GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

Ý Chỉ của Đức Thánh Cha cho Tháng 1/2004

 

Ý Chung: “Xin cho tất cả mọi con người nam nữ biết nhìn nhận mình là phần tử của một gia đình Thiên Chúa duy nhất để họ có thể chấm dứt các thứ chiến tranh, bất công và kỳ thị”.


Ý Truyền Giáo: “Xin cho hết mọi Giáo Hội thuộc các xứ truyền giáo biết dấn thân huấn luyện cán bộ hoạt động tông đồ”.

 

___________________________________________

 11-17/01/2004

Giovanni Paolo II

 

17/1 Thứ Bảy

Thần Học Về Thân Thể của ĐTC Gioan Phaolô II


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch phần vấn đáp và viết phần dẫn nhập và kết luận phụ thêm

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chẳng những là một triết gia mà còn là một thần học gia về nhân bản nữa, qua những chủ trương của Ngài về con người cần phải nên hoàn hảo theo Đấng đã hóa thân làm người, một ý tưởng then chốt hay được Ngài trích dẫn và nhắc lại từ Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes của Công Đồng Chung Vaticanô II (đoạn 22). Một trong những chủ trương nổi bật nhất của Ngài về thần học nhân bản này đó là Thần Học Về Thân Thể (theology of body) liên quan đến đời tình yêu phái tính và đời sống hôn nhân gia đình. Đó là lý do, trong giáo triều 25 năm của mình, để bắt đầu mở màn cho toàn bộ giáo lý của Giáo Hội Kitô Giáo về đủ mọi vấn đề (Nhân Bản, Ba Ngôi, Giáo Hội, Thánh Mẫu, Năm Thánh, Thánh Vịnh) vào các buổi triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần ở Vatican, Vị Giáo Hoàng chủ trương áp dụng giáo huấn và tinh thần của Công Đồng Chung Vaticanô II này đã mở màn bằng loạt bài giáo lý về nhân bản Kitô giáo (nhân loại học siêu nhiên) trong suốt 5 năm đầu giáo triều của Ngài.

Thật vậy, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã dùng 5 năm trời (1979-1984) để khai triển đề tài “tình yêu con người theo ý định của Thiên Chúa”. Đề tài này có thể được chia ra làm ba phần, phần nhất được bắt đầu bằng một loạt 23 bài giáo lý về sự hiệp nhất nguyên thủy giữa người nam và người nữ theo sách Khởi Nguyên, trong khoảng thời gian từ ngày 5-9-1979 đến ngày 2-4-1980. Sau đó chuyển sang phần hai với 41 bài giáo lý về phúc cho ai có lòng trong sạch theo bài giảng trên núi và thư thánh Phaolô, thời khoảng từ ngày 16-4-1980 đến ngày 6-5-1981. Trước khi sang phần ba, loạt bài giáo lý bị gián đoạn vì sức khỏe của Đức Thánh Cha sau khi ngài bị ám sát hụt vào hôm 13-5-1981, và đã được xen kẽ bằng 3 bài chia sẻ của ngài, thời khoảng từ ngày 14-10-1981 đến 28-10-1981, liên quan đến việc ngài bị ám sát và lòng thứ tha. Cuối cùng, phần ba đã được bắt đầu với 50 bài về thần học hôn nhân và độc thân theo ý nghĩa phục sinh của thân xác, thời khoảng từ ngày 11-11-1981 đến ngày 4-7-1984. Loạt bài giáo lý về tài “tình yêu con người theo ý định của Thiên Chúa” được chia làm 3 phần trên đây cuối cùng được kết thúc bằng 12 bài, thời khoảng từ ngày 11-7 đến 21-11-1984, về việc ôn lại Thông Điệp “Sự Sống Con Người” của Đức Thánh Phaolô VI.

Tác Phẩm Những Viên Ngọc Trai: Thần Học Về Thân Thể của Đức Gioan Phaolô II

Riêng vấn đề Thần Học Về Thân Thể của mình, ĐTC đã khai triển thành 63 bài giáo lý từ ngày 5/9/1979 đến 6/5/1981. Những bài giáo lý này đã được một nữ tâm lý gia người Mễ Tây Cơ là Leticia Soberón phân tích trong tác phẩm của mình do Edimurtra xuất bản, đó là tác phẩm "Perlas: Teología del Cuerpo en Juan Pablo II" (Những Viên Ngọc Trai: Thần Học Về Thân Thể của Đức Gioan Phaolô II). Tác giả của cuốn sách này sinh tại Mexico City, đang làm việc ở Hội Đồng Truyền Thông Xã Hội của Tòa Thánh, với phận sự điều hợp Cơ Cấu Thông Tín của Giáo Hội Mỹ Châu Latinh (RIIAL: Information Network of the Church in Latin America). Nữ tâm lý gia này đã chia sẻ với màn điện toán Zenit về tác phẩm của mình cũng như về thần học thân thể, một cuộc phỏng vấn đã được Zenit phổ biến ngày 11/1/2004.

Vấn     Tại sao cần phải đọc lại những giáo huấn được vị Giáo Hoàng này chia sẻ trên 22 trước đây?

Ðáp     Những giáo huấn này, những giáo huấn được vị Giáo Hoàng này chia sẻ bằng những bài giáo lý của Ngài đã là những gì rất hợp thời trong những năm chúng được chia sẻ, thế nhưng chúng vẫn hết sức khẩn trương vào lúc này đây.

Vấn     Đức Gioan Phaolô II đã đóng góp đặc biệt những gì cho đề tài này?

Đáp     Đức Giáo Hoàng này đã trao tặng cho thế giới 1 quà tặng, bằng việc mở rộng chân trời kiến thức về những gì con người là nơi thân thể của họ, một thân thể có dục tính, một con người là hình ảnh Thiên Chúa.

Đức Giáo Hoàng đã nhắc nhở chúng ta rằng “thánh thiện đã vào thế gian nơi thân thể con người”. Thân thể con người là một quà tặng, vì Ngài nhắc nhở chúng ta một cách mạnh mẽ không có một dấu vết Nhị Nguyên Thuyết nào là việc Thiên Chúa tạo dựng nên thân thể con người ta cùng với việc Ngài phản ảnh nơi những mối liên hệ nhân bản là những gì còn cao cả hơn là những vấn đề thường được nói tới ở những bài diễn văn công cộng. Những ai lắng nghe những thứ giáo huấn này sẽ có thể tự điều giải bản thân họ; họ sẽ cảm thấy hạnh phúc và được kêu gọi thực hiện một công việc lạ lùng trong vấn đề luyện tập yêu thương và liên hệ với những người khác.

Vấn     Tuy nhiên, khi quần chúng nói đến đề tài thân thể và Giáo Hội hình như mọi sự trở thành một bản liệt kê những thứ cấm kị.

Đáp     Tác phẩm này diển tả một cách tuyệt vời sự lạ lùng kỳ diệu của việc chúng ta hiện hữu như là những con người nam nữ toàn cầu và toàn vẹn, những con người được kêu gọi để sống hiệp thông với nhau.

Đức Giáo Hoàng dạy cho chúng ta biết mình và hướng dẫn mình đi theo đường lối nhân bản, có những lúc kinh khiếp và khó khăn, nơi những mối giao hệ liên bản vị, những mối giao hệ này thường lẫn lộn những ý hướng tốt lành cùng với tình yêu chân thực với những ước muốn lấn át cùng với các đam mê nhục dục.

Ai được giáo dục theo giáo huấn này sẽ hiểu được bản thân mình hơn nữa và nắm được một thứ địa bàn hướng lộ nơi những mối liên hệ cùng chữa lành những mối liên hệ này bằng việc hướng về ơn cứu độ của Chúa Kitô.

Có thể nói rằng Đức Giáo Hoàng không hạ thấp tiêu chuẩn của những nhu cầu Kitô hữu về vấn đề thể chất, mà còn làm cho tiêu chuẩn này thành cơ hội thực hiện cuộc biến đổi sâu xa mà không khinh khi coi thường hoặc sợ hãi thân thể.

Vấn     Tại sao không hiểu được giáo huấn này?

Đáp     Những chân lý sâu xa, chẳng hạn như những chân lý như thế này, đòi phải lắng nghe, phải có thời gian và phải chuyên chú. Những sứ điệp ấy không thể thấu hiểu trong vòng 10 phút. Nhiều người trực giác thấy được điều này. Ngay cả thành phần vô tín ngưỡng cũng hết sức hoan hỉ khi thấy được cái sáng tỏ như thế cũng như thấy được bài thánh ca tri ân cảm tạ Đấng Hóa Công về vẻ đẹp của con người toàn diện. Đức Giáo Hoàng đã chạm tới nhiều người vô tín ngưỡng khi họ thấy được nơi cuốn sách này cái minh bạch nơi quan điểm của Ngài về con người, thành phần Ngài thấy như đã được cứu độ và kêu gọi họ hãy tìm kiếm ơn cứu độ.

Vấn     Làm sao để cho sứ điệp này có thể được sống động?

Đáp     Những bài giáo lý này cần phải được sử dụng trong tất cả mọi giáo huấn Công Giáo để dạy cho trẻ em, ít là trẻ em Công Giáo.

Nó cần phải được chứa đựng trong những dự án mục vụ cho việc huấn luyện gia đình, nơi những nhóm giảng dạy hôn nhân và cho việc dự bị hôn nhân, nơi các phong trào tông đồ, các giáo xứ, các buổi dạy giáo lý.

Nhờ đó người ta mới có thể thành đạt trong việc hóa giải con người với thực tại của họ và giúp họ có thể chọn lựa một cách tự do mà không sợ các xu hướng theo bản năng của họ song cũng không trở thành nô lệ cho chúng. Người ta cảm thấy hạnh phúc khi đọc thấy sứ điệp này, khi hiểu được bản thân mình, cũng như khi có thể hiến mình cho kẻ khác một cách trọn vẹn và xứng hợp.

Trong một bài giáo lý, Đức Giáo Hoàng đã vạch ra rằng “hạnh phúc được bắt nguồn từ yêu thương”. Tình yêu chữa lành hổ thẹn. Nhờ ơn cứu chuộc, Chúa Kitô đã phục hồi và canh tân tính cách ngây thơ vô tội nguyên thủy. Việc cứu chuộc này cống hiến cho hôn nhân cũng như cho tất cả mọi lãnh vực bao gồm những liên hệ nam nữ trong xã hội một tầm vóc trọn vẹn chưa từng thấy.

Vấn     Sứ điệp này vang vọng trong một thế giới dường như đang bị tình dục ám ảnh.

Đáp     Đức Giáo Hoàng dạy rằng người ta không được sợ hãi sức hấp dẫn hợp lý và bình thường. Nó là một cái gì tự nhiên, lại là những gì đáp lại tiếng gọi hiệp thông giữa các ngôi vị với nhau, tức là giữa thân thể mang cái được Ngài gọi là “đặc thù phu thê”.

Tuy nhiên, Ngài cũng cảnh giác thái độ lấn át, lạm dụng, biến người khác thành một thứ đồ vật, tước lột hết phẩm vị làm người của họ, và cần phải lưu ý nữa là thái độ này thậm chí có thể xẩy ra ở ngay trong đời sống hôn nhân.

Thái độ ấy, cùng với phản ứng do nó gây ra, không tương xứng với phẩm giá xứng với hết mọi người nơi thân thể và tổng thể của họ. Bởi thế, tự mình sức thu hút là tốt, song nó cần phải được thanh tẩy cũng như cần phải được hướng dẫn bởi một tấm lòng tôn trọng thật sự, hướng nó tới niềm hiệp thông giữa các ngôi vị và việc chân thành trao ban.

Vấn:  Ở phần kết, cuốn sách của bà chấm dứt bằng một đoạn được trích từ thi tập “Roman Triptych” của Đức Gioan Phaolô II. Tại sao bà lại cho những bài thơ được Đức Giáo Hoàng phổ biến từ mùa xuân năm 2003 nếu chúng không thuộc về những gì của những bài giáo lý của Ngài được bà phân tách?

Đáp:  Đó là để chứng tỏ cho thấy rằng Đức Giáo Hoàng đã không loại bỏ đề tài này, một đề tài Ngài đã đề cập tới ngay từ đầu giáo triều của Ngài. Tóm lại, đó là một sứ điệp đã xoay vần cả giáo triều này và là sứ điệp chúng ta không thể coi thường. Chính Đức Giáo Hoàng đã cho thấy rằng nếu không có thứ thần học về thân thể này thì người ta không thể nào hiểu được các giáo huấn của Giáo Hội về sự sống và gia đình sau Công Đồng Chung Vaticanô II.

Tác Hiệu và Chiều Kích của Thần Học về Thân Thể

(còn tiếp)
 

“Nước Biến Thành Rượu”

Trò Chơi Phúc Âm Chúa Nhật II Thường niên  Tiệc Cưới Cana

Phúc Âm

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới. và bỗng thiếu rượu, mẹ Chúa Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi”. Chúa Giêsu nói với mẹ: “Hỡi bà, tôi với bà có can chi đâu, giờ tôi chưa đến”. Mẹ Người nói với những người giúp việc: “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo”. Ở đó có sáu chum đá, dùng vào việc thanh tẩy của người Do Thái, mỗi chum đựng được hai hoặc ba thùng nước. Chúa Giêsu bảo họ: “Hãy đổ nước đầy các chum”. Họ đổ đầy tới miệng. Và Chúa Giêsu bảo họ: “Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc”. Và họ đã đem đi. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu, ông không biết tự đâu ra, nhưng những người giúp việc đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang mà nói: “Ai cũng đem rượu ngon ra trước, khi khách ngà ngà thì mới đem rượu xoàng hơn. Còn ông, ông lại giữ rượu ngon tới giờ nầy”. Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên nầy tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người.

Hướng Dẫn

Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên tuần này thuật lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa nước lã thành rượu ngon ở tiệc cưới Cana để tỏ mình ra lần đầu tiên cho các môn đệ của Người biết về Người.

Thế nhưng, việc Chúa Giêsu tỏ mình ra lần đầu tiên này cho các môn đệ biết về Người, trước hết, ở một môi trường gia đình, và sau nữa, qua vai trò trung gian của Mẹ Maria.

Mẹ Maria đã hoàn toàn chủ động trong vai trò trung gian của mình để liên lạc giữa Chúa Giêsu và nhóm phục tiệc: Mẹ đã liên lạc với Chúa Giêsu để xin Người giải quyết vấn đề khó khăn cho bữa tiệc cưới, và Mẹ cũng đã liên lạc với nhóm phục tiệc để sửa soạn cho việc làm của Chúa Giêsu, cho giờ Người đến, cho việc Người tỏ mình ra.

Thiên Chúa lúc nào cũng muốn thông ban, nhưng giờ của Người đến hay thời điểm Người thông ban đó là khi con người tỏ ra sẵn sàng và xứng đáng lãnh nhận, nhờ đó, khi Người tỏ mình ra, con người mới được lợi ích thiêng liêng.

Vấn đề chủ yếu trong việc tỏ mình ra của Chúa Giêsu ở đây ngoài vai trò trung gian của Mẹ Maria còn có đức tin tuân phục của thành phần phục tiệc. Thật vậy, họ đâu biết Mẹ Maria là ai và Chúa Giêsu là Đấng như thế nào. Thế mà họ vẫn nghe theo lời Mẹ và làm theo những gì Chúa Giêsu muốn. Bởi thế, họ xứng đáng là những người đầu tiên, trước cả các môn đệ là nền tảng cho Giáo Hội (tương lai), được diễm phúc hầu như sờ chạm đến vinh quang của Người, vì chính họ thấy nước lã họ đổ vào chum nay múc ra đã biến thành rượu ngon.

Tuy nhiên, theo dự án cứu độ, chính vì Chúa Giêsu muốn tỏ mình ra cho các môn đệ của Người mà thành phần phục tiệc này đã trở thành dụng cụ được Chúa sử dụng, giống hệt như trường hợp các phụ nữ đến mồ và thấy Chúa Giêsu Phục Sinh trước các môn đệ, song việc thấy Chúa trước này là để các bà đi trình báo lại cho tah2nh phần có thẩm quyền trong Giáo Hội là các môn đệ biết sự kiện này mà thôi. Dầu sao, vai trò của thành phần sứ giả hay thành phần được Người sử dụng như phương tiện cũng rất cần thiết và không thể thiếu trong công cuộc cứu độ, như Mẹ Maria đã là ngỏ lối để Người nhập thể, hạ sinh và vào đời vậy.

Vậy hôm nay chúng ta cùng nhau sinh hoạt trò chơi Phúc Âm “nước biến thành rượu” như sau.

Sinh Hoạt

1. Chia làm 3 nhóm. Mỗi nhóm cử ra 4 người, 1 người đóng vai phục dịch bữa tiệc cưới Cana, 1 người đóng vai quản tiệc, và 2 người còn lại đóng vai 2 chum nước. Người quản trò đóng vai Chúa Giêsu.

2. 3 Người thuộc ba nhóm đóng vai phục tiệc đứng trước 6 chum nước, cách nhau khoảng độ một cánh tay, mỗi tay cầm một cái áo. 6 người thuộc ba nhóm đóng vai 6 chum nước sẽ ngồi xổm (ngồi trên hai chân, nhưng không ngồi bệt xuống đất), mặt quay về phía 3 người đóng vai phục tiệc. 3 Người thuộc ba nhóm đóng vai quản tiệc đứng đằng sau lưng 3 người đóng vai phục tiệc. Người quản trò đóng vai Chúa Giêsu đứng đối diện 3 người đóng vai phục tiệc.

3. Hễ nghe thấy người quản trò đóng vai Chúa Giêsu truyền: “Hãy đổ nước đầy các chum”, thì 3 người đóng vai phục tiệc liền chùm 2 chiếc áo lên đầu các người đóng vai chum nước. Nếu chùm không đúng đầu của ai đóng vai chum nước liền bị loại, vì chum không có nước.

4. Khi những người đóng vai chum nước đang cúi đầu xuống đất thấy đầu mình được phủ bằng chiếc áo thì đứng ngay lên vì chum đã được đổ đầy nước. Nếu đang khi đừng lên làm rơi chiếc áo xuống đất liền bị loại, vì chum không có nước.

