GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
CHÚA NHẬT 29/10/2006 TUẦN XXX THƯỜNG NIÊN |
? Thánh nhân là ai? Một cái nhìn sơ lược về sự thánh thiện
? "Thánh Thiện là của Chúa, thuộc về Chúa, và Nên Thánh là tiến trình con người được Thánh Hóa "trong tinh thần và chân lý"
? Ngày của Chúa - Dies Domini / Ngày của Con Người - Dies Hominis: Một ngày kết đoàn
Thánh nhân là ai? Một cái nhìn sơ lược về sự thánh thiện
Trần Mỹ Duyệt
(Biệt chú: xin xem phần nhận định phụ họa về bài viết này của thoidiemmaria ở bài sau đó:
"Thánh Thiện là của Chúa, thuộc về Chúa, và Nên Thánh là tiến trình con người được Thánh Hóa 'trong tinh thần và chân lý')
Nếu để ý theo dõi sinh hoạt Giáo Hội vào những thập niên qua, chúng ta sẽ thấy rằng càng ngày Giáo Hội càng tôn phong nhiều Hiển Thánh và Chân Phước. Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đưa vào sổ bộ các thánh 117 Hiển Thánh và 1 Chân Phước Việt Nam. Đây là con số đông đảo các thánh so với các Giáo Hội trong vùng Đông Nam Á như Nam Hàn, Nhật Bản, Trung Hoa, Đài Loan, Phi Luật Tân, Thái Lan, Cao Mên hay Lào.
Nhìn chung toàn thể Giáo Hội Hoàn Vũ, Đức Bênêđíctô XVI, theo chân vị tiền nhiệm cũng đã đưa lên bàn thờ nhiều Hiển Thánh và Chân Phước. Chúa Nhật ngày 15 tháng 10 năm 2006, tại quảng trường Thánh Phêrô, 4 vị Chân Phước đã được Đức Bênêđíctô XVI tôn phong Hiển Thánh. Các vị gồm:
- Thánh Rafael Guizar Valencia ((1878-1938). Sinh quán Mễ Tây Cơ. Là Giám Mục Giáo Phận Veracruz. Vị Thánh Giám Mục đầu tiên của Châu Mỹ La Tinh.
- Thánh Filippo Smaldone (1848-1923). Sinh quán tại Ý. Sáng lập Dòng Nữ Tử Salasien Thánh Tâm Chúa.
- Thánh Rosa Venerini (1656-1728). Sinh quán tại Ý. Sáng lập Dòng Các Sư Huynh Venerini.
- Thánh Teodora Guérin (1798-1856). Sinh quán tại Anne-Thérésa, Pháp. Sáng lập Dòng Các Nữ Tử Chúa Quan Phòng tại Woods College, Hoa Kỳ.
Ngoài ra, ngày 17 tháng 10 năm 2006, Giáo Hội vừa công bố 4 vị tân Chân Phước, đó là:
- Chân Phước Paul Jose Nardini (1821-1862), linh mục giáo phận, người Ý. Sáng lập Dòng Các Chị Em Phanxicô Của Thánh Gia. Ngài đã được Phong Chân Phước vào Chúa Nhật Truyền Giáo, 22 tháng 10 năm 2006, tại nhà thờ Chính Tòa Speyer, Đức.
- Chân Phước Margarita Maria López de Maturana (18884-1934), người Tây Ban Nha. Sáng lập Tu Hội Các Chị Em Truyền Giáo Của Lòng Thương Xót. Ngài cũng đã được phong Chân Phước vào Chúa Nhật Truyền Giáo, ngày 22 tháng 10 năm 2006, tại nhà thờ Chính Tòa Bibao, Tây Ban Nha.
- Chân Phước Mariano de la Mata Aparicio (1905-1983), người Tây Ban Nha, thuộc Dòng Truyền Giáo Thánh Augustinô. Người được mệnh danh là “sứ giả bác ái” giữa những người nghèo khó ở Ba Tây. Ngài sẽ được phong Chân Phước vào ngày 5 tháng 11 năm 2006, tại nhà thờ Chính Tòa Sao Paulo, Ba Tây.
- Chân Phước Eufrasia Eluvathingai Thánh Tâm Chúa (1877-1952), đan sỹ người Ấn Độ thuộc Dòng Camêlô. Ngài sẽ được phong Chân Phước vào ngày 3 tháng 12 năm 2006, tại Ollur, thuộc Tổng Giáo Phận Trichur, Ấn Độ.
