IRAQ VÀ THẾ GIỚI TỪ CUỘC TƯỜNG TRÌNH 1

CỦA BAN THANH TRA VỚI HỘI ÐỒNG BẢO AN LIÊN HIỆP QUỐC

 

 

Thế Giới Xuống Đường.

Thứ Năm, 13/2/2003, ngay trước ngày Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc tái họp để nghe hai vị lãnh đạo phái đoàn thanh tra về kết quả việc mình làm thì ở một số thành phố Âu Châu đã xẩy ra những cuộc xuống đường chống lại ý định tấn công Iraq của Hoa Kỳ.

Ở Vienna Áo Quốc, nơi cuộc biểu tình này được tổ chức bởi những tay thuộc đảng Thanh Bình (Greenpeace), người ta thấy một biển ngữ có hình của Tổng Thống Bush với đôi mắt được bịt bằng những dấu hiệu của hãng xăng Esso, kèm theo hàng chữ: “Không có vấn đề chiến tranh vì dầu hỏa!”, “Stop Esso, stop Bush”.

Ở một số thành phố ở Đức, hơn 10 ngàn người tham dự cuộc xuống đường để bày tỏ sự ủng hộ Thủ Tướng Gerhard Schoroeder trong việc ông chống lại chủ trương tuyên chiến của Hoa Kỳ. Ở Dresden, những người còn sống sót ở thành phố này đã đánh dấu 58 năm bị Đồng Minh thả bom làm tan nát thành phố ấy đã nêu lên hàng chữ: “Hãy giúp vào việc ngăn chặn tình trạng khổ đau mới, tàn phá mới và chết chóc mới”.

Ở Rôma Ý Quốc, cũng có khoảng 20 người xuống đường phản đối.

Ở Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ, những người biểu tình chống đối bị đụng độ với cảnh sát và có 45 người bị bắt giữ vì chống lại thứ chiến tranh của Hoa Kỳ.
 

Hôm Thứ Sáu, Anas Altikriti thuộc Hiệp Hội Hồi Giáo ở Hiệp Vương Quốc, người đứng ra tổ chức cuộc xuống đường biểu tình chống đối đã cho CNN biết rằng những người tổ chức và tham dự vào cuộc chống đối này tự bản chất không phải là những tay cầu an chủ hòa: “Chiến tranh thường được sử dụng và cần thiết. Tuy nhiên, cần phải có những điều kiện xác đáng. Vào lúc này đây chẳng có gì cho thấy cuộc chiến tranh này là hợp với luân lý, với pháp lý cả, thậm chí cần thiết. Saddam Hussein đâu có đe dọa Hoa Kỳ hay Luân Đôn. Chẳng có một nước láng giềng nào của ông ta đã phàn nàn về những thứ vũ khí đại công phá của ông ta cả”.

Đối với giới trẻ Đức, họ cảm thấy nhẹ cả người, vì sau hai thế hệ tội lỗi bởi nước của họ gây nên hai trận Thế Chiến I và II, họ bị mang tiếng xấu, nhưng hiện nay Hoa Kỳ chứ không phải Đức Quốc, bị nhiều người thấy như là một tay gây chiến.
 

Cuộc thăm dò của đài Truyền Hình số 4 ở Hiệp Vương Quốc đã cho biết những người Britons coi mối đe dọa nhất cho hòa bình hiện nay không phải là Iraq hay Bắc Hàn mà là Hoa Kỳ. Trong những cuộc tranh cãi ở Quốc Hội Hiệp Vương Quốc, theo chiều hướng phản Hoa Kỳ thường cho rằng việc lăng nhục không phải do Tổng Thống Iraq Saddam Hussein mà là Tổng Thống Hoa Kỳ George Bush. Ông Jeremy Corbyn thuộc Đảng Labour MP mới đây đã nói với House of Commons rằng: “Vô khối ý nghĩ của quần chúng Hiệp Vương Quốc thực sự nghi ngờ nếu không muốn nói là hoàn toàn thù địch với thứ chiến tranh này, vì họ tin rằng cuộc chiến này gây ra do những lợi lộc của người Hoa Kỳ chứ không còn là gì khác”.
 

Hiện nay dân chúng Âu Châu tỏ ra chống lại Hoa Kỳ và có thiện cảm với Hồi Giáo. Ông Dominique Moisi thuộc Viện Liên Hệ Quốc Tế của Pháp Quốc đã cho biết: “Khuynh hướng chống chính sách Hoa Kỳ ngày nay ở Âu Châu là một phối hợp của những gì Hoa Kỳ đang làm – như sửa soạn chiến tranh tấn công Iraq – với những gì Hoa Kỳ là – là một xứ sở hung bạo trước con mắt của người Âu Châu”. Ông Manfred Guttamacher thuộc Đại Học Potsdam ở Đức thêm: “Chúng tôi đang ở trên bờ vực của một cuộc tách lìa sâu rộng giữa Hiệp Chủng Quốc và Âu Châu, một cuộc tách lìa còn lớn hơn cả những cuộc tách lìa nơi chiều hướng chống Hoa Kỳ ở thập niên 1960 và đầu thập niên 1980 nữa”.

Thứ Bảy 15/2/2003, khắp thế giới đã xẩy ra những cuộc xuống đường biểu tình chống Hoa Kỳ, sau khi nghe bản tường trình của ban thanh tra vũ khí ở Iraq và thái độ vô tâm của Bộ Trưởng Nội Vụ Hoa Kỳ Colin Powell hôm trước, 14/2/2003.

Những cuộc biểu tình này bắt đầu xẩy ra từ Công Viên Hyde Park ở thủ đô Luân Đôn Hiệp Vương Quốc. Sau đó, đến Hoa Kỳ ở nhiều thành phố khắp nơi. Nữu Ước là nơi chính với 100 ngàn người tham dự, có ĐTGM Desmond Tutu ngỏ lời với đám đông. Theo phóng viên Richard Quest và Jim Bittermann của CNN thì có cả nửa triệu người ở Luân Đôn xuống đường và cả mấy trăm ngàn người ở 80 thành thị từ Pháp đến Bá Linh, với cả 100 cuộc tổ chức khác nhau. Thị trưởng thủ đô Luân Đôn Ken Livingstone nói: “Cuộc chiến này chỉ vì dầu hỏa. George Bush không bao giờ được quyền phạm đến quyền lợi của con người”.

Ở Baghdad những người Iraq được nhóm hoạt động cho hòa bình thế giới, trong đó có các phần tử thuộc nhóm “Human Shields” hy vọng việc hiện diện của họ tại Iraq sẽ làm cho Tổng Thống Bush và đồng minh của ông nghĩ lại trước khi thả bom tấn công Iraq.

Ở Bá Linh Đức Quốc, một người chống đối ở Augsburg là Emil Bauer đã nói ông “chống thứ chiến tranh Hoa Kỳ gây ra vì lợi lộc dầu hỏa và quyền lực của họ. Vấn đề quan trọng là phải tỏ ra chống lại vấn đề này. Càng nhiều người tham dự càng tốt”.

Ở Rôma Ý Quốc, cũng nghĩ về động lực lợi lộc nơi cuộc chiến của Hoa Kỳ này: “Ông phải nghĩ về nhân quyền chứ đừng chỉ nghĩ đến vấn đề thương mại và làm tiền. Ông không thể ngăn chặn chiến tranh bằng việc tạo nên chiến tranh”. Theo phóng viên CNN Alessio Vinci cuộc biểu tình ở Ý có cả hằng triệu người.

Những cuộc biểu tình phản chiến Hoa Kỳ cũng diễn ra tại Thụy Điển, Nam Phi, Bulgaria, Pakistan, Croatia và nhiều nơi khác nữa.

Ở Tây Ban Nha, một nước đang ủng hộ chủ trương chủ chiến của Hoa Kỳ có cả hai triệu người xuống đường, nguyên tại thành phố Barcelona đã gần 1 triệu 300 ngàn, một cuộc xuống đường lớn nhất của thành phố này từ trước đến nay, và tại thủ đô Maní có khoảng 600 ngàn người tràn ngập thành phố.

Ở Sofia, Bulgaria, một biểu ngữ có hàng chữ: “Tôi nhìn Bush nhưng thấy Hitler”. Ở Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ, 5 ngàn người giận dữ đòi Hoa Kỳ phải ra khỏi vùng Trung Đông.

Ở Moscow, gần 1 ngàn người bất chấp trời lạnh lẽo diễn hành đến tòa lãnh sự Hoa Kỳ để phản đối chiến tranh. Có những biểu ngữ đề “hãy mạnh tay hơn với Hoa Kỳ” và “Hiệp Chủng Quốc – Tay Khủng Bố Quốc Tế Đệ Nhất Thiên Hạ”. Vị lãnh đạo đảng Cộng Sản Gennady Zyuganov, ngỏ lời với đám đông rằng Hiệp Chủng Quốc đang sửa soạn “một cuộc chiến tranh chống lại nhân loại, chống lại thế giới Ả Rập và Hồi Giáo, chống lại liên hiệp Âu Châu, và nhất là chống lại Nga Sô” vì sợ rằng cuộc khủng hoảng thị trường dầu hỏa sẽ làm tàn rụi nền kinh tế Nga sau cuộc chiến.
 

Ở Á Châu, cũng có những cuộc xuống đường biểu tình ở Nam Hàn (với 2 ngàn người tại thủ đô Seoul); ở Nhật Bản (với 300 người đem hoa và bản văn phản chiến đến tòa lãnh sự Hoa Kỳ; một bà nội trợ khoảng ngũ tuần là Marilo Ayama đã chia sẻ cảm nhận của mình là: “Chúng ta đang ở bờ vực của một cuộc Thế Chiến Thứ Ba”. Ở Bangkok Thái Lan có khoảng 2 ngàn người diễn hành ở tòa lãnh sự Hoa Kỳ. Ở Mã Lai, có 1 ngàn 500 người chống chiến tranh tụ họp ngoài tòa lãnh sự Hoa Kỳ ở thủ đô Kuala Lumpur trước khi diễn hành tới Những Tháp Petronoa, những tòa nhà cao nhất thế giới. Nasir Hashim là người tổ chức cho biết: “Chúng ta phải chặn đứng cuộc chiến này vì nó là mưu đồ thống trị thế giới của Hiệp Chủng Quốc”. Ở Hồng Kông, những người xuống đường mang những tấm bảng có hàng chữ “đừng có lấy máu đổi dầu” và “Drop Bush. Not Bombs” – “Bỏ Bush. Không Bỏ Bom” và diễn hành từ Tòa Thị Sảnh đến Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ. Ở Jakarta, Nam Dương, những người xuống đường đã lấy tòa lãnh sự Úc Châu để gửi sứ điệp của họ “chiến tranh là tàn phá”. Một người trong đám biểu tình nói: “Hãy ngưng cuộc chiến này và giải quyết vấn đề bằng đường lối ôn hòa, chứ không phải bằng việc tấn công”.

Ở Úc Châu, nơi mà chính quyền đã hứa gửi 2 ngàn quên để sửa soạn chiến tranh, những cuộc biểu tình đã xẩy ra ở Sydney, Tasmania, Adelaide, Macday và Canberra, còn ở Melbourne đã tổ chức biểu tình từ ngày hôm trước với 150 ngàn người. Ở Tân Tây Lan Úc Châu nhiều đám đông tụ họp lại ở nhiều thành phố khắp quốc gia này, với chùng mấy ngàn người diễn hành qua thành phố chính Auckland. Chừng 16 ngàn người tụ họp ở thủ đô Úc Châu là Canberra, ngoài ra còn có những cuộc xuống đường khác ở Perth, Newscastle và Hobart với khoảng trên 10 ngàn người.
 

Trước những phản ứng khắp nơi trên thế giới như thế, nữ cố vấn an ninh quốc gia của Tổng Thống Bush là Condoleezza Rice phát biểu trên cả hai chương trình truyền hình “Fox News Sunday” và “NBC’s Meet the Press” vào Chúa Nhật 16/2/2003 là Tổng Thống Bush sẽ không lùi bước trước những lời yêu cầu của hầu hết các quốc gia trong Hội Đồng Bảo An về vấn đề cho ban thanh tra thêm thời gian: “Một số quốc gia hôm Thứ Sáu đã làm cho Saddam Hussein tưởng rằng ông ta có thể chơi trò này. Giờ đây chúng ta đang ở vào một giai đoạn, một cửa ngõ ngoại giao để chúng ta bàn cách tốt nhất trong việc thi hành Quyết Định 1441 của Hội Đồng Bảo An. Thế nhưng Saddam Hussein không được nhìn vào những gì ông ta thấy mấy ngày vừa qua như là những gì ông ta lại sẽ tìm cách tránh né”.

Phần Thủ Tướng Blair, chứng kiến thấy những cảnh tượng này, phản ứng của ông ta là: “Tôi vui mừng vì chúng ta đang sống trong một xứ sở mà cuộc chống đối ôn hòa vốn là diễn tiến thuộc nền dân chủ của chúng ta. Khi quí vị nhìn vào các hình ảnh truyền hình về cuộc diễn hành ấy thì hãy nghĩ rằng: nếu có 500 ngàn người đang diễn hành ấy thì cũng vẫn còn ít hơn con số tử vong Saddam phải chịu trách nhiệm. Nếu con số diễn hành là 1 triệu, thì vẫn còn ít hơn con số bị chết trong các cuộc chiến do ông ta gây ra”.

Trong nội bộ của Khối Ả Rập, ông Mahmound Hammoud, chủ tịch của Liên Hiệp Ả Rập, đã nói với ngoại trưởng thuộc khối Ả Rập là: “Các nước Ả Rập không thể ngăn nổi chiến tranh, thế nhưng họ có trách nhiệm cứu xét đến những vấn đề tiến đến một vị thế liên hiệp và minh nhiên chống lại những ai đang vang lên tiếng trống trận. Các quốc gia Ả Rập không được bắt tay vào việc trợ giúp bất cứ những gì về quân sự cho cuộc tấn công Iraq”. Có một số quốc gia vùng vịnh đã cho để cho Hoa Kỳ sử dụng phần đất của mình để làm căn cứ quân sự cho cuộc chiến đánh Iraq. Ngoại Trưởng Iraq, sau cuộc gặp gỡ bán chính thức thuộc Khối Ả Rập đã cho phóng viên báo chí biết cảm nhận của mình như sau: “Chúng tôi lấy làm hài lòng về chủ trương của quần chúng, nhưng cho đến nay các nước Ả Rập vẫn chưa kết hiệp lại thành một vị thế chính thức”. Trong tất cả mọi quốc gia Ả Rập dân chúng đều nói đến việc chống lại cuộc chiến đánh Iraq, song các chính quyền dường như để cho những chống đối này xẩy ra.