5. Hễ nghe thấy người quản trò nói tiếp: “Hãy múc nước mà đưa cho người quản tiệc”, thì 3 người phục tiệc với lấy chiếc áo đang phủ trên đầu 2 người đóng vai chum nước mình mới đổ đầy đang đứng trước mặt, lộn chiếc áo này từ ngoài vào trong, tượng trưng cho việc nước đã hóa thành rượu, rồi quẳng cả hai chiếc áo ấy qua đầu ra đằng sau cho người quản tiệc, và người quản tiệc này phải chụp lấy (không được rơi xuống đất bằng không trừ điểm) và mặc vào người như thể rượu ngon tràn đầy thân thể của họ.

6. Trò chơi được kết thúc ở chỗ nhóm nào làm nhanh nhất và ít bị lỗi nhất là đoạt giải “nước biến thành rượu”.
 

16/1 Thứ Sáu

Sống Thanh Khiết trước Những Thứ Hấp Lực Đồng Phái Tính

Khi cuốn Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo vừa xuất bản bằng Anh ngữ vào giữa năm 1994, chậm mất 1 năm rưỡi, (vì cần phải dịch lại theo đúng ý Giáo Hội chứ không được dịch theo kiểu ngôn ngữ bao gồm - inclusive language), tôi đã mua đọc ngay và còn giới thiệu với một người bạn cũng rất yêu thích giáo lý. Không ngờ, có một lần, tôi đã nhận được cú điện thoại của người bạn này phê bình nặng lời về cuốn Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo này. Bởi vì, người bạn này cho rằng cuốn Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo mới này sai lầm ở chỗ bệnh vực thành phần đồng tính luyến ái. Anh đã trích lại nguyên văn lời trong Sách Giáo Lý mà anh cho rằng tỏ ra bênh vực thành phần đồng phái tính đó là câu: “họ không muốn tình trạng đồng phái tính của mình” (khoản 2358).

Tôi đã cố gắng phân tích cho anh nghe theo như tôi hiểu những chữ Giáo Lý này. Tôi nói với anh ấy rằng cần phải phân biệt “tình trạng” (condition) và “tác hành” (behavior) đồng phái tính. Về “tình trạng” đồng phái tính là những gì thuộc về tự nhiên, như những tính mê nết xấu trong con người bị nhiễm lây nguyên tội, Giáo Lý chỉ công nhận sự kiện bẩm sinh không thể chối cãi này nơi một số người thôi, thành phần mà chính họ dù không muốn cũng vẫn có những khuynh hướng bất thường này. Tuy nhiên, cho dù có những khuynh hướng bẩm sinh đồng tính này, con người vẫn không được vì thế mà sống theo hay có những tác hành theo khuynh hướng vô luân ấy. Đó là lý do, về “tình trạng” đồng phái tính, cũng trong cùng một khoản Giáo Lý này, Giáo Hội khuyên phải tôn trọng thành phần đồng phái tính. Tuy nhiên, về tác hành đồng tính, ở khoản trước đó, 2357, Giáo Lý đã liệt kê nó vào những “tác hành tự bản chất lăng loàn” và sau đó, 2359, Giáo Lý đã kêu gọi thành phần đồng phái tính “sống thanh tịnh”. Tuy nhiên, người bạn này, ngay bấy giờ vẫn không chịu lập luận của tôi, cho tới khi anh nghe thấy một vị linh mục người Mỹ giải thích giống như tôi.

Hôm Thứ Bảy 10/1/2004, trong một cuộc gặp gỡ các em Thiếu Nhi Fatima ngành Nghĩa (từ 14-18) ở Cộng Đoàn Thánh Phêrô Torrance thuộc TGP/LA, có một em gái cho tôi biết rằng, em có một người bạn (trai hay gái tôi không hỏi kỹ) sống đồng tính luyến ái, nhưng rất hối hận, thậm chí cảm thấy tội lỗi của mình quá nặng nề, đến nỗi Chúa không thể nào tha thứ cho được. Người bạn của em ấy đã thất vọng và có ý muốn tự tử.

Tôi đã cho tất cả nhóm giới trẻ bấy giờ trên 40 em biết bốn điều sau đây. Thứ nhất, về ý thức tội lỗi, người bạn được nhắc đến ấy đã công nhận tác hành (behavior) đồng tính là tội lỗi. Thứ hai, về tác hành tội lỗi, người bạn đồng tính ấy cảm thấy tác hành đồng tính của mình quá tội lỗi đi, vì có thể làvì em ấy có những hành động tính dục đồng tính và sau đó cảm thấy hành động đó thật là ghê tởm, hoàn toàn phản tự nhiên. Thứ ba, về lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa, ở chỗ, tội lỗi của chúng ta, dù có tầy trời đến đâu chăng nữa, cũng không thể bao la vô cùng như tình thương vô biên của Thiên Chúa; nếu chúng ta không tin vào tình yêu nhân hậu của Chúa là chúng ta phạm đến Ngài nhất, phạm đến Ngài còn hơn tất cả mọi thứ tội lỗi khủng khiếp khác của chúng ta nữa. Và thứ bốn, về tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa, Thiên Chúa yêu thương mỗi một người chúng ta chứ không phải chỉ yêu chung nhân loại và chẳng biết từng người chúng ta là ai; đó là lý do Phúc Âm Thánh Luca cho chúng ta thấy Chúa đã đi tìm con chiên thứ 100 duy nhất, và Phúc Âm Thánh Gioan cũng đã cho chúng ta biết Chúa đã cố ý ngồi chờ người phụ nữ Samaritanô tội lỗi bên bờ giếng Giacóp vào giờ chị có thói quen ra kín nước vắng người để làm cho chị tin vào Người mà bỏ đường tội lỗi.

Nguyên việc người bạn đồng tính của em Thiếu Nhi Fatima hỏi tôi nhận thức được cái trầm trọng hết sức nơi tác hành vô luân của mình cũng là một tác động thần linh để em ấy trở về với Chúa chứ không phải để em ấy sợ Ngài và mất Ngài đời đời. Bởi vì, chỉ khi nào con người nhận mình có lỗi họ mới có thể cải thiện được mà thôi, như trường hợp điển hình dưới đây, một con người đã trải qua kinh nghiệm đầy mình và đã có những lời khuyên rất chí tình gửi đến thành phần đồng phái tính.

Ký giả David Morrison, ở Arlington Virginia, đã từng sống đời đồng tính nhưng đã trở về sống thanh tịnh như một người trở lại Công Giáo, và là tác giả cuốn “Beyond Gay” (Bên Trên Cuộc Đồng Tính Nam Nhân) do Tuần San Our Sunday Visitor xuất bản, hiện là sáng lập viên và điều hành viên Mạng Điện Toán Can Trường. Anh đã chia sẻ cảm nghiệm của mình với màn điện toán Zenit về cách thức sống thanh tịnh đã giúp giảm bớt mức độ của những thứ hấp lực đồng phái tính sau đây.

Vấn     Anh nghĩ anh điều gì đã góp phần vào những thứ hấp lực đồng phái tính của anh?

Đáp     Cho dù những thứ hấp lực đồng phái tính gây ra do di truyền hay yếu tố gi truyền, hoặc phát xuất từ những trục trặc về liên hệ trong cuộc sống thiếu thời cũng đều gây ra một trong những tranh luận càng gay go về khoa học hiện nay. Tiếc thay, vấn đề bàn cãi này lại có khuynh hướng đi trệch khỏi những gì thuần khoa học và đánh thẳng vào chủ đề mà là đi vào một lãnh vực văn hóa bao rộng, theo tôi nghĩ, là lãnh vực vấn đề này khó lòng có thể tránh nổi.

Riêng trường hợp của mình, tôi tin rằng những trục trặc về mối liên hệ quan trọng với cả hai bố mẹ của tôi, cũng như với các thứ bạn bè của tôi, đã góp phần vào việc phát triển những thứ hấp lực đồng phái tính nơi đời sống của tôi cũng như nơi nhân cách của tôi. Tôi không trách cứ cha mẹ tôi tí nào cả; các vị trở thành con người các vị là theo như những gì các vị được dưỡng dục cũng như theo những gì các vị đã cố gắng hết sức để nuôi dưỡng tôi. Thế nhưng, về vấn đề tình cảm thì bố tôi rất xa cách trong suốt thời thơ ấu của tôi, trong khi mẹ tôi dường như lại quá dễ cảm xúc. Ngoài ra, cuộc hôn nhân của bố mẹ tôi có rất nhiều căng thẳng, không thể nào không ảnh hưởng tới đứa con.

Nếu nói mạnh thì tôi có thể nói rằng có thể là tôi đã có một loại nhân cách dễ đưa đến những thứ hấp lực đồng phái tính. Thế nhưng, nói cho cùng, tôi nghĩ là có một số liên hệ cùng với những yếu tố về môi trường cũng đã thực sự góp phần vào việc phát triển những thứ hấp lực đồng phái tính này.

Vấn     Những nguồn ở bên ngoài, chẳng hạn như văn hóa truyền thông, có ảnh hưởng tới những ý nghĩ của anh về những thứ hấp lực đồng phái tính hay chăng? Nếu có thì xẩy ra như thế nào?

Đáp     Tôi được sinh vào đời năm 1963 và có lẽ thời điểm chính đối với một thứ văn hóa có tác dụng lớn trên tôi là vào giai đoạn từ năm 1976 đến 1986. Vào khoảng năm 1976 tôi mới có nhận thức về tình dục, ở chỗ tôi bắt đầu có ước muốn về tình dục và bắt đầu thèm muốn về tình dục, mới đầu với chính mình bằng việc thủ dâm, song cũng với cả những người khác nữa, lớn tuổi hơn, những đứa con trai có thân thể, kinh nghiệm và hấp lực như thần tượng đối với tôi. Nhìn lại, tôi có thể nói là, ở một mức độ nào đó, chúng đã lợi dụng một thằng con trai trẻ hơn theo đuổi chúng để chúng có thể thỏa mãn những thứ nhục dục căn bản.

Tôi không nhớ nhiều lắm những điều diễu cợt thật là “nặng nề”. Khi mà vấn đề giải phóng đồng tính luyến ái hay phong trào đồng tính nam nhân càng kéo được chú ý của toàn quốc thì tôi nhớ rằng bấy giờ đang có những thứ diễu cợt về vấn đề này cũng như về hội chứng liệt kháng AIDS. Thế nhưng, tôi bao giờ cũng có thể che giấu được những thứ hấp lực đồng phái tính của mình, và những thằng con trai lớn tuổi hơn tôi mà tôi đôi khi làm tình với chúng hình như đã không cho việc tôi tự nguyện làm tình với chúng là những gì hoàn toàn có tính cách đồng phái tính nơi tôi.

lẽ ảnh hưởng về văn hóa mạnh nhất đối với những thứ hấp lực đồng phái tính nơi tôi đã xẩy ra khi tôi ở vào khoảng 19 tuổi hay đâu đó, và khó lòng mà tránh được là nếu quí vị sống với những thứ hấp lực đồng phái tính ấy, quí vị chắc chắn sẽ đi đến chỗ làm tình và tự cho mình là thành phần đồng nam tính. Chỉ có một điều chọn lựa duy nhất theo văn hóa, ở chỗ không nói với ai rằng quí vị đang sống theo những thứ hấp lực đồng phái tính, đó là điều không thể chấp nhận được vì nó là một cái vé vào sống một cuộc đời thật khốn khổ và sợ hãi.

Nghĩ kỹ, tôi đã thấy được một thứ chọn lựa về văn hóa tiến đến hai thái cực này, một là phải lén lút vì sợ rằng người ta biết được tôi đã sống theo những thứ hấp lực đồng phái tính, hoặc tự nhận mình là thành phần đồng nam tính và hiên ngang sống với khuynh hướng này.

Vấn     Vào lúc nào anh đã khám phá ra con đường sống ngược lại với những thứ hấp lực đồng phái tính của mình?

Đáp     Tôi không tin rằng tôi đã khám phá ra một đường lối sống “ngược lại” với những thứ hấp lực đồng phái tính. Trái lại tôi nghĩ rằng tôi đã khám phá ra một cái gì đó giống như những gì bất cứ một ai muốn tiến từ một đời sống chạy theo ham muốn tạm bợ tự nhiên đến một đời sống dứt khoát tìm kiếm Chúa Kitô vậy.

Những mức độ của các chước cám dỗ chúng ta phải đương đầu thường giảm xuống khi chúng ta thôi ham hố chúng; việc tìm cách sống thanh tịnh cũng như việc làm chủ những đam mê của mình làm cho chúng suy yếu đi, và trong trường hợp của những thứ hấp lực đồng phái tính cũng thế, tôi tin rằng việc sống thanh tịnh giúp làm giảm bớt mức độ của những thứ hấp lực đồng phái tính tôi đã trải qua.

Theo nhận định này, tôi tin rằng con người nam nữ có thể làm suy yếu những thứ hấp lực đồng phái tính theo giòng thời gian và ở những mức độ khác nhau. Đó là những gì tôi đã cảm nghiệm nơi cuộc sống của mình, mặc dù tôi chưa bao giờ tìm kiếm những thứ trị liệu để làm giảm bớt những thứ hấp lực đồng phái tính này. Cho dù tôi vẫn còn đang sống ở một mức độ của những thứ hấp lực đồng phái tính, giờ đây mức độ đó đã ít hơn trước đây 3 năm, và tôi nghĩ rằng tôi sẽ thấy nó càng ít đi hơn nữa trong ba năm tới đây.

Tôi chưa hề tìm kiếm phương pháp trị liệu để làm giảm bớt những thứ hấp lực đồng phái tính tôi trải qua, vì phương pháp trị liệu như vậy đắt đỏ về tiền bạc, thời gian và cảm lực, và theo kinh nghiệm của mình, tôi đã từng gặp nhiều trở ngại hơn trong việc trị liệu những thứ hấp lực đồng phái tính.

Vấn     Anh đã quyết định thay đổi như thế nào? Phải chăng đã xẩy ra một giây phút hối cải trong cuộc đời của anh?

Đáp     Tôi chưa bao giờ thật sự quyết định cố gắng để đổi thay những thứ ham muốn tính dục của mình. Tôi thật sự đã trở về với niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô và tìm kiếm Người, đầu tiên nơi Anh Giáo, rồi tới Giáo Hội Công Giáo Rôma.

Tôi đến với Chúa Kitô bởi vì, như người mù bên vệ đường, tôi đã sống trong thất vọng và không còn gì để mất nữa. Không ai truyền bá phúc âm hóa cho tôi hay giúp tôi đến với Giáo Hội cả.

Vào khoảng 30 tuổi, tôi đã có được nhiều điều mà văn hóa đồng nam tính đương thời cho rằng một nam nhân có được. Tôi đã có một người tình đồng phái tính 7 năm. Tôi có việc làm ngon lành và các bạn bè đồng nghiệp coi trọng tôi. Người bạn tình của tôi và tôi đã mua chung một căn nhà và tích cực hoan hưởng một cuộc đời tình dục. Tôi là một nam nhân đồng tính công khai trong suốt cuộc đời của mình.

Thế nhưng tôi vẫn cảm thấy không có hạnh phúc. Với tất cả những gì mình có mà cuộc sống của tôi dường như cảm thấy trống rỗng. Qua một thời gian dài tôi tưởng vấn đề nằm ở một cái gì về cuộc sống của tôi, nên tôi đã cố gắng thay đổi nhiều điều khác nhau để xem kết quả ra sao.

Một ngày kia, một mình ở nhà, tự nhiên tôi nẩy lên ý tưởng cầu nguyện, và tôi đã nguyện cầu bằng Lời Kinh của Vấn Nhân cổ thời như sau: “Lạy Chúa, tôi chẳng biết Ngài có hiện hữu hay chăng, thế nhưng, nếu Ngài hiện hữu thì tôi quả thực là cần đến Ngài trong cuộc đời của tôi”. Quả thực Ngài đã đi vào cuộc đời của tôi và từ đó vấn đề không còn giống như trước nữa.

Vấn     Đức tin của anh đã đóng vai trò như thế nào trong cuộc chiến đấu để thay đổi tác hành đồng phái tính của anh?

Đáp     Tôi vẫn không chiều theo việc sống thanh tịnh ngay lập tức. Tôi đã phải trải qua một số năm cố gắng đứng trước ngã ba đường, giữa việc sống thanh tịnh và sinh hoạt tính dục bằng việc gọi mình là một “Kitô hữu đồng tính”, tức là một kẻ vừa tin vào Chúa Kitô mà lại vẫn còn sống tình dục đồng tính.

Thế nhưng, một khi tôi càng cầu nguyện và càng hiểu hơn về Chúa Giêsu Kitô, về Kitô giáo theo giòng lịch sử và về các thánh nhân, cũng như khi tôi thấy được các chứng từ phát xuất từ những người Kitô hữu trung thành khác thể hiện vai trò của Chúa Kitô trong đời sống của họ, tôi tiến đến chỗ dứt khoát là tôi không muốn là một “Kitô hữu đồng tính nam nhân” nữa.

Tôi muốn thuộc về Chúa Kitô, và nếu yêu mến Người có nghĩa là sống thanh tịnh, cũng như nếu Người muốn giúp tôi làm điều này thì đó là những gì tôi đã mong muốn và là những gì tôi đang mong muốn hôm nay đây.

Vấn     Các thứ giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có giúp được gì anh không? Tại sao?

Đáp     Tôi nghĩ Đức Gioan Phaolô đã phục vụ Kitô hữu, thậm chí cả những người không phải là Kitô hữu nữa, bằng việc Ngài đã cẩn thận giải thích và loan truyền một thứ thần học về thân thể.

Tôi nghĩ rằng ngày nay đang xẩy ra một thứ lầm lẫn về vai trò thân thể chúng ta đóng trong đời sống tâm linh của chúng ta cũng như về tầm quan trọng của thân thể của chúng ta như là những gì chúng ta được tạo dựng nên. Đức Gioan Phaolô II đã đặt một nền móng cho một phần rất quan trọng nơi sứ điệp của Giáo Hội thuộc những ngàn năm tới đây.

Vấn     Giáo Hội cần phải khuyến khích thành phần sống cuộc đời đồng phái tính trở thành độc thân và giữ đức thanh tịnh như thế nào?

Đáp     Giáo Hội có thể làm cho tất cả mọi người một ân huệ bằng việc khuyến khích họ, cho dù họ có đang sống theo những thứ hấp lực của đồng phái tính hay chăng, hãy đi sâu vào những mối liên hệ và tình thân hữu sâu xa hơn và mạnh mẽ hơn không dính dáng gì đến vấn đề tình dục.