Theo Bộ Nghi Lễ Phượng Tự, thì “Giáo Hội đã ghi vào danh sách các thánh và những vị sẽ được tôn phong như một tấm gương cho tất cả các tín hữu về những người nam và nữ đã để lại tất cả để theo chân Chúa Kitô là Thiên Chúa, và là Thầy của họ, để trao cho những kẻ bé mọn, nghèo đói sức sống viên mãn và sự khôn ngoan tuyệt đối”.
Chúng ta đang sống trong một thời đại có nhiều Hiển Thánh và Chân Phước, trong đó có những vị mà chúng ta đã có lần gặp gỡ, bắt tay, truyện trò, hoặc được nhìn thấy, nghe thấy các ngài trên truyền hình hoặc truyền thanh. Nhưng như Thánh Augustinô, chúng ta cần hỏi mình: “Ông kia, bà nọ nên thánh được, tại sao tôi lại không?”.
THÁNH NHÂN LÀ AI?
Là Phêrô, Gioan, Phaolô, Augustinô, Gioan Vianey, Gioan Boscô, Đaminh Saviô, Maria Gorétti, Anê Lê Thị Thành, Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Têrêsa Calcutta...
Trên đây chỉ là một số thánh nhân có những giá trị và trường hợp đặc biệt. Theo đó, qua những vị này, chúng ta có thể tìm được những nét rất người, và rất trung thực để có thể bắt chước. Dĩ nhiên, có những thánh nhân cao cả mà cuộc sống anh hùng của các ngài là những tấm giương để chúng ta kính phục, thí dụ, Tôma A’quinas, Tiến Sỹ Hội Thánh. Ignatiô sáng lập Dòng Tên. Bênêđíctô sáng lập Dòng Bênêđíctô, và nhiều, nhiều vị thánh lẫy lừng khác nữa trong Giáo Hội.
Căn cứ vào một số vị thánh như vừa kể trên, câu hỏi được đặt ra là: “Thánh nhân là những ai?”, và: “Thánh nhân là người như thế nào?”.
Quan niệm chung vẫn cho rằng thánh là những con người siêu phàm. Từ ngữ thánh dính liền với ăn chay, đền tội, phạt xác, hãm dẹp ngũ quan, hãm dẹp tình dục. Thánh là phải đi lễ mỗi ngày dù mưa hay gió, nóng hay lạnh. Thánh là những con người lúc nào cũng chu chu, chắm chắm, mắt nhìn xuống đất, không cười, không khóc, không nhìn đàn bà nếu là đàn ông, và không nhìn đàn ông nếu là đàn bà. Thánh không bao giờ biết giận, biết nóng nảy, biết mệt mỏi và lúc nào cũng vậy không ai biết họ nghĩ gì, phản ứng ra sao.
Đó là những khái niệm về thánh mà khi còn nhỏ người viết đã được chỉ dậy, và điều này đã phát sinh những trăn trở không ít. Nhiều khi không hiểu một ông thánh hay bà thánh làm sao mà lại có thể sống như vậy được. Và càng nghĩ đến câu nói của Thánh Augustinô: “Ông kia, bà nọ nên thánh được, tại sao tôi lại không?”, thì lại càng cảm thấy khó hiểu đôi khi đem đến mặc cảm.
Nhưng rồi nhờ đọc Thánh Kinh, và có dịp tìm kiếm kỹ lại lịch sử và đời sống của các thánh mà tôi đã hoàn toàn thay đổi quan niệm và cái nhìn về những vị thánh. Nhất là khi suy ngắm cuộc đời Chúa Giêsu – Thánh trên hết các thánh – cuộc đời Đức Mẹ, cuộc đời Thánh Giuse, tôi mới hiểu rằng mọi người đều được kêu gọi làm thánh, và đều có bổn phận phải nên thánh. Và nhất là nên thánh là việc làm mà ai cũng có thể làm được.
ĐI TÌM HÌNH ẢNH MỘT VỊ THÁNH
Thánh Gioan Boscô đã diễn tả hình ảnh một vị thánh không gì hơn là một con người như chúng ta. Một con người trưởng thành với chủ ý sống và thực hành những đòi hỏi tâm linh. Ngài nói: “Muốn làm thánh phải làm người trước đã”.