Một số viên chức Ả Rập cho biết họ sẽ không chống lại chiến tranh nếu Liên Hiệp Quốc nhúng tay vào, nhưng tất cả đều công khai bác chống việc Hoa Kỳ ngang nhiên đơn phương tấn công Iraq qua mặt Liên Hiệp Quốc. Ông Hammoud nói: “Nếu chiến tranh xẩy ra, thì nó sẽ được coi là một hành động đơn phương vi phạm đến pháp lý quốc tế, đến những quyết định của Liên Hiệp Quốc và nó sẽ chấm dứt nền hòa bình và bền vững của quốc tế”. Tuy nhiên, theo Ngoại Trưởng Hy Lạp Papandreou, đương kim chủ tịch Khối Hiệp Nhất Âu Châu, cho biết về các ngoại trưởng thuộc khối này: “Hôm nay họ thẳng thắn muốn Saddam Hussein phải hoàn toàn tuân hợp”. Syria muốn Khối Ả Rập có chủ trương phản chiến hơn là chủ trương theo Hoa Kỳ; nhưng Ai Cập, Kuwait và Saudi Arabia lại muốn Saddam Hussein phải tỏ ra cộng tác với ban thanh tra. Có hai vấn đề cuộc họp này đang cần phải quyết định trong tuần tới về cuộc họp thượng đỉnh của các vị lãnh đạo thuộc các quốc gia trong Khối Ả Rập vào tuần lễ 22/2 như Tổng Thống Ai Cập đề nghị hôm Thứ Sáu, 14/2/2003, cũng như về việc cử một phái đoàn đại biểu cao cấp đến Baghdad để kêu gọi Saddam Hussein hợp tác với các thanh tra viên.

Vấn đề Iraq chẳng những gây nhức nhối cho Hội Đồng Bảo An, cho Khối Ả Rập, mà còn cho cả
Khối NATO nữa. Theo ông Tổng Thư Ký của Khối này là George Robertson thì cho dù Pháp vẫn còn chống, nhưng hai nước Đức và Bỉ đã bị thuyết phục, để 18/19 nước quyết định tiến đến chỗ phác họa chương trình quân sự giúp cho Thổ Nhĩ Kỳ trong trường hợp Hoa Kỳ tấn công Iraq.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tiếp Phó Thủ Tướng Iraq Tariq Aziz

Sau đây là những lời thông báo chính thức của văn phòng báo chí Tòa Thánh về cuộc gặp gỡ lịch sử ở vào một thời điểm khẩn trương hiện nay.

“Sáng nay, Thứ Sáu, 14/2/2003, Đức Thánh Cha đã tiếp Ngài Tariq Aziz, phó Thủ Tướng Cộng Hòa Iraq, vị sau đó đã gặp ĐHY Angelo Sodano, quốc vụ khanh, cùng với ĐTGM Jean-Louis Tauran, bộ trưởng ngoại giao của Tòa Thánh. Những cuộc gặp gỡ này là cơ hội trao đổi nhiều quan điểm về mối nguy hiểm đang xẩy ra trước mắt liên quan đến hành động can thiệp quân sự ở Iraq là những gì sẽ làm tăng thêm tình trạng khổ đau cho những người dân chúng đã từng chịu đựng cấm vận lâu năm. Ông Aziz đã muốn cho thấy rõ ràng về ý muốn của chính quyền Iraq trong việc hợp tác với cộng đồng thế giới, nhất là trong vấn đề giải giới, về phần của Tòa Thánh thì nhấn mạnh đến nhu cầu cần phải trung thành tôn trọng, bằng những việc làm cụ thể, với các quyết định có tính cách pháp chế quốc tế của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Sau hết, Giáo Hội Công Giáo xác nhận là sẽ tiếp tục công việc giáo huấn của mình về vấn đề hòa bình cũng như về vấn đề chung sống giữa các dân tộc với nhau, nhờ đó có thể đưa đến các giải quyết ôn hòa trong hết mọi trường hợp”.

Vị phó Thủ Tướng 67 tuổi người Công Giáo theo lễ nghi Chính Thống Chaldean này đã hội kiến với Đức Thánh Cha nửa tiếng tại thư phòng của Ngài. Đây là lần thứ tư ông gặp ĐGH; các lần trước xẩy ra vào năm 1994, 1995 và 1998. Cuộc gặp gỡ lần này xẩy ra cùng ngày và ngay trước cuộc họp của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc về vấn đề tường trình lần thứ hai liên quan đến kết quả của việc thanh tra vũ khí tại Iraq. Trong một cuộc phỏng vấn được tờ Corriere della Sera ở Ý phổ biến hôm nay, ông phó thủ tướng này minh xác là ĐHY Roger Etchegaray, vị sứ giả hòa bình của Đức Thánh Cha đến Iraq không phải là để đóng vai trung gian giữa Hoa Kỳ và Iraq, trái lại, vị sứ giả này đến với phận sự nhắc nhở cho Iraq phải cộng tác với cộng đồng thế giới, thế thôi.

Đến Rôma từ Thứ Năm, 13/2/2003, vị phó thủ tướng này đã cho biết ông đến để chuyển cho ĐTC sứ điệp của Saddam Hussein về “cuộc chiến tranh tấn công đang âm mưu nhắm vào Iraq”. Ông còn bày tỏ cảm nhận của mình là hết mọi người tin tưởng vào hòa bình và công lý đều chống lại chủ trương của Hoa Kỳ, trong khi Hoa Kỳ cho rằng Iraq đang sản xuất các thứ vũ khí đại công phá và không cộng tác với các thanh tra viên. Ông cho biết Iraq hoàn toàn cộng tác nhưng Hoa Kỳ muốn cản trở công việc của các thanh tra viên để có thể lấy lý ra tay tấn công hầu chiếm phần “chủ trị” Trung Đông và các mỏ dầu hỏa của Iraq. “Trước hết, chúng tôi rất bén nhậy về tầm ảnh hưởng luân lý quan trọng của Đức Thánh Cha khi Ngài yêu cầu hòa bình cũng như khi Ngài bác bỏ chiến tranh. Điều này rất quan trọng đối với ý nghĩ chung của thế giới… Đức Thánh Cha và Tòa Thánh Vatican cùng với các tín đồ tin vào Thiên Chúa, tín đồ Hồi Giáo cũng như Kitô Giáo, đang cố gắng hết mình để ngăn chặn cuộc tấn công này. Chúng tôi phải bàn luận về cách thức để tiếp tục hành động theo chiều hướng đó và vận dụng tất cả mọi lực lượng của sự thiện để chống lại các lực lượng của sự dữ”.

Trong khi đó, tiến sĩ Novarro-Valls, giám đốc văn phòng báo chí của Tòa Thánh đã cho biết ĐTC rất lo âu về nhân dân Iraq đã bị kiệt quệ sau 12 năm bị cấm vận. Thế nhưng, vị phát ngôn viên này thêm, ĐTC “không phải là kẻ cầu an”. Trái lại, Ngài nhấn mạnh đến việc tôn trọng luật pháp quốc tế, đó là trách nhiệm luân lý “của mọi phía” để có thể tránh xẩy ra chiến tranh. Trả lời cho Đài Phát Thanh Vatican về vấn đề tông du của ĐTC đến Iraq, vị phát ngôn viên này cho biết không hề có chuyện đó trong cuộc gặp gỡ này. “Ba năm trước đây Đức Giáo Hoàng đã bày tỏ ước muốn viếng thăm Ur ở Chaldeans, quê hương của Abraham. Vì những lý do đã rõ, tức là Ngài không được phép thực hiện chuyến đi này, Đức Giáo Hoàng đã không thể đến Iraq. Bởi thế, đối với Ngài, vấn đề đã xong”. Trong cuộc gặp gỡ với vị phó thủ tướng Iraq này, ĐTC đã nói khi Ngài chặt chẽ bắt tay ông mà nói: “Xin Thiên Chúa chúc lành cho ông; xin Chúa chúc lành cho Iraq”.

Cuộc gặp gỡ giữa Đức Thánh Cha và vị Phó Thủ Tướng Iraq hôm nay đã đặc biệt kéo chú ý của giới truyền thông, nhất là của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga Sô, Anh Quốc và Pháp Quốc, những nước đã gửi các phóng viên đặc biệt đến Rôma để tường trình cuộc triều kiến này. Chính quyền Ý đã phải thực hiện chặt chẽ vấn đề an ninh chung quanh Vatican.

Cảm nhận của vị hồng y sứ giả hòa bình ở Iraq

Tại Iraq, ĐHY sứ giả hòa bình của Tòa Thánh, khi tới phi trường quốc tế Saddam hôm 11/2/2003, đã tuyên bố: “Tôi đến để khuyến khích các nhà cầm quyền Iraq hãy cộng tác với Liên Hiệp Quốc vì hòa bình và theo luật lệ quốc tế. Chiến tranh không phải là giải pháp cuối cùng, nó là giải pháp ác hại nhất… Tôi hân hoan bày tỏ lòng cảm mến sâu xa của tôi với xứ sở này, một một dân tộc được đánh dấu và kiệt quệ bởi 12 năm bị cấm vận. Theo tinh thần của Abraham, tôi xin trích lại lời của Chúa Giêsu Kitô: ‘Phúc cho những ai xây dựng hòa bình’”. Qua cuộc phỏng vấn của Đài Phát Thanh Vatican, vị hồng y này cho biết ngài rất cảm động trước sự cầu nguyện của những người Công Giáo Iraq trong Thánh Lễ cầu cho hòa bình do ngài chủ tế hôm Thứ Tư 13/2/2003 ở Nhà Thờ Thánh Giuse thủ đô Baghdad: “Đó là một đám rất đông hết sức sốt sáng nguyện cầu, vì những người Công Giáo này, cũng như toàn thể nhân dân Iraq nói chung, đang cảm thấy chiến tranh chực chờ. Tuy nhiên, họ hy vọng rằng, qua lời cầu nguyện, cũng như qua tất cả những gì có thể bằng phương tiện loài người, hòa bình vẫn có thể vãn hồi. Cần tin tưởng vào hòa bình cho đến lúc cuối cùng, cho đến giây phút cuối cùng… cho đến khi tận dụng hết mọi nguồn lực nơi hết mọi con người thiện tâm cũng như nơi dân chúng, nhất là nơi những nhà lãnh đạo xã hội, cả ở Iraq cũng như trong cộng đồng quốc tế”.

Các Giám Mục Pháp Lên Tiếng Về Vấn Đề Iraq

Trong bản văn mang tựa đề “Chiến Tranh Vốn là Một Thua Bại”, Hội Đồng Thường Trực của Các Giám Mục Pháp nhấn mạnh rằng: “Quyền tự vệ hợp lý cần phải có một cuộc tấn công thực sự hay cấp thời, chứ không phải chỉ là một cuốc tấn công có thể xẩy ra”. Bản văn này được ký bởi các vị giám mục, trong đó có ĐTGM Jean-Pierre Ricard, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Pháp và ĐHY Jean-Marie Lustiger, TGM Paris. “Những người công dân đồng hương của chúng tôi cũng như các vị lãnh đạo của xứ sở chúng tôi nhất quyết can đảm theo đuổi việc tìm kiếm những đường lối ôn hòa để giúp cho nhân dân Iraq thoát khỏi những sự dữ đã áp bức họ và những sự dữ đang đe dọa họ”. Giáo Hội ở Pháp lấy làm quan trọng vấn đề các quốc gia Tây Phương chối từ việc tham dự vào cuộc xung đột này. Theo các vị, việc chối từ này có thể đưa đến việc tránh khỏi cuộc chiến tranh đang hiện lên như kết quả của “một cuộc đụng độ giữa các nền văn minh và các đạo giáo”. Bản văn tiếp: “Những người Hồi Giáo và Kitô Giáo đều muốn phụng sự Thiên Chúa, Đấng Từ Bi, Đấng An Bình, để mạnh mẽ sửa soạn hòa bình cho mai ngày nơi chính cốt lõi của tình trạng bạo loạn của ngày hôm nay. Nhất định không lùi bước, chúng tôi kêu gọi tất cả mọi người hãy vững niềm hy vọng, với tất cả mọi giáo hội Kitô Giáo trên toàn thế giới, tuyên bố mình hoàn toàn hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong những ngày này, vị tăng gia nhiều hoạt động để ngăn tránh chiến tranh. Cùng với Ngài, chúng tôi xin lên tiếng phủ nhận chiến tranh! Chiến tranh không bao giờ lại là một định mạng. Đối với nhân loại nó luôn là một thảm bại”.

Tại sao Iraq ngăn trở ước muốn tông du của ĐTC năm 1998

Đức Hồng Y Roberto Tucci, vị bấy giờ có trách nhiệm sắp xếp các chuyến đi của ĐTC, đã nói với Đài Phát Thanh Vatican về lý do tại sao Ngài không thể thực hiện chuyến đi thăm Ur, quê hương của tổ phụ Abraham theo lòng mong ước của Ngài này.

Lý do thứ nhất là vì chi tiết ĐTC đề cầp đến trong Tông Thư “Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến” ban hành năm 1994: “Những cuộc họp đầu tiên, ở cấp phó thủ tướng chính quyền Iraq, đã chú trọng đến sự kiện là, theo họ, ĐGH đã có một nhãn quan Kitô-Do Thái Giáo nơi bản văn này trong việc Ngài nói lên lòng ước ao viếng thăm những nơi hành trình của Abraham. Theo những nhà dẫn giải Iraq thì nhãn quan xứng hợp là nhãn quan của Hồi Giáo, một nhãn quan khác với nhãn quan được trình bày trong Cựu Ước và được nhắc lại chính yếu nơi các bức thư của Thánh Phaolô. Chúng tôi cảm thấy hơi lạ là chúng tôi phải nói một cách đặc biệt về vấn đề này. Họ căn cứ vào một văn kiện do chính quyền yêu cầu, được ký bởi những học giả Iraq, trong đó có một số Kitô hữu, ủng hộ luận điệu của chính quyền cho rằng quan điểm của chúng ta về Abraham hoàn toàn không đúng.

“Sau đó lại xẩy ra những lý do khác nữa. Đột nhiên họ xoay qua trách nhiệm của Hiệp Chủng Quốc, nhất là của Anh Quốc, vì bị cấm vận và ‘vùng cấm bay’ […] mà xứ sở này gặp trở ngại trong việc tổ chức một cách xứng hợp cho chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng. Nhất là họ nói rằng họ cảm thấy không thể bảo đảm tình trạng an ninh. Họ không thể nói rằng chuyến đi của ĐTC không thực hiện được vì những cấm đoán của Liên Hiệp Quốc, của Hiệp Chủng Quốc hay của Anh Quốc, vì chúng tôi đã biết rằng nếu Đức Giáo Hoàng cần phải đến Iraq thì Liên Hiệp Quốc và những quyền lực dính dáng đến việc kiểm soát việc giải giới ở Iraq sẽ không gây khó dễ.

“Chúng tôi đã đi thụt lùi, để rồi cuối cùng đã không đi đến đâu. Chúng tôi không thể gặp được một số cá nhân đại diện, chúng tôi không thể gặp được vị lãnh đạo quốc gia Iraq. Chúng tôi hiểu ra rằng việc trả lời sẽ được thực hiện nhưng là một trả lời phủ nhận. Tôi nghĩ rằng tất cả mọi sự bị lùi lại bởi ‘việc phủ nhận’ này. Ngay cả trong thế giới Ả Rập, tôi biết có một số vị lãnh đạo hết sức lạ lùng trước phản ứng này. Chẳng hạn Yasser Arafat đã tỏ ra ngạc nhiên trước thái độ tiêu cực ấy là những gì dường như đi ngược lại với những khuynh hướng của ông. Ông sau đó đã nói với tôi như vậy, khi chúng tôi cùng nhau hoạch định cuộc viếng thăm của ĐTC đến Thánh Địa”.