Rất nhiều người ngày nay, không phải chỉ có những con người trẻ trung, bị lầm lẫn về bản chất của tình thân hữu chân thực cũng như về vấn đề cần phải có mối thân tình cảm mến trong đời sống của chúng ta.

Giáo Hội quả thực khuyên những con người nam nữ độc thân hãy sống thanh tịnh, nhưng Giáo Hội không khuyên chúng ta sống lẻ loi cô độc. Giáo Hội cần giúp cho con người hiểu rằng họ có thể sống một cuộc sống vui vẻ về cảm tình và thân tình mà không cần đến sinh hoạt tính dục.

Vấn Anh có điều gì khuyến dụ muốn gửi đến những người sống theo những thứ hấp lực đồng phái tính hay chăng?

Đáp Đừng nghĩ rằng những thứ hấp lực đồng phái tính của mình tự nó là những gì làm nên đời sống của mình. Con người là một thực thể phức hợp hết sức trọng đại để có thể bị phá sản với nhãn hiệu “tôi là một nam nhân đồng tính” hay “tôi là một nữ nhân đồng tính”.

Đặc biệt là nếu quí bạn còn trẻ và chưa nhào đầu vào sinh hoạt tình dục, thì đừng tin rằng quí bạn cần phải cảm nghiệm ở cùng một mức độ theo những thứ hấp lực đồng phái tính quí bạn đang thấy ngày nay.

Đừng nghĩ rằng hễ quí bạn sống theo những thứ hấp lực đồng phái tính thì Thiên Chúa sẽ không yêu thương quí bạn nữa, hay quí bạn sẽ không thể tìm kiếm Người, hoặc quí bạn sẽ không thể tìm cách trở nên một thánh nhân được.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu được Zenit phổ biến ngày 9/1/2004.
 

15/1 Thứ Năm

Giới trẻ trong thời đại văn minh vật chất ngày nay vẫn còn khao khát sống thanh khiết

Tình hình xã hội văn minh ngày nay cho thấy giới trẻ chẳng những là nạn nhân của xã hội mà còn là tai họa cho xã hội nữa. Giới trẻ là nạn nhân của xã hội vì họ bị xã hội đầu độc bằng những thứ phim ảnh bạo động, những thứ hình ảnh khiêu dâm, những thứ giáo dục công khai dạy cách làm tình an toàn v.v. Bởi thế, không lạ gì chính xã hội này đã phải hứng chịu một tai họa giới trẻ, với nạn băng đảng, thậm chí trẻ con mới học lớp một đã biết cầm súng giết người, nạn chửa hoang, nạn xì ke ma túy v.v. Tuy nhiên, không phải vì thế mà thứ xã hội Sođôma tân thời ngày nay không còn những giới trẻ tốt lành, không còn những khát vọng chân thiện nơi giới trẻ. Một trong những chứng cớ hùng hồn nhất cho thấy nhận định này đó là những nhóm giới trẻ qui tụ lại để nghe về việc giữ đức thanh tịnh, một thứ nhân đức hết sức lỗi thời đối với đa số giới trẻ yêu cuồng sống vội chỉ biết có lạc thú ngày nay.

Thật vậy, cặp vợ chồng mới lấy nhau, Jason và Crystalina Evert, đang làm việc cho tờ nguyệt san Catholic Answers, ở San Diego California, đã là chứng nhân cho nhận định này, khi họ đi chia sẻ ở các trường trung học khắp nước Mỹ, dù là trường công, trường Kitô giáo hay trường Công giáo. Cả chục ngàn giới trẻ đã hào hứng đến nghe cặp vợ chồng diễn giả này. Riêng Jason còn là tác giả cuốn “Nếu Chàng/Nàng Thực Sự Yêu Tôi” do Catholic Answers xuất bản. Người tác giả này đã chia sẻ cảm nhận của mình về giới trẻ đối với dự án của Thiên Chúa nơi hôn nhân liên quan đến tính dục, cũng như về thành phần phụ huynh làm sao để giúp cho con cái của mình sống thanh tịnh như sau.

Vấn     Đâu là những điểm chính anh chị muốn nhấn mạnh với thành phần thính giả giới trẻ của mình?

Đáp     Nếu tôi có thể tóm tắt cuộc nói chuyện của chúng tôi lại thành một câu, thì đó là câu này: an bình và niềm vui phát xuất từ lối sống thanh tịnh thì đáng giá hơn tất cả mọi thứ thỏa mãn trên trần gian này.

Trong cuộc họp mặt ở một trường trung học nào đó, Crystalina và tôi chia sẻ những chứng từ của chúng tôi với đám thanh thiếu niên. Điều này hình như đã làm cho họ giảm bớt những phản ứng tự vệ và mở lòng của họ ra. Chúng tôi bắt đầu bằng việc nêu lên vấn đề “tới mức nào thì là quá xa”, khi mời giới trẻ hãy nghĩ coi họ muốn ai đó đi xa tới đâu như là người bạn đời tương lai của họ. Những đề tài khác bao gồm vấn đề liên quan đến những nguy hiểm của các thứ hình ảnh khiêu dâm, vấn đề mãnh lực của tính đoan trang nết na và vấn đề khuynh hướng đang phát triển đối với đức thanh tịnh nơi giới trẻ.

Chúng tôi nhấn mạnh là dự án của Thiên Chúa về sự sống và tình yêu chính là những gì thanh thiếu niên đang tìm kiếm. Một khi chúng ta thấy được sự thật về thân thể của chúng ta cũng như sự thật về tình dục, chúng ta sẽ thay đổi đời sống của mình, không phải vì võ lực, vì bị bắt buộc, vì bị thuyết phục, vì cảm thấy tội lỗi, vì sợ bị mang bầu hay bị nhiễm bệnh, mà là vì ý hướng của Thiên Chúa về tình yêu là tất cả những gì tâm can con người mong đợi.

Vấn     Anh nghĩ thế nào về việc truyền thông dẫn giới trẻ đi vào những con đường sai lạc?

Đáp     Khuynh hướng tỏ tường nhất có thể là một thứ hình ảnh về tiền dâm hậu thú như là những gì tự do, thoả mãn và chẳng có bị hậu hoạn tiêu cực nào. Cái thần thoại hoang đường của vấn đề “làm tình an toàn” thật là tệ hại. Ngoài những hậu quả về tâm linh cũng như cảm xúc của vấn đề “làm tình an toàn”, đám thanh thiếu niên còn bị đánh lừa cả về những nguy hiểm thể lý nữa.

Mới đây chúng tôi đã nói chuyện với 10 ngàn học sinh ở Michigan. Trong mỗi cuộc nói chuyện, tôi đều hỏi các em học sinh bệnh nào dễ lây nhiễm nhất theo đường tính dục. Không một em học sinh nào biết cả. Đó là bệnh nhân bướu khuẩn HPV (human papillomavirus), một chứng bệnh hiện nay đang sát hại phụ nữ mỗi năm còn nhiều hơn cả hội chứng liệt kháng AIDS, vì nó gây ra 99% chứng ung thư tử cung. Truyền thông không hề đề cập đến chứng bệnh này, vì bọc cao su làm tình vô bổ trong việc ngăn ngừa chứng bệnh nhân bướu khuẩn HPV ấy. Vấn đề làm tình an toàn nói như thế đã quá đủ rồi.

Vấn     Giới trẻ đã tỏ ra đáp ứng ra sao trước những gì anh muốn chuyển đạt cho họ?

Đáp     Gần đây chúng tôi được mời đến một trường trung học công lập ở bên trong thành phố, nơi có 72 em nữ sinh đang theo học mà lại mang bầu. Con số này không bao gồm trường trung học đệ nhất cấp, bằng không con số lên gần tới 100 em.

Trước khi nói chuyện với các em, tôi bảo vị hiệu trưởng là chúng tôi sẽ trao cho các em học sinh những thẻ quyết tâm sống thanh khiết vào cuối buổi nói chuyện, nên chúng tôi xin một cái bàn để những tấm thẻ đó cho các em học sinh tới lấy. Bà ta sẵn lòng bày ra cái bàn đó, bằng một cái nháy mắt và cho tôi biết rằng bà sẽ đích thân trao các tấm thẻ này cho đám thanh thiếu niên trong trường hợp có đứa thực sự muốn lấy.

Cuộc nói chuyện chấm dứt, sau đó bà cho tôi biết rằng bà chưa hề cảm thấy như bà đã bị tẩu hỏa nhập ma như thế. Bà nói rằng đám thanh thiếu niên đã ùa nhau xuống nhà chơi với bà và bà đã phải quẳng những tấm thẻ đó ở trên bàn rồi chạy mất. Đám thanh thiếu niên đã lấy sạch các tấm thẻ ấy và còn đến văn phòng hiệu trưởng đòi thêm cho bằng được vì không còn một tấm thẻ nào.

Giới trẻ đang khát khao sự thật, khát khao được hướng dẫn và khát khao thành phần tin vào chúng. Chúng đã từng được nghe cách làm sao tránh được chứng bệnh lậu, nhưng những gì chúng muốn biết đó là cái khác biệt giữa tình yêu và tình dục. Chúng biết được những gì xẩy ra cho một gia đình bị tan vỡ, nhưng tốt hơn nữa chúng muốn nghe về cách làm sao chúng có thể cống hiến cho con cái chúng một tương lai tốt đẹp hơn nữa kìa.

Việc chúng mở lòng ra hào hứng đón nghe những gì chúng tôi muốn truyền đạt cho chúng là một điều phải nhận là tuyệt vời. Thế nhưng, tôi cần phải nói thêm thế này, đó không phải những gì chúng tôi truyền đạt, vì chúng tôi không thể chiếm công của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II về thứ “thần học thân thể” của Ngài.

Vấn     Làm thế nào để cha mẹ có thể giúp cho con cái mình thực hành đức thanh tịnh?

Đáp     Trước hết và trên hết, chúng tôi xin cha mẹ hãy cầu nguyện cho con cái của mình. Việc dâng Thánh Lễ, lần hạt Mân Côi và chay tịnh không phải chỉ được coi như là một thứ hỗ trợ trong trường hợp mọi sự đều không thành đạt, mà là như một dụng cụ mãnh lực nhất của cha mẹ. Khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thách thức giới trẻ rằng “Đừng sợ trở thành những vị thánh của tân thiên niên kỷ này!”, thì lời mời gọi đó cũng nhắm đến cả các bậc phụ huynh của chúng nữa.

Theo lời của ĐTC thì “Giáo Hội và thế giới ngày nay hơn bao giờ hết cần đến những cặp vợ chồng dấn thân học hỏi nơi Chúa Kitô”. Thanh tịnh là một nhân đức, và giống như tất cả mọi nhân đức khác, nó dễ được nhận thấy hơn là đem ra giảng dạy. Khi một cặp vợ chồng sống thanh tịnh thì tính chất tinh tuyền nội tâm của họ, lòng trọng kính và tình yêu hy hiến của họ là những gì hiện lộ rõ ràng.

Ở đây tôi cần phải nói thêm là đức thanh tịnh không phải là những gì giống như vấn đề tiết dục. Có một bà mẹ đến hỏi tôi sau khi tôi nói chuyện với một phụ huynh về vấn đề thanh tịnh. Bà nói rằng khi bà rời nhà để đến nghe buổi nói chuyện này thì chồng bà hỏi rằng “Cưng ơi, cưng đi đâu đó?”. Bà trả lời rằng “Đi đến nghe cuộc nói chuyện về đức thanh tịnh”. Ông ta trả lời thế nào anh có biết không? “Được, nhưng đừng có chấp nhận bất cứ điều gì nghe!”

Đây là một vấn đề hiểu lầm thông thường. Việc tiết dục có nghĩa là “không có vấn đề làm tình”. Còn thanh tịnh tức là tinh tuyền trong lòng và khả năng sử dụng tặng ân tính dục theo ý định của Thiên Chúa. Vậy, đối với thành phần vợ chồng thì thanh tịnh đòi họ, trong số những điều khác, phải trung thành với những điều hôn ước của họ và không sử dụng việc ngừa thai nhân tạo. Khi một cặp vợ chồng thực sự muốn đi đến chỗ ngừa thai mà lại mong con cái mình sống thanh tịnh thì cũng giống như nói rằng: “Các con cần phải theo các giáo huấn của Giáo Hội về vấn đề tính dục ngoài hôn nhân, nhưng bố mẹ không cần phải theo những thứ ấy trong cuộc sống hôn nhân của bố mẹ”.

Về mặt nào của bí tích thì đức thanh tịnh cũng là một thách đố khó khăn. Thế nhưng, theo lời của Đức Thánh Cha thì “chính nhờ thánh giá mà gia đình mới có thể đạt được tầm vóc viên trọn của bản chất của nó và đạt tới mức độ toàn hảo yêu thương của nó”. Cha mẹ không được cho con cái mình hẹn hò trai gái trước năm chúng được ít là 16 tuổi, và cấm những em gái nhỏ nhận lời hẹn hò với những đứa con trai lớn tuổi. Họ cần nhớ rằng trước hết họ phải là cha mẹ chứ không phải là bạn bè. Chúng ta có rất nhiều bạn bè nhưng lại rất ít cha mẹ.

Cha mẹ cũng cần phải bảo vệ đám thanh thiếu niên khỏi thất những thứ mạng lưới điện toán khiêu dâm. Hãy để máy điện toán ở một nơi thường xuyên qua lại trong nhà. Hãy tìm hiểu quá trình của những mạng lưới điện toán trong máy và hãy lắp bộ kiểm soát vào máy.

Nếu con cái lầm lỡ, cha mẹ cần phải nhẫn nại và đừng trách cứ chúng. Tóm lại, ai là cha mẹ tuyệt vời nhất trên thế giới này đây? Nếu không phải là Cha Trên Trời. Thế rồi hãy nhìn tới các thứ lỗi lầm của con cái gây ra. Hãy nhìn xem tình thương của Ngài như là một mẫu mực của sự nhẫn nại.

Cha mẹ cũng cần phải biết rằng, theo Cơ Quan Vận Động Quốc Gia Ngăn Ngừa Thanh Thiếu Niên Mang Bầu, thì cái ảnh hưởng đệ nhất, đối với lứa tuổi thanh thiếu niên, khiến chúng tiến tới chỗ quyết định làm tình, không phải là do truyền thông hay bạn bè mà là do cha mẹ. Bởi thế, hãy cố gắng thực hiện việc lành và sống thật gương mẫu. Nếu quí vị làm tất cả những điều ấy rồi thì đám thanh thiếu niên của quí vị mới biết ơn quí vị. Tuy nhiên, xin hãy làm ơn chờ nhận được lời ghi nhận cám ơn này khoảng từ hai cho tới bốn thập niên nữa.

Vấn     Là một cặp vợ chồng trẻ, anh đang gặp những thuận lợi và bất thuận lợi nào khi cố gắng thực hiện cái mạch điện lực thanh tịnh này?

Đáp     Tôi nghĩ cái bất lợi đó là khi nói chuyện ở các trường trung học, cả Cystalina và tôi đều bị học sinh hiểu lầm và bị có những kiểu ăn mặc không hợp với chúng.

Còn cái lợi nhất đó là chúng tôi có thể cống hiến cho đám thanh thiếu niên này một quan điểm từ nhiều góc cạnh khác nhau. Rất bổ ích khi nói đến những vấn đề tính dục khó khăn theo quan điểm của phái nam và phái nữ. Thế nhưng, có lẽ quan trọng hơn đó là Crystalina có thể chia sẻ làm thế nào nàng đã mất trinh khi còn là một thanh thiếu niên song đã xoay ngược cuộc đời của mình.

Trong khi đó, tôi chia sẻ quan điểm của một người mới lập gia đình vào năm 27 tuổi mà vẫn còn trinh khiết. Chúng tôi thấy rằng nếu đám thanh thiếu niên này không cảm nhận được một trong hai người chúng tôi thì họ thường thấy có nhiều điểm giống với người còn lại.

Vấn     Đức tin của anh đã phát triển ra sao qua hoạt động truyền đạt đức thanh tịnh này?

Đáp     Tôi nhớ có một vị linh mục nói rằng “Ai trình bày về vấn đề thần học hay luân lý mà trước không dùng 1 tiếng đồng hồ trước Thánh Thể thì con người này nói toàn về họ thôi”. Bởi vậy, chúng tôi càng phục vụ thành phần thanh thiếu niên, chúng tôi càng nhận thức được rằng hoa trái của việc chúng tôi phục vụ lệ thuộc vào việc cầu nguyện của chúng tôi biết là chừng nào, lệ thuộc vào đời sống cầu nguyện của chúng tôi cũng như vào những lời cầu nguyện của rất nhiều người khác nữa. Mỗi lần chúng tôi trình bày vấn đề, chúng tôi đều xin thín h giả hãy cầu nguyện cho trường học tới là nơi chúng tôi sẽ đến nói chuyện. Chúng tôi cũng viết thư cho cả trên 100 nữ tu viện, xin các nữ tu cầu nguyện cho công cuộc của chúng tôi. Chúng tôi lúc nào cũng cần đến lời cầu nguyện của hết mọi người.

Ngoài ra, tôi thường nghĩ đến cuộc chiến ở trong Sách Chư Vương cuốn 2, đoạn 6 câu 17, nơi thuật lại việc một người hầu cận đến với tiên tri Elisha và than rằng đạo quân của địch hết sức đông đảo. Tiên tri Elisha trả lời: “Đừng sợ, vì những ai ở với chúng ta còn nhiều hơn là những ai ở với họ”. Đoạn ngài nguyện rằng: “Lạy Chúa, con cầu xin Chúa hãy mở mắt hắn ra để hắn được thấy”. Người hầu cận này lập tức thấy một ngọn núi đầy những ngựa và xe ngựa lửa chung quanh Elisha, và những vị thiên thần này đã làm cho quân Do Thái hoàn toàn thắng trận. Vậy cho nên trước những buổi nói chuyện về đức thanh tịnh, tôi thường nhìn tới đám học sinh trung học 1400 em. Đoạn tôi xin 1400 thiên thần đến hiện diện để luôn chuyển cầu cho họ suốt buổi nói chuyện. Tức thì tôi không còn cảm thấy con số quá đông ở một hội đường trường học công lập nữa.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu được Zenit phổ biến ngày 12/12/2003.