Như vậy, thánh nhân không gì hơn là chính mỗi người chúng ta, là những người mà chúng ta gặp gỡ thường ngày. Hơn thế nữa, là những người vui vẻ, yêu đời, hòa đồng, dễ cảm, dễ mến. Những người biết khóc, biết cười, biết buồn và biết vui. Là những người như chúng ta và chúng ta có thể bắt chước được. Vẫn theo Thánh Gioan Boscô: “Một ông thánh hay buồn là một ông thánh đáng buồn!”.
Mặt ủ mày chau. Chu chu chắm chắm. Ăn chay trường. Lúc nào cũng nhìn xuống đất. Sợ không dám cười, không dám nói. E ấp, rụt rè... Những cái vẻ bề ngoài thánh thiện ấy, theo Thánh Gioan Boscô chưa chắc là thánh thiện. Ngược lại, những cử chỉ và cách sống ấy có khi cần phải xét lại. Bởi vì nó không phản ảnh trung thực được con người và nếp sống thường ngày của con người. Vậy thánh thật là những ai?
Truớc hết, chúng ta hãy nhìn vào Thánh Gia: Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse. Trước con mắt người đời trẻ Giêsu cũng chỉ là một em bé tầm thường, và còn hơn tầm thường là em bé thất học. Thất học vì gia cảnh nghèo nên bố mẹ không giử đến trường được. Tiếp đến là Giuse, gia trưởng là một bác phó mộc ít nói và kín đáo. Khả năng tay nghề của ngài chỉ mua được cho gia đình một con lừa. Và sau cùng là Đức Maria, một người vợ, người mẹ cũng âm thầm, hiền hòa, và không có gì khác người.
Rồi đến Phêrô, một Tông Đồ nhiệt thành của Chúa Giêsu nhưng lại là người nóng nẩy, bộc trực, hấp tấp, phản ứng hầu như theo tự nhiên. Hơn thế nữa, còn mang tội chối Thầy mình. Một người mà đã có lần Chúa Giêsu gọi là “Satan”.
Gioan, người môn đệ được Chúa Giêsu yêu thương cũng chỉ làm được một việc coi là anh hùng là đứng dưới chân thập giá Chúa trong buổi chiều Tử Nạn.
Phaolô trước khi trở thành Tông Đồ của Chúa đã từng bắt bớ và quyết tâm tận diệt Giáo Hội của Ngài.
Augustinô với một quá khứ bê tha, trác táng, kiêu căng và tự phụ.
Gioan Vianey, một linh mục nhà quê đọc không thông, viết không thạo tiếng mẹ đẻ.
Gioan Boscô, mồ côi cha, sống với người mẹ nghèo. Sau khi chịu chức linh mục chỉ quanh quẩn bên những đứa trẻ bụi đời, hè phố.
Đaminh Saviô, một học sinh của Gioan Boscô qua đời mới 12 tuổi.
Maria Gorétti, qua đời năm 14 tuổi. Một thiếu nữ nhà quê nhưng sẵn sàng bị đâm chết để bảo toàn đức trong sạch.
Têrêsa Hài Đồng Giêsu vào đan viện năm 15 tuổi, qua đời năm 24 tuổi. Trầm lặng và không làm một việc gì nổi nang.
Anê Lê Thị Thành, người mẹ Việt Nam sống với chồng và 6 con trước khi được phúc tử đạo.
Nhất là Têrêsa Calcutta, vị nữ tu nghèo mà khắp thế giới ai cũng biết.
Nhìn vào cuộc đời của các vị thánh ở trên, nhất là nhìn vào gương Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse, Kitô hữu chúng ta ai có thể nói rằng mình không làm thánh được?! Còn ai nghèo khó, đơn sơ, và âm thầm như gương của nếp sống Thánh Gia. Ai nóng nẩy, bộc trực. Ai ngang tàng, liều lĩnh, trác táng và bê tha. Ai dốt nát và thất học. Ai nhỏ bé và tầm thường. Ai mang gánh nặng gia đình. Hãy học và nhìn vào gương của các thánh nhân vừa được lược kể ở trên.
Họ đã sống, đã mang những tâm trạng gần gũi và sát với cuộc sống của mỗi người chúng ta. Vì nếu các vị cũng mang trong người những bất toàn, khuyết điểm, và yếu đuối mà còn nên thánh được, thì chúng ta cũng cần phải cố gắng để thực hành sự thánh thiện trong những yếu đuối và bất toàn của mình. Trong ngày lễ kính Các Thánh Nam Nữ trên trời, Giáo Hội đã cho đọc bài đọc về Sách Khải Huyền, trong đó có câu: “Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ đã gặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên” (Khải Huyền 7:14).