Sau hết, ĐHY này phủ nhận tin tức cho rằng chính vì Tòa Thánh Vatican mà ĐTC đã hủy bỏ chuyến đi. Một số truyền thông đã cho rằng Tòa Thánh Vatican hủy bỏ chuyến đi của ĐTC là vì Saddam Hussein làm áp lực bắt ĐTC phải nói những gì. ĐHY nhắc lại ĐTC hết sức ao ước muốn đi đến Iraq hồi đó, tới nỗi, Ngài đã tổ chức cử hành một lễ nghi ở Rôma được gọi là một chuyến đi “tượng trưng” đến Ur vào ngày Thứ Tư 23/2/2000.
 

Biện Hộ cho Chủ Trương Chiến Tranh của Hoa Kỳ


Vị lãnh sự Hoa Kỳ ở Tòa Thánh là Jim Nicholson, đã tổ chức một buổi thảo luận hai tiếng đồng hồ hôm Thứ Hai, 11/2/2003 ở Rôma. Ông Novak thuộc Viện Kế Hoạch Hoa Kỳ, một thần học gia Hoa Kỳ cũng được mời đến diễn đàn. Trước 150 cử tọa tham dự, nói đến “Giáo Lý về Chiến Tranh Chính Đáng và Iraq” , ông này nói là “việc Hoa Kỳ có thể tấn công Iraq không liên quan gì đến thứ chiến tranh ngăn ngừa cả. Hiệp Chủng Quốc sợ rằng những thứ khí giới đại công phá, hóa chất và sinh trình, như mustard gas, sarin, botulin, anthrax, mà Saddam Hussein có trong tay và ông ta tỏ cho biết là đã hủy hoại đi, có thể được sử dụng bởi những tay khủng bố cực bảo thủ. Chúng ta đã từng thấy những gì xẩy ra với một muỗm anthrax. Saddam có trong tay 5 ngàn lít anthrax và chúng ta biết rằng chúng có thể được sử dụng bởi những ổ khủng bố khắp nơi trên thế giới. Chúng ta không thể để xẩy ra những cuộc thảm sát khác như vụ thảm sát ngày 11/9. Đó là lý do tại sao chúng ta yêu cầu Saddam hãy hủy hoại những lò nguyên tử của ông ta, một dấn thân giải giới Saddam cần làm vào năm 1991 mà ông ta vẫn không chịu tôn trọng”.


Đối với vấn đề can thiệp bằng võ lực, cũng căn cứ vào giáo lý về chiến tranh chính đáng, ông đã giải thích rằng cuộc chiến này là một cuộc “can thiệp tự vệ để chống lại một mối đe dọa thực sự”, một mối đe dọa được hiện thân nơi một thứ chế độ “xấu xa hơn cả chế độ Taliban” và “tàn bạo hơn cả chế độ Milosevic. Về khía cạnh luân lý, chúng tôi đã bị tấn công vào ngày 11/9/2001, nên công việc của chính phủ chúng tôi là bảo vệ những người công dân. Vì lý do này, chúng tôi sẽ làm mọi sự có thể để tự vệ”. Ông này đã căn cứ vào số 2039 trong Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo là số nói đến những điều kiện cần thiết biện minh cho một cuộc chiến tranh chính đáng. Theo ông, số giáo lý này phải được hiểu trong môi trường của “cuộc chiến thiên lệch” gây ra bởi những tay khủng bố. Sự thiệt hại xẩy ra cho các quốc gia kéo dài, trầm trọng và chắc chắn, nên đó là lý do “về luân lý buộc các quốc gia phải tự vệ trước mối đe dọa này”.


Ông này bác bỏ lời phê bình của thế giới Công Giáo về dự định tấn công của Hoa Kỳ: “Điều này không đúng, như tờ Civiltà Cattolica đã viết, là chúng tôi đang cố gắng gây chiến để kiểm soát dầu hỏa của Iraq”. Theo ghi chú cuối trang trong bài nói của mình, ông đã viết “chỉ” có 6% dầu hỏa ở Hoa Kỳ nhập cảng từ Iraq. “Âu Châu, Trung Quốc và Nga Sô để ý tới dầu hỏa ở cùng này nhiều hơn là chúng tôi”. Ông kết luận: “Dù sao đi nữa thì chúng tôi sẽ là quốc gia đầu tiên chấp nhận việc giải giới tốt đẹp của Saddam, và chúng tôi lấy làm sung sướng không phải chiến đấu bằng một trận đánh để dập tắt một mối đe dọa trầm trọng như vậy cho nền an ninh và tự do của các dân tộc”.

 

Nhận định của Thời Điểm Maria: Có 4 điều cần lưu ý trong lập luận biện hộ của nhà thần học Hoa Kỳ này. Thứ nhất, vì lòng tham vô đáy và khuynh hướng đoạt lợi của con người (cá nhân cũng như tập thể) 6% số lượng dầu hỏa Hoa Kỳ tiêu thụ ở đây có thể lại là cớ để Hoa Kỳ muốn tranh giành với các nước được đề cập đến; thứ hai, ngoài hành động hung tàn cá nhân của mình, Tổng Thống Saddam Hussein chưa chắc đã có trong tay những thứ vũ khí như vị diễn giả này tố cáo theo chiều hướng của Tổng Thống Bush và Bộ Trưởng Nội Vụ Powell, biết đâu lại là những vu khống, bởi thế mới có vấn đề hiện diện hoạt động của thanh tra viên quốc tế ở Iraq; thứ ba, diễn giả này chưa giải quyết vấn đề tại sao việc thanh tra đang tiến hành ngon lành như vậy mà Hoa Kỳ lại cứ muốn xông đánh, lại sửa soạn chuyển  quân và chuyển vũ khí để tấn công bất cứ lúc nào, đến nỗi còn dám nói bất chấp công quyền của Liên Hiệp Quốc qua Hội Đồng Bảo An; thứ bốn, diễn giả này cũng không so sánh cái hậu quả mang lại nếu chiến tranh xẩy ra, giữa cái lợi ngăn ngừa cho Hoa Kỳ và các nước đồng minh của Hoa Kỳ khỏi bị khủng bố tấn công và cái hại làm cho toàn thế giới bị loạn lên vì ảnh hưởng kinh tế cũng như trở thành một cuộc đại chiến thứ ba, chẳng những giữa các nước Tây Phương với nhau (như giữa Liên Minh Pháp+Đức+Nga với Hiệp-Chủng-Quốc+Hiệp-Vương-Quốc), mà còn giữa Tây Phương với Khối Hồi Giáo nữa. Vậy thì cuộc chiến tranh này có chính đáng hay chăng? Qua những lập luận của một diễn giả được cho là thần học gia của Hoa Kỳ này, người ta có thể cảm nhận là vì muốn đánh nên viện dẫn đủ lý lẽ để đánh, nấp dưới hình thức tự vệ chính đáng để khỏi bị lộ liệu mang tiếng là ngăn ngừa bất chính!

 

Sứ Giả Hòa Bình của Tòa Thánh tại Iraq

 

ĐHY Roger Etchegaray đã đến Iraq vào chính ngày Lễ Đức Mẹ Lộ Đức Thứ Ba 11/2/2003. Xuống khỏi máy bay của Liên Hiệp Quốc từ Jordan vào buổi chiều, ngài đã nói: “Tôi đáp máy bay đến với tư cách là vị sứ giả của Đức Gioan Phaolô II. Tôi là người mang đến cho Tổng Thống Saddam Hussein một sứ điệp, một sứ điệp quan trọng cho hòa bình ở Iraq”. Theo dự tính, ngài sẽ gặp một số vị lãnh đạo Iraq, kể cả Tổng Thống Saddam Hussein để trao tận tay bức thư của Đức Thánh Cha, cử hành Thánh Lễ vào Thứ Tư tại Nhà Thờ Thánh Giuse thuộc Lễ Nghi Chaldean để “cầu cho hòa bình”. Nội dung của bức thư không được tiết lộ, nhưng theo vị giám đốc văn phòng báo chí của Tòa Thánh thì lá thư này khơi động “một sự suy tư cẩn trọng về nhiệm vụ cộng tác với thế giới một cách tốt đẹp, theo công lý và công pháp, để nhắm tới việc bảo đảm cho dân chúng một sự thiện hòa bình tối hậu”. Vị sứ giả này có thể sẽ trở về lại Rôma với vị Phó Thủ Tướng Iraq Tariq Aziz, vị đến triều kiến Đức Thánh Cha vào Ngày Thứ Sáu Valentine 14/2/2003 tuần này.


Theo phát ngôn viên của đan viện Phanxicô ở Assissi cho biết, vị phó thủ tướng này sẽ thăm đan viện này vào Ngày Thứ Bảy và cầu nguyện tại mộ của Thánh Phanxicô. Trong khi đó, tại Vatican, vị lãnh sự của Iraq tại Tòa Thánh là Amir Alambari đã nói với báo chí rằng xứ sở của ông đang mở cửa để đón chờ Đức Gioan Phaolô II, không cần phải được chính thức mời. Gần sát với Năm Thánh 2000, ĐTC đã tính viếng thăm thành Ur ở Iraq là quê hương của tổ phụ Abraham xưa, nhưng chuyến đi cuối cùng bất thành, Ngài phải thực hiện bằng cách hướng lòng về đó vào buổi triều kiến chung Thứ Tư. Vị lãnh sự Iraq cho biết: “Cuộc viếng thăm của Ngài sẽ là một phúc lành chẳng những cho nhân dân chúng tôi, mà còn cho nền hòa bình của toàn thể thế giới nữa. Cho dù vị Giáo Hoàng này không nói một lời nào thì chuyến viếng thăm cũng là một việc thể hiện tình đoàn kết tột độ vậy”.


Cuốn băng kêu gọi chiến đấu được cho là tiếng của Bin Laden


 

Thứ Ba 11/2/2003, một sứ điệp dài 16 phút được cho là từ tay lãnh tụ tổ chức khủng bố quốc tế al Qaeda, được đài phát thanh Al-Jazeera ở Qatar phổ biến bằng tiếng Ả Rập như sau:


“Chúng tôi muốn cho các người biết và khẳng định với các người là cuộc chiến tranh của những kẻ vô đạo này đang Hiệp Chủng Quốc lãnh đạo cùng với đám đồng minh của họ…. Chúng tôi sẽ ở với các người và chúng tôi sẽ nhân danh Thiên Chúa chiến đấu. Hỡi thành phần anh em giải phóng quân (the mujahedeen) của chúng tôi ở Iraq, đừng lo về những cái gian xảo của Hoa Kỳ, quyền lực của họ cũng như sức mạnh quân đội của họ. Chúng tôi khuyên anh em là hãy lùa các thứ lực lượng đánh đấm anh em vào những cuộc đấu trên đường phố. Kéo chúng đến những nông trại, thành phố mà đấu với chúng ở đó… chúng sẽ mất mạng rất nhiều”.


“Chúng ta sẽ cùng nhau chiến đấu với họ để hủy diệt mọi sự có thể… Họ (những người theo phe Hoa Kỳ đánh Iraq) cần phải biết rằng họ không thuộc về quốc gia Hồi Giáo này. Jordan, Morocco, Nigeria và Saudi Arabia phải lưu ý là cuộc chiến tranh này, cuộc thánh chiến này, đang trước hết tấn công nhân dân Hồi Giáo”. Giọng nói trong cuốn băng kêu gọi “những người Hồi Giáo tốt lành” hãy liên kết với nhau để lật đổ “những thay lãnh đạo làm nô lệ cho Hoa Kỳ”, và khuyến khích những cuộc tấn công tự sát chống lại thành phần được gọi là kẻ thù của Hồi Giáo.


Những diễn tiến khác về vụ Iraq

 

Một viên chức thuộc khối NATO cho biết những phiên họp hôm Thứ hai 10/2/2003 của khối này diễn ra trong một bầu không khí “rất giận dữ” trước thái độ của ba nước Pháp, Bỉ và Đức. Cuộc họp trở lại vào ngày hôm sau, nhưng bị chậm trễ sau mấy tiếng, mãi tới 6 giờ chiều mới bắt đầu, nhưng chỉ sau 30 phút đã phải chấm dứt. Việc chậm trễ được cho là thời gian để có những cuộc nói chuyện tư trước khi chính thức ngồi lại với nhau. Phiên họp khẩn cấp đã được ấn định vào sáng Thứ Tư, 13/2/2003.


Hai nước Mỹ và Pháp đang soạn thảo hai bản văn đối chọi nhau để trình bày với Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc về những bước kế tiếp để giải quyết vấn đề Iraq. Một viên chức Hoa Kỳ nói, bản văn của Hoa Kỳ có thể cho rằng Iraq đã vi phạm quyết định 1441 nên cần phải sử dụng võ lực. Còn bản văn của Pháp được cho là tăng thêm thanh tra viên để thực hiện việc thanh tra nhanh chóng hơn.

 

Tình báo Hoa Kỳ ghi nhận là Iraq đã di chuyển dụng cụ bắn phi đạn Scud đến gần các ngôi đền thờ và các địa điểm lịch sử để nỗ lực bảo vệ chống lại các cuộc tấn công của Hoa Kỳ. Tình báo Hoa Kỳ cũng thấy có những di chuyển các thức chất nổ xuống miền nam Iraq nhắm đến các khu vực dầu hỏa.
 

 

 

Nỗ Lực Tôn Giáo và Phản Chứng Chính Trị


Đức Hồng Y Roger Etchegaray, chủ tịch về hưu của Hội Đồng Tòa Thánh Về Công Lý Và Hòa Bình, được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cử Ngài làm đại diện Giáo Hội Công Giáo đến Iraq hôm Thứ Hai 10/2/2003. Vị hồng y này mang bức thư của Đức Thánh Cha gửi Tổng Thống Saddam Hussein để nhắc nhở vị tổng thống này góp phần vào việc hợp tác tốt đẹp với thế giới theo công lý và công pháp. Trả lời cho cuộc phỏng vấn của tờ nhật báo Ý La Repubblica, Đức Hồng Y sứ giả cho biết: “Mục đích của ĐTC là để nâng đỡ tất cả mọi nỗ lực đan được thực hiện ở khắp nơi trong việc bảo toàn một nền hòa bình thật là cần thiết. Chiến tranh là một thứ tai ương về mọi lãnh vực. Trước hết, nó sẽ gây ra những hậu quả trầm trọng cho nhân dân Iraq, và, thêm vào đó, sẽ làm tăng thêm khó khăn cho những nỗ lực của Liên Hiệp Quốc hướng đến mối hiệp nhất của gia đình nhân loại”. Ngoài ra, ĐHY còn nghĩ đến hậu quả liên quan đến những rắc rối trong mối liên hệ giữa thế giới Tây Phương và Hồi Giáo. Máy bay của vị hồng y sứ giả hòa bình 80 tuổi này sẽ hạ cánh ở Amman, nước Jordan và đến Iraq hôm sau, 11/2/2003, Lễ Đức Mẹ Lộ Đức 11/2/2003. Ngài cho biết cảm nhận là không dễ gì mà thuyết phục được Saddam Hussein đâu: “Tôi biết rằng tôi được kêu gọi làm sứ giả để thực hiện những sứ vụ vượt quá tầm tay. Thế nhưng quí vị có biết những gì tôi cần không? Xin hỗ trợ tôi bằng lời cầu trong chuyến đi này”.