Nhận định: Theo cảm nghiệm được diễn tả ở câu vấn đáp thứ ba: ”Giới trẻ đang khát khao sự thật, khát khao được hướng dẫn và khát khao được có người tin vào chúng”, và chung toàn bài phỏng vấn này, người dịch cũng đã từng diễn tả cảm nghiệm tương tự của mình trong cuốn Tông Đồ Giới Trẻ, Cao Bùi 1996, như sau:

“Giới trẻ này hình như đói khát chân lý, thèm thuồng thiện hảo. Bởi đó, càng nghe, họ càng thích, càng thỏa, và càng sống đạo tốt lành hơn, được biểu lộ rõ ràng nhất qua việc yêu thương, đoàn kết với nhau phục vụ” (trang 38);

“Cảm nhận được sức sống linh thiêng mãnh liệt nơi giới trẻ mà tôi đang tiếp xúc và phục vụ này, tôi càng xác tín như sau. Một mặt, sở dĩ giới trẻ tìm kiếm những vui thú mau qua, nhiều khi tội lỗi, là vì chúng đói khát chân thiện mỹ mà chưa thỏa hay không được thỏa, bởi không có mà ăn hay không ai cho ăn. Trái lại, sở dĩ giới trẻ ngang tàng, phá phách, ngông cuồng, phạm pháp, đọa đầy, là vì chúng chẳng những không được mớm cho những chất sinh dưỡng bổ béo như tâm hồn chân chất của chúng vốn khao khát, mà còn lại bị đầu độc bởi những thứ "mật ngọt chết ruồi", hoặc những thứ ăn vào chỉ làm cho đau bụng hay buồn nôn mà thôi. Bởi đó, nếu giới trẻ được giáo dục đàng hoàng, được hướng dẫn đích đáng, được nâng đỡ đến cùng, chúng chẳng những làm người mà còn làm thánh nữa” (trang 39-40).

“Căn cứ vào những nguyên tắc tâm linh và viện chứng thực tế trên đây, chúng ta không thể nào phủ nhận được một sự thật phũ phàng đáng thương, đó là: xã hội loài người ngày nay nói chung, và giới trẻ nói riêng, sở dĩ đang băng hoại, đang bị ‘bankrupcy’ (khánh kiệt), mất vốn, mất gốc, là vì, như các đoạn Phúc Âm theo Mathêu 12:29, Marcô 3:27 và Luca 11:21-22 nói đến, vì con người của họ đã bị kẻ gian đột nhập, tự do của họ đã bị trói buộc, và tâm hồn của họ đã bị cướp bóp, bởi ‘đối phương là ma qủi vây hãm như sư tử gầm gừ rình chực nuốt mồi’ (2Pt.5:8). Trước một thực trạng thảm bại như vậy, làm sao có thể đánh động được giới trẻ, để chúng đang hoang đàng trở thành ngoan đạo, đang băng đảng trở thành một lực lượng làm tông đồ cho chính giới trẻ của mình?” (trang 41).
 

14/1 Thứ Tư

ĐTC GPII với Tác phẩm Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria của Thánh Long Mộng Phố

Nhân dịp kỷ niệm 160 năm (1843-2003) tác phẩm Thánh Mẫu nổi tiếng này của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort), ĐTC GPII đã gửi một bức thư đề ngày 8/12/2003 cho tu sĩ nam nữ thuộc hội dòng Montfort về tín lý Thánh Mẫu của vị sáng lập dòng.


Trước hết, ĐTC đã đề cập đến mục đích của bức thư Ngài viết là vì Ngài muốn chia sẻ với gia đình của vị thánh sáng lập này một suy niệm “bao gồm một ít giòng trong các bản văn của Thánh Louis Marie là những gì sẽ giúp chúng ta nuôi dưỡng đức tin của mình nơi vai trò môi giới từ mẫu của Mẹ Chúa Kitô trong những giây phút khốn khó này”.

ĐTC nhắc lại là 160 năm trước đây “một tác phẩm được viết để trở thành một cuốn sách cổ điển về linh đạo Thánh Mẫu đã được phát hành”. Mặc dù thánh nhân đã viết cuốn tiểu luận này vào đầu năm 1700, nhưng bản thảo đã “thực sự không được ai biết đến hơn 1 thế kỷ” cho đến khi “tình cờ được tìm thấy vào năm 1842 và phát hành vào năm 1843”.

“Chính Tôi, trong những năm còn trẻ, đã được giúp đỡ rất nhiều từ chữ nghĩa trong cuốn sách này, cuốn sách mà trong đó Tôi ‘đã tìm thấy giải đáp cho các vấn nạn của Tôi’, vì Tôi sợ rằng việc tôn sùng Mẹ Maria ‘sẽ đi đến chỗ dung hòa tính cách siêu việt của việc tôn thờ giành cho Chúa Kitô’. Khẩu hiệu của Tôi là ‘Totus tuus’ được soi động bởi tín lý của Thánh Louis-Marie Grignion de Montfort. Hai chữ này nói lên tất cả lòng phó thác cho Chúa Giêsu nhờ Mẹ Maria”.

ĐTC nhận định là Thánh Louis-Marie “chiêm ngưỡng tất cả mọi mầu nhiệm, bắt đầu với Mầu Nhiệm Nhập Thể xẩy ra vào lúc Truyền Tin. “Như Thánh Gioan Thánh Giá, Thánh Louis Marie đặc biệt nhấn mạnh tới tính cách tinh khiết của đức tin cũng như đến tính cách tối tăm sâu xa thương đau thương của đức tin”.

Nói đến Đức Mẹ như là một dấu hiệu của niềm hy vọng, ĐTC đã kết luận thế này: “Giáo Hội đang đợi chờ việc Chúa Giêsu đến trong vinh quang vào ngày tận thế. Như Mẹ Maria và với Mẹ Maria, các thánh ở trong Giáo Hội để làm cho thánh đức của Giáo Hội tỏ rạng và nới rộng công cuộc của Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế duy nhất, cho đến tận cùng trái đất và cho tới tận thế”.

 

ĐTC GPII với Phái Đoàn Ngoại Giao Các Nước Tại Tòa Thánh về Tình Hình Thế Giới và về phương thế cấp cứu (tiếp và hết)

2.     Đức tin là quyền lực xây dựng hòa bình

Mặc dù nhân danh Giáo Hội Công Giáo Tôi sẽ lên tiếng nói ở đây, song Tôi biết rằng các anh chị em Kitô hữu khác cùng với tín đồ thuộc các tôn giáo khác cũng coi mình là những chứng nhân của một Vị Thiên Chúa của công lý và hòa bình.

Khi chúng ta tin rằng hết mọi con người đều nhận được từ Tạo Hóa một phẩm vị đặc thù, rằng mỗi một người trong chúng ta là chủ thể của những thứ quyền lợi và quyền tự do bất khả nhượng, rằng việc phục vụ người khác là lớn lên về nhân tính, và nhất là khi người ta cho mình là môn đệ của Đấng đã phán: ‘Cứ dấu này mà tất cả mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thày, đó là các con yêu thương nhau’ (Jn 13:35), người ta mới có thể rõ ràng hiểu được cái chính yếu biểu hiện cho các cộng đồng tín hữu trong việc xây dựng một thế giới bình an thái hòa.

Về phần mình, Giáo Hội Công Giáo cố gắng thực hiện tất cả những gương mẫu của mình về mối hiệp nhất và tính cách đại đồng, tất cả mọi chứng từ của nhiều vị thánh đã tỏ ra yêu thương kẻ thù của mình cũng như của nhiều con người nam nữ thuộc lãnh vực chính trị đã tìm thấy nơi Phúc Âm lòng can đảm để sống đức bác ái trong những cuộc xung khắc. Ở đâu hòa bình gặp thách đố ở đó Kitô hữu minh chứng bằng lời nói và việc làm rằng hoa bình là những gì khả dĩ. Đó là ý nghĩa về những cuộc can thiệp của Tòa Thánh vào những cuộc tranh luận quốc tế như quí vị đã quá biết.

3.     Tôn giáo trong xã hội: việc hiện hữu và đối thoại

Các cộng đồng tín hữu hiện hữu trong tất cả mọi xã hội như là một biểu hiện cho chiều kích tín ngưỡng của con người. Bởi thế, các tín hữu có lý để mong muốn được tham dự vào cuộc đối thoại trao đổi công cộng. Tiếc thay, dầu sao cũng phải công nhận là không phải bao giờ cũng xẩy ra như thế. Chúng ta là những nhân chứng, trong những thời gian gần đây, tại một số quốc gia ở Âu Châu, thấy có một thái độ có thể tác hại cho việc tôn trọng quyền tự do tôn giáo cần phải có. Mặc dù cả thế giới đều đồng ý vấn đề tôn trọng cảm quan tôn giáo của cá nhân, vẫn không có vấn đề tôn trọng ở biến cố tôn giáo, tức là ở chiều kích xã hội của tôn giáo, khi người ta quên đi những quyết tâm đã tỏ ra chấp nhận theo chiều hướng của những gì bấy giờ được gọi là “Hội Nghị về Vấn Đề Hợp Tác và An Ninh ở Âu Châu”.

Vấn đề thường được nại vào nguyên tắc của chủ nghĩa trần thế là những gì tự nó hợp lý nếu được hiểu như một thứ phân biệt giữa cộng đồng chính trị với các tôn giáo (x Gaudium et Spes, 76). Thế nhưng, việc phân biệt này không có nghĩa là vô thức! Chủ nghĩa trần thế không phải là chủ nghĩa phi giáo hội! Nó chính là vấn đề quốc gia tôn trọng tất cả mọi niềm tin, bảo đảm việc tự do thờ phượng và tâm linh, tự do hoạt động văn hóa và bác ái của các cộng đồng tín hữu.

Trong một xã hội đa dạng thì chủ nghĩa trần thế là vấn đề đả thông giữa các truyền thống linh thiêng khác nhau với quốc gia dân tộc. Mối liên hệ giữa giáo hội và quốc gia có thể và phải giành chỗ cho việc trân trọng đối thoại trao đổi, một cuộc đối thoại trao đổi truyền đạt các kinh nghiệm cùng với các giá trị tốt đẹp cho tương lai của quốc gia. Cuộc đối thoại lành mạnh giữa quốc gia với các giáo hội – không phải là với các luồng tư tưởng mà là với các phần tử – chắc chắn sẽ thuận lợi cho việc phát triển toàn vẹn của con người cũng như cho tình trạngỉ hòa hợp của xã hội.

Cái khó khăn trong việc chấp nhận yếu tố tôn giáo nơi sinh hoạt quần chúng đã được chứng thực một cách điển hình nơi trường hợp tranh luận gần đây về các thứ căn gốc Kitô giáo của Âu Châu. Một số người đã đọc lại lịch sử qua lăng kính của những ý hệ hẹp hòi, quên đi những gì Kitô giáo đã đóng góp vào văn hóa cùng các cơ cấu của châu lục này: đó là phẩm vị con người, là quyền tự do, là cảm quan về toàn cầu, về học đường và đại học đường, về những hoạt động liên đới kết đoàn. Vấn đề là ở chỗ, ngoài các truyền thống tôn giáo khác, Âu Châu đã được thiết lập cùng một lúc với việc lục địa này được truyền bá phúc âm hóa. Theo đức công bằng, cũng cần phải nhắc lại là, mới ở vào khoảng thời gian ngắn trước đây, thành phần Kitô hữu, trong việc cổ võ tự do và các quyền lợi của con người, đã đóng góp vào việc biến đổi êm đẹp những chế độ độc tài cũng như vào việc vãn hồi nền dân chủ ở Trung Âu và Đông Âu.

4.     Tất cả mọi Kitô hữu đều có trách nhiệm đối với hòa bình và mối hiệp nhất gia đình nhân loại

Quí vị biết rằng việc dấn thân đại kết là một trong những gì được giáo triều của Tôi chú trọng. Thật vậy, Tôi tin rằng, nếu các Kitô hữu có thể thắng vượt những thứ chia rẽ của mình thì thế giới này sẽ trở thành đoàn kết hơn. Bởi thế, Tôi bao giờ cũng thích có những cuộc hội họp và những bản tuyên ngôn chung, vì Tôi thấy nơi mỗi một thứ này một điển hình và là một kích tố cho mối hiệp nhất của gia đình nhân loại.

Hỡi Kitô hữu, chúng ta có trách nhiệm đối với “Phúc Âm hòa bình” (Eph 6:15). Tất cả chúng ta có thể đóng góp một cách hữu hiệu vào việc tôn trọng sự sống, vào việc bảo toàn phẩm giá con người cùng với những quyền lợi bất khả nhượng của họ, vào việc bảo toàn đức công bằng xã hội cũng như vào việc bảo trì môi sinh. Hơn thế nữa, việc thực hành lối sống phúc âm khiến cho Kitô hữu có thể giúp đồng loại của mình chế ngự những thứ bản năng của họ, có thể bày tỏ những cử chỉ thông cảm và tha thứ, có thể cùng nhau đến giúp đỡ thánh phần túng thiếu. Thứ giá trị thiếu hụt, được trao cho quyền lực tác tạo hòa bình là những gì liên kết Kitô hữu, có thể ở ngay trong cộng đồng của họ, cũng như ở trong xã hội dân sự.

Tôi nói đến điều này không phải chỉ để nhắc nhở tất cả những ai kêu cầu Đức Kitô về nhu cầu khẩn trương cần phải dứt khoát thực hiện đường lối dẫn đến mối hiệp nhất theo ý của Đức Kitô, mà còn mong muốn các vị lãnh đạo thuộc các xã hội thấy được các nguồn gia sản Kitô giáo cùng với nguồn nhân lực đã sống gia sản này.

Về lãnh vực này, có thể trưng dẫn một thí dụ cụ thể, đó là việc giáo dục về hòa bình. Quí vị có thể nhận thấy những lời này đề tài của Sứ Điệp của Tôi cho ngày 1/1 năm nay. Theo ánh sáng của lý trí và đức tin, Giáo Hội nêu lên một thứ sư phạm về hòa bình để sửa soạn cho những thời điểm tốt đẹp hơn. Giáo Hội muốn cống hiến cho tất cả mọi người những thứ nghị lực thiêng liêng của mình, với lòng tin tưởng rằng “công bình cần phải được bác ái bổ khuyết” (đoạn số 10). Đây là những gì chúng tôi xin nêu lên cho tất cả mọi người thiện chí, vì “Kitô hữu chúng tôi cảm thấy, như là một đặc tính riêng của tôn giáo chúng tôi, nhiệm vụ cần phải đào luyện bản thân mình và người khác về hòa bình” (đoạn 3).

Đó là những ý tưởng Tôi muốn chia sẻ với quí vị Đấng Bậc, quí bà và quí ông, vào dịp đầu năm nay. Những tư tưởng ấy đã được thấu đáo trước máng cỏ, trước Chúa Giêsu là Đấng đã chia sẻ và yêu chuộng sự sống con người. Người tiếp tục là người đồng thời đối với mỗi một người trong chúng ta cũng như đối với mỗi một quốc gia được đại diện nơi đây. Tôi xin ký thác cho Thiên Chúa bằng lời nguyện cầu những dự án và việc thực hiện của họ, và Tôi xin cho quí vị, bản thân quí vị cùng với các người thân yêu của quí vị được hưởng muôn vàn phúc lành. Chúc quí vị một Tân Niên Phúc Hạnh!


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 12/1/2004.
 

Nhận định của www.thoidiemmaria.net: Trong bài diễn từ đầu năm ngỏ với Phái Đoàn Ngoại Giao gần 200 quốc gia trên thế giới này, vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội Công Giáo Rôma đã nhấn mạnh đến 4 vấn đề chính yếu và quan trọng trong năm qua, đó là vấn đề Iraq liên quan đến Hoa Kỳ, vấn đề Thánh Địa giữa Do Thái và Palestine, vấn đề Khối Hiệp Nhất Âu Châu (một vấn đề Ngài đã đề cập đến từ bài Diễn Từ ngỏ với Phái Đoàn Ngoại Giáo năm ngoái cũng vào dịp đầu năm như thế này), và vấn đề Hiệp Nhất Kitô Giáo liên quan đến Hòa Bình Thế Giới.

Vấn đề Iraq liên quan đến Hoa Kỳ: Vấn đề quan trọng hôm nay đó là vấn đề cộng đồng quốc tế giúp cho những người Iraq đã được thoát khỏi một chế độ đán áp họ, để họ có thể lại tiếp tục làm chủ xứ sở của mình, củng cố chủ quyền của họ, quyết định thể chế chính trị và kinh tế một cách dân chủ theo lòng họ mong ước, và để Iraq trở lại làm một phần tử có ưu thế trong cộng đồng quốc tế”.

Phải chăng qua câu nói này ĐTC có ý nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ cần phải rút lui khỏi Iraq để cho họ làm chủ xứ sở của họ bằng việc nắm chủ quyền của họ và quyết định một cách dân chủ về thể chế chính trị và kinh tế của họ?

Vấn đề Thánh Địa giữa Do Thái và Palestine: “Việc thiếu quyết tâm nơi vấn đề của Do Thái và Palestine tiếp tục là một yếu tố thường xuyên gây bất ổn cho toàn vùng đất này, chưa kể đến những đau khổ khôn xiết giáng xuống trên nhân chúng Do Thái và Palestine. Tôi sẽ không thôi lập lại với các vị lãnh đạo hai quốc gia này là giải pháp võ lực, việc bên này sử dụng nạn khủng bố còn bên kia thì trả đũa, việc hạ nhục đối phương, việc tuyên truyền thù hận chẳng dẫn đi đến đâu cả. Chỉ khi nào biết tôn trọng những ước vọng hợp lý của nhau, khi nào ngồi lại thương thảo với nhau, và khi nào cộng đồng thế giới thực hiện việc dấn thân cụ thể mới có thể bắt đầu giải quyết được vấn đề. Một thứ hòa bình chân thực và bền vững không thể nào trở thành một thứ thuần quân bằng giữa các lực lượng trong cuộc; hoà bình trước hết là hoa trái của hành động luân lý và pháp lý”.

Ở đây ĐTC nhận định lý do tại sao hai phe Do Thái và Palestine vẫn chưa thể nào và không thể nào giải quyết được tình trạng xung khắc và xung đột trường kỳ với nhau, là vì họ “thiếu quyết tâm”. Bởi thế, ĐTC đề nghị riêng họ hãy tôn trọng ước vọng hợp lý của nhau bằng việc ngồi lại thương thảo với nhau, thay vì hành động khúng bố tấn công và tấn công khủng bố nhau, và chung cộng đồng thế giới cũng phải thực hiện những dấn thân cụ thể để giúp họ nữa mới được. Theo Ngài, “hoà bình trước hết là hoa trái của hành động luân lý và pháp lý”, chứ không phải ở tại tình trạng lực lượng quân sự giữa đôi bên trong cuộc.