Từ những đau khổ mà đến là gì nếu không là những chấp nhận và cố gắng trong cuộc sống. Và giặt áo trắng trong máu Con Chiên là gì nếu không nhờ sự thánh hóa và lòng yêu mến Thiên Chúa thúc dục và ban ơn trong những cố gắng mỏng dòn trong chính sự yếu đuối và mỏng dòn của con người chúng ta. Chúa Giêsu đã nói với Chân Phước Bêninha rằng trên con đường thánh đức, Thiên Chúa đã làm 99.9%, và phần còn lại nhỏ bé kia là sự cộng tác của linh hồn. Thánh Augustinô nhận xét về điều này khi ngài viết: “Khi dựng nên ta Thiên Chúa không cần ý kiến ta. Nhưng để cứu rỗi ta, ngài cần sự cộng tác của ta”. Và sự cộng tác ấy là 0.01%.
SỰ THÁNH THIỆN NƠI BẢN THÂN TA
Qua những hình ảnh thánh thiện như vừa trưng dẫn, thì sự thánh thiện và đời sống thánh thiện là của mỗi Kitô hữu. Đó là sống nên, sống đúng và sống hạnh phúc với cuộc sống và ơn gọi của chính mình. Ta là ai? giáo hoàng, hồng y, giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ, tín hữu giáo dân. Ta là ai? Bác sĩ, luật sư, tiến sĩ, giáo sư, khoa học gia, thương gia, khất thực, vô gia cư, người làm chồng, người làm vợ, người làm cha, người làm mẹ, người làm con, người làm ông, bà, chú, thím.... Tất cả đều đòi buộc phải sống nên, sống đúng và sống đẹp cuộc sống của mình. Đơn giản chỉ có thế. Và thánh thiện cũng chỉ có thế. Sống khác đi, sống sai mục đích và ơn gọi của mình là đã làm méo mó và lệch lạc hình ảnh của sự thánh thiện.
Tuy nhiên, để thực tế hóa cuộc sống ấy, và làm nên giá trị cuộc sống ấy, Kitô hữu chúng ta phải vượt qua những đòi hỏi và tiêu chuẩn tối thiểu. Có nghĩa là không thể sống sao cũng được, và không thể muốn làm gì cũng được. Sự thánh thiện cũng phải có những đòi hỏi và tiêu chuẩn của nó.
Nhìn vào nền luân lý Á Đông, ta có thể coi sự thánh thiện được lồng trong quan niệm của Nho Học. Đó là: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đó là: Công, dung, ngôn, hạnh. Một người sống được như vậy và với thiện chí đi tìm chân, thiện, mỹ, thì là sống thánh và là thánh chứ còn gì?!
Và đối với cái nhìn thực tế của con người thời đại, ứng dụng vào quan niệm của Thánh Gioan Boscô, thì một người trưởng thành về mặt tâm linh và đạo đức cộng thêm với niềm tin tôn giáo của mình, là một người thánh, và cuộc sống ấy là cuộc sống thánh.
Thánh kinh ghi nhận, trẻ Giêsu khi lên 12 tuổi bằng nhận xét như sau: “Phần Giêsu tăng trưởng trong sự khôn ngoan, nhân đức, và đẹp lòng Thiên Chúa và người đời” (Lc 2:52). Có nghĩa là Giêsu đã lớn lên trong nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đã sống với đời sống công, dung, ngôn, hạnh. Và theo Gioan Boscô là một sự trưởng thành toàn vẹn về thể lý, tâm lý, và đạo đức. Tuy nhiên, theo tầm nhìn của một Thiên Chúa, thì đây không chỉ là những hành động mang tính tự nhiên, mà là sự thánh thiện của một Ngôi Lời Nhập Thể. Những cái chúng ta nhìn thấy ở bên ngoài chỉ áp dụng nơi con người nhân tính của Ngài mà thôi.
KẾT LUẬN
Tóm lại, thánh thiện là bổn phận của mọi Kitô hữu, và nên trọn lành là ơn gọi của người Kitô hữu. Chúng ta buộc phải nên trọn lành, nên thánh thiên, vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, được kêu gọi làm con cái Ngài. Chúa Kitô đã cứu chuộc chúng ta và lôi kéo chúng ta đến với Ngài. Do đó, thánh thiện là một đòi hỏi của đời sống Kitô hữu: “Hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5:48).
