêm chương 9 về "Con Khổng Long", nhất là trang 132-133, cuốn "Hận Thù Quyết Thắng", Cao-Bùi, 1996). Và cũng bởi không chấp nhận "ánh sáng thật" là Lời nhập thể này, con rồng cùng với "một phần ba tinh tú" (Rev.12:4) đã trở thành "tối tăm" khi "con khổng long cùng với các bộ hạ của hắn bị hất nhào xuống đất" (Rev.12:9).

 

Nếu con rồng và một phần ba tinh tú bị loại trở thành thần "tối tăm" mà "Thiên Chúa gọi là đêm" (Gen.1:5) như thế, thì phần tinh tú còn lại là thành phần "ánh sáng" mà "Thiên Chúa gọi là ngày" (Gen.1:5) đây chính là "Micae và các thần của ngài chống lại con rồng" (Rev.12:7).

 

Việc "Micae và các thần của ngài chống lại con rồng" đây đã nói lên việc các vị không đồng ý với thái độ phản Kitô của các thần dữ, trái lại, các vị tỏ ra hoàn toàn chấp nhận mạc khải của Thiên Chúa, chấp nhận ý định nhập thể của Ngài. Bởi thế, khi Lời nhập thể, "các thiên thần của Thiên Chúa lên xuống trên Con Người" (Jn.1:51) như sau.

 

Trước khi Lời nhập thể, Tổng Thần Ga-Biên đã đến báo tin vị tiền hô của Người là thánh Gioan Tẩy Giả sinh ra cho thân phụ của thánh nhân là tư tế Giacaria biết (x.Lk.1:19), nhất là việc vị tổng thần này đã đến truyền tin Lời nhập thể cho Trinh Nữ Maria (x.Lk.1:26-38).

 

Khi Lời nhập thể vừa giáng sinh, có thiên thần từ trời xuống báo tin cho các mục đồng biết, sau đó có vô số các cơ ngũ trên trời xuất hiện hát vang lên chúc tụng vinh danh cho Thiên Chúa và chúc mừng bình an cho thế nhân (x.Lk.2:8-14).

 

Khi Lời nhập thể còn là một hài nhi và còn trong thời thơ ấu, thiên thần hiện ra với thánh Giuse là cha nuôi của Người để giục ngài đem Người sang Ai Cập, rồi sau đó lại mang Người trở về đất Yến-Duyên (x.Mt.2:13,19).

 

Khi Lời nhập thể sửa soạn nhập thế cũng như sắp sửa xuất thế, chẳng hạn như sau khi Người ăn chay và chịu cám dỗ, thiên thần đến để phục vụ Người (x.Mt.4:11), cũng như khi Người đau buồn đến nỗi chết trong vườn cầu nguyện trước cuộc tử nạn của Người, thiên thần cũng hiện ra để trấn an Người (x.Lk.22:43) .

 

Sau khi Lời nhập thể phục sinh, thiên thần cũng đã hiện ra với các phụ nữ đến thăm mộ để báo tin "Người không còn đây" (Mt.28:2,5' x.Lk.24:4-8) và thúc giục các bà đi báo tin cho các môn đệ của Người (x.Mt.28:7).

Lúc Lời nhập thể phục sinh lên trời, hai thiên thần cũng hiện ra với các môn đệ đang ngước mắt nhìn theo Người mà báo tin Người sẽ lại đến như các vị vừa thấy Người lên trời (x.Acts 1:10-11).

 

Lúc Lời nhập thể từ trời lại xuống để phán xét thế gian sẽ có "tất cả mọi thần trời theo hầu cận Người" (Mt.25:31), thành phần "các thợ gặt" (Mt.13:39) cuối mùa cứu độ, đồng thời cũng là thành phần thi hành bản án tử đời đời đối với những ai bị Lời nhập thể xua đuổi (x.Mt.13:41-42' Mt.25:41,46).

 

2-         Loài người lãnh nhận Mạc Khải của Thiên Chúa nơi Lời Nhập Thể

 

Chính vì Thiên Chúa, nói theo ngôn ngữ loài người sống trong thời gian, đã có ý định nhập thể, như Ngài tỏ ra cho các thiên thần là "những sự vô hình" biết trong ngày tạo dựng thứ nhất (xem trang 89-90), nên khi tạo thành con người, "Thiên Chúa đã dựng nên con người theo hình ảnh Ngài" (Gen.1:27' xem diễn giải trong cuốn "Mái Ấm Yêu Thương", Cao-Bùi 1994, trang 58-63).