 

Cuộc lên đường của ĐHY Roger Etchegaray đến Iraq như sứ giả hòa bình của Tòa Thánh làm cho báo chí Ý tung tin ĐHY Pio Laghi, 81 tuổi, cũng có thể đóng vai trò này với Hoa Kỳ. Vì ngài đã từng là đại diện tông tòa ở Washington từ năm 1980-1984 và trở thành khâm sứ tòa thánh sau khi Hoa Kỳ và Vatican chính thức thiết lập bang giao từ năm 1984.


ĐTGM Jean Sleiman thuộc Giáo Hội Công Giáo theo lễ nghi Latinh ở Baghdad, hôm Thứ hai 10/2/2003, đã cho cơ quan SIR biết việc hiện diện của vị sứ giả của Tòa Thánh này là chứng từ cho những người Hồi Giáo và Iraq thấy rằng Giáo Hội chống lại chiến tranh. Theo vị TGM này thì chuyến viếng thăm của vị sứ giả của Tòa Thánh quan trọng vì “nó chiếu ra một tia hy vọng trong cuộc khủng hoảng dường như không lối thoát này”. Ngài cho biết dân chúng Iraq như “bị chán nản và kiệt quệ về luân lý, bị nghiền tán bởi một cuộc cấm vận lâu dài. Nhiều người đã buông trôi cho định mệnh; nhiều người khác tìm kiếm những chỗ an toàn hơn khi bị tấn công. Tuy nhiên, dường như không ai tin tưởng vào một giải pháp tích cực cho cuộc khủng hoảng này. Sự hiện diện của vị sứ giả Tòa Thánh sẽ giúp cho dân chúng sống đỡ sầu đau hơn. Thành quả đầu tiên là tỏ ra cho thấy việc gắn bó của Giáo Hội Công Giáo, qua lời cầu nguyện của Đức Giáo Hoàng cũng như qua những nỗ lực của nhiều hội đồng giám mục”. Ngài cho biết nhận định về sứ vụ hòa bình của ĐHT Etchegaray “là một cơ hội mạnh liệt chứng tỏ cho thế giới Hồi Giáo và nhân dân Iraq thấy… Vấn đề quan trọng cần biết là Kitô hữu không chấp nhận chiến tranh, là Giáo Hội bao giờ cũng nỗ lực ngăn chặn những ý đồ chiến tranh”.


Đức Giám Mục phụ tá Shlemon Warduni thuộc Tòa Thượng Phụ Babylon theo lễ nghi Chaldean, trong cuộc phỏng vấn với hai ký giả Ý là Riccardo Caniato và Aldo Maria Valli, đã cho biết nhận định về chiến tránh đánh Iraq sẽ càng gây thêm khó khăn hơn nữa cho cộng đồng thiểu số Kitô hữu ở Iraq. Trong cuốn “Thiên Chúa Không Muốn Chiến Tranh Ở Iraq” (do nhà xuất bản Medusa), ngài đã nêu lên những lý do chống lại một cuộc chiến tranh được thúc đẩy bởi những động lực kinh tế: “Qua nhiều thế kỷ không một ai chú trọng đến chúng tôi cả, thế nhưng, mọi sự đã đổi thay khi khám phá ra rằng dưới chân chúng tôi có những mỏ dầu hỏa khổng lồ”. Theo vị giám mục phụ tá này thì việc cấm vận chẳng những làm bần cùng hóa xứ sở này mà còn gây ra một “cuộc ào ạt di dân” nữa, nhất là thành phần Kitô hữu. Trào lưu này sẽ tăng bội trong trường hợp chiến tranh xẩy ra. “Cuộc tha hương này đã làm thiệt hại nhiều người và chúng tôi đang chứng kiến thấy tình trạng hết người Kitô hữu chẳng những ở Iraq mà còn ở khắp vùng Trung Đông nữa”. Ở Baghdad có 80 nhà thờ Kitô giáo, kể cả 35 giáo xứ theo lễ nghi Chaldean. Kitô hữu được tôn trọng, “nói chung, chúng tôi sống được, kể cả trong mối liên hệ với những vị có thẩm quyền”. Đối với những người Hồi Giáo, vị giam mục cho biết những căng thẳng sau Cuộc Chiến Vùng Vịnh “khiến ngọn gió cuồng tín mới thổi vào xứ sở này”. Những người Hồi Giáo đồng hóa những người Kitô hữu với Tây Phương và “tình trạng của chúng tôi đã trở nên càng tế nhị hơn nữa”. Nếu xẩy ra cuộc xung đột thì “chắc chắn chúng tôi phải đối diện với những khó khăn còn hơn thế nữa”. Kitô hữu chỉ có 3% dân số, tức 670 ngàn người, và trong số ớ Kitô hữu này là Công Giáo.


Cũng vào ngày Thứ Hai 10/2/2003, những nhà lãnh đạo tôn giáo ở Ambon thủ đô của Molucca lên tiếng kêu gọi tìm giải pháp ôn hòa để giải quyết vấn đề Iraq. Lời kêu gọi này được ký bởi Giám Mục Công Giáo Petrus Canisius Mandagi ở Ambon; I.W. Hendriks, chủ tịch Giáo Hội Tin Lành Molucca, và vị lãnh đạo Hồi Giáo Uztad Hadji Wahab Polpoke. Lời kêu gọi này được gửi đến cơ quan truyền giáo Misna với những lời lẽ như sau: “Những cuộc đối chọi về xã hội, tình trạng tội ác và việc lạm dụng các thứ nhân quyền đã xâu xé miền đất của chúng tôi 4 năm rồi. Trong chiều hướng của cảm nghiệm kinh hoàng này, chúng tôi muốn nói lên quan điểm của chúng tôi và mối quan tâm của chúng tôi về những biến cố mới nhất ở Vùng Vịnh”. Lời kêu gọi đặc biệt nhắm đến chính phủ Hoa Kỳ, đồng minh của Hoa Kỳ và ngành hành pháp Iraq hãy tránh “bất cứ hành động nào gây ra chiến tranh, tái thiết lập việc đối thoại với nhau, luôn tôn trọng nhân quyền, tin tưởng Liên Hiệp Quốc như tổ chức đại diện cho tất cả mọi quốc gia trong việc tìm một giải pháp chính đáng và ôn hòa”.


 

Thế là Pháp đã mở đầu quyền phủ quyết veto của mình khoảng 1 tiếng trước hạn định ngày Thứ Hai 10/2/2003, sau đó tới phiên Bỉ Quốc và sau cùng là Đức Quốc. Trong khi đó, Hoa Kỳ rất muốn cho khối NATO nhẩy vào vòng chiến bằng cách đồng ý chuyển quân liệu đến để bảo vệ Thổ Nhĩ Kỳ càng sớm càng tốt. Vị Tôăng Thư Ký của NATO là ông George Robertson đã cho biết: “Chắc chắn đây là một tình trạng khó khăn. Trong khối NATO đã xẩy ra một cuộc tranh luận sôi nổi, nhưng tôi tin rằng chúng tôi sẽ đi đến chỗ đồng thuận. Vấn đề không phải là nếu mà là khi nào chúng tôi bắt đầu phác họa dự án bảo vệ Thổ Nhĩ Kỳ”. Khóa họp thứ hai được tái nhóm vào chiều Thứ Hai cùng ngày. Phần Thổ Nhỉ Kỳ đã chính thức lên tiếng xin đồng minh giúp đỡ, nại đến Khoản 4 của Hiệp Ước Bắc Đại tây Dương. Ngoại Trưởng Thổ Quốc là ông Yasar Yakis cho biết: “Tôi nghĩ những nước ấy sẽ đi vào hàng ngũ được Thổ Quốc, Hoa Kỳ và Hiệp Vương Quốc bênh hộ. Những gì đang xẩy ra ở đây không phải là Thổ Quốc tuyên chiến với Iraq hay đẩy khối NATO nhập cuộc mà là … một phác họa tình cờ xẩy ra”.

 

Ông Burns, vị lãnh sự Hoa Kỳ ở Khối NATO nhận định: “Đây là một quyết định thất sách nhất của liên minh ba nước này trong việc ngăn ngừa NATO khỏi nhúng tay vào những nhu cầu tự vệ hợp pháp của Thổ Quốc. Vì hành động của họ mà khối NATO giờ đây gặp cuộc khủng hoảng về uy tín”. Trước việc veto của ba nước trong khối NATO trước nỗ lực tích cực bảo vệ Thổ Quốc theo chiều hướng võ lực của Hoa Kỳ, Tổng Thống Bush lấy làm bực tức: “Tôi không hiểu được quyết định này. Nó ảnh hưởng đến vấn đề liên minh một cách tiêu cực… khi quí vị không thể nói lên việc bảo vệ nhau”. Tổng Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Donald Rumsfeld, người đã từng cho Pháp và Đức thuộc loại “Âu Châu cổ”, cũng đã lên tiếng chỉ trích và đe dọa biến cố trì trệ của khối NATO cũng không ảnh hưởng gì đến chiến tranh của Hoa Kỳ với Iraq, vì Thổ Quốc là một “đồng minh quan trọng”, dù không có sự hỗ trợ của NATO, Hoa Kỳ cũng vẫn tiến hành dự tính của mình.

 

 

Tổng Thống Nga Putin, trên đường đến Paris gặp Tổng Thống Pháp Chirac, đã gặp Thủ Tướng Đức Gerhard Schroeder và cả hai vị này đã tuyên bố trong cuộc họp báo là họ muốn tránh chiến tranh và tìm một giải pháp ngoại giao. Hôm Chúa Nhật, tại Đức, Tổng Thống Putin đã nói với các ký giả rằng: “Ai theo dõi các biến cố xẩy ra về Iraq đều có thể thấy rằng, tự bản chất, những vị thế của Nga, Pháp và Đức trùng hợp nhau một cách thiết thực”.


Thứ Hai 10/2/2003, Tổng Thống Nga Putin đã đến thăm Tổng Thống Pháp Chirac, và ba nước Nga, Đức và Pháp đã ký vào một bản tuyên ngôn chung. Tổng Thống Pháp nói: “Hôm nay đây chẳng có gì biện minh cho một cuộc chiến tranh cả. Miền đất này thực sự không cần đến một cuộc chiến tranh nữa”. Tại Bá Linh cuối tuần vừa rồi, Tổng Thống Nga cũng cho biết tương tự như vậy: “Chúng tôi chống lại chiến tranh. Đó là quan điểm của tôi trong lúc này đây”. Sau đây là bản tuyên ngôn được Tổng Thống Pháp tuyên đọc sau khi gặp gỡ Tổng Thống Nga Putin:


 

“Nga, Đức và Pháp chặt chẽ liên hợp trong việc tái xác nhận là việc giải giới Iraq theo các quyết định hiện hành từ Bản Quyết Định 687 của Liên Hiệp Quốc là mục tiêu chung của cộng đồng quốc tế và phải được chiếm đạt sớm bao nhiêu có thể.


“Vấn đề được đặt ra là viện giải giới này cần phải thực hiện ra sao. Cuộc bàn luận này cần phải được tiếp tục trong tinh thần thân hữu và tôn trọng làm nên đặc tính của chúng tôi với Hiệp Chủng Quốc và các quốc gia khác. Bất cứ giải quyết nào cũng phải theo những nguyên tắc của bản hiến chương Liên Hiệp Quốc như gần đây mới được tổng thư ký Kofi Annan trích lại.


“Bản Quyết Định 1441 của Liên Hiệp Quốc được Hội Đồng Bảo An đồng thanh chấp thuận đưa ra một dự án làm việc chưa hoàn toàn khai thác hết khả năng của nó.


“Những việc thanh tra của UNMOVIC và IAEA đã mang lại nhiều kết quả. Nga, Đức và Pháp thiên về vấn đề tiếp tục những việc thanh tra vũ khí với sự tăng cường chính thực về khả năng nhân lực cùng kỹ thuật của họ, bằng tất cả mọi phương tiện có thể liên hệ với các thanh tra viên, trong phạm vi bản Quyết Định 1441 của Liên Hiệp Quốc.


“Vẫn còn một giải pháp thay cho chiến tranh. Việc sử dụng võ lực chỉ có thể được coi là phương tiện sau cùng. Nga, Đức và Pháp nhất quyết bảo đảm là phải thực hiện hết mọi sự để giải giới Iraq một cách ôn hòa.


“Việc thanh tra được hoàn tất là tùy ở việc Iraq tích cực cộng tác với IAEA và UNMOVIC. Iraq phải hoàn toàn chấp nhận trách nhiệm của mình.


“Nga, Đức và Pháp ghi nhận ở đây là vị thế họ đang bày tỏ đây giống với vị thế của phần lớn các quốc gia trong Hội Đồng Bảo An”.


Nhận định của Thời Điểm Maria: Có cái lạ ở đây là, trong khi Hoa Kỳ là một quốc gia tối tân tiến và dẫn đầu về tự do dân chủ và nhân quyền trên thế giới, thế mà lại phò chiến tranh, một thứ chiến tranh ra tay tấn công trước để ngăn ngừa nguy hiểm có thể xẩy ra cho mình cũng như cho đồng minh của mình, thì ba quốc gia liên minh Nga-Đức-Pháp, một nước Nga có một lịch sử Cộng Sản sắt máu, một nước Đức gây ra hai trận thế chiến I và II, và một nước Pháp chủ trương tẩy chay Kitô Giáo ra khỏi bản Hiến Pháp của Khối Hiệp Nhất Âu Châu, lại cùng nhau bảo vệ công lý và hòa bình bằng đường lối ngoại giao ôn hòa. Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao cả 15 nước, trong đó có cả Nga, Đức và Pháp, đã đồng thanh bỏ phiếu thuận cho Quyết Định 1441 của Hội Đồng Bảo An liên quan đến việc kiểm soát vũ khí Iraq cho đến khi phanh phui ra sự thật mới có quyết định khác, mà nay lại quay ra kình chống Hoa Kỳ, nếu không phải là vì Hoa Kỳ đã không theo đúng nguyên tắc công lý và coi thường công pháp?
 

Vũng Lầy Iraq: Còn Nước Còn Tát

Trong Huấn Từ Truyền Tin trưa Chúa Nhật hằng tuần của mình, tuần Thứ Năm Thường Niên ngày 9/2/2003 này, sau khi nhắc tới Ngày Thế Giới Bệnh Nhân XI sẽ được tổ chức tại Đền Thánh Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Washington DC Hoa Kỳ vào ngày Thứ Ba tới đây, Đức Thánh Cha đã kêu gọi như sau: “Vào thời điểm thế giới đang lo âu này, tất cả chúng ta cảm thấy nhu cầu phải quay về với Chúa để xin trọng ân hòa bình. Như Tôi đã nói đến trong tông thứ Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, “những thách đố trầm trọng thế giới đang phải đối diện ở vào khởi điểm của ngàn năm mới này khiến chúng ta nghĩ rằng chỉ còn cách duy nhất là trời cao ra tay can thiệp mới mang lại niềm hy vọng cho một tương lai tươi sáng hơn thôi” (số 40). Nhiều việc nguyện cầu đang diễn ra trong những ngày này ở các nơi khác nhau trên thế giới. Trong lúc Tôi hết lòng khuyến khích những việc làm này, Tôi mời gọi tất cả mọi người hãy cầm trang hạt Mân Côi lên để kêu cầu lời chuyển cầu của Rất Thánh Trinh Nữ, bởi vì, ‘người ta không thể lần hạt Mân Côi mà lại không cảm thấy mình không dấn thân một cách đặc biệt vào việc phục vụ cho hòa bình” (ibid. số 6).