Tuy nhiên, để hoàn tất sự thánh thiện, Thiên Chúa đã không đòi hỏi gì quá sức tự nhiên của mỗi người. Ngài càng không đòi hỏi những gì mà Ngài đã không ban tặng cho mỗi người. Và do đó, phần đáp trả chính là đời sống chứng nhân của mỗi Kitô hữu được thể hiện qua nếp sống thường ngày.
Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói: “Làm mọi việc bé nhỏ với tình yêu lớn lao”. Còn gì tầm thường hơn việc thay tã, pha sữa cho con. Còn gì nhỏ bé hơn việc dọn cho chồng con một bữa ăn. Còn gì tầm thường hơn việc đi làm để nuôi sống gia đình. Và còn gì tầm thường hơn việc chấp nhận một hy sinh trái ý trong cuộc sống... Hoặc theo Thánh Gioan Boscô đó là thánh hóa đời sống thường nhật bằng một tâm tình và cái nhìn trưởng thành. Bằng cái nhìn cứu độ. Và đó là đời sống thánh thiện và cũng là sự thánh thiện mà Thiên Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta: “Ông kia bà nọ nên thánh được, tại sao tôi lại không?”.
(xin xem phần nhận định phụ họa của thoidiemmaria trong bài dưới đây)
? Thánh Thiện là của Chúa, thuộc về Chúa, và Nên Thánh là tiến trình con người được Thánh Hóa "trong tinh thần và chân lý".
Nếu “Ông kia, bà nọ nên thánh được, tại sao tôi lại không?”.
Sở dĩ tôi không nên thánh được như ông nọ bà kia vì Nên Thánh không phải là chuyện dễ, ai làm cũng được, chỉ cần sống tứ đức ngũ thường của Khổng Giáo là đủ, chỉ cần trở thành Thánh Hiền, thành Chính Nhân Quân Tử của Khổng Giáo là xong. Bởi vì Thánh Thiện là của Chúa chứ không phải ai muốn cũng tự nhiên Nên Thánh được. Và bởi vì Thánh Thiện là “nên trọn lành như Cha ở trên trời là Đấng trọn lành” chứ không phải chỉ làm người là đủ. Bởi vậy mới gọi là Thánh Hóa. Tức muốn Nên Thánh con người cần phải được Thánh Hóa. Mà ai Thánh Hóa con người được, nếu không phải chính Vị là Đấng Thánh, Vị đã phán: “Các người hãy Nên Thánh vì Ta là Đấng Thánh” (Levi 11:45).
Chính vì con người được Thiên Chúa Thánh Hóa, chứ không phải tự mình Nên Thánh được, mà không cần “muốn làm thánh phải làm người trước đã”.
Trường hợp điển hình là người trộm ở bên phải Chúa Giêsu trên đồi Canvê, cả cuộc đời tội lỗi, chẳng làm người gì cả, chẳng có "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín" gì hết, thế mà lại được Thánh Hóa trước khi chết, được lên Thiên Đàng đầu tiên (x Lk 23:42-43)! Ngược lại, dù đã tỏ ra làm người chưa chắc đã là thánh. Điển hình là trường hợp Phêrô hết lòng yêu mến Thày, đã sốt sắng can ngăn Thày đừng đi chịu chết, tức đã tỏ ra làm người hơn ai hết qua lòng sốt sắng của mình, nhưng lại bị chính Đấng ngài kính mến quở trách nặng lời: “Đồ Satan, hãy xéo cho khuất mắt Ta, vì người chỉ phán đoán theo kiểu cách loài người mà thôi, chứ không theo Thiên Chúa” (Mt 16:23). Chưa hết, cả trường hợp của Gioan là người tông đồ được Chúa Giêsu yêu, cũng bị Người quở trách khi vì Người bị dân làng Samaritanô hất hỉu đã yêu cầu Người cho phép ông sai lửa trời xuống thiêu đốt họ (x Lk 9:51-56). Nếu việc tỏ lòng tôn kính sư phụ của hai tông đồ Phêrô và Gioan, theo Khổng Giáo là những gì thuộc về tam cương (quân, sư, phụ) và ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín), tức là những gì cho thấy tính cách làm người trọn vẹn của các vị, mà còn trở thành những gì trêu ngươi Thiên Chúa, thì không phải Nên Thánh là một tiến trình con người được Thánh Hóa "trong tinh thần và chân lý" (Jn 4:24) hay sao?