 

Thế mà, Thánh Kinh Tân Ước lại cho biết Chúa Kitô "là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình" (Col.1:15). Bởi thế, "con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa" (Gen.9:6), tức là con người được dựng nên giống Chúa Kitô.

 

Mà Chúa Kitô "là hình ảnh Thiên Chúa vô hình" này chính là Lời nhập thể, tức một Ngôi Vị có hai bản tính, Thiên Tính và nhân tính, để nơi Chúa Kitô, Thiên Tính, nhờ nhân tính và qua nhân tính của Người, có thể tỏ mình và thông mình ra cho "tất cả mọi sự nhờ Người mà có" (Jn.1:3), đồng thời cũng nhờ và qua nhân tính của mình, Chúa Kitô có thể gắn bó với thành phần thuộc về Người là Giáo Hội để làm nên một thân thể.

 

Vậy con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, tức được dựng nên giống như Chúa Kitô, hay được Thiên Chúa dựng nên có hai phần, phần linh tính (linh hồn) và phần thể tính (thân xác) để làm nên một nhân vị, và qua thân xác cũng như nhờ thân xác của mình, con người có thể diễn đạt bản thân của mình, đồng thời có thể gắn bó với những gì thuộc về mình để làm nên một thân thể.

 

Không phải hay sao, trong "những sự hữu hình", con người là loài duy nhất mặc lấy một bản tính được cấu tạo bởi xác chất (được tiêu biểu nơi hình ảnh "đất sét") và hồn thiêng (được biểu hiệu qua hơi thở của Thiên Chúa), đúng như mạc khải đã được Thánh Kinh Cựu Ước ghi nhận nơi Sách Khởi Nguyên:

"Chúa là Thiên Chúa hình thành con người từ đất sét, rồi Ngài thổi vào mũi con người hơi thở sự sống, nhờ đó, con người đã trở nên một hữu thể sống động" (Gen.2:7)

 

Cũng qua thân xác và nhờ thân xác của mình, con người đã có thể gắn bó với những gì thuộc về mình  (xương thịt = Evà) để làm nên một thân thể, như Sách Khởi Nguyên đã ghi nhận những gì đã được mạc khải như sau:

"Khi Chúa là Thiên Chúa mang người nữ đến cho con người, con người đã nói: 'Đây mới là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi'... Đó là lý do tại sao nam nhân lìa bỏ cha mẹ mình mà nên một với vợ mình, và cả hai trở nên một thân thể" (Gen.2:22-24).

 

Thật ra, trên thực tế và theo thể lý, con người không thể nào có thể "trở nên một thân thể", qua tác động vợ chồng trong đời sống hôn nhân được. Cho dù khoa học và kỹ thuật siêu tân tiến ngày nay có thể thay tim, thay thận, hay thay được ngay cả đầu người đi nữa, hoặc có thể đổi phái tính bằng việc cắt ghép bộ phận sinh dục đi nữa, thì khả năng hạn hẹp của con người cũng không thể nào làm cho con người "trở nên một thân thể", tức là ráp nối, (như kiểu ráp nối các bộ phận điện tử lại với nhau để trở thành một bộ máy), hai cá thể lại thành một "con người". 

 

Do đó, thực tại "trở nên một thân thể" mà con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, tức được dựng nên giống như Chúa Kitô đây, như Thánh Kinh Tân Ước nhận định, "Đó là một mầu nhiệm cao cả ám chỉ Chúa Kitô và Giáo Hội" (Eph.5:32). Như thế, ngay từ ban đầu, mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội đã được Thiên Chúa kín nhiệm mạc khải nơi việc Ngài dựng nên "con người có nam có nữ" (Gen.1:27).

 

Thật ra, trước khi con người "trở nên một thân thể" thì con người đã là mình, tức đã là một thân thể, hay còn là độc thân. Tuy nhiên để có thể phản ảnh "mầu nhiệm cao cả ám chỉ Chúa Kitô và Giáo Hội" như Thiên Chúa muốn, qua việc Ngài dựng nên con người theo hình ảnh Ngài giống như Chúa Kitô, Lời nhập thể, mà tình trạng "con người ở một mình không tốt" (Gen.2:18), cần phải có "một đồng bạn tương xứng với mình" (Gen.2:18), hơn là muông thú mà con người thấu suốt đã đặt tên cho (x.Gen.2:19-20).