Vấn đề Khối Hiệp Nhất Âu Châu:Cái khó khăn trong việc chấp nhận yếu tố tôn giáo nơi sinh hoạt quần chúng đã được chứng thực một cách điển hình nơi trường hợp tranh luận gần đây về các thứ căn gốc Kitô giáo của Âu Châu. Một số người đã đọc lại lịch sử qua lăng kính của những ý hệ hẹp hòi, quên đi những gì Kitô giáo đã đóng góp vào văn hóa cùng các cơ cấu của châu lục này: đó là phẩm vị con người, là quyền tự do, là cảm quan về toàn cầu, về học đường và đại học đường, về những hoạt động liên đới kết đoàn. Vấn đề là ở chỗ, ngoài các truyền thống tôn giáo khác, Âu Châu đã được thiết lập cùng một lúc với việc lục địa này được truyền bá phúc âm hóa. Theo đức công bằng, cũng cần phải nhắc lại là, mới ở vào khoảng thời gian ngắn trước đây, thành phần Kitô hữu, trong việc cổ võ tự do và các quyền lợi của con người, đã đóng góp vào việc biến đổi êm đẹp những chế độ độc tài cũng như vào việc vãn hồi nền dân chủ ở Trung Âu và Đông Âu”.

Cũng như trong bài diễn từ năm ngoái trong dịp đầu năm như thế này với Phái Đoàn Ngoại Giao liên hệ với Tòa Thánh, ĐTC đã cương quyết giữ vững lập trường của mình về tình trạng Âu Châu hầu như muốn phủ nhận căn gốc Kitô giáo làm nên văn hóa và thể chế của mình. Trong bài diễn từ năm nay, Ngài đã nêu lên lý do tại sao Khối Hiệp Nhất Âu Châu nói chung (nhất là Pháp nói riêng, trưởng nữ của Giáo Hội) đã viện dẫn để nhất định không chịu chấp nhận căn gốc Kitô giáo của mình, đó là vì họ chủ trương thực hiện chủ nghĩa trần tyhế, phân biệt thần quyền ra khỏi thế quyền. Tuy nhiên, Ngài đã nhận định và phân tích chủ nghĩa trần thế của họ như sau:

Vấn đề thường được nại vào nguyên tắc của chủ nghĩa trần thế là những gì tự nó hợp lý nếu được hiểu như một thứ phân biệt giữa cộng đồng chính trị với các tôn giáo (x Gaudium et Spes, 76). Thế nhưng, việc phân biệt này không có nghĩa là vô thức! Chủ nghĩa trần thế không phải là chủ nghĩa phi giáo hội! Nó chính là vấn đề quốc gia tôn trọng tất cả mọi niềm tin, bảo đảm việc tự do thờ phượng và tâm linh, tự do hoạt động văn hóa và bác ái của các cộng đồng tín hữu. Trong một xã hội đa dạng thì chủ nghĩa trần thế là vấn đề đả thông giữa các truyền thống linh thiêng khác nhau với quốc gia dân tộc. Mối liên hệ giữa giáo hội và quốc gia có thể và phải giành chỗ cho việc trân trọng đối thoại trao đổi, một cuộc đối thoại trao đổi truyền đạt các kinh nghiệm cùng với các giá trị tốt đẹp cho tương lai của quốc gia. Cuộc đối thoại lành mạnh giữa quốc gia với các giáo hội – không phải là với các luồng tư tưởng mà là với các phần tử – chắc chắn sẽ thuận lợi cho việc phát triển toàn vẹn của con người cũng như cho tình trạng hòa hợp của xã hội”.

Vấn đề Hiệp Nhất Kitô Giáo liên quan đến Hòa Bình Thế Giới:Hỡi Kitô hữu, chúng ta có trách nhiệm đối với ‘Phúc Âm hòa bình’ (Eph 6:15). Tất cả chúng ta có thể đóng góp một cách hữu hiệu vào việc tôn trọng sự sống, vào việc bảo toàn phẩm giá con người cùng với những quyền lợi bất khả nhượng của họ, vào việc bảo toàn đức công bằng xã hội cũng như vào việc bảo trì môi sinh. Hơn thế nữa, việc thực hành lối sống phúc âm khiến cho Kitô hữu có thể giúp đồng loại của mình chế ngự những thứ bản năng của họ, có thể bày tỏ những cử chỉ thông cảm và tha thứ, có thể cùng nhau đến giúp đỡ thánh phần túng thiếu. Thứ giá trị thiếu hụt, được trao cho quyền lực tác tạo hòa bình là những gì liên kết Kitô hữu, có thể ở ngay trong cộng đồng của họ, cũng như ở trong xã hội dân sự”.

Đây là lần đầu tiên trong các bài diễn từ ngỏ với Phái Đoàn Ngoại Giáo thế giới với Tòa Thánh ĐTC đã nhấn mạnh đến vai trò của Kitô hữu trong sứ vụ xây dựng hòa bình thế giới. Đó là lý do Ngài đã hết sức chú trọng đến tình trạng hiệp nhất Kitô giáo trong giáo triều của Ngài. Thật vậy, nếu “các con là ánh sáng thế gian” (Mt 5:14) thì thế gian tăm tối là vì thiếu ánh sáng thế gian, thiếu gương sáng của Kitô hữu. Chủ trương này của Ngài đã được Ngài nói rõ với giới trẻ Bulgaria chiều Chúa Nhật 26/5/2002 là “Quí bạn trẻ thân mến, quí bạn đừng bao giờ quên rằng một khi đấu bột không dậy men, thì không phải là do lỗi của đấu bột mà là của men. Khi ngôi nhà bị tối tăm tức là ánh sáng đã bị tắt mất. Thế nên, ‘các con hãy chiếu sáng trước mắt con người để họ nhìn thấy các việc lành của các con mà tôn vinh Cha các con trên trời’ (Mt 5:16)” (đoạn 6). Đó là lý do, Ngài đã thẳng thắn tuyên bố với cả thế giới được đại diện bởi Phái Đoàn Ngoại Giao với Tòa Thánh là:

Thật vậy, Tôi tin rằng, nếu các Kitô hữu có thể thắng vượt những thứ chia rẽ của mình thì thế giới này sẽ trở thành đoàn kết hơn”.

 

13/1 Thứ Ba

ĐTC GPII với Hội Nghị Thánh Bộ Giáo Sĩ về Mối Liên Hệ giữa giáo sĩ và giáo dân, và về việc mục vụ của linh mục ở các đền thánh

Hôm Thứ Bảy 10/1/2004, trước hội nghị của Thánh Bộ Giáo Sĩ về vấn đề liên hệ giữa giáo sĩ và giáo dân: “Những Cơ Cấu Tham Vấn, Những Hội Đồng ở Giáo Phận và Giáo Xứ”; cũng như về vấn đề mục vụ tại các đền thánh: “Thừa Tác Mục Vụ ở Các Đền Thánh”, ĐTC đã ban huấn dụ như sau.

Về vấn đề liên hệ giữa giáo sĩ và giáo dân, ĐTC nhấn mạnh là cấu trúc của Giáo Hội không theo các thứ kiểu cách chính trị, và không bao giờ được coi các vị mục tử của Giáo Hội như là những kẻ thừa hành ý kiến của đa số.

“Trong việc thi hành sứ vụ của mình, các vị mục tử hợp pháp không bao giờ được coi như là những kẻ thừa hành những quyết định phát xuất từ đa số trong hội đồng giáo hội. Không được quan niệm cấu trúc của Giáo Hội theo những kiểu cách chính trị loài người. Cơ chế phẩm cấp của Giáo Hội phát xuất từ ý muốn của Chúa Kitô, bởi đó cũng là một phần thuộc ‘kho tàng đức tin’ là những gì cần phải bảo trì và trọn vẹn truyền đạt qua các thế kỷ”.

Giáo Hội “là dân có Chúa Kitô làm thủ lãnh, có phẩm vị và tự do của con cái Thiên Chúa làm thân phận, có giới răn yêu thương cũ và luôn mới làm luật sống, và có Vương Quốc của Thiên Chúa làm cùng đích”.

“Chức tư tế chung của tất cả mọi tín hữu tự bản chất khác với chức linh mục thừa tác và phẩm trật. Tuy nhiên, cả hai đều chặt chẽ liên kết với nhau và hướng về nhau. Các vị mục tử có nhiệm vụ huấn luyện, cai trị và thánh hóa Dân Chúa, trong khi giáo dân, cùng với các vị, chủ động tham gia vào việc truyền giáo của Giáo Hội, bằng hoa trái liên lỉ của nỗ lực cũng như bằng việc tôn trọng các thứ ơn gọi và đặc sủng”.

Việc hợp tác này được cụ thể hóa nơi “các hội đồng khác nhau theo giáo luật ở cấp giáo phận và giáo xứ”, bao gồm “những tổ chức tham gia có cơ hội cộng tác cho thiện ích của Giáo Hội, chú trọng tới kiến thức và khả năng của nhau”.

“Những cơ cấu này, phát xuất từ những ý định của Công Đồng Chung Vaticanô II, cần phải được cập nhật hóa ở những cách thức hoạt động cũng như nơi các qui định hợp với những qui tắc của Bộ Giáo Luật được ban hành năm 1983”.

Tiêu chuẩn được ĐTC nhấn mạnh trong việc cập nhật hóa các cơ cấu này đó là “việc bảo toàn một mối liên hệ quân bình giữa vai trò giáo dân với vai trò xứng hợp của thẩm quyền giáo phận hay của vị linh mục giáo xứ”.

Ngài xin Thánh Bộ Giáo Sĩ hãy để cẩn thận ý tới “việc biến chuyển của những cơ cấu tham vấn này”.

Về vấn đề mục vụ ở các đền thánh ĐTC nhấn mạnh đến những đặc tính cần thiết của vị linh mục có trách nhiệm ở những nơi ấy.

Đền Thánh “lôi kéo nhiều tín hữu đến tìm kiếm Thiên Chúa, bởi thế cần phải sẵn sàng loan báo Tin Mừng một cách sắc bén hơn nữa và hướng tới việc kêu gọi thống hối. Do đó, ở các đền thánh này, các vị linh mục cần phải thi hành tác vụ của mình bằng một cảm quan mục vụ tinh tế được tác động bởi lòng nhiệt thành tông đồ, kèm theo một tinh thần đón nhận của một người cha cùng với kinh nghiệm về nghệ thuật giảng dạy và hướng dẫn giáo lý”.

“Vị giải tội, nhất là ở các đền thánh, được kêu gọi phản ảnh tình yêu nhân hậu của Chúa Kitô đối với mỗi một người qua các hành động và ngôn từ của các vị. Nên vị linh mục cần phải được huấn luyện thích hợp về tín lý và mục vụ”.

“Tâm điểm của mọi cuộc hành hương là những cuộc cử hành phụng vụ mà Thánh Lễ là ưu tiên”. Ngài khuyên các vị linh mục bao giờ cũng phải cẩn thận và sinh động “bằng một lòng sốt sắng thiết tha, thu hút được việc tham dự chủ động của thành phần tín hữu”.

ĐTC kết luận “phân bộ của anh em sẽ không ngừng soạn dọn những đề nghị thích thuận để trợ giúp thừa tác mục vụ ở các đền thánh cho nó được mới mẻ hơn bao giờ hết và đáp ứng các nhu cầu theo thời gian”.

 

ĐTC GPII với Phái Đoàn Ngoại Giao Các Nước Tại Tòa Thánh về Tình Hình Thế Giới

Theo thông lệ hằng năm, thường vào tuần lễ thứ hai của tân niên, (năm 2002 vào ngày Thứ Hai mùng 10/1, năm 2003 vào ngày Thứ Hai 13/1/2003, và năm nay 2004 vào ngày Thứ Hai 12/1) Phái Đoàn Ngoại Giao Các Nước Tại Tòa Thánh đến chúc xuân ĐTC GPII, vị thủ lãnh của Quốc Đô Vatican, và được Ngài chúc lại. Như mọi năm, ĐTC đã cùng họ ôn lại tổng quan Tình Hình Thế Giới trong một năm qua, nhưng bao giờ Ngài cũng nêu lên nhận định của mình về tình hình thế giới này và kêu gọi cộng đồng thế giới cùng nhau xây dựng hòa bình theo tinh thần và chiều hướng của Sứ Điệp Hòa Bình đầu năm của Ngài.


Trọng kính Các Ngài,
Quí Tôn Vị Nữ Nam,

Tôi bao giờ cũng lấy làm vui được gặp gỡ quí vị vào lúc mở màn cho một tân niên nhân dịp chúc mừng nhau theo truyền thống này. Tôi đặc biệt cám ơn những lời chúc tốt đẹp được vị đại diện quí vị là Ngài Lãnh Sự Giovanni Galassi gửi đến Tôi. Tôi chân thành cám ơn những cảm mến cao quí của quí vị cũng như việc quí vị hằng ngày tha thiết quan tâm tới sinh hoạt của Tòa Thánh chúng tôi. Qua con người của quí vị, Tôi cảm thấy gần gũi với nhân dân mà quí vị là đại diện. Tất cả mọi người chắc chắn được hưởng lời nguyện cầu và lòng cảm mến của vì Giáo Hoàng này, người muốn mời gọi họ hãy liên kết khả năng và tài nguyên để cùng nhau xây dựng một tương lai hòa bình và thịnh vượng chung!

Cơ hội này cũng cho Tôi cơ hội thuận lợi để cùng quí vị nhìn thoáng qua thế giới đúng như nó đang được hình thành bởi những con người nam nữ của thời đại này.

Việc cử hành Lễ Giáng Sinh nhắc nhở chúng ta về lòng nhân ái của Thiên Chúa đối với nhân loại, lòng nhân ái được biểu lộ nơi Đức Giêsu, và một lần nữa vẫn còn vang vọng một sứ điệp Bêlem vẫn mới mẻ là: “Bình an dưới thế cho người Chúa yêu!”.

Sứ điệp này một lần nữa được gửi đến chúng ta năm nay trong khi nhiều người tiếp tục phải trải qua các hậu quả của những cuộc tranh đấu võ trang, chịu đựng nghèo khổ, trở thành những nạn nhân của các thứ bất công xấu xa hay của những thứ dịch khó có thể chế ngự. Ngài lãnh Sự Galassi đã lập lại những điều này một cách chính xác như tất cả chúng ta đều nhận thấy như ông. Về phần mình, Tôi xin chia sẻ với quí vị bốn xác tín đã làm Tôi hết sức suy nghĩ và nguyện cầu trong dịp đầu năm 2004 này.

1. Hòa bình bị đe dọa hơn bao giờ hết

Hòa bình đã bị đổ vỡ vào những tháng gần đây bởi những biến cố xẩy ra ở Trung Đông, một miền đất, một lần nữa, lại hiện lên như là một miền đất của xung khắc và chiến loạn.

Nhiều việc làm được Tòa Thánh thực hiện để ngăn tránh cuộc xung đột đau thương đừng xẩy ra ở Iraq là những gì đã quá rõ. Vấn đề quan trọng hôm nay đó là vấn đề cộng đồng quốc tế giúp cho những người Iraq đã được thoát khỏi một chế độ đán áp họ, để họ có thể lại tiếp tục làm chủ xứ sở của mình, củng cố chủ quyền của họ, quyết định thể chế chính trị và kinh tế một cách dân chủ theo lòng họ mong ước, và để Iraq trở lại làm một phần tử có ưu thế trong cộng đồng quốc tế.

Việc thiếu nhất tâm nơi vấn đề của Do Thái và Palestine tiếp tục là một yếu tố thường xuyên bất ổn cho toàn vùng đất này, chưa kể đến những đau khổ khôn xiết giáng xuống trên nhân chúng Do Thái và Palestine. Tôi sẽ không thôi lập lại với các vị lãnh đạo hai quốc gia này là giải pháp võ lực, việc bên này sử dụng nạn khủng bố còn bên kia thì trả đũa, việc hạ nhục đối phương, việc tuyên truyền thù hận chẳng dẫn đi đến đâu cả. Chỉ khi nào biết tôn trọng những ước vọng hợp lý của nhau, khi nào ngồi lại thương thảo với nhau, và khi nào cộng đồng thế giới thực hiện việc dấn thân cụ thể mới có thể bắt đầu giải quyết được vấn đề. Một thứ hòa bình chân thực và bền vững không thể nào trở thành một thứ thuần quân bằng giữa các lực lượng trong cuộc; hoà bình trước hết là hoa trái của hành động luân lý và pháp lý.

Tôi có thể đề cập tới những căng thẳng và những cuộc xung đột khác, nhất là ở Phi Châu. Ảnh hưởng của các tình hình này trên dân chúng thật là thảm khốc. Hậu quả của bạo lực còn phải kể đến tình trạng bần cùng hóa và hư hoại hóa guồng máy cơ cấu, khiến cả quốc gia rơi vào tình trạng chán chường thất vọng. Người ta cũng phải nghĩ tới sự nguy hiểm vẫn còn gây ra do việc sản xuất và mua bán các thứ vũ khí, những thứ tiếp tục cung cấp cho những miền đang ở trong tình trạng nguy hiểm này.

Sáng nay, Tôi muốn đặc biệt kính nhớ đến ĐTGM Michael Courtney, vị khâm xứ tòa thánh ở Burundi mới bị sát hại. Như tất cả mọi vị khâm xứ cũng như tất cả mọi vị lãnh sự, ngài trước hết muốn phục vụ hòa bình và đối thoại. Tôi nghiêng mình trước việc ngài, vì thừa tác vụ giáo phẩm của mình cũng như vì việc ngoại giao của mình, đã can đảm và quan tâm nâng đỡ nhân dân Burundia theo đường lối của họ tiến tới hòa bình và tình huynh đệ tốt đẹp hơn. Cũng thế, Tôi nhớ tới Ông Sergio Viera de Mello, đại diện đặc biệt của Liên Hiệp Quốc ở Iraq bị sát hại trong một cuộc tấn công trong khi ông đang thi hành sứ vụ của mình. Tôi cũng nhớ tới tất cả mọi phần tử của phái đoàn ngoại giao, trong năm qua, đã bị thiệt mạng hay phải chịu khổ đau vì sứ vụ của họ.