Nếu làm người trước hết là ở việc tuân giữ lề luật Thiên Chúa, như thành phần Pharisiêu, nhất là như người thanh niên giầu có đã chu tất mọi lề luật Chúa từ nhỏ, mà còn bị Chúa quở trách là "bọn Pharisiêu giả hình" (Mathêu đoạn 23), mà còn không thể theo Người được trên con đường trọn lành như người thanh niên giầu có tốt lành tự nhiên (x Mt 19:16-22), thì không phải điều kiện Nên Thánh hay yếu tố để được Thánh Hóa là ở chỗ chỉ cần “muốn làm thánh phải làm người trước đã” (theo kiểu Khổng Giáo hay tâm lý học ngày nay hoặc theo nhân sinh quan tự nhiên).
Thật vậy, Thánh Thiện là của Chúa, là những gì thuộc về Chúa, bởi đó việc con người Nên Thánh là việc con người được Thánh Hóa. Không phải hay sao, hai nguyên tổ loài người, ngay từ ban đầu khi mới được dựng nên trong tình trạng công chính nguyên thủy, trong tình trạng thánh hảo, không biết đến tội lỗi là gì, “trần truồng không biết xấu hổ” (Gen 2:25), mà còn chẳng những chưa Nên Thánh, thậm chí đã sa ngã phạm tội, đến nỗi đã cần phải được Thánh Hóa, qua lời hứa cứu độ của Thiên Chúa Hóa Công (x Gen 3:15), huống chi là loài người hậu sinh chúng ta, đã vướng mắc nguyên tội, cho dù là Kitô hữu chúng ta, thành phần đã được lãnh nhận Phép Rửa, đã được lãnh nhận ơn cứu độ, đã được Thánh Hóa về phương diện ân sủng.
Phép Rửa, về mặt tiêu cực, chỉ tha nguyên tội, tha cả tư tội (trong trường hợp người lớn), tha hình phạt (nếu chết liền bấy giờ thì lên Thiên Đàng ngay, không bị vào luyện tội), và về mặt tích cực, làm cho con người tạo sinh được Thánh Hóa, ở chỗ, được hiệp thông sự sống Thần Linh và bản tính Thần Linh với Thiên Chúa Ba Ngôi, trở nên con cái Chúa Cha, nên anh em của Chúa Kitô, nên Đền Thờ của Chúa Thánh Thần, nên chi thể của Giáo Hội. Thế nhưng, thực tế vẫn cho thấy, Phép Rửa không làm mất đi mọi tì vết nguyên tội, bao gồm mọi đam mê nhục dục, mọi tính mê nết xấu, mọi khuyết điểm vụng về. Bởi thế, con người nói chung và Kitô hữu nói riêng mới cảm thấy cuộc chiến nội tâm vẫn liên lỉ diễn ra nơi bản thân mình, đúng như Thánh Tông Đồ Phaolô đã bày tỏ trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma: “Tôi thậm chí không thể hiểu được hành vi cử chỉ của mình nữa. Tôi không làm những gì tôi muốn, mà lại làm những gì tôi ghét… Điều xẩy ra đó là tôi không làm điều thiện tôi muốn mà là làm điều dữ tôi không muốn… Ôi, khốn cho tôi là chừng nào! Ai có thể giải phóng tôi khỏi quyền lực sự chết đây? (7:15, 19, 24).
“Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24), “là Đấng vô hình” (Col 1:15), bất khả thấu suốt, bất khả đạt, vì muốn Thánh Hóa con người, biết con người không tự động đến cùng mình được, đã tự động đến với con người, qua việc “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14) là Chúa Giêsu Kitô, để qua Chúa Giêsu Kitô “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Jn 14:6) này, con người có thể đến cùng Ngài, tức có thể được Thánh Hóa, được đạt đến cùng đích làm người của họ là Hiệp Thông Thần Linh vinh phúc với Ngài. Chính vì Thiên Chúa đã nhập thể, đã đến với con người rồi, con người không cần phải lên trời để tìm Ngài nữa, một việc con người tuyệt đối không thể nào tự mình có thể làm nổi, mà con người chỉ cần “hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ” (Mt 18:3) là gặp được Ngài, là nhận ra Ngài, tức được “vào Nước Trời” vậy.