Theo thông báo chính thức của văn phòng báo chí của Tòa Thánh, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II gửi vị đại diện của Ngài tới Baghdad ngày Thứ Hai 10/2/2003. Vị đại diện ĐTC này là ĐHY nguyên chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Công Lý và Hòa Bình người Pháp Roger Etchegaray, vị dù đã về hưu song cũng vẫn được ĐTC cử làm đại diện của Ngài lần vừa rồi vào Tháng 5/2002 tại Giêrusalem về vấn đề Đền Thờ Bêlem bị phong tỏa, một chuyến đi ngay sau đó đã làm cho tình hình trở lại bình thường. Về chuyến đi lần này, theo văn phòng báo chí của Tòa Thánh, “mục đích của sứ vụ đại diện giáo hoàng này là để bày tỏ cho tất cả mọi người thấy Đức Thánh Cha quan tâm đến hòa bình, cũng như để giúp cho các vị thẩm quyền Iraq phải tỏ ra nghiêm cẩn cộng tác một cách tốt đẹp với quốc tế theo đòi hỏi của công lý và công pháp, để bảo đảm cho những người dân này một sự thiện hòa bình cao cả”.


 

Theo chương trình, Đức Thánh Cha sẽ gặp Phó Thủ Tướng Iraq là Tarek Aziz, một người Công Giáo theo lễ nghi Chaldean vào ngày Thứ Sáu 14/2/2003, và theo nguồn tin báo của Ý thì Ngài cũng sẽ gặp ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan vào ngày Thứ Ba 18/2/2003.


Để tỏ tình đoàn kết, các vị Giám Mục Nam Dương đã gửi thư đề ngày 31/1/2003 cho các vị giám mục Iraq cho biết là các vị kêu gọi giáo dân Công Giáo Nam Dương thuộc 35 giáo phận thực hiện ngày toàn quốc cầu nguyện cho nhân dân Iraq Chúa Nhật 16/2/2003. Bức thư được ký bởi vị chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Nam Dương, đó là ĐHY Julius Darmaatmadja, TGM Jakarta, và ĐTGM Tổng Thư Ký Ignatius Suharyo ở Semarang, và gửi cho vị chủ tịch của Hội Đồng Giám Mục Iraq, với ý hướng như sau: “Chúng tôi cầu xin cho các vị lãnh đạo quốc tế và quốc gia được ơn khôn ngoan và biết thương cảm, đừng sử dụng võ lực để giải quyết vấn đề, mà biết lấy nỗi đau khổ kéo dài của nhân dân quí huynh như là một động lực để tìm kiếm đường lối ôn hòa trong việc giải quyết xung khắc”.

 

Hai vị trưởng hai phái đoàn thanh tra vũ khí là ông Blix và ElBaradei đã đến Baghdad họp hai ngày, Thứ Bảy và Chúa Nhật 8-9/2/2003. Qua ngày họp thứ nhất, Iraq đã trao thêm cho cho hai vị này một số văn liệu nữa với những lời giải thích tại sao chiến tranh gần xẩy tới mới đưa ra những thứ này. Cuộc họp vào ngày Chúa Nhật với tướng Amir al-Saadi, cố vấn khoa học của tổng thống Iraq, đã kéo dài 4 tiếng rưỡi, hơn dự định 1 tiếng rưỡi.

Ông ElBaradei cho biết cảm tưởng về cuộc gặp gỡ lần này như sau: “Trái banh hầu như hoàn toàn ở bên phần đất của Iraq”, và ông cho biết thêm là ông đã thấy được người Iraq “thay đổi lòng dạ”. Ông kết luận rằng: “Nếu chúng tôi thấy được tiến bộ nhanh chóng… thì tôi tin rằng chúng tôi sẽ được có thêm thời gian cần thiết để làm việc. Bao lâu chúng tôi nhận thấy tình trạng tiến bộ tốt đẹp thì tôi nghĩ rằng Hội Đồng Bảo An sẽ tiếp tục ủng hộ tiến hành các việc thanh tra”.

Tuy nhiên, khi ngỏ lời với cuộc tĩnh tâm của Đảng Cộng Hòa ở West Virginia, Tổng Thống Bush nói rằng việc thay đổi lòng dạ này “vẫn chưa đủ”: “Công việc của những thanh tra viên không phải là điều đình với Iraq mà là kiểm chứng xem Iraq có những thứ vũ khí đại công phá hay chăng?”
 

Vào Ngày Thứ Bảy, 8/1/2003, nhân dịp kỷ niệm 310 năm Đại Học William & Mary ở Willamburgh, Virginia, ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc là Kofi Annan đã cho biết cảm nghĩ và nhận định của ông về tình hình Iraq như sau: “Khi những q uốc gia muốn quyết định sử dụng võ lực, không phải để tự vệ mà là để đương đầu với những đe dọa rộng lớn hơn đối với nền hòa bình và an ninh thế giới, thì không gì có thể thay thế được tính cách hợp pháp chuyên nhất của Hội Đồng Bảo An. Tất cả chúng ta cần hiểu là Liên Hiệp Quốc không phải là một thực thể tách biệt hay xa lạ, khi tìm cách áp đặt ý muốn và kế hoạch của mình trên các quốc gia. Liên Hiệp Quốc là chúng ta đây; là quí vị và tôi đây. Nó là một liên minh quốc tế”. Tuy nhiên, vị tổng thư ký này cũng ghi nhận là sự đe dọa tấn công quân sự của Hoa Kỳ đã làm cho chính phủ Iraq phải tái công nhận với những thanh tra viên, và “đây là cơ hội cuối cùng”, nếu Iraq không biết lợi dụng, trái lại, cứ tiếp tục bất tuân hợp thì hội đồng này sẽ có những chọn lực cứng khác, căn cứ vào những khám phá của các thanh tra viên… Tới lúc đó, hội đồng này đành phải thi hành trách nhiệm của mình”. Nếu chiến tranh xẩy ra, “nó có thể gây ra những thiệt hại và khổ đau khủng khiếp cho nhân dân Iraq và có thể cả cho các nước láng giềng của họ nữa. Tất cả chúng ta, trước hết và trên hết là chính những vị lãnh đạo Iraq, phải có nhiệm vụ tránh né điều này, nếu chúng ta có thể làm. Thế nhưng, những vị khai lập của chúng ta không phải là những tay cầu an. Họ biết sẽ có những lúc võ lực cần phải được trị bằng võ lực”.


Những quốc gia Âu Châu như Nga, Pháp và Đức. Nga và Pháp là hai nước có quyền veto trong Hội Đồng Bảo An, và Đức là nước đang nắm trong tay quyền chủ tịch của hội đồng này, ba nước đang tìm những giải pháp ôn hòa để giải quyết vấn đề Iraq. Sau khi gặp Thủ Tướng Đức Gerhard Schroeder, Tổng Thống Nga Putin hôm Chúa Nhật 9/2/2003 cho biết ông không thấy có lý do gì cần phải giở trò quân sự cả: “Chúng tôi tin rằng chúng ta cần tiếp tục thực hiện tất cả mọi nỗ lực để tiến đến một giải pháp ôn hòa cho vấn đề khủng hoảng này. Vào lúc này đây chúng tôi không thấy bất cứ một nguyên nhân nào, một căn cớ nào cho việc sử dụng võ lực cả”. Tổng Thống Putin sẽ gặp Tổng Thống Pháp vào Thứ Hai 10/2/2003. Thủ Tướng Đức, cũng vào ngày Chúa Nhật 9/2/1003, đã phủ nhận nguồn tin cho rằng Đức và Pháp đã hợp tác để gửi sứ giả hòa bình đến Iraq để hỗ trợ cho các thanh tra viên. Theo Tổng Thống Putin cho biết thì dự án của Pháp và Đức có liên quan đến việc tường trình của hai vị lãnh đạo hai phái đoàn thanh tra tường trình cho Hội Đồng Bảo An vào ngày Thứ Sáu 14/2/2003 tới đây.

 

Trong khi đó, vấn đề Iraq lại liên quan cả đến Khối NATO nữa. Ở chỗ, vì Thổ Nhĩ Kỳ là một quốc gia hội viên thuộc thế giới Hồi Giáo duy nhất trong 19 quốc gia Âu Châu. Có ít là 3 quốc gia hội viên thuộc Tổ Chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương này nói rằng họ muốn hoãn lại việc quyết định liên quan đến việc gửi quân cụ tự vệ đến Thổ Quốc, một quốc gia ở bên cạnh Iraq và được Hoa Kỳ sử dụng làm căn cứ quân sự tấn công Iraq, vì sợ rằng việc làm này có thể làm hại đến những nỗ lực ngăn chặn chiến tranh trong lúc Hoa Kỳ đang tiến đến chỗ cho Thổ Quốc quân cụ sớm bao nhiêu có thể. Ông Tổng Thư Ký của tổ chức NATO George Robertson đã định ngày Thứ Hai 10/2/2003 là hạn cuối cùng cho 19 quốc gia hội viên phải chính thức nộp cho những chuyên viên quân sự danh sách những công việc tự vệ. Pháp, Đức và Bỉ cho tới Thứ Hai có thể phủ quyết dự án quân sự là những gì được phác ra cách thức để bảo vệ Thổ Quốc cũng như khi nào sẽ gửi các quân cụ cần thiết tới nước này. Các viên chức Pháp Quốc muốn nước Thổ chính thức lên tiếng xin NATO giúp tự vệ trước khi NATO bật đèn xanh. Vì, theo nước Pháp này thì việc bắt đầu sửa soạn quân sự là quá sớm, sẽ làm hại đến những nỗ lực của Liên Hiệp Quốc trong việc chấm dứt cuộc khủng hoảng Iraq một cách ôn hòa. Theo Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Rumsfeld trong cuộc họp về an ninh tuần vừa rồi tại Đức thì “các quốc gia thuộc khối NATO phải… dấn thân bảo vệ Thổ Quốc. Những quốc gia nào ngăn cản liên minh này tỏ ra những biện pháp tối thiểu nào đó để thực hiện việc bảo vệ ấy sẽ gây nguy hại đến thế giá của liên minh NATO…”. Ông bộ trưởng Hoa Kỳ này cho việc lưỡng lự của một số nước thuộc khối NATO là “điều không hiểu nổi”.

 

Trong một cuộc thăm dò được CNN và tờ nguyệt san Times thực hiện bằng điện thoại với 1003 người lớn Hoa Ky hôm Thứ Năm 6/2/2003 vừa rồi, có 75% tham dự viên trả lời cho biết họ nghĩ rằng không thể tránh được cuộc chiến tranh đánh Iraq (hồi Tháng Giêng mới có 67%), 20% cho rằng có thể tránh được, tháng vừa rồi có 31% nói có thể ngăn chặn. 52% của cùng cuộc thăm dò này cho rằng Tổng Thống Bush đã không tiến đến vấn đề chiến tranh quá nhanh, trong khi có 46% nghĩ ngược lại. Về vấn đề Iraq có gây ra một đe dọa tức khắc hay chăng, 39% cho rằng có, 47% nói rằng không, và 13% cho rằng Iraq chẳng có đe dọa tí nào cả. Về hậu quả của cuộc chiến tranh, 77% cho rằng sẽ xẩy ra nhiều cuộc khủng bố ở Mỹ hơn, 68% cho rằng sẽ có những cuộc ôm bom tự sát khủng bố ở Hoa Kỳ và 64% cho rằng sẽ có một cuộc tấn công giống như biến cố 911. 90% nghĩ giá xăng sẽ tăng nếu xẩy ra cuộc tấn công này và 59% cho rằng kinh tế Hoa Kỳ sẽ bị suy thoái

 

Giằng Co trong ngoài Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc

 

4/2 Thứ Ba. Mặc dù Thủ Tướng Blair của Hiệp Vương Quốc, trong cuộc họp thượng đỉnh Anh Pháp ở Le Touquet ở miền bắc nước Pháp, cố gắng thuyết phục Tổng Thống Pháp Jacques Chirac hôm nay, vị tổng thống này cũng cương quyết chống lại chiến tranh trước khi thanh tra viên hoàn tất công việc của họ và quyền quyết định chiến tranh thuộc Hội Đồng Bảo An: “Về vấn đề Iraq, chúng tôi có những phương thức khác nhau, thế nhưng trước hết và trên hết chúng tôi có hai niềm xác tín căn bản giống nhau. Thứ nhất đó là chúng ta phải giải giới Iraq, và điều xác tín chung thứ hai đó là vấn đề giải giới này phải được thực hiện trong giới hạn Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý như thế”.


Ngoại trưởng Trung Hoa Tang Jiaxuan, ở Nữu Ước để tham dự cuộc họp hôm nay của Hội Đồng Bảo An về Iraq, đã nói tất cả mọi bên “phải nỗ lực giải quyết chính trị ổn thỏa về vấn đề Iraq trong phạm vi Liên Hiệp Quốc”. Vị ngoại trưởng này cho biết thêm các thanh tra viên cần thêm thời gian để làm công việc của họ và quá sớm để đi đến chỗ kết luận là Baghdad vi phạm các quyết định của Liên Hiệp Quốc về việc giải giới của họ. Hội Đồng Bảo An không được đi đến chỗ quyết định cho đến khi các thanh tra viên tường trình dứt khoát những khám phá và quan điểm của họ. Ông cho biết Trung Hoa luôn ủng hộ những giải pháp ôn hòa cho những vấn đề quốc tế. Các nhà ngoại giao ở Bắc Kinh cho biết Trung Hoa sát cánh với Pháp và Nga trong việc ngăn ngừa Hoa Kỳ ra tay tấn công Iraq một cách đơn phương. Các nhà ngoại giao này còn nói, nếu có một quyết định mới của Hội Đồng Bảo An cho phép sử dụng võ lực đánh Iraq trong một số trường hợp nào đó thì Bắc Kinh có thể không bỏ phiếu.


Thứ Tư 5/2/2003. Những chứng cớ Bộ Trưởng Nội Vụ Hoa Kỳ Powell cho thấy Iraq bất hợp tác và liên hệ khủng bố.

 

Chứng cớ về một cuộc đối thoại được thâu băng liên quan đến việc giấu diếm vũ khí cho khỏi bị thanh tra viên kiểm soát: “Chúng tôi đang giữ chiếc xe đã được chỉnh trang này. Chúng tôi sẽ nói thế nào nếu một người trong họ trông thấy nó đây?”. Một viên chức khác trả lời viên chức vừa nói rằng: “Tôi sẽ đến gặp anh vào buổi sáng. Tôi lấy làm lo ngại. Tất cả các anh có để lại điều gì không?”, “Chúng tôi đã dọn dẹp hết mọi sự. Chúng tôi không còn để lại điều gì cả”.