Và làm sao người ta lại không đề cập tới nạn khủng bố quốc tế là những gì, trong khi gieo rắc sợ hãi, hận thù và cuồng tín, đang thất kính với tất cả những căn nguyên được nó tìm cách phục vụ? Tôi chỉ xin nói rằng hết mọi văn minh đích danh đều bao hàm việc dứt khoát loại trừ những dính dáng tới bạo lực. Đó là lý do Tôi muốn nói cùng cả một hội trường có những vị ngoại giao đoàn đây là chúng ta không thể nào khoanh tay chấp nhận một cách thụ động để cho bạo lực bắt hòa bình làm con tin được!

Vấn đề khẩn trương hơn bao giờ hết là hãy trở về với một thứ an ninh chung hiệu nghiệm hơn là thứ an ninh thuộc về vị thế và vai trò xứng hợp với Liên Hiệp Quốc. Hơn bao giờ hết cần phải học những bài học thuộc quá khứ xưa kia và mới đây. Tóm lại, một điều tỏ tường là chiến tranh không thể nào giải quyết được những thứ xung khắc giữa các dân tộc!

2. Đức tin là quyền lực xây dựng hòa bình


(còn tiếp)

Thánh Tử Ðạo Việt Nam:

Thứ Ba 13/1/2004

Ðaminh Phan Trọng  Khảm, quan án;

Giuse Phạm Trọng Tả, cựu chánh tổng;

Luca Phạm Trọng Thìn, chánh tổng


 

12/1 Thứ Hai

Huấn Từ Truyền Tin của ĐTC GPII về Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa Chúa Nhật 11/1/2004

1.-     Hôm nay là ngày cử hành Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa. Các Phúc Âm trình thuật rằng Chúa Giêsu đã đến với Gioan Tẩy Giả ở gần Sông Dược Đăng mà xin thánh nhân làm phép rửa thống hối cho. Thế nhưng, ngay sau đó, đang khi Người cầu nguyện thì “Thánh Thần đã xuống trên Người với hình chim bồ câu. Rồi từ trời có tiếng phán: ‘Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con’” (Lk 3:21-22).

Đây là lần đầu tiên căn tính thiên sai của Chúa Giêsu được bộc lộ một cách công khai lần đầu tiên, sau cuộc tôn thờ của các Nhà Đạo Sĩ. Đó là lý do tại sao phụng vụ liên kết Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa với Lễ Chúa Giêsu Tỏ Mình Ra Hiển Linh, bằng một cái nhẩy vọt về thứ tự thời gian 30 năm. Con Trẻ được ba Nhà Đạo Sĩ tôn thờ như vị vua thiên sai hôm nay được Cha thánh hiến trong Thánh Thần.

2.     Nơi biến cố Phép Rửa ở Sông Dược Đăng, “kiểu cách” thiên sai của Chúa Giêsu đã được thể hiện rõ ràng, đó là Người đến như là “Chiên Thiên Chúa” để gánh vác và xóa bỏ tội lỗi trần gian (x Jn 1:29,36). Đó là những gì Vị Tẩy Giả đã giới thiệu với các môn đệ của ngài (x Jn 1:36). Cũng thế, sau khi đã cử hành một đại biến cố Nhập Thể vào dịp Lễ Giáng Sinh, chúng ta cũng được kêu gọi dể gắn mắt nhìn lên Chúa Giêsu, một dung nhan nhân loại của Thiên Chúa và là một dung nhan thần linh của con người.

3.     Mẹ Maria Rất Thánh là bậc thày siêu đẳng về việc chiêm niệm. Nếu Mẹ đã phải chịu khổ theo tính nhân loại khi thấy Chúa Giêsu bỏ Nazarét, thì nơi việc tỏ mình của Người, Mẹ đã nhận được một thứ ánh sáng và sức mạnh mới cho cuộc hành trình đức tin. Việc Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa trở thành mầu nhiệm ánh sáng đầu tiên đối với Mẹ Maria cũng như đối với toàn thể Giáo Hội. Chớ gì biến cố này soi chiếu đường đi nước bước cho tất cả mọi Kitô hữu!

 

Các Vị Giám Mục Âu Châu và Mỹ Châu gặp nhau ở Thánh Địa

Các vị giám mục thuộc hai châu lục này sẽ gặp nhau tại Bêlem và Giêrusalem tuần này về chủ đề “Giáo Hội Hoàn Vũ Liên Kết với Giáo Hội ở Thánh Địa”. Các hội đồng giám mục Canada, Hoa Kỳ, Anh và Wales, Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ sẽ gửi các vị giám mục tới tham dự cuộc họp này. Chủ hội của cuộc gặp gỡ này là Đức Thượng Phụ lễ nghi Latinh Michel Sabbah ở Giêrusalem cùng với Hội Đồng Giám Mục Công Giáo ở Thánh Địa.

Ủy Ban Các Hội Đồng Giám Mục thuộc Cộng Đồng Âu Châu, Hội Đồng Các Hội Đồng Giám Mục Âu Châu (CCEE: Council of European Bishops' Conferences), và Mỹ Châu Latinh Caritas cũng sẽ có đại diện tham dự. Hội Đồng Giám Mục Anh và Wales điều hợp cuộc gặp gỡ từ Thứ Hai đến hết Thứ Năm này (12-15/1/2004).

Về phía hội đồng giám mục Hoa Kỳ sẽ có ĐGM chủ tịch Wilton Gregory; về phía Canada có vị chủ tịch của hội đồng nước này là ĐTGM Brendan O’Brien; và về phiá hội đồng giám mục Anh và Wales có phó chủ tịch của hội đồng là ĐTGM Patrick Kelly ở Liverpool và về phía CCEE có 1 vị đại diện.

 

Saddam Hussein - Tù Binh Chính Trị; Truy lùng vũ khí - trò chơi diễn tiến

Về số phận của lãnh tụ Saddam Hussein, từ khi bị bắt đến nay, vị lãnh tụ này được bảo vệ theo tinh thần của các Hiệp Định Geneva. Vào hôm Thứ Sáu 9/1/2004, các viên chức Ngũ Giác Đài Hoa Kỳ cho biết nhà lãnh tụ này sẽ được coi như là một tù binh chính trị (POW: prison of war). Theo khoản 17 của Hiệp Định Geneva thì các tù binh chính trị không buộc phải tiết lộ bất cứ điều gì, ngoại trừ tên tuổi, cấp bậc và quân số, cũng như không bị đe dọa, nhục mạ hay bị đối xử bất lợi để buộc họ phải khai trình những gì cần điều tra. Tuy nhiên, một khi lãnh tụ này bị coi như là một tù binh chính trị thì lại thuộc về thẩm quyền xét xử của lực lượng chiếm đóng là Hoa Kỳ, chứ không phải của Iraq.

Phát ngôn viên của Ngũ Giác Đài là ông Larry Di Rita cho biết nhà lãnh tụ Saddam Hussein có thể không còn là tù binh chính trị nữa, nếu có những chi tiết chứng tỏ cho thấy nhà lãnh tụ này đã lãnh đạo các cuộc nổi loạn chống lại lực lượng liên minh do Hoa Kỳ cầm đầu, vì trong Hiệp Định Geneva có nhưnõng khoản nói đến những điều này.

Sở dĩ Ngũ Giác Đài phải công bố về tình trạng dứt khoát của nhà lãnh tụ Saddam Hussein như thế là vì có những mâu thuẫn nơi Ngũ Giác Đài, thoạt tiên văn phòng tổng tham vấn của cơ quan này nói với phóng viên báo chí rằng sẽ không có vấn đề công bố nhà lãnh tụ ấy được liệt vào loại tù binh chính trị, vả lại cũng không cần phải tuyên bố mà làm gì. Tuy nhiên, có những viên chức lại nói rằng nhà lãnh tụ này là tù binh chính trị vì trước đây ông ta lãnh đạo lực lượng quân đội đối phương và bị bắt trên chiến trường trong khi đang xẩy ra cuộc xung đột giữa đôi bên.

Cũng trong ngày Thứ Sáu này, ông Girod Christophe vị lãnh đạo Tiểu Ban Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế cho CNN biết cơ quan này đang điều đình để được thăm nhà lãnh tụ Saddam Hussein. Cuộc điều đình này đã bắt đầu từ cuối Tháng 12 với Bộ Tổng Tham Mưu Hoa Kỳ cũng như với Thẩm Quyền Liên Quân Lâm Thời. Theo ông này thì hội này đến thăm nhà lãnh tụ Saddam Hussein không thành vấn đề, như họ đã thăm các tù binh cao cấp của Iraq trước đây. Tuy nhiên, theo những viên chức Hoa Kỳ thì không biết nhà lãnh đạo Saddam Hussein có ưng thuận việc viếng thăm này hay chăng?

Nếu thân phận của nhà lãnh đạo Saddam Hussein nói riêng và nước Iraq nói chung liên quan đến vấn đề vũ khí đại công phá, một nguyên nhân chính để riêng cá nhân nhà lãnh đạo Saddam Hussein cần phải trừ diệt và chung nhân dân nước Iraq bị tấn công dưới chiêu bài giải phóng, thì vấn đề truy lùng những loại vũ khí này hiện nay đã đi tới đâu?

Một tài liệu nghiên cứu được thực hiện bởi tổ chức Carnegie Endowment for International Peace, một nhóm phi đảng phái vốn chống lại cuộc chiến tranh tấn công Iraq. Tài liệu này đã được phổ biến hôm Thứ Năm 8/1/2004. Tác giả của tài liệu nghiên cứu này là ông Joseph Cirincione, người mà vào hôm Thứ Năm đã cho chương trình truyền hình của CNN “American Morning" biết những chi tiết như là Iraq đã chấm dứt chương trình chế tạo các thứ vũ khí đại công phá của họ từ giữa thập niên 1990 và không hề gây đe dọa cấp thời cho Hoa Kỳ trước khi Hoa Kỳ tấn công Iraq, trong khi đó Hoa Kỳ lại lợi dụng yếu tố này để biện minh cho cuộc tấn công của mình.

Người tác giả đã cho CNN biết như thế này: “Chúng tôi đã nhìn vào tiến trình thẩm định tình báo và chúng tôi đã đi đến chỗ kết luận là tiến trình này đã bị hư hỏng. Rất có thể là các viên chức tình báo đã bị áp lực bởi các viên chức cao cấp trong chính phủ thêm thắt những thẩm định đe dọa của họ vào những qui định vốn có từ trước.

“Cái biến chuyển tai hại từ những thẩm định trước đó với NIE (National Intelligence Estimate) 10/2002, cùng với việc thiết lập một thực thể tình báo độc lập ở Ngũ Giác Đài và những diễn tiến khác, cho thấy rằng cộng đồng tình báo bắt đầu bị chi phối một cách sai lệch bởi những quan điểm của các tay phác họa các thứ qui định, ở một lúc nào đó trong năm 2002”.

Có hơn 1 ngàn thanh tra viên Hoa Kỳ đã làm việc hằng ngày từ trước khi xẩy ra cuộc chiến vào tháng 3/2003, tìm kiếm khắp Iraq và phỏng vấn các khoa học gia Iraq cũng như các viên chức Iraq. Tuy nhiên, vị tác giả cho biết “chúng tôi chẳng thấy gì cả. Chẳng có những đống lớn cũ khí. Thật ra chẳng có một vũ khí nào, chẳng có một yếu tố vũ khí nào, không thấy gì gọi là chương trình chế tạo vũ khí cấm theo lòng tin tưởng của chính phủ Hoa Kỳ. Bản tường trình này đã đi đến chỗ kết luận như thế sau khi đã nghiên cứu các văn kiện tình báo Mỹ của các thanh tra viên Hoa Kỳ về vũ khí Iraq cũng như tài liệu của Cơ Quan Nguyên Tử Lực Thế Giới của Liên Hiệp Quốc.

Bản tường trình này tố cáo chính phủ Bush đã đánh lận con đen khi trình bày “các thứ vũ khí nguyên tử, hóa chất và sinh trùng như là một thứ ‘đe dọa về đại công phá’ duy nhất” thay vì chia các thứ đe dọa này làm ba loại vũ khí khác nhau. Bản nghiên cứu này còn nếu lên một chi tiết nữa là chính phủ Bush đã nhấn mạnh “vô bằng mà lại coi như một sự thật hiển nhiên là Saddam Hussein cung cấp các thứ vũ khí đại công phá ông ta có cho những tay khủng bố”.

Vị tác giả của bản nghiên cứu tường trình này còn nói rằng bản văn kiện ấy “là bản kiểm xét toàn bộ đầu tiên về hết tất cả những gì chúng tôi biết được hay nghĩ rằng chúng tôi được biết về các thứ vũ khí đại công phá ở Iraq, nhưng xẩy ra là có một số điều chúng ta nghĩ rằng đúng như những gì chúng ta thẩm định về mối đe dọa thì chúng ta lại bị hụt hẫng. Chúng ta đã thaiùi quá về mối đe dọa. Chúng ta đã làm cho trường hợp bị đe dọa tăng lên hết cỡ để rồi ra tay như thể trường hợp này có thật vậy”.

Vị tác giả này dầu sao cũng công nhận là sở dĩ chương trình chế tạo các thứ vũ khí đại công phá ở Iraq không thành là nhờ ba yếu tố, như những năm thanh tra vũ khí của Liên Hiệp Quốc ở Iraq, những cuộc tấn công bằng quân sự của Hoa Kỳ, và những cuộc cấm vận về kinh tế. Tuy nhiên, theo vị tác giả này, lý do chính của vấn đề Iraq không thành công hay tiến triển trong việc chế tạo các thứ vũ khí đại công phá là vì các khoa học gia Iraq “nói với Saddam rằng họ tiến triển mà thực sự lại không phải thế… Chính Saddam Hussein đã quyết định vào giữa thập niên 1990 rằng hủy bỏ chương trình ấy”.

Vị tác giả của bản nghiên cứu còn minh định chủ ý của văn kiện này không phải là để trách cứ các viên chức trong chính phủ: “Chúng tôi cố gắng để ngăn ngừa điều này tái diễn trong tương lai. Chúng tôi không biết những gì đã xẩy ra tại các văn phòng của chính phủ, thế nhưng có nhiều chứng cớ cho thấy” những thẩm định viên tình báo bị áp lực bởi các vị lãnh đạo của mình.

Trong khi đó, hôm Chúa Nhật 14/1/2004, Thủ Tướng Hiệp Vương Quốc Tony Blair đã nhấn mạnh là ông ta có quyền đi đến chỗ sử dụng quân sự khi nhận được tình báo về những thứ vũ khí đại công phá của nhà lãnh đạo Saddam Hussein, bất kể những thứ vũ khí ấy có hay chăng! Vị thủ tướng có lập luận này đã nói với đài BBC như thế: “Tôi đã nhận được tình báo này và tôi tin rằng nếu không ra tay là vô trách nhiệm. Quí vị chỉ có thể nghĩ đến những gì có thể xẩy ra nếu tôi coi thường tình báo để rồi để xẩy ra những gì khủng khiếp”.

Nhận định của www.thoidiemmaria.net: Theo lập luận của vị thủ tướng Hiệp Vương Quốc này thì bất cứ khi nào người ta nghe thấy một điều gì nguy hiểm là phải ra tay ngay, không cần biết đúng hay sai, thật hay giả, để khỏi phải chịu trách nhiệm nếu có thật như vậy. Ôi, đây thật là một lập luận vô cùng nguy hiểm và độc đoán. Nếu vị thủ tướng này nghe nói vợ mình đang âm mưu giết mình, không cần biết có thật hay chăng, liền ra tay giết nàng liền thì thử hỏi thế gian này còn gì là công lý?! Lập luận theo kiểu vừa có vẻ sợ ma, vừa bất chấp sự thật có hay chăng, lại như vừa muốn bịt miệng công lý lại (bịt miệng nạn nhân lại) này, như thực tế cho thấy, đã sát hại bao nhiêu là mạng người lính và dân Iraq vô tội, làm cho đất nước này tan hoang và tệ hại hơn cả thời đất nước ấy còn sống dưới chế độ độc tài trước đó. Và cũng chính vì bất chấp sự thật có hay chăng về những gì được nghe thấy này mà "người ta", cậy mình mạnh, hay sợ để lâu lòi cái mặt nạ ma quái của mình ra, đã vội vàng gạt ngang việc thanh tra vũ khí của Liên Hiệp Quốc đang diễn tiến khả quan ngon lành ở Iraq, và nhất là đã bất chấp thẩm quyền tối cao của Liên Hiệp Quốc trong vấn đề tấn công Iraq, để đơn phương theo ý mình tự động đi bắt ma ở Iraq, một con ma mà cho tới bây giờ cả 10 tháng sau, vẫn không thấy nó đâu cả! Con ma này, theo chiều hướng của những nguồn tin nhìn lại vấn đề, như bản nghiên cứu được phổ biến trên đây, không phải là sự kiện không hề có những thứ vũ khí đại công phá ở Iraq, mà có thể là sự kiện tạo tĩnh sự thật, để có lý trước mặt thiên hạ hầu có thể ra tay hành động theo những thúc động hay mưu đồ ma quái nào đó?!


 

11/1 Chúa Nhật Lễ Chúa Chịu Phép Rửa

VINH QUANG BA NGÔI

NƠI VIỆC CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA

 Bài Giáo Lý của ÐTC GPII ngày 12/4/2000

1-         Bài đọc vừa được công bố đã đưa chúng ta đến bờ sông Dược-Đăng. Hôm nay, tâm linh chúng ta dừng lại ở bên bờ của một con sông chảy qua hai Giao Ước Thánh Kinh để chiêm ngưỡng cuộc thần hiển cao cả của Chúa Ba Ngôi trong ngày Chúa Giêsu được đưa ra ánh sáng lịch sử, thời điểm bắt đầu sứ vụ công khai của Người, nơi chính những giòng nước ấy.