Tiếc thay, thực tế cho thấy, ngay cả khi Thiên Chúa đã nhập thể, đã đến với con người như thế, tức con người chỉ cần tìm kiếm Ngài ở trên mặt đất này thôi, bằng việc sống như trẻ thơ, hạ mình xuống, con người cũng không thể nào tự mình làm nổi. Là vì, trước hết, chính bởi Thiên Chúa làm người mà con người lại không thể tưởng tượng nổi Thiên Chúa có thể làm như thế, có thể tin rằng một người nào đó trong họ là Thiên Chúa. Bởi đó, Ngài, qua "Con Người Giêsu Kitô" (1Tim 2:5) lịch sử, đã chẳng những bị thành phần Luật Sĩ, Pharisiêu và Tư Tế Do Thái phủ nhận, mà còn bị cả thành phần môn đệ của Ngài phản bội, chê chối và từ bỏ nữa.
Đó là lý do chỉ có thành phần “hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ” mới được Cha trên trời mạc khải cho biết những điều sâu nhiệm, những điều mà thành phần thông thái khôn ngoan thế gian nhất trên trần gian cũng không thể nào biết nổi (x Lk 10:21-22). Mà “hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ” đây là gì, nếu không phải như lời Ngài kêu gọi: “Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11:29). Thế nhưng, cũng còn gì khó nhất cho con người vốn vướng mắc nguyên tội, một thứ nguyên tội xuất phát từ lòng kiêu ngạo muốn tự ý lên bằng Thiên Chúa (x Gen 3:1-6), một thứ nguyên tội càng văn minh hiện đại càng hiện lộ chân tướng rùng rợn kinh hoàng của mình hơn bao giờ hết, một thứ nguyên tội dù nơi thành phần đã được công chính hóa nhờ Phép Rửa cũng vẫn còn tì tích, hơn là việc con người sống "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng".
Cho dù “muốn làm thánh phải làm người trước đã”, thì tình trạng làm người ở đây, theo Kitô Giáo, theo Phúc Âm Chúa Kitô, không phải là một con người công chính kiểu Pharisiêu khinh khi người khác, như trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện (x Lk 18:9-11), hay như kiểu chính nhân quân tử không thèm chấp tiểu nhân, sống tâm trạng quan liêu đế quốc, mà là tình trạng, cho dù vụng về trong cách đối xử theo nhân nghĩa lễ trí tín hay công dung ngôn hạnh, thậm chí cho dù tội lỗi đáng khinh bỉ trước mặt thế gian đi nữa, biết mình và tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa như một trẻ thơ, như trường hợp của người thu thuế trong dụ ngôn với người Pharisiêu trên đây, một con người tội lỗi trước mắt cả Thiên Chúa và loài người, song lại là một con người được nên công chính trước nhan Thiên Chúa (x Lk 18:12-14).
Nếu Thánh Thiện và Thánh Hóa là những gì thuộc về Thiên Chúa, mà Thiên Chúa đã nhập thể, thì Thánh Thiện và Nên Thánh theo Kitô Giáo là ở chỗ Nên Giống Chúa Kitô, "vị trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người" (1Tim 2:5), Vị mà nơi Người mầu nhiệm về con người và ơn gọi của con người được hoàn toàn sáng tỏ (x Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Gaudium et Spes, 22). Và nên giống Chúa Kitô đây là gì, nếu không phải là “yêu thương nhau như Thày đã yêu thương chúng con” (Jn 13:34), ở chỗ, dám chết vì người mình yêu như Người (x Jn 15:13), tức là dám "giặt áo mình trong máu Con Chiên” (Khải Huyền 7:14), hay dám "đi đến bất cứ nơi nào Con Chiên đến" (Rev 14:4), như một Mẹ Maria đã theo chân Người cho tới cùng, cho tới khi đứng dưới chân thập tự giá của Người (Jn 19:25), thì một con người con đầy kiêu căng tự ái, còn sống theo cá nhân chủ nghĩa vị kỷ, còn bị quay cuồng theo chiều hướng hưởng thụ chủ nghĩa, còn bị chi phối bởi chủ nghĩa duy thực dụng theo tương đối thuyết của con người văn minh hầu như tuyệt đỉnh ngày nay, còn sống theo chủ trương pro choice trong tất cả mọi sự, thì phần rỗi của họ còn khó bảo đảm nữa là việc họ Nên Thánh.
Đó là lý do, càng ngày con người ngày nay càng “cần đến Lòng Thương Xót Chúa hơn” (Fatima 13/7/1917) là vậy. Và đó cũng là lý do Chúa Giêsu đã đến với Chị Thánh Faustina ở Balan (từ thập niên 1930) kêu gọi con người hãy hết lòng tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa: "Lạy Chúa Giêsu, con tin nơi Chúa" (câu này được Người dạy viết ở dưới Bức Ảnh Chúa Tình Thương là bức ảnh Người muốn được trưng bày vào Lễ Chúa Tình Thương, Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh), và với bà Magariata ở Bỉ (từ thập niên 1960) để kêu gọi hãy thành lập một Đạo Binh Hồn Nhỏ của Tình Yêu Nhân Hậu Chúa Giêsu là vậy.