Như thế, "trở nên một thân thể" là việc con người nhận diện chính mình trước nhan Thiên Chúa tạo thành, đúng như Ngài "thấy" con người trong tình trạng công chính nguyên thủy, tức là lúc con người "cả hai còn trần truồng mà không biết xấu hổ" (Gen.2:25).

 

Thật vậy, khi con người "cả hai còn trần truồng mà không biết xấu hổ" là lúc con người vẫn còn là một thân thể, vẫn còn là chính mình, có thể nói, về mặt tâm thần, con người bấy giờ vẫn còn đang "giống như các thần trời" (Mt.22:30), sống hồn nhiên "như những trẻ nhỏ" (Mt.18:3) trước Thánh Nhan Thiên Chúa.

 

Con người chỉ ra khỏi tình trạng công chính nguyên thủy là một thân thể và nên một thân thể này khi con người muốn trở thành người lớn, lớn "như Thiên Chúa" (Gen.3:5), bằng việc tự động làm theo ý riêng của mình.

 

Và con người đã thực sự ra khỏi tình trạng công chính nguyên thủy khi "mắt của cả hai mở ra nhận thấy mình trần truồng rồi họ đan lá vả lại làm quần áo che thân" (Gen.3:7), tức là lúc con người cả hai bắt đầu phân biệt phái tính của mình, xấu hổ che dấu đi không để cho nhau thấy những gì là riêng tư của mình, và bắt đầu tỏ ra thái độ chia rẽ nhau qua việc đổ lỗi cho nhau: chồng đổ cho vợ, và vợ đổ cho ngoại cảnh (x.Gen.3:12-13).

 

Thế nhưng, chính lúc con người "là một hữu thể sống động" (Gen.2:7) bị chết đi, qua tình trạng chia rẽ ngay nơi bản thân mình cũng như với ngoại vật như thế, mà con người được Thiên Chúa mạc khải cho thấy Đấng mà con người được dựng nên giống như Người là Lời nhập thể, qua hình ảnh nhân vật là miêu duệ của người nữ trong bản án nguyên tội:

"Ta sẽ gây mối thù giữa ngươi và người nữ, giữa giòng dõi ngươi và giòng dõi người nữ, Người sẽ đạp nát đầu ngươi trong lúc ngươi rình cắn gót chân Người" (Gen.3:15).

 

Ở đây một vấn đề được nẩy ra là tại sao cả thiên thần lẫn loài người đều sa ngã vấp phạm, mà Thiên Chúa lại tỏ ý muốn cứu loài người mà không có ý cứu các thần dữ. Để giải đáp cho vấn nạn này, cần xét đến bản tính của đối tượng được Thiên Chúa mạc khải, tính chất của chính việc mạc khải và tác dụng của việc mạc khải.

 

Trước hết, Thiên Chúa chỉ cứu loài người mà không cứu các thần dữ sau khi sa ngã là vì tự bản tính của mình, thiên thần là "ánh sáng", tức là một biểu hiệu cho kiến thức siêu nhiên để nhận biết Thiên Chúa nơi bản tính thiêng liêng vô hình của các ngài, song khi được Thiên Chúa tỏ mình ra cho lại không chấp nhận Ngài, tức một số trong các thiên thần đã phản khắc với chính mình là "ánh sáng", nên thành phần ánh sáng phản khắc này đã vĩnh viễn trở thành tối tăm  trước "ánh sáng thật" (Jn.1:9).

 

Phần bản tính của con người được Thiên Chúa dựng nên để làm cơ sở tỏ mình Ngài ra cho "tất cả mọi tạo vật", kể cả các thiên thần, tức là bản tính của con người được Thiên Chúa dựng nên có ý để sử dụng như một phương tiện thuận lợi nhất cho việc mạc khải của Ngài, một mạc khải hoàn toàn hiện thực nơi Lời nhập thể "được sinh ra theo hình ảnh con người" (Phil.2:7) và nên trọn khi Đức Kitô "được ban cho một danh hiệu vượt mọi danh hiệu" (Phil.2:9).