           

Nghệ thuật Kitô giáo nhân cách hóa con sông này như là một ông lão bàng hoàng sửng sốt nhìn thấy những gì đang xẩy ra trong đáy nước của mình. Như phụng vụ Byzantine xướng lên “Đức Kitô Vầng Thái Dương được rửa” trong giòng sông này. Cũng theo phụng vụ này, ở Buổi Kinh Ban Mai của ngày Thần Hiển hay Hiển Linh của Chúa Kitô, đã giả bộ đối thoại với con sông này như sau: “Ôi Dược-Đăng, phải chăng những gì ngươi thấy đã làm ngươi hết sức chấn động? Tôi đã thấy Đấng Vô Hình trần trụi và tôi rung động. Làm sao thấy Người như thế mà người ta lại không rung động và bị dội lại chứ? Thấy Người như thế các thiên thần rung động, các tầng trời nhẩy mừng, trái đất rung chuyển, biển khơi cùng với tất cả mọi vật hữu hình và vô hình bật ngửa. Chúa Kitô xuất hiện ở sông Dược-Dăng để chúc lành cho tất cả mọi giòng nước!”

 

2-         Việc Chúa Ba Ngôi hiện diện ở biến cố này được tất cả các trình thuật Phúc Âm về biến cố ấy xác nhận một cách rõ ràng. Chúng ta vừa nghe một trình thuật đầy đủ nhất, đó là trình thuật của Thánh Mathêu, một trình thuật bao gồm cả cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Vị Tẩy Giả. Ở tâm điểm của cảnh tượng này, chúng ta thấy nhân vật Kitô, Đấng Thiên Sai đến để làm trọn tất cả những gì là công chính (x Mt 3:15). Người là Đấng làm trọn dự án cứu độ thần linh, bằng việc khiêm nhượng cho thấy mình liên kết với tội nhân.

           

Việc Người tự nguyện hạ mình ấy đã làm cho Người được tôn vinh cao cả: tiếng của Chúa Cha từ trời tuyên bố về Người rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta rất hài lòng về Người” (ibid, câu 17). Câu này bao gồm hai phương diện có tính cách thiên sai của Chúa Giêsu, đó là phương diện vương gia Đavít, ở chỗ gợi lại bài thánh ca vương giả (x Ps 2:7), và phương diện ngôn xứ, ở chỗ dẫn trích bài ca thứ nhất về Người Tôi Tớ Giavê (x Is 42:1). Qua hai phương diện này, mối liên hệ yêu thương sâu xa của Chúa Giêsu với Cha trên trời và việc Người được phong làm Đấng Thiên Sai đã được tỏ ra cho toàn thể nhân loại thấy.

 

3-         Chúa Thánh Thần xuất hiện trong trường hợp này dưới hình dạng của một “con chim bồ câu” “xuống... và đậu” trên Chúa Kitô. Có thể trích dẫn một số đối chiếu Thánh Kinh để cắt nghĩa những hình ảnh này, chẳng hạn chim bồ câu cho thấy cơn lụt chấm dứt và mở màn cho một kỷ nguyên mới (x Gn 8:8-12; 1Pt 3:20-21), chim bồ câu trong sách Diễm Tình Ca biểu hiệu cho người nữ tình nhân (x Sg 2:14, 5:2, 6:9), chim bồ câu như là một mã giáp biểu hiệu cho dân Yến Duyên trong một số đoạn ở Cựu Ước (x Hos 7:11; Ps 68:14).

           

Việc dẫn giải của người Do Thái về đoạn trong sách Khởi Nguyên (1:2) cũng có một tầm vóc quan trọng, một dẫn giải cho thấy Thần Linh di động trên các giòng nước nguyên sơ với một tính cách dịu dàng từ mẫu: “Thần Linh Thiên Chúa di động trên mặt các giòng nước như một con chim bồ câu phủ cánh ấp ủ các đứa con nhỏ của mình mà không động chạm gì đến chúng” (Talmud, Hagigah 15a). Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu như quyền lực của tình yêu siêu mãn. Nói đến chính Việc Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo dạy rằng: “Thần Linh mà Chúa Giêsu có tròn đầy từ khi đầu thai đã đến ‘đậu trên Người’. Chúa Giêsu sẽ là nguồn Thần Linh cho toàn thể nhân loại” (số 536).

 

4-         Bởi thế, tất cả Ba Ngôi hiện diện ở sông Dược-Đăng để mạc khải mầu nhiệm này, để chứng thực và hỗ trợ cho sứ vụ của Chúa Kitô, cũng như để cho thấy rằng nơi Người lịch sử cứu độ đã đến giai đoạn trọng yếu và cuối cùng. Mầu nhiệm này bao gồm cả thời gian và không gian, sự sống con người và lãnh vực thiên nhiên, nhưng trước hết liên quan đến tất cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Ngôi Cha ký thác cho Ngôi Con sứ vụ mang lại “đức công chính”, tức là làm hoàn tất ơn cứu độ thần linh. Giám mục Chromatius cai quản giáo phận Aquileia ở thế kỷ thứ bốn trong một bài giảng về Phép Rửa và Thánh Linh đã nói như sau: “Như việc tạo dựng đầu tiên của chúng ta là công việc của Ba Ngôi thế nào thì việc tạo dựng lần thứ hai của chúng ta cũng là công việc của Ba Ngôi như vậy. Ngôi Cha không làm gì mà không có Ngôi Con và Thánh Linh, vì việc làm của Cha cũng là việc làm của Con và của Thánh Linh. Chỉ có cùng một ân sủng duy nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa. Bởi thế chúng ta được Ba Ngôi cứu độ vì từ ban đầu chúng ta đã được Ba Ngôi duy nhất dựng nên” (Bài Giảng 18A).

 

5-         Sau khi Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa thì sông Dược-Đăng trở thành con sông của Phép Rửa Kitô Giáo, ở chỗ, theo truyền thống rất yêu chuộng của các Giáo Hội Đông Phương, nước của bể rửa tội là giòng sông Dược-Đăng thu nhỏ. Lời nguyện phụng vụ sau đây cho thấy điều ấy: “Ôi Chúa, chúng con nguyện cầu tác động thanh tẩy của Ba Ngôi, bằng quyền năng, tác động và hiện diện của Chúa Thánh Thần, thực hiện trên nước rửa tội và ban cho nước ơn cứu chuộc cùng phúc lành của sông Dược-Đăng” (Kinh Tối Trọng Thể kính Cuộc Hiển Linh Thánh của Chúa Giêsu Kitô, Chúa Chúng Ta, Chúc Lành cho Nước).

 

Thánh Pauline Nôla dường như cũng có cùng một tư tưởng như thế, qua một số câu ngài đặt ra để ghi vào nơi rửa tội: “Từ bể rửa tội này, bể rửa tội ban sự sống cho các linh hồn cần đến ơn cứu độ, chảy một con sông ánh sáng thần linh sự sống. Chúa Thánh Thần từ trời xuống trên con sông này để liên kết nước thánh với nguồn mạch trên trời; một mạch suối đầy Thiên Chúa làm phát sinh ra giòng dõi thánh thiện nhờ thứ nước hiệu năng của mình bởi hạt giống trường sinh bất diệt” (Bức Thư 32, 5). Nổi lên từ thứ nước tái sinh của bể rửa tội, Kitô hữu bắt đầu hành trình sự sống và chứng nhân của mình.

 

(Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 19/4/2000)

 

Tại sao Chúa chịu phép rửa - Người chịu là để làm gì?

Để có thể trả lời một cách chính xác cho vấn đề tại sao Chúa Kitô vô tội mà còn lãnh nhận phép rửa của Gioan Tiền Hô, trước hết, về nguyên tắc, chúng ta cần phải lưu ý đến yếu tố cốt lõi là Chúa Kitô có hai bản tính, bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại. Tuy nhiên, trong hai bản tính được ngôi hiệp nơi Đấng Thiên Sai này, bản tính Thiên Chúa là chính và bản tính nhân loại là phụ, bởi thế mới nói Người là Thiên Chúa Nhập Thể hơn là Con Người Thần Linh. Đó là lý do Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo số 466 mới xác tín: “Nhân tính của Đức Kitô không có một chủ thể nào khác ngoài ngôi vị thần linh Con Thiên Chúa, Đấng đã mặc lấy nhân tính ấy và biến nhân tính ấy thành nhân tính của mình”, và số 515 còn giải thích rõ hơn nữa như sau: “Nhân tính của Người như là ‘một bí tích’, tức như là một dấu hiệu và là một dụng cụ, của thần tính Người cũng như của ơn cứu độ Người mang đến, ở chỗ, những gì hữu hình nơi đời sống trần gian của Người đều dẫn đến mầu nhiệm vô hình của vai trò thiên tử và sứ vụ cứu chuộc của Người”. Số Giáo Lý 516 tóm lại thế này: “Toàn thể đời sống trần gian của Chúa Kitô – lời Người nói, việc Người làm, Người thinh lặng và Người khổ đau, cung cách Người sống động và nói năng thực sự – là Mạc Khải của Chúa Cha”.

Đó là lý do tại sao khi nói về việc Chúa Giêsu chịu phép rửa của Tiền Hô Gioan, Giáo Lý số 536 đã cảm nhận một cách hết sức sâu xa và xác đáng như sau: “Việc Chúa Giêsu chịu phép rửa, về phần Người, đó là việc Người chấp nhận và mở màn cho sứ vụ của Người như là một Người Tôi Tớ khổ đau của Thiên Chúa. Người tự cho mình thuộc vào số các tội nhân; Người là ‘Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian’ (Jn 1:29; x. Is 53:12). Người hướng vọng tới ‘phép rửa’ là cái chết đẫm máu của Người (x Mk 10:38; Lk 12:50). Người đến để ‘làm trọn tất cả những gì chính trực’, tức là, Người bắt mình hoàn toàn thuận phục ý muốn của Chúa Cha, ở chỗ, vì yêu thương Người đồng ý chấp nhận phép rửa tử nạn để xóa bỏ tội lỗi của chúng ta (Mt 3:15, x. 26:39)… Chúa Giêsu sẽ là nguồn mạch Thần Linh đổ xuống cho tất cả nhân loại. Trong lúc Người lãnh nhận phép rửa, ‘các tầng trời mở ra’ (Mt 3:16) – các tầng trời bị tội lỗi Adong đóng lại – và các giòng nước được thánh hóa bởi việc Chúa Giêsu dìm mình xuống cũng như bởi Thần Linh, đó là một dạo khúc mở màn cho cuộc tân tạo”.

Đối với tôi, việc Chúa Kitô lãnh nhận phép rửa không phải là vì nhân tính của Người có tội như bản tính hư hoại của loài người chúng ta, mà là để nhân tính ấy được tràn đầy Thần Linh, đúng hơn để Thần Linh tràn đầy nhân tính của Người. Cũng giống như việc Người ăn chay và chịu cám dỗ trong hoang địa 40 đêm ngày không phải là vì nhân tính của Người đầy đam mê nhục dục cần phải khổ chế và đền tội như loài người tội nhân chúng ta, mà là để nhân tính đầy Thần Linh của Người trở thành phương tiện cho Thiên Chúa sử dụng trong việc chế ngự sự dữ và cứu độ thế gian. Thật ra, nhân tính của Người đã được tràn đầy Thần Linh ngay từ giây phút nhập thể trong lòng Trinh Nữ Đầy Ơn Phúc Maria. Thế nhưng, vì Người cần phải thông ban mức độ tràn đầy Thần Linh của mình ra cho chung nhân loại cũng như cho riêng Giáo Hội của Người nữa, điển hình sau khi phục sinh từ trong kẻ chết, tức lúc nhân tính của Người hoàn toàn hiển linh, Người đã hiện ra với các tông đồ và thở hơi trên các vị để các vị “nhận lấy Thánh Linh” (Jn 20:22), mà Người cần phải tỏ mình ra Người thực sự là Đức Kitô, tức là một Đấng được xức dầu, một Đấng đầy Thần Linh, tức là một Đấng Thiên Sai. Và tác động thích hợp nhất và ý nghĩa nhất để tỏ mình đầy Thần Linh cho phần rỗi của loài người chính là việc Người lãnh nhận phép rửa của Gioan Tiền Hô tại sông Dược Đăng khi bắt đầu xuất thân cứu nhân độ thế.

Biến cố Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa ở sông Dược Đăng, đối với tôi, là hình ảnh tiên báo một cuộc tân tạo, một cuộc tân tạo bởi nước và Thần Linh (x Jn 3:5). Bởi vì, nơi cuộc tạo dựng đầu tiên, nếu Thần Linh bay sà sà trên mặt nước rồi có tiếng phán tạo dựng “hãy có…” thì liền (tuần tự) có mọi sự thế nào (x Gen 1:2-3), thì nơi cuộc tân tạo cũng thế, Thánh Thần cũng xuống trên nước là Đức Giêsu Kitô, Lời Nhập Thể, sau đó có tiếng phán từ trời “Đây là Con Cha yêu dấu”. Thật vậy, Thiên Chúa là Cha trên trời muốn tái sinh con người đã bị hư đi theo nguyên tội bởi nước và Thần Linh, tức bởi Lời Nhập Thể và Thánh Thần. Bởi thế, ai nhờ Thánh Thần tác động “chấp nhận” (Jn 1:12) Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô thì được “tái sinh bởi trên cao” (Jn 3:3), tức tái sinh “bởi Thiên Chúa” (Jn 1:13) chứ không phải bởi máu huyết, bởi đam mê nhục dục, hay bởi ý muốn của nam nhân. Và khi họ chấp nhận Lời Nhập Thể, tức được rửa bởi nước, họ cũng được lãnh nhận Thánh Linh bởi Người, tức được rửa bởi cả Thần Linh nữa vậy, như trong Bí Tích Rửa Tội của Kitô Giáo, “phép rửa nhân danh Chúa Giêsu Kitô” (Acts 10:48, 19:5).

Như thế, theo ý nghĩa của mình, Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa chẳng những báo trước mầu nhiệm tân tạo nơi Phép Rửa mà còn bao gồm cả tính cách hiển linh nữa. Vì loài người sa đọa theo nguyên tội chỉ được tân tạo hay chỉ được tái sinh trong Lời Nhập Thể là Con Người Giêsu Nazarét, một Đấng Thiên Sai sẽ chịu một phép rửa Vượt Qua, một Phép Rửa Tái Sinh được mở màn từ phép rửa của Người ở sông Dược Đăng này. Đó cũng là lý do, theo phụng niên của Giáo Hội, bao giờ Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa cũng theo ngay sau Lễ Hiển Linh. Qua những khoản Giáo Lý được trích dẫn vừa rồi làm cho chúng ta mới chợt thấy được hai lễ này có dính dáng với nhau một cách mật thiết, ở chỗ là cả hai đều cho thấy Chúa Kitô Hiển Linh, Người hiển linh trước thành phần Dân Ngoại, tiêu biểu là Ba Vua, và Ngài cũng hiển linh trước Dân Chúa, đại diện là Gioan Tiền Hô, vị đã thú rằng mình đã nhận ra Người khi thấy Thần Linh xuống trên Người (x Jn 1:33).

Theo ý nghĩa Năm Phụng Vụ, Lễ Hiển Linh là thời điểm kết thúc Mùa Giáng Sinh, Mùa Phụng Vụ Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Thiên Chúa Hóa Thân Làm Người để tỏ mình ra cho chung loài người, chứ không riêng gì Dân Do Thái, vì Ngài đã thực sự mặc lấy bản tính chung của loài người. Tuy nhiên, nhân tính loài người Ngài mặc lấy ấy lại mang huyết tộc Do Thái, một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn để trực tiếp đón nhận Đấng Cứu Thế Thiên Sai như Ngài hứa ban theo giòng lịch sử của họ. Do đó, theo lịch trình thực hiện Dự Án Cứu Độ của Thiên Chúa, trước hết, Ngài đã tỏ mình cho Dân Do Thái, rồi sau đó, qua họ Ngài mới tỏ mình cho tất cả loài người biết, đúng như lời Ngài hứa với tổ phụ Abraham của họ xưa là “tất cả mọi dân nước sẽ được chúc phúc nơi giòng dõi của ngươi” (Gen 22:18). Theo tôi, nếu “Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý”, như Vị Tông Đồ Dân Ngoại đã xác tín trong Thư Thứ Nhất gửi Timôthêu ở đoạn 2 câu 4, thì việc Thiên Chúa Hóa Thân Làm Người mới hơn hai ngàn năm trước đây, đúng là phải được kết thúc hay bế mạc vào Ngày Lễ Ba Vua, Ngày Lễ Chúa Kitô tỏ mình Hiển Linh cho Dân Ngoại vậy.

Chính vì Thiên Chúa muốn tỏ mình ra cho chung loài người qua Dân Do Thái mà, để mở đầu cho Mùa Thường Niên nói chung, Giáo Hội đã cử hành Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, tức cử hành việc Chúa Kitô bắt đầu sứ vụ Thiên Sai của mình nơi xã hội Do Thái, cũng là việc Người tỏ mình là Đấng Thiên Sai cho Dân Chúa biết và như họ trông chờ. Đó là lý do tại sao Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo số 528 mới cảm nhận về Lễ Ba Vua có liên quan đến vị trí và vai trò của Dân Do Thái như sau: “Biến cố Hiển Linh là việc Chúa Giêsu tỏ mình ra như là một Đấng Thiên Sai của dân Yến Duyên, là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Tinh của thế giới… Việc các nhà đạo sĩ đến Gialiêm để tôn kính vua dân Do Thái chứng tỏ là họ, theo ánh sáng thiên sai của ngôi sao thuộc giòng tộc Đavít, muốn tìm kiếm nơi dân Yến Duyên một Đấng sẽ làm vua cai trị các dân tộc (x Mt 2:2; Num 24:17-19; Rev 22:16). Việc họ đến với Chúa Giêsu ngụ ý là dân ngoại có thể nhận ra Chúa Giêsu và tôn thờ Người như là Con Thiên Chúa và như là Đấng Cứu Tinh của thế giới, ở chỗ họ chỉ việc hướng về dân Do Thái và lãnh nhận từ nơi dân tộc này lời hứa thiên sai được chất chứa ở trong Cựu Ước (x Jn 4:22; Mt 2:4-6)…”.

Theo tôi nhận định qua mạc khải Phúc Âm, Chúa Kitô bao giờ cũng tỏ mình cho Dân Do Thái như là một Đấng Thiên Sai của họ, cho đến cuối cùng Người cho họ thấy Đấng Thiên Sai ấy chính là Con Thiên Chúa, như Người tỏ mình ra cho Hội Đồng Do Thái biết và vì thế đã bị họ lên án tử (x Mt 26:63-66), còn Dân Ngoại thì Người tỏ mình cho họ thấy như là một Đức Vua, rõ ràng nhất là lúc trước mặt tổng quyền Philatô (x Jn 18:33-37), và quyết liệt nhất là vào lúc Người từ kẻ chết sống lại để sai các tông đồ đi tuyển mộ môn đồ nơi tất cả mọi dân tộc với lời mở đầu: “Thày được toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28:18). Tóm lại, Đấng mà Ba Vua Phương Đông được thấy chính là Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái, Người thực sự là Con của Thiên Chúa cũng là Vua của muôn dân và muôn loài tạo vật vậy.