Chứng cớ về những hình ảnh do vệ tinh chụp được liên quan đến những hầm quân nhu hóa chất còn hoạt động ở địa điểm Al-Musayyib là một trong 65 cơ sở như vậy.


Chứng cớ về những khoa học gia bị cấm không được tham dự những cuộc phỏng vấn của thanh tra viên, theo vị bộ trưởng này thì Tổng Thống Saddam Hussein đã buộc những khoa học gia phải “ký vào những văn bản nhìn nhận là việc tiết lộ tín liệu đáng phải chịu án tử. Chế độ này chỉ cho phép thực hiện những cuộc phỏng vấn với những thanh tra viên trước sự hiện diện của một viên chức Iraq”.


Chứng cớ về những phòng thí nghiệm di động các thứ vũ khí sinh trùng theo như tình báo Hoa Kỳ cho biết: “Những chiếc xe vận tải và xe lửa dễ di chuyển và được tạo ra để tránh bị các thanh tra viên khám phá”, vị bộ trưởng này nói. Ông còn cho biết chứng cớ này từ 4 nguồn liệu nguyên si, trong đó từ một viên kỹ sư hóa học Iraq đã từng trông coi một trong những cơ sở này và từ một kỹ sư dân sự Iraq biết được những chi tiết của chương trình hành động này.


Chứng cớ về hơi khí thần kinh không được Iraq trình khai, khoảng chừng từ 100 đến 500 tấn các thứ khí giới hóa chất, bao gồm cả 4 tấn hơi khí thần kinh VX: “Chúng tôi có chứng cớ về việc hiện hữu của những thứ vũ khí này. Những cái chúng tôi không có là chứng cớ Iraq đã hủy hoại chúng đi hay chúng đang ở đâu thôi”, Bộ Trưởng Powell cho biết.


Chứng cớ về việc Iraq tiếp tục theo đuổi vũ khí nguyên tử, ông nói: “Chúng tôi không thấy Saddam Hussein cho biết đã loại bỏ dự án về các thứ vũ khí nguyên tử. Trái lại, chúng tôi có hơn một thập niên chứng cớ cho thấy hắn vẫn quyết tâm tìm chiếm những thứ khí giới nguyên tử”. Ông này còn cho biết Iraq đã tiếp tục cố gắng chế tạo các thứ vũ khí nguyên tử và các phi đạn tầm xa có khả năng bắn tới một khảng cách 1200 cây số hay 745 dặm.


Chứng cớ có dính dáng tới nạn khủng bố. Theo ông, Iraq đã có những liên hệ cao cấp và dài lâu với tổ chức khủng bố al Qaeda, những tay lẩn trốn pháp luật al Qaeda đến từ A Phú Hãn đã ẩn nấp ở miền bắc Iraq và các đồng bọn của al Qaeda đang hoạt động ở Baghdad.


Những lời phát biểu của các quốc gia thành viên của Hội Đồng Bảo An.


Hoa Kỳ – Bộ Trưởng Nội Vụ Colin Powell: “Quí vị đồng bạn, chúng ta mang trách nhiệm đối với công dân của chúng ta, chúng ta có trách nhiệm với tổ chức này, trong việc xem xét những quyết định của chúng ta được tuân hợp. Chúng ta đã viết quyết định 1441 không phải để đi đến chỗ chiến tranh, chúng ta đã viết quyết định 1441 là để cố gắng bảo trì hòa bình. Chúng ta đã viết quyết định 1441 là để cho Iraq một cơ hội cuối cùng. Iraq cho tới nay đã không lợi dụng cơ hội cuối cùng ấy. Chúng ta không được thụt lui trước bất cứ sự gì xẩy ra trước mắt chúng ta. Chúng ta không được lỗi phận sự và trách nhiệm của chúng ta đối với những người công dân của các xứ sở được chúng ta đại diện cho họ nơi tổ chức này đây”.


Trung Hoa – Bộ Trưởng Ngoại Giao Tang Jixuan: “Hai cơ quan thanh tra của Liên Hiệp Quốc đang hết sức vất vả làm việc và công việc của họ đáng chúng ta cảm phục. Theo quan điểm của họ thì hiện nay họ chưa thể đúc kết vấn đề, nên họ muốn tiếp tục công việc thanh tra. Chúng ta phải tôn trọng quan điểm của hai cơ quan này và ủng hộ việc làm tiếp tục của họ”.


Pháp – Bộ Trưởng Ngoại Giao Dominique de Villepin: “Hiện nay, vì chính sách thanh tra do Quyết Định 1441 muốn làm cần phải được củng cố, vì nó chưa hoàn toàn khám phá hết. Việc sử dụng võ lực chỉ có thể là phương tiện cuối cùng mà thôi. Tại sao lại đi đến chỗ chiến tranh trong khi đó vẫn còn một khoảng trống ở Quyết Định 1441 chưa được sử dụng chứ? Tiếp tục với lý lẽ của bàn quyết định này, chúng ta phải tiến sang một giai đoạn mới và củng cố hơn nữa việc thanh tra này. Nếu phải chọn lựa giữa ra tay can thiệp bằng quân sự và chính sách thanh tra chưa xong vì thiếu sự cộng tác về phía Iraq, thì chúng tôi sẽ chọn việc cương quyết áp dụng đường lối thanh tra”.


Đức Quốc – Bộ Trưởng Ngoại Giao Joschka Fischer: “Những nguy hiểm của một hành động quân sự cùng với những hậu quả của nó đã rõ ràng thấy trước mắt. Chính vì hiệu quả của việc các thanh tra viên làm mà chúng ta cần phải tiếp tục tìm một giải pháp êm thắm cho cuộc khủng hoảng này. Quí vị đồng bạn thân mến, trong thế giới của thế kỷ 21 này, Liên Hiệp Quốc đóng vai chính trong việc ngăn ngừa xung đột, giải quyết khủng hoảng và xây dựng hòa bình. Căn cứ vào Quyết Định 1441 cũng như theo chiều hướng của kinh nghiệm thực tế, chúng ta cần tăng cường các phương tiện thanh tra và kiểm soát”.


Pakistan – Bộ Trưởng Ngoại Giao Khurshid Kasuri: “Những tóm tắt của Tiến Sĩ Blix và Tiến Sĩ Baradei trình bày ngày 27/1 không có nghĩa là đúc kết. Chúng tôi tin rằng chúng ta cần phải chờ cho đến khi họ đúc kết, một đúc kết tích cực hay tiêu cực, theo Quyết Định 1441. Những gì được các thanh tra viên tường trình là để tạo nên, là vấn đề thiết yếu để Hội Đồng Bảo An căn cứ vào đó phán quyết đối với vấn đề tuân hợp của Iraq”. Thưa Ngài Chủ Tịch, cộng đồng quốc tế chính đáng trong việc tìm cách làm cho Iraq có thể tuân hợp sớm bao nhiêu có thể đối với những quyết định của hội đồng này liên quan đến việc loại trừ những thứ vũ khí đại công phá của nước này”.


Liên Bang Nga – Bộ Trưởng Ngoại Giao Igor Ivanov: “Gần đây, khi đang giải quyết ổn thỏa vấn đề Iraq, chúng ta thường nghe câu ‘sắp hết giờ rồi’. Dĩ nhiên, Quyết Định 1441 cần phải được đẩy mạnh nhanh hơn để chiếm đạt những kết quả thực tế, thế nhưng bản quyết định này không ấn định thời gian. Chỉ có những thanh tra viên mới có thể cho Hội Đồng Bảo An biết thời gian bao lâu họ cần để thi hành những công tác họ được ủy thác mà thôi. Theo chiều hướng này, chúng ta không được – chúng ta không thể vạch định cơ hội cho Hội Đồng Bảo An này là vào một lúc nào đó hội đồng cần phải chấp nhận một quyết định mới, và có thể hơn một quyết định nữa. Vấn đề chính ở đây là chúng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh nỗ lực của mình trong những gì có thể làm để giúp cho tiến trình thanh tra được dễ dàng, một tiến trình đã cho thấy hiệu quả của nó, cũng như để có thể áp dụng bằng đường lối êm thắm những quyết định của Hội Đồng Bảo An”.


Syria – Vị Lãnh Sự ở Liên Hiệp Quốc Mihail Wehbe – “Vùng đất của chúng tôi đang căng thẳng đứng ở những giao lộ bị chao đảo giữa hòa bình và chiến tranh. Nghĩ rằng chiến tranh có thể là một trong những giải quyết trước khi Hội Đồng Bảo An giải quyết thì tự nó là một chứng cớ cho thấy chúng ta hoàn toàn tất bại trong việc áp dụng Quyết Định 1441 của chúng ta, trong khi đó, hội đồng của chúng ta đây, chúng tôi tin rằng, vẫn còn có thể thực hiện nhiều nỗ lực để tiến đến chỗ giải quyết ổn thỏa vấn đề Iraq xứng hợp với thẩm quyền và trách vụ của Hội Đồng này trong việc bảo trì nền hòa bình và an ninh quốc tế. Syria cũng tin rằng giải pháp chiến tranh chẳng những là một chứng cớ hội đồng này thua bại trong việc thi hành nhiệm vụ của mình, mà còn là một chứng cớ thua bại của guồng máy quốc tế, là guồng máy, trong giai đoạn này, hơn bất cứ thời điểm nào khác trước đây, đang tùy thuộc vào bản hiến chương Liên Hiệp Quốc như một cứ điểm để làm cho hòa bình chủ trị trên khắp thế giới”.


Hiệp Vương Quốc – Thứ Trưởng Ngoại Giao Jack Straw: “Nếu việc bất hợp tác tiếp tục xẩy ra thì hội đồng này phải thực hiện trách nhiệm của mình. Thế giới của chúng ta phải đối diện với nhiều mối đe dọa, từ tình trạng nghèo khổ và bệnh tật đến nội chiến và khủng bố. Làm việc qua tổ chức cỡ lớn này, chúng ta có khả năng để cùng nhau đối đầu với những thách đố này. Thế nhưng, nếu chúng ta làm như thế, thì những quyết định chúng ta ban hành cần phải có một quyền lực mạnh hơn là lời nói xuông. Đây là giây phút Saddam và chế độ Iraq chọn lựa, nhưng cũng là giây phút cho tổ chức này, cho Liên Hiệp Quốc chọn lựa nữa”.


Thứ Năm 6/2/2003. Các thanh tra viên lần đầu tiên được phép phỏng vấn riêng các khoa học gia Iraq. Cuộc phỏng vấn kéo dài 3 tiếng 32 phút. Hai ông lãnh đạo hai pah1i đoàn thanh tra, Blix và ElBaradei sẽ đến Baghdad cuối tuần này vào lần thứ ba trong hai tháng qua. Ông Bilx nói, chúng tôi muốn thấy nhiều thứ hơn nữa cuối tuần này”, như vấn đề phỏng vấn riêng các khoa học gia, vấn để sử dụng những chuyến bay thị sát U-2, và vấn đề Iraq ra luật cấm các hãng sản xuất các thứ vũ khí đại công phá.

Tổng Thống Bush, tại Tòa Bạch Ốc hôm nay, qua truyền hình, tố giác thêm về Iraq như thế này: “Chúng tôi có những nguồn tin cho chúng tôi hay là Saddam Hussein mới đây đã ban quyền cho các viên sĩ quan lãnh đạo trận chiến sử dụng các thứ vũ khí hóa chất, những thứ khí giới mà nhà độc tài này nói với thế giới rằng hắn không có. Chúng tôi sẽ không chờ xem những gì các tên khủng bố hay các quốc gia khủng bố ra tay với những thứ khí giới hóa chất, sinh trùng, phóng xạ hay hạch nhân. Những vi phạm các quyết định của Hội Đồng Bảo An của chế độ Iraq đã rõ ràng, và họ tiếp tục cho tới giờ phút này. Chế độ này không bao giờ chấp nhận về một lò khổng lồ các thứ vũ khí sinh trùng và hóa chất… trái lại, họ đang theo đuổi một vận động thận trọng trong việc bưng bít những chất liệu những thứ khí giới của mình và giấu diếm hay hăm dọa các chuyên viên và khoa học gia chính yếu, tất cả những điều ấy đều tỏ ra cho thấy họ trực tiếp bất tuân hợp với Quyết Định 1441 của Hội Đồng Bảo An. Hiệp Chủng Quốc đón nhận và ủng hộ một bản quyết định mới rõ ràng cho thấy là Hội Đồng Bảo An cương quyết với những đòi hỏi trước đây. Tuy nhiên, những quyết định không đưa đến vấn đề giải quyết là bao nhiêu thì Hiệp Chủng Quốc cùng với liên minh các quốc gia đang tăng con số nhất quyết định bất cứ điều gì cần thiết để bênh vực lấy mình cũng như để giải giới chế độ Iraq”.

Bài trình bày 75 phút của Bộ Trưởng Nội Vụ Hoa Kỳ Powell về các thứ chứng liệu cho thấy Iraq vi phạm quyết định 1441 của Hội Đồng Bảo An hôm qua tất nhiên đã được các nước vốn ủng hộ là Hiệp Vương Quốc, Tây Ban Nha và Úc Đại Lợi công khai khen tặng. Thế nhưng, bài trình bày với những chứng liệu điện toán, vệ tinh và tình báo của ông không có tác dụng mấy trên các nước vẫn tỏ ra hoài nghi về mưu đồ của Hoa Kỳ. Pháp và Đức nói rằng họ cần xem xét chứng cớ và muốn cho các thanh tra viên thêm thời gian. Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan cho biết ông vẫn tin rằng chiến tranh đánh Iraq “không phải bất khả tránh”. Bộ Trưởng Ngoại Giao Trung Hoa Tang Jiaxuan, bên ngoài phòng họp của Hội Đồng Bảo An đã rõ ràng cho biết chủ trương của Trung Hoa: “Bởi thế, vấn đề cuối cùng của tôi là cho dù hiện nay quí vị có nghe thấy nói nhiều đến việc khó lòng tránh được chiến tranh xẩy ra, Trung Hoa vẫn tin tưởng rằng vấn đề này cần phải được giải quyết bằng đường lối chính trị, trong phạm vi của Hội Đồng Bảo An”. Ngoại Trưởng Bulgaria, Solomon Passy, nói rằng Iraq phải ăn khớp với Quyết Định của Hội Đồng Bảo An hạn chót vào ngày 14/2, ngày thanh tra viên tường trình lần hai cho Hội Đồng này, bằng không sẽ buộc phải làm như vậy. Ngoại Trưởng Tây Ban Nha Ana Palacio nhận định là Iraq không chịu hợp tác với thanh tra viên: “Chỉ có một giải thích duy nhất cho vấn đề này, đó là Saddam Hussein đã không từ bỏ ý định sử dụng các thứ vũ khí đại công phá”. Vị lãnh sự của Syria, Mikhail Wehbe, sau cuộc họp, đã cho biết ông rất vui vì rất nhiều phần tử của hội đồng này nghiêng về giải pháp êm thắm. Ông cũng cho biết, ông Powell đã không thể tỏ cho thấy mối liên hệ thực sự giữa Iraq và “những tổ chức được gọi là khủng bố”. Vị Lãnh Sự Iraq ở Liên Hiệp Quốc là Mohammed Aldouri cho bài nói của ông Powell “hoàn toàn không liên hệ gì tới sự thật”. Ông phủ nhận việc xứ sở của ông có những thứ khí giới đại công phá và nhấn mạnh là Iraq đang cộng tác với các thanh tra viên. Ông nói những băng âm thanh của ông Powell có thể là những gì bày tạo. Về vấn đề dính dáng với tổ chức khủng bố al Qaeda, ông nói Iraq “không xấu hổ trong việc chấp nhận điều này”.