Sau nữa, Thiên Chúa không cứu thần dữ mà lại cứu loài người sa ngã là vì Thiên Chúa tỏ mình (mạc khải) Ngài cho thành phần "những sự vô hình" là các thiên thần qua ý định nhập thể của Ngài, trong khi Thiên Chúa chỉ mới bắt đầu tỏ mình (mạc khải) Ngài cho con người là tiêu biểu và đại diện cho "những sự hữu hình" chỉ sau khi con người sa ngã mà thôi. Phải nhận thực rằng Thiên Chúa đã khéo lợi dụng bản chất bất toàn và bất lực của con người để tỏ ra Ngài là Đấng vô cùng toàn thiện và toàn năng.

 

Bởi thế, trong trường hợp con người sa ngã, một khi họ đã được Thiên Chúa tỏ mình ra cho, qua việc Lời nhập thể và cứu thế, mà họ vẫn "không chấp nhận Người" (Jn.1:11) thì họ mới "chắc chắn bị chết trong tội của mình" (Jn.8:24), và sau cùng mới hoàn toàn bị Người chối bỏ mà đời đời hư đi (x.2Tim.2:12' Mt.25:41-46).

 

Sau hết, Thiên Chúa tuy không cứu phần "tối tăm được gọi là đêm", tức thành phần thiên thần hư đi, như Ngài đã cứu con người sau khi con người sa ngã, nhưng rồi cuối cùng "đêm sẽ không còn nữa" (Rev.21:25), sẽ biến mất trước "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Jn.1:5). 

 

Thật vậy, "đêm sẽ không còn nữa" khi mạc khải của "Thiên Chúa là ánh sáng" hoàn toàn được "thể hiện dưới đất cũng như trên trời" (Mt.6:10) trong Lời nhập thể và cứu thế, để  "mọi đầu gối trên các tầng trời (có "Micae và các thần của ngài"), trên mặt đất (có "những sự hữu hình") cũng như dưới âm phủ (có "con rồng cùng với bọn lâu la của hắn") phải qùi xuống khi nghe tên Giêsu, và mọi miệng lưỡi đều tuyên xưng cho vinh quang Thiên Chúa là Cha rằng: CHÚA GIÊSU KITÔ LÀ CHÚA" (Phil.2:11).

Như thế, "tất cả mọi tạo vật", gồm đủ mọi thành phần, cả ở nơi các tầng trời, có "Micae và các thần của ngài" (Rev.12:7), trên mặt đất, có "những sự hữu hình", cũng như trong âm phủ, có "con rồng cùng với bọn lâu la của hắn" (Rev.12:9), quả là đối tượng mạc khải của Thiên Chúa, một mạc khải như "ánh sáng thật đã đến trong thế gian chiếu soi cho mọi người" (Jn.1:9), để "tất cả mọi tạo vật", cuối cùng, "như tối tăm không thắng vượt được ánh sáng" (Jn.1:5), sẽ đồng thanh tuyên nhận Lời nhập thể là Đức Giêsu Kitô, nội dung mạc khải của Thiên Chúa.

 

Vẫn biết "đêm sẽ không còn nữa", như "tử thần đã bị chiến thắng nuốt đi" (1Cor.15:54), khi "Thiên Chúa là ánh sáng" hoàn toàn chiếu soi, nơi "Con Thiên Chúa đã tỏ chính mình ra là để hủy diệt các việc làm của ma qủi" (1Jn.3:8), những công việc của thành phần "làm gian ác nên ghét ánh sáng' họ không đến gần ánh sáng vì sợ các việc làm của mình bị bại lộ" (Jn.3:20).

 

Thế nhưng, "Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống chứ không phải là Thiên Chúa của kẻ chết" (Mt.22:32). Do đó, thành phần "không có tên trong sổ kẻ sống" (Rev.20:15), gồm "ma qủi" (Rev.20:10) cùng với thành phần dê gian ác (x.Rev.21:8) và cả "sự chết lẫn âm phủ" (Rev.20:14) đều bị "hất nhào xuống "hồ lửa (hồ diêm sinh) là sự chết lần thứ hai" (Rev.20:9,14,21:8).

 

Như thế, "tất cả mọi tạo vật" có là đối tượng mạc khải của Thiên Chúa, nhưng chỉ "những ai có tên trong sổ kẻ sống do Con Chiên giữ" (Rev.21:27) mới được thông hiệp với Thiên Chúa trong "Thánh Thần là Đấng ban sự sống" (Kinh Tin Kính), tác nhân mạc khải của Thiên Chúa.