Lạy Chúa Giêsu Kitô là Con Cha yêu dấu, đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng. Đúng như Tiền Hô Gioan Tẩy Giả công bố, Chúa quả thực là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian nơi bản tính loài người của mình, đến nỗi, Chúa chẳng những chịu phép rửa thống hối của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả khi bắt đầu tỏ mình ra, mà còn chịu một Phép Rửa đẫm máu nơi Cuộc Vượt Qua của Chúa nữa để có thể tỏ hết mình ra cho nhân loại, như ánh sáng chiếu trong tăm tối tội lỗi và sự chết, nhờ đó họ có thể nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất mà được sự sống đời đời.

 

Xin Chúa hãy sống trong chúng con,

bằng Thánh Linh tràn đầy nhân tính của Chúa,

Vị Thánh Linh đã được Chúa tỏ hiện khi lãnh nhận phép rửa,

đã thông ban cho các Tông Đồ sau khi sống lại từ trong cõi chết,

và đã từ Cha sai đến với Giáo Hội sau khi thăng thiên,

để chúng con trở nên xứng đáng là con cái Cha trên trời,

như Mẹ Maria đầy ơn phúc. Amen.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Đức Tin và Bí Tích Rửa Tội

là Con Đường dẫn đến Ơn Cứu Độ

 Bài Giáo Lý của ÐTC Gioan Phaolô II ngày 1-4-1998

 

T

heo Phúc Âm thánh Marcô thì lời sau hết Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ của Người cho thấy cả đức tin lẫn bí tích rửa tội là đường lối duy nhất dẫn đến ơn cứu độ: “Ai tin và lãnh nhận phép rửa sẽ được cứu độ; còn kẻ không tin sẽ bị luận phạt” (16:16). Và để ghi lại lệnh  truyền giáo Chúa Giêsu đã bảo các Tông Đồ, thánh Mathêu nhấn mạnh đến sự liên hệ giữa phép rửa và việc rao giảng Phúc Aâm: “Các con hãy đi tuyển mộ môn đồ khắp mọi dân nước, rửa tội cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần” (28:19).

          Để đáp lại lới truyền của Chúa Kitô như thế, vào ngày Lễ Hiện Xuống, thánh Phêrô đã lên tiếng kêu gọi dân chúng trở lại, kêu mới những ai nghe thánh nhân lãnh nhận bí tích rửa tội: “Anh em hãy ăn năn thống hối và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để anh em được thứ tha tội lỗi; rồi anh em sẽ được lãnh nhận tặng ân Thánh Linh” (Acts 2:38). Như thế, trở lại bao gồm chẳng những một thái độ nội tâm mà còn cả việc gia nhập cộng đồng Kitô giáo nhờ bí tích rửa tội nữa, một bí tích tẩy xóa tội lỗi và làm cho con người thành phần tử của Nhiệm Thể Chúa Kitô.

2-       Để hiểu được ý nghĩa sâu xa của phép rửa, chúng ta phải suy niệm lại mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu phép rửa vào khởi điểm cuộc đời công khai của Người. Mới nhìn thì đây là một biến cố lạ thường, vì phép rửa của thánh Gioan mà Chúa Giêsu nhận lãnh là một phép rửa “thống hối”, tức phép rửa để sửa soạn cho con người lãnh nhận phép rửa thứ tha tội lỗi. Chúa Giêsu đã thừa biết rằng Ngưòi không cần phải chịu phép rửa thống hối này, vì Người hoàn toàn vô tội. Có lần Người đã thách thức thành phần thù địch với Người rằng: “Ai trong qúi vị có thể kết tội Tôi?” (Jn.8:46).

          Thật ra, trong việc chịu phép rửa của thánh Gioan, Chúa Giêsu đã không lãnh nhận nó để thanh tẩy chính mình, mà là dấu hiệu tỏ ra việc Người gắn bó muốn cứu chuộc các tội nhân. Cử chỉ lãnh nhận phép rửa của Người hệ tại ý hướng cứu độ của Người, vì Người là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Jn.1:29). Về sau Người đã gọi cuộc khổ nạn của Người là một “phép rửa”, diễn đạt phép rửa này như là một thứ trầm mình trong đau khổ được Người chấp nhận để mang lại ơn cứu độ cho phần rỗi tất cả mọi người: “Thày phải lãnh nhận một phép rửa. Thày sầu não biết bao cho tới khi nó được hoàn tất” (Lk.12:50).

 3-       Nơi phép rửa Người lãnh nhận ở sông Dược Đăng, Chúa Giêsu chẳng những đã tiên báo trước công việc khổ nạn cứu chuộc của Người, mà còn lãnh nhận Thánh Linh được tuôn đổ đặc biệt xuống trên Người dưới hình thể một con chim bồ câu, như là Thần Linh giao hòa và thiện ý thánh hảo. Cuộc hiện xuống này là tiền thân cho tặng ân Thánh Linh, Đấng sẽ được ban cho Kitô hữu khi họ lãnh nhận bí tích rửa tội.

          Cũng có tiếng phán từ trời: “Con là Con yêu dấu của Cha; Cha rất hài lòng vì Con” (Mk.1:11). Chính Chúa Cha đã công nhận Con riêng của Ngài và đã tỏ ra mối liên hệ yêu thương giữa hai Đấng. Chúa Kitô thực sự được hiệp nhất với Chúa Cha trong một mối liên đệ đặc thù, vì Người là Lời hằng sống “cùng bản thể với Chúa Cha”. Tuy nhiên, cũng có thể nói rằng, nhờ vai trò làm con cái do bí tích rửa tội mà có, những lời của Chúa Cha “Con là Con yêu dấu của Cha”, cũng ám chỉ cho từng người lãnh nhận bí tích rửa tội và được tháp nhập vào Chúa Kitô.

          Như thế, nguồn gốc của bí tích rửa tội Kitô giáo và ý nghĩa phong phú của bí tích này được tìm thấy nơi việc Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa.

 4-       Thánh Phaolô đã cắt nghĩa bí tích rửa tội chính yếu là một việc thông phần vào hoa trái của công cuộc Chúa Kitô cứu chuộc, khi thánh nhân nhấn mạnh đến nhu cầu từ bỏ tội lỗi và bắt đầu một cuộc sống mới. Thánh nhân đã viết cho Kitô hữu giáo đoàn Rôma: “Anh em không biết rằng tất cả chúng ta là những người đã được lãnh nhận phép rửa trong Đức Giêsu Kitô hay sao? Thế nên, chúng ta đã được chôn táng với Người trong sự chết bởi bí tích rửa tội, để như Chúa Kitô nhờ vinh quang của Chúa Cha mà sống lại từ trong kẻ chết thế nào, chúng ta cũng bước đi trong cuộc sống mới như vậy” (6:3-4).

          Vì phép rửa là một việc trầm mình vào mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô mà phép rửa Kitô giáo đã có một giá trị cao cả hơn rất nhiều những lễ nghi làm phép rửa của Do Thái và của dân ngoại, những lễ nghi gột rửa tượng trưng cho việc thanh tẩy song không có khả năng xóa bỏ tội lỗi. Trong khi đó phép rửa Kitô giáo là một dấu hiệu thực sự thanh tẩy lương tâm và thứ tha tội lỗi. Phép rửa Kitô giáo còn phát sinh một tặng ân cao cả hơn nữa, đó là một sự sống mới của Chúa Kitô phục sinh, là tặng ân biến đổi tội nhân đến tận gốc rễ.

5-       Thánh Phaolô đã cho thấy hiệu qủa chính yếu của bí tích rửa tội khi thánh nhân viết cho Kitô hữu giáo đoàn Galata: “Tất cả anh em đã lãnh nhận phép rửa trong Đức Kitô thì anh em đã mặc lấy Người” (3:27). Kitô hữu mang sâu xa nơi mình hình ảnh Chúa Kitô, ở tại tặng ân họ được trở thành những đứa con thừa nhận thần linh. Chính là vì đã “rửa trong Chúa Kitô” mà Kitô hữu là “những người con cái của Thiên Chúa” một cách đặc biệt. Bí tích rửa tội làm nên một cuộc “tái sinh” thực sự.

          Chủ trương của Thánh Phaolô có liên hệ với giáo huấn của Phúc Aâm Thánh Gioan truyền lại, nhất là đoạn Chúa Giêsu đàm thoại với Nicôđêmô: “Con người sẽ không thể vào nước Thiên Chúa, nếu không được hạ sinh bởi nước và Thần Linh. Vì cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt, và cái gì sinh bởi Thần Linh là Thần Linh” (3:5-6).

          “Hạ sinh bởi nước” là một qui chiếu rõ ràng về bí tích rửa tội, một bí tích bởi vậy được coi như một cuộc tái sinh bởi Thần Linh. Nơi bí tích này con người lãnh nhận Thần Linh sự sống, Đấng “đã thánh hiến” nhân tính của Chúa Kitô ngay từ giây phút Nhập Thể và cũng là Đấng chính Chúa Kitô tuôn tràn nhờ công việc cứu chuộc của mình.

          Chúa Thánh Thần thực hiện việc hạ sinh và tăng trưởng nơi Kitô hữu một sự sống “thiêng liêng” thần linh. Sự sống này sinh động và thăng hóa hữu thể của họ. Nhờ Thần Linh, chính sự sống của Chúa Kitô sinh hoa kết trái nơi cuộc sống người Kitô hữu.

          Bí tích rửa tội là một tặng ân cao cả và diệu huyền biết bao! Rất mong rằng tất cả mọi con cái Giáo Hội sẽ ý thức sâu xa hơn về bí tích này, nhất là trong thời gian dọn mừng Cuộc Mừng Kỷ Niêm. 

 (Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 8/4/1998)

 

Bí Tích Rửa Tội

là Nền Tảng của Sự Hiệp Thông

 Bài Giáo Lý của ÐTC Gioan Phaolô II ngày 15-4-1998

 

B

uổi giáo lý hôm nay ở vào Tuần Bát Nhật Phục Sinh. Trong tuần này cũng như suốt cả thời gian kéo dài tới Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, cộng đồng Kitô hữu nhận thức một cách đặc biệt sự hiện diện sống động và chủ động của Chúa Kitô phục sinh. Trong khung cảnh rực rỡ ánh sáng và niềm vui thích hợp với Mùa Phục Sinh này, chúng ta tiếp tục những bài suy niệm của chúng ta để dọn mừng Cuộc Đại Hỷ Năm 2000. Hôm nay, một lầøn nữa, chúng ta nhắc lại bí tích Rửa Tội mà, nhờ chìm ngập con người trong mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô, con người được trở thành một người con của Thiên Chúa và được tháp nhập với Giáo Hội.

          Phép Rửa là một điều trọng yếu đối với cộng đồng Kitô hữu. Bức Thư gửi Kitô hữu giáo đoàn Eâphêsô đã đặc biệt kể Phép Rửa vào số những nền tảng của sự hiệp thông liên kết các môn đệ của Chúa Kitô lại với nhau: “Chỉ có một thân thể và một Thần Linh, cũng chỉ có một niềm hy vọng mà anh em được kêu gọi đến, chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép rửa, chỉ có một Thiên Chúa và là Cha của tất cả chúng ta” (Eph.4:4-6).

          Việc xác nhận chỉ có một Phép Rửa trong mối liên hệ với các nền tảng khác nơi sự hiệp nhất giáo hội có một tầm quan trọng đặc biệt. Thật vậy, Phép Rửa qui hướng về một Người Cha duy nhất, Đấng nhờ Phép Rửa ban cho mọi người chức phận làm con cái thần linh. Phép Rửa có liên hệ mật thiết với Đức Kitô là một Chúa duy nhất, Đấng nối kết những ai lãnh nhận phép rửa vào Nhiệm Thể Người, nó cũng có liên hệ mật thiết với Chúa Thành Thần, nguyên lý hiệp nhất trong các tặng ân đa dạng. Là một bí tích của đức tin, Phép Rửa thông truyền một sự sống dẫn đến vĩnh cửu, và vì thế nó hướng đến một niềm hy vọng trông mong vững vàng vào việc hoàn tất những lời hứa của Thiên Chúa.

          Một Phép Rửa duy nhất, vì thế, nói lên sự hiệp nhất của toàn thể mầu nhiệm cứu chuộc.

2-       Khi thánh Phaolô muốn nói lên sự hiệp nhất của Giáo Hội, thì ngài so sánh Giáo Hội với một thân thể, Thân Thể Chúa Kitô, một thân thể được chính thức hình thành nhờ Phép Rửa: “Vì bởi một Thần Linh tất cả chúng ta đã được lãnh nhận phép rửa làm nên một thân thể - Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do - và tất cả đã được uống cùng một Thần Linh” (1Cor.12:13).

          Chúa Thánh Thần là nguyên lý của sự hiệp nhất Thân Thể này, vì Ngài làm cho cả Chúa Kitô là Đầu cùng với các chi thể của Người sống động. Trong việc nhận lãnh Thần Linh, tất cả mọi người lãnh nhận bí tích rửa tội, cho dù khác nhau về nguồn gốc, về chủng tộc, về văn hóa, về phái tính và về giai cấp xã hội, cũng đều được hiệp nhất nơi Thân Thể Chúa Kitô, đúng như lời thánh Phaolô nói: “Không còn là Do Thái hay Hy Lạp, không còn tự do hay nô lệ, không còn nam nhân hay nữ giới; vì tất cả anh em là một trong Đức Giêsu Kitô” (Gal 3:28).

3-       Dựa vào Phép Rửa, Bức Thư Thứ Nhất của thánh Phêrô thúc giục các Kitô hữu hãy tập trung chung quanh Chúa Kitô để giúp vào việc xây dựng lâu đài thiêng liêng được thành lập trên Người và bởi Người: “Hãy đến với Người (Đức Kitô), đến với tảng đá sống động bị con người loại bỏ nhưng lại được chọn và cao qúi trước nhan Thiên Chúa; và như những viên đá sống động anh em cũng xây dựng chính mình làm một ngôi nhà thiêng liêng, thành một chức tư tế thánh thiện, để nhờ Đức Giêsu Kitô hiến dâng của lễ thiêng liêng đáng Thiên Chúa chấp nhận”. (2:4-5). Như thế, Phép Rửa nối kết tất cả mọi tín hữu lại trong cùng một thiên chức tư tế của Đức Kitô, cho phép họ tham phần vào việc thờ phượng của Giáo Hội, và làm cho đời sống của họ thành một lễ dâng thiêng liêng đáng Thiên Chúa chấp nhận.

          Phép rửa còn là một nguồn hoạt lực tông đồ. Công cuộc truyền giáo của thành phần lãnh nhận bí tích rửa tội, theo ơn gọi của mình, được Công Đồng Chung Vaticanô II, trong Hiến Chế Lumen Gentium, đã bàn giải sâu rộng và dậy rằng: “Mỗi một người môn đệ của Chúa Kitô có phận sự bó buộc phải truyền bá đức tin với tất cả năng lực của mình” (đoạn 17). Trong Thông Điệp Redemptoris Missio, Tôi đã nhấn mạnh rằng bởi Phép Rửa mà tất cả mọi giáo dân đều là những nhà truyền giáo (xem đoạn 71).

4-       Phép Rửa cũng là một khởi điểm trọng yếu cho việc đối thoại đại kết.

          Nói về các người anh em tách biệt của chúng ta, Sắc Lệnh về Đại Kết viết: “Đối với những người tin vào Đức Kitô và đã được lãnh nhận phép rửa xứng hợp, thì được hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo ở một mức độ dù chưa toàn vẹn” (Unitatis redintegratio, đoạn 3). Trên thực tế, một khi Phép Rửa được ban hiệu thành thì làm phát sinh một sự tháp nhập thực sự với Chúa Kitô và làm cho tất cả mọi người lãnh nhận phép rửa thật sự là anh chị em với nhau trong Chúa, bất kể giáo phái của mình. Đây là điều Công Đồng Chung Vaticanô II dạy: “Bởi thế, Phép Rửa kiến tạo nên một mối kết liên bí tích vốn có giữa tất cả mọi người được tái sinh bởi Phép Rửa” (như đã trích, đoạn 22).

          Phép Rửa là một sự hiệp thông mở đầu cần phải được triển phát theo chiều hướng của sự hiệp nhất trọn vẹn, như chính Công Đồng Chung Vaticanô II thúc giục: “Thế nhưng, tự mình, Phép Rửa chỉ là một cuộc bắt đầu, là một khởi điểm, vì nó hoàn toàn được hướng về việc chiếm hữu trọn vẹn sự sống trong Chúa Kitô. Như thế, Phép Rửa được qui hướng về việc trọn vẹn tuyên xưng đức tin, về việc tháp nhập hoàn toàn vào thể chế cứu rỗi như chính Chúa Kitô mong muốn, và sau cùng về việc hòa nhập vẹn toàn vào sự hiệp thông Thánh Thể” (cùng đoạn trên).

5-       Trong chiều hướng của cuộc Mừng Kỷ Niệm, phương diện đại kết này của Phép Rửa đáng phải được đặc biệt nhấn mạnh (xem Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, đoạn 41).

          Hai ngàn năm sau Chúa Kitô giáng sinh, Kitô hữu chẳng may đang tỏ cho thế giới thấy rằng mình không hoàn toàn hiệp nhất với nhau như Người mong muốn và theo lời Người nguyện cầu. Thế nhưng, chúng ta đồng thời cũng không được quên tất cả những gì đã hiệp nhất chúng ta lại với nhau. Cuộc đối thoại về tín lý cần phải được cổ võ ở mọi tầng lớp, cũng như việc cởi mở tương thân tương ái, việc cùng nhau hợp tác, và nhất là phong trào đại kết thiêng liêng của việc cầu nguyện, cũng như việc quyết tâm nên thánh. Aân sủng của Phép Rửa tự nó là một nền tảng để dựng xây sự hiệp nhất trọn vẹn được Thần Linh liên lỉ thôi thúc chúng ta. 

 (Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 22/4/1998)

 

(Giáo Hội Hiện Thế các tuần trước)