Thứ Sáu 7/2/2003. Ông Blix, Trưởng Ủy Ban Thanh Tra, Kiểm Chứng và Thị Sát Liên Hiệp Quốc (the U.N. Monitoring, Verification and Inspection Commission), hôm nay, trên đường ông đi vào Trụ Sở Trung Ương Cơ Quan Nguyên Tử Lực Quốc Tế IAEA ở Vienna Áo Quốc, đã cho biết: “Tôi nghĩ họ dường như đang tỏ ra cố gắng hơn”.

 

Vị Quyền Thủ Tướng Iraq sẽ gặp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II


Theo tin tức của Tòa Thánh cho biết, ông Tariq Aziz, quyền thủ tướng Iraq, sẽ gặp ĐTC vào ngày 14/2/2003 tới đây: “Vị đang giữ vai trò Quyền Thủ Tướng của chính quyền Iraq là ông Tariq Aziz đã xin được gặp Đức Giáo Hoàng. Đức Giáo Hoàng sẽ tiếp Ông Tarek Aziz trong buổi triều kiến tại Vatican vào ngày 14/2”, vị giám đốc văn phòng báo chí của Tòa Thánh cho biết như thế vào ngày Thứ Tư 5/2/2003. Ông Aziz là một phần tử thuộc thiểu số Kitô hữu Iraq, đã xác nhận tin này trong một cuộc phỏng vấn với những phóng viên ở Baghdad của những tờ nhật báo Le Monde và Le Figaro. Ông cho biết: “Tôi đã xin được gặp Đức Gioan Phaolô II, theo lời khuyên của bạn bè ở Ý cũng như ở Vatican, và tôi đã được đáp lời một cách tích cực từ chính Đức Giáo Hoàng”.

 

Những Phản Ứng từ Hàng Lãnh Ðạo Tôn Giáo

 

Đức Tổng Giám Mục Chính Thống Amfilohije ở Montenegro dẫn đầu phái đoàn đại biểu đến Rôma tuần này để cổ võ việc trở lại vấn đề đại kết với Giáo Hội Công Giáo. Khi vị Tổng Giám Mục Chính Thống này chào Đức Thánh Cha hôm nay, 6/2/2003, lợi dụng cơ hội để kêu gọi hòa bình cho Iraq như sau: “Trong nguyên thế kỷ 20 thôi, Giáo Hội của chúng tôi và nhân dân chúng tôi đã phải trả qua 7 trận chiến, và cho đến hôm nay, họ vẫn chịu đựng những vết thương sâu nặng, nhất là ở Kosovo”. Đó là lý do Giáo Hội Chình Thống Serbia “cùng với Đức Thánh Cha yêu cầu những quyền lực trên thế giới, nhất là Hiệp Chủng Quốc và các quốc gia liên minh của nước này đừng lao đầu vào một trận chiến mới, trận đánh lần này đánh Iraq. Cuộc chiến tranh mới này sẽ là một thua bại mới cho tất cả chúng ta và là một xỉ nhục mới cho toàn thể nhân loại, chứ không phải chỉ là cuộc hạ nhục và hủy hoại nhân dân Iraq trọng quí mà thôi”.


Giáo Hội Chính Thống Serbia có tất cả 9 triệu tín đồ, sống ở 32 giáo phận khắp thế giới, kể cả 4 giáo phận ở Bắc Mỹ Châu, 2 giáo phận ở Tây Âu, 2 ở Úc Châu và Tân Tây Lan.


Theo tin của Zenit ngày Thứ Tư 5/2/2003,
Hội Đồng Giám Mục Thụy Sĩ đã lên tiếng về chiều hướng tấn công Iraq như sau:


“Trong mấy ngày này, trong tất cả mọi phương tiện truyền thông đại chúng, không còn vấn đề khuyên can về một cuộc chiến tranh đánh Iraq, mà là về ngày bắt đầu của những thứ thù hận. Tệ hơn nữa, một số lại còn nói đến vấn đề hậu chiến nữa. Chúng tôi đã giật mình bởi thứ phát ngôn ấy và chúng tôi muốn mạnh mẽ nhắc lại việc chúng tôi chống lại một thứ chiến tranh mà nạn nhân chính của nó sẽ là thành phần thường dân. Nhân dân Iraq, nhất là trẻ em, nhiều năm qua đã phải chịu đựng một cách dã man những hậu quả của cuộc cấm vận quốc tế trừng phạt xứ sở này. Chúng ta đừng bắt họ phải tiếp tục tử đạo hơn nữa, trong khi chúng ta chưa tận dụng tất cả mọi đường lối đối thoại và mối nguy hiểm gây ra bởi nhà độc tài Iraq vẫn chưa được chứng thực. Hơn nữa, chúng ta phải nhận thức là cuộc chiến tranh đánh Iraq sẽ làm ‘tổn thương’ nhiều người Hồi Giáo và chắc chắn sẽ làm phát sinh một phản tác hiệu vốn hy vọng đạt được, tức là sẽ làm mạnh mẽ bùng lên mối đe dọa khủng bố nơi những kẻ cuống tín Hồi Giáo. Chúng tôi kêu gọi tất cả mọi tín hữu của xứ sở chúng tôi đây hãy tăng bội lời nguyện cầu của mình để chiến tranh không bùng nổ và cảm quan chung được chủ trị”.


Theo nguồn tin Zenit ngày 4/2/2003 thì chính hôm nay
Hội Đồng Giám Mục Ấn Độ (CBCI) đã bày tỏ mối lo âu của mình về “những đám mây chiến tranh” đang vây bủa trên bầu trời Tây Á. Các vị giám mục CBCI cũng tỏ ra quan ngại “về quyết tâm mạnh mẽ của một số quốc gia đã công khai tuyên bố sẽ đi đến chỗ chấm dứt việc sản xuất các thứ vũ khí đại công phá khi quyết tâm này làm cho bầu khí trở thành tệ hơn. Bởi thế, cộng đồng quốc tế phải thực hiện mọi nỗ lực để ngăn chặn cái thảm trạng do loài người tạo nên ấy, và tìm những đường lối khác để giải quyết lâu dài cho vấn đề của leo thang vũ khí… Bất cứ ở trường hợp nào cũng không thể chấp nhận việc khủng bố vì nó không công nhận quyền lợi căn bản của con người trong việc được sống một cuộc đời tự do không còn lo âu sợ hãi… Phương dược để chấm dứt những hoạt động và tổ chức khủng bố như thế có thể sẽ gây ra một cuộc xung đột võ trang toàn diện”.
 

Hôm thứ Bảy 1/2/2003, CNN đã cho biết Vị Giám Mục lãnh đạo Giáo Hội United Methodist là Melvin G. Talbert, 68 tuổi, đã lên tiếng nhận định rằng: “Iraq chưa từng phạm đến chúng ta. Chiến tranh chỉ làm xuất hiện thêm nhiều tay khủng bố và tạo nên một thế giới nguy hiểm hơn cho con cái của chúng ta mà thôi”.

Ngày hôm sau, Chúa Nhật 2/2/2003,
Đức Hồng Y James Francis Stafford, nguyên TGM Denver Colorado, và hiện làm chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Về Giáo Dân, một chức vụ cao cấp nhất trong hàng giáo phẩm Hoa Kỳ ở Tòa Thánh Vatican, đã nói với Nguyệt San Inside the Vatican về tình hình chiến tranh ngăn ngừa của Hoa Kỳ như sau: “Chính phụ Liên Hiệp Quốc gần đây đã đe dọa sử dụng những thứ vũ khí nguyên tử đánh Iraq. Việc này bất xứng với một nền dân chủ tiêu biểu lão thành nhất thế giới. Ngoài ra, chính phủ Hiệp Chủng Quốc đã dung hòa những nguyên tắc căn bản của mình bằng việc ngấm ngầm cho phép sử dụng việc hành hình từ ngày 11/9/2001”. Vị Hồng Y này cũng đã thẳng thắn phê bình Tổng Thống Saddam Hussein vì ông đã không hề lên tiếng phản đối những cuộc khủng bố vào Trung Tâm Thương Vụ Thế Giới. Theo tờ Inside the Vatican thì lời phê bình của vị hồng y này phát biểu vào ngay trước ngày ông James Nicholson, lãnh sự Hoa Kỳ ở Tòa Thánh, tổ chức một cuộc hội nghị ở Rôma để bênh vực cho lập trường của Hoa Kỳ về cuộc chiến tranh “tấn công trước để đề phòng” (pre-emptive attack), trong hội nghị này Michael Novak, một thần học gia Công Giáo Hoa Kỳ, đã được mời đến thuyết trình.

Phản ứng về bài diễn văn của Tổng Thống Bush 28/1/2003

Thứ Tư 29/1/2003:

Úc Châu và Nhật Bản tỏ ra ủng hộ bài nói này. Hiệp Vương Quốc thì khỏi nói, phát ngôn viên của Thủ Tướng Blair khen bài nói “rất hùng hồn” về trường hợp Saddam Hussein.

Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp là ông Dominique de Villepin cho biết Pháp sẽ tham dự vào hành động quân sự nếu Liên Hiệp Quốc quyết định. Thế nhưng, ông thêm: “Khi dám đụng tới thế giới Ả Rập là một trách nhiệm nặng nề. Trách nhiệm của cộng đồng quốc tế rất lớn lao. Nó là vấn đề chiến tranh và hòa bình. Nó là một chọn lựa người ta không được coi thường”.

Phát ngôn việc của ngoại giao vụ Nga là ông Alexander Yakovenko cho biết: “Chúng ta được hướng dẫn bởi những nguyên tắc của luật lệ quốc tế và những thẩm quyền của Hội Đồng Bảo An, nên như chúng tôi đã nói, chúng tôi không thấy những lý do để sử dụng quân lực. Khả năng theo qui lệ chính trị và ngoại giao chưa được tận dụng hết cỡ, nên chúng tôi nghĩ rằng các thanh tra viên quốc tế cần phải có cơ hội để tiếp tục việc làm của họ”.

Trưởng ban ngoại giao vụ của Khối Hiệp Nhất Âu Châu là ông Javier Solana cho rằng “trọng trách phải là Liên Hiệp Quốc”.

Tổng Thống Đức là Johannes Rau cảnh giác Hoa Kỳ về việc đơn phương sử dụng quân lực với lập luận là việc chiến đấu với nạn khủng bố và độc tài “không phải là vấn đề đối với một quốc gia duy nhất”.

Chính hôm Thứ Ba, 28/1/2003, ngày Tổng Thống Bush đọc bài diễn văn, ông ElBaradei, làm đầu cơ quan nguyên tử lực quốc tế IAEA đã nói với CNN là vấn đề chiến tranh với Iraq có thể tránh được.

“Cộng đồng thế giới cản thấy rất bất nhẫn. Hầu hết bất mãn là những thứ khí giới đại công phá chồng chất ở Iraq đã không được chấm dứt sau 11 năm thực hiện những cuộc thanh tra. Tuy nhiên, tôi không tin rằng chúng ta đã vận dụng hết mọi giải pháp hòa bình. Ông Hans Blix và tôi tin rằng chúng ta phải thực hiện một nỗ lực cuối cùng. Nếu chúng ta không thành công thì các hậu quả của nó sẽ trở thành trầm trọng khi Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc quyết định. Thế nhưng, chúng ta phải cố gắng thực hiện mọi nỗ lực duy nhất này trước khi chúng ta sử dụng đến chiến tranh. Tôi sẽ làm hết sức của tôi, ông Hans Blix sẽ làm hết sức ông, cộng đồng thế giới sẽ làm hết sức mình. Tôi vẫn nói rằng có thể tránh được chiến tranh… thế nhưng vấn đề là tùy ở Iraq trong mấy tuần lễ tới đây… “ Ông này cho biết nhóm thanh tra của ông không có chứng cớ gì về việc Iraq nhập cảng hay xuất cảng chất uranium. Ông kêu gọi Hiệp Chủng Quốc và Hiệp Vương Quốc cung cấp tin tức tình báo hơn nữa về những chỗ Iraq có thể giấu diếm các thứ vũ khí cấm này. “Tôi nghĩ rằng nắp đã được mở ra, nhưng chúng ta muốn thấy nước chảy vào mấy tuần tới đây”.

Iraq phủ nhận lời cáo buộc của Tổng Thống Bush cho rằng Iraq có dính dáng đến tổ chức Al Qaeda. Ông Quyền Vị Thủ Tướng là Tariq Aziz đã nói tgrong cuộc phỏng vấn ở ABC News là: “Tôi hoàn toàn phủ nhận điều này. Tôi hoàn toàn phủ nhận điều này. Và tôi thách Bush và chính phủ của ông ta trưng ra bất cứ, bất cứ chứng cớ nào về điều này”.

Cũng Thứ Tư, sau ngày Tổng Thống Bush đọc bài diễn văn, qua một cuộc họp được truyền hình với các tướng lãnh của mình, Tổng Thống Saddam Hussein nói Hoa Kỳ không có quyền tấn công xứ sở của ông, và ông sẵn sàng đối phó với tất cả mọi thảm kịch có thể xẩy ra: “Chúng ta phải thận trọng khi có bất cứ lực lượng tàn ác nào cố gắng tấn công chúng ta…. Khi họ xua một đại quân tấn công Iraq lần thứ hai họ phải lưu ý là những người Iraq không dễ gì bị bại đâu và những người Iraq đã sẵn sàng mọi sự có thể rồi”.

Một tờ nhật báo hàng đầu ở Iraq là al-Thawra của Đảng Baath đã lên án bài diễn văn của Tổng Thống Bush, cho rằng: “Nó đầy những lời tố cáo mà chẳng có bằng chứng cụ thể nào. Bài nói hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì, với đầy những lời la lối om sòm và kiểu náo nhiệt Hollywood”.

Ngày hôm sau của bài diễn văn, Vị Lãnh Sự của Iraq ở Liên Hiệp Quốc là Aldouri kêu gọi Liên Hiệp Quốc can thiệp vào những biến động xẩy ra sau bài diễn văn của Tổng Thống Bush: “Vấn đề là quí vị có thể tố cáo chúng tôi bao nhiêu quí vị muốn, thế nhưng quí vị không thể cung cấp một tí chứng cớ nào. Chúng tôi kêu gọi Liên Hiệp Quốc hãy gánh vác trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ Iraq khỏi thứ chính phủ thực dân đang lên cơn sốt dầu hỏa này… Cuộc xâm chiếm của Hoa Kỳ đã không thành công ở Việt Nam thì sẽ không bao giờ thành công ở Iraq đâu… Iraq đã thực hiện tất cả mọi quyết định liew6n quan đến những vấn đề giải giới. Chúng tôi sẽ tiến hơn nữa và cộng tác tích cực với các thanh tra viên để chứng minh cho thấy những tố cáo này chẳng là gì khác ngoài những chuyện bịa đặt”.

Chính Ngày Thứ Tư 29/1/2003 này, Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc cũng họp để bàn đến vấn đề trường trình của thanh tra viên hôm Thứ Hai vừa rồi. Hai vị lãnh đạo thanh tra đã bị hạch hỏi bởi các quốc gia thành viên về thời gian bao lâu mới xong việc thanh tra. Dĩ nhiên Hiệp Chủng Quốc và Hiệp Vương Quốc luôn đi với nhau, nhưng Pháp, Nga, Đức và Tầu chống lại vấn đề đánh đấm trong lúc này. Ông ElBaradei đã công khai xin Hội Đồng cho thanh tra viên thêm thời gian, còn ông Blix sẵn sàng đón nhận các tín liệu do Bộ Trưởng Nội Vụ Hoa Kỳ Powell cung cấp.

Thứ Năm 30/1/2003


Pháp, Nga và Tầu là quốc gia thành viên có quyền veto muốn thêm thời gian thanh tra, cũng như Đức, Mễ Tây Cơ, Chí Lợi, Guinea, Camaroon, Syria, Angola và Pakistan cũng thế, những nhà ngoại giao đã cho hãng thông tấn AP biết như thế. Chỉ có Bulgaria và Tây Ban Nha là theo Hoa Kỳ và Hiệp Vương Quốc mà thôi. Ngoài các quốc gia phần tử của Hội Đồng này, trong Khối Hiệp Nhất Âu Châu còn 6 quốc gia tỏ ra ủng hộ Hoa Kỳ là Ý, Bồ Đào Nha và Đan Mạch, chưa kể các nước đang xin làm thành viên của khối này là BaLan, Hung Gia Lợi và Cộng Hòa Czech. Điều này được thấy trong một bài của tờ nhật báo Thời Điểm Britian và một số tờ khác ở Âu Châu và Hoa Kỳ.

Ở Luân Đôn, ông Mohamed ElBaradei cho đài BBC biết ông muốn có từ 4 đến 5 tháng nữa để thực hiện việc tìm kiếm những thứ vũ khí cấm ở Iraq trước khi họ có thể tuyên bố là Iraq không có gì. “Nếu họ (Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc) quyết định rằng đó là một vi phạm thì đó là quyền của họ. Chúng tôi sẽ không nói rằng đó là điều vi phạm trừ phi chúng tôi thấy một vi phạm lớn tới bản quyết định. Thế nhưng bấy giờ cũng tùy Hội Đồng Bảo An công bố về vấn đề này”.

Nhận định của Thời Điểm Maria:

Bài diễn văn của Tổng Thống Bush ngày 7/10/2002 đã lần lượt trả lời hầu như từng điểm được bức thư ngày 13/9/2002 của Đức Giám Mục Chủ Tịch Hội Đồng Hoa Kỳ đặt ra, tuy không hoàn toàn thỏa đáng, nhưng trong bài diễn văn lần này, ông không giải đáp nổi những vấn đề được Tòa Thánh Vatican cũng như các hội đồng Giám Mục khắp thế giới, nhất là của Đức ngày 21/1/2003, và Canada ngày 23/1/2003, liên quan đến hậu quả của chiến tranh đối với nhân dân Iraq, với vùng Trung Đông cũng như với thế giới Ả Rập.

ĐGM/CT/HĐGMHK: “Cơ hội thành công và tính cách tương xứng. Việc sử dụng võ lực phải có ‘những khả thể nắm chắc thành công’ và ‘không được tạo nên những sự dữ và đảo lộn còn lớn hơn cả sự dữ cần phải loại trừ’ (GLGHCG số 2309). Chiến tranh chống Iraq có thể đạt được những thành quả bất khả dự tưởng chẳng những đối với Iraq mà còn đối với cả nền hòa bình và sự bền vững khắp nơi ở Trung Đông. Vậy lực lượng ngăn ngừa hay ra tay trước liệu có thành công trong việc ngăn chặn những đe dọa trầm trọng, hay, thay vào đó, lại gây ra những cuộc tấn công đích danh, những cuộc tấn công đầu tiên chỉ có ý ngăn ngừa? Một cuộc chiến tranh khác ấy ở Iraq sẽ gây tác dụng nơi thành phần dân sự ra sao, cả trong thời gian ngắn hạn lẫn dài hạn? Bao nhiêu là con người vô tội nữa sẽ phải chịu khổ và chết đi, hay trở thành vô gia cư, thiếu những gì là căn bản nhất, mất công ăn việc làm? Hiệp Chủng Quốc và cộng đồng quốc tế có quyết tâm thực hiện một công tác vất vả lâu dài trong việc bảo đảm cho một nền hòa bình chân chính chăng, hay một nước Iraq hậu Saddam tiếp tục bị lũng đoạn bởi tình trạng xung khắc dân sự và đàn áp, cũng như tiếp tục trở thành một lực lượng gây khủng hoảng trong vùng này? Việc sử dụng lực lượng quân sự có dẫn đến một cuộc xung khắc và bất ổn hơn hay chăng? Chiến tranh chống Iraq có làm cho chúng ta phân tâm đối với trách nhiệm của chúng ta trong việc giúp xây dựng một trật tự chân chính và bền vững ở A Phú Hãn, cũng như có làm suy yếu cuộc liên minh rộng lớn ở việc chống lại vấn đề khủng bố hay chăng?”

HĐGM Đức: “Sau hết: Việc quyết định sử dụng lực lượng quân sự bao giờ cũng cần phải để ý tới những hậu quả có thể tiên đoán. Có còn hồ nghi là thứ cuộc chiến tranh chống Iraq hầu như chắc chắn sẽ sát hại và gây thương tích cho vô số người, một cuộc chiến sẽ làm cho vô số người trở thành dân tị nạn và làm cho nhiều người hụt hẫng cuộc sống của mình hay chăng? Một chuộc chiến cũng đe dọa gây ra tình trạng biến lệch chính trị trầm trọng nhất ở toàn miền Trung Đông, làm nguy hiểm cả việc chiếm đạt của liên minh quốc tế trong việc chống lại khủng bố. Cuộc chiến tranh chống Iraq có thể làm cho thành phần bảo thủ Hồi Giáo cuồng tín tăng thêm ảnh hưởng của họ ở khắp nơi trong vùng, cũng như làm tăng thêm những giằng co trầm trọng thế giới Ả Rập với Hồi Giáo vốn có đối với thế giới Tây Phương. Miền này có khá hơn hướng đến viễn tượng hòa bình, ổn định và bảo vệ nhân quyền sau cuộc chiến này chăng?”

HĐGM Canada: “Chúng tôi tin rằng cuộc tái diễn chiến tranh đánh Iraq sẽ không mang lại việc cuối cùng đi đến chỗ giải giới. Chiến tranh hầu như chỉ mang lại thêm những gì nó vốn gây ra, đó là việc làm tiêu vong mạng sống con người, việc hủy hoại môi sinh, việc hư hại về thể lý lẫn tâm lý cho cả nạn nhân lẫn kẻ tấn công, tình trạng tiêu hao nguồn lực, những đe dọa gây ra một tình trạng chính trị bất ổn hơn nữa cùng với việc tăng gia khủng bố, tình trạng tăng thêm lòng hận ức và tình trạng bùng lên trào lưu quá khích”.

Trong cả hai bài diễn văn, Tổng Thống Bush cũng chỉ nêu lên cùng một lý do để có thể chính đáng tấn công Iraq hầu giải giới Saddam Hussein, bởi vì Saddam Hussein là một nhà độc tài, dã man vô nhân đạo, có những thứ khí giới đại công phá trong tay, ông ta sẽ khống chế thế giới Hồi Giáo và tấn công Hoa Kỳ. Bởi vậy, phải giải giới ông ta ngay, chứ không thể đợi cho tới khi xẩy ra nguy hiểm đến nơi (the threat is imminent), bằng không sẽ không kịp. Đây là thứ chiến tranh ngăn ngừa của Hoa Kỳ, thứ chiến tranh giống như ở Việt Nam cứ bắn bừa vào nhà dân hai bên đường (Dốc Truông Nhà Đá Bình Định Qui Nhơn) để đề phòng nhỡ bị Việt Cộng phục kích. Bởi thế, Hoa Kỳ đã bị chống đối rất nhiều về kiểu lập luận chết người này.

Theo diễn tiến của tình hình, người ta cảm thấy dường như Hoa Kỳ có âm mưu gì đó. Đầu tiên đổ cho Iraq có các thứ vũ khí đại công phá vốn bị cấm, cần phải giải giới. Thế nhưng, bị nghi ngờ và phản đối, Hoa Kỳ đành chấp nhận giải pháp để cho các thanh tra viên trở lại kiểm soát xem có đúng như mình tố cáo chăng; và Iraq cũng sẵn sàng chấp nhận quyết định này của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, kể cả việc cho vào khám xét những dinh thự của tổng thống và vệc cho ban thanh tra  thực hiện các cuộc phỏng vấn với các khoa học gia Iraq. Trong thời gian thanh tra này, Hoa Kỳ kêu là sao lâu thế, và sở dĩ lâu là vì Iraq không chịu cộng tác, mà không cộng tác là vi phạm, đáng bị tấn công. Thế rồi, sau khi ban thanh tra tường trình cho Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc ngày 27/1/2003 biết trong 60 ngày lục soát không thấy Iraq có những thứ vũ khí cấm, thì trong bài diễn văn thứ hai sau đó một hôm, 28/1/2003, Tổng Thống Bush lại tố cáo Iraq là sở dĩ các thanh tra viên không khám phá ra gì cả bởi Iraq khéo léo giấu đút và lừa đảo. Nhất là tố cáo Iraq thêm là có dính dáng đến đám khủng bố quốc tế.

Tóm lại, người ta cảm thấy rằng Hoa Kỳ hình như đang sợ bị bại lộ cái âm mưu gian dối của mình trong việc Hoa Kỳ trước đây đã gán ghép cho Iraq có các thứ vũ khí cấm để có lý tấn công Iraq, đúng như Iraq nghĩ nên đã dám cho thanh tra viên vào khám xét, nên Hoa Kỳ đã và đang cố gắng moi móc hết mọi lý lẽ, đủ mọi tố cáo để tấn công Iraq cho bằng được, thậm chí, như trong bài diễn văn thứ hai của tổng thống Bush cho thấy, Hoa Kỳ dường như coi thường cả Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc: “Chúng tôi sẽ tham vấn, nhưng chớ có hiểu lầm là: nếu Saddam Hussein không hoàn toàn giải giới thì vì sự an toàn của nhân dân chúng tôi cũng như vì nền hòa bình của thế giới, chúng tôi sẽ dẫn đầu một liên minh đến giải giới hắn”.

Nếu quả thật Hoa Kỳ, dù có ý tốt, nhưng bất chấp thủ đoạn như vậy, ở chỗ bất chấp quyền bính quốc tế, thì việc làm của Hoa Kỳ có thật sự là tốt và đúng hay chăng? Thế mà, trong bài nói chuyện ở Tòa Bạch Ốc ngày 10/4/2003 về đạo luật cấm vấn đề tạo sinh sao bản cloning, vị tổng thống này đã ý thức rõ ràng là: “Những phát minh nơi kỹ thuật của ngành sinh học y khoa không bao giờ được thực hiện bất chấp lương tri con người. Khi chúng ta tìm cách làm những gì có thể, chúng ta luôn phải biết những gì là đúng đắn, và chúng ta không được quên rằng cho dù chúng ta có theo đuổi những mục đích cao quí nhất chúng cũng không biện minh cho bất cứ phương tiện nào chúng ta sử dụng”. Chớ gì Hoa Kỳ theo đúng nguyên tắc luân lý này trong việc đối xử với Iraq. Tòa Thánh Vatican và các Hội Đồng Giám Mục trên thế giới lên tiếng phản chiến không phải vì muốn bênh vực và che chở cho cá nhân Saddam Hussein, mà cho chính công lý, một thứ công lý mà nếu không được tuân giữ chặt chẽ, nhiều mạng sống vô tội sẽ bị tiêu vong, và thế giới sẽ đi đến chỗ bạo loạn hơn nữa. Giáo Hội Chúa Kitô hoạt động cho công lý và hòa bình là như thế.

(Xin theo dõi bài diễn văn của Tổng Thống Bush, phần liên quan đến Iraq ngày mai)

Ban Thanh Tra Vũ Khí Tường Trình cho Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc

Ông Hans Blix đã nói với Hội Đồng này vào ngày ấn định hôm nay, tức sau 60 ngày thanh tra, những kết quả cuộc việc làm này và nhận định của ông như sau: “Cho đến hôm nay, Iraq vẫn dường như không tiến đến chỗ thực sự chấp nhận việc giải giới đòi buộc họ phải làm theo”. Ông nhận định là Iraq “tuy nhiên đã tỏ ra hợp tác” trong việc để cho các thanh tra viên đến tất cả mọi địa điểm họ muốn, kể cả những tư gia. Tuy nhiên ông cũng nêu lên một số vấn đề ở một vài lãnh vực khác, như Iraq đã từ chối không chịu bảo đảm cho sự an toàn của những chiếc máy bay quan sát U-2 nếu không hội đủ điều kiện. Nhưng ông nói: “tôi hy vọng thái độ này sẽ được thay đổi”. Ông hoàn toàn phủ nhận lời tố giác của Iraq là các thanh tra viên đang hoạt động cho tình báo.  Xin mời xem bản tường trình.

Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc là Kofi Annan hôm nay cũng cho biết là các thanh tra viên “thật sự cần thời gian để hoàn tất công việc này…”. Với các phóng viên báo chí ở bên ngoài Tổng Hành Dinh Liên Hiệp Quốc ở Nữu Ước hôm nay, ông phát biểu cảm tưởng của mình là: “Tôi thật sự hy vọng là Iraq sẽ tuân hợp, và chúng ta sẽ có thể tiến đến chỗ giải giới Iraq một cách êm thắm. Tôi chưa bỏ cuộc theo đuổi hòa bình, và anh chị em chắc chắn cũng thế”.

Theo CNN biết được thì Bộ Nội Vụ Hoa Kỳ đã bắt đầu soạn thảo một quyết định thứ hai ban quyền sử dụng võ lực để bắt Saddam Hussein giải giới. Tuy nhiên, bản quyết định này chỉ được mang ra trình bày khi nào Hoa Kỳ thấy có đủ tối thiểu 9 trong 15 quốc gia thành viên trong hội đồng này, vì theo luật bỏ phiếu chấp thuận một quyết định thì cần phải có tối thiểu là 9/15 phiếu thuận và không một phiếu veto nào của 5 quốc gia thành viên thường trực của hội đồng này. Thứ Tư, 29/1/2003, 15 quốc gia thành viên sẽ họp sẽ bàn về bản tường trình của ban thanh tra và sẽ bàn đến những bước kế tiếp. Tòa Bạch Ốc cho biết, căn cứ vào bản tường trình này thì Hoa Kỳ sẽ không kêu gọi chiến tranh.