Đú
ng thế, nếu Thiên Chúa là Đấng Thánh, là nguồn mạch Thánh Thiện, đã Nhập Thể và Vượt Qua nơi một bản tính đã bị sa đọa của con người, thì một khi con người được Ngài là nguồn mạch Thánh Thiện đích thân Thánh Hóa bằng Phép Rửa, tức "được tái sinh bởi trên cao" (Jn 3:3), "bởi nước (là Lời Nhập Thể) và Thần Linh" (Jn 3:5), họ còn phải Nên Thánh "trong tinh thần và chân lý" nữa, tức Nên Thánh trong Chúa Giêsu Kitô, trong tinh thần "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" như Người, một tinh thần "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" của Người, một tinh thần làm họ đạt tới chân lý là chính Chúa Kitô (x Jn 14:6), là "tầm vóc toàn vẹn của Chúa Kitô là Đầu" (Eph 4:15).
Và nếu Chúa Giêsu Kitô là Con Người hoàn hảo nhất, thánh thiện nhất, bởi mầu nhiệm Ngôi Hiệp, thì khi phàm nhân chúng ta nên giống Người là chúng ta trở thành một con người tuyệt vời nhất, lý tưởng nhất, là chúng ta thực sự làm người đúng như ý định của Thiên Chúa Hóa Công khi chúng ta được Ngài dựng nên theo hình ảnh thần linh của Ngài và tương tự như Ngài (x Gen 1:26). Như thế, nếu các thánh nhân là những con người lý tưởng nhất, đáng bắt chước nhất, thì không phải hay sao, nhờ được Thánh Hóa mà con người mới thành người, hơn là cần phải làm người đã rồi mới có thể làm thánh? Chính vì con người yếu hèn, cả đời dù có hết sức cố gắng đi nữa, cũng vẫn là một tội nhân không hơn không kém, họ mới cần được Thánh Hóa, để họ chẳng những Làm Thánh còn nhờ Làm Thánh mà Nên Người nữa. Đó là ý nghĩa và mục đích nơi dự án cùng công cuộc Cứu Chuộc của Thiên Chúa, của Mầu Nhiệm Nhập Thể và Vượt Qua Kitô Giáo, mầu nhiệm biến đổi từ phàm tục thành linh thánh, từ bất toàn thành thiện toàn, từ chết thành sống, từ hữu hạn thành vô hạn.
Nếu cả đến việc Nên Thánh, sau khi đã được Thánh Hóa, mà con người cũng không thể tự mình làm được, cho dù đã được chỉ dạy cho biết linh đạo Nên Thánh duy nhất là "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ", là "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng", thì còn một cách duy nhất để con người có thể được cứu độ, được Thánh Hóa một cách short cut - đốt giai đoạn, đó là tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa, như người trộm bị đóng đanh bên hữu Đấng Tử Giá trên đồi Canvê mà thôi: "Lạy Chúa Giêsu, con tin nơi Chúa"! Thế nhưng, cả đến việc tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa, được thể hiện qua tác động hòa giải xưng tội, cũng không phải là chuyện dễ đối với con người ngày nay, một con người đang sống vào thời điểm mất ý thức tội lỗi! Đó là lý do cho thấy không phải dễ dàng gì trong việc “ông kia, bà nọ nên thánh được, tại sao tôi lại không?”
Vậy thì Thiên Chúa sẽ cứu vớt con người ngày nay như thế nào đây? Chẳng lẽ Ơn Cứu Chuộc của Ngài bị vô hiệu hóa với con người ngày nay hay sao? Và chẳng lẽ con người càng văn minh càng vô thần nên không thể Nên Thánh được hay sao? Câu giải đáp đầu tiên cần phải tìm hiểu ở đây đó là Tại sao thế giới càng văn minh con người càng bạo loạn?
(Xin coi tiếp vào mỗi Chúa Nhật mục Sống Thánh Chứng Nhân theo Linh Đạo Kitô Giáo)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Ngày của Chúa - Dies Domini / Ngày của Con Người - Dies Hominis: Một ngày kết đoàn
Tông Thư Dies Domini của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tài liệu của văn khố Tòa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/apost_letters/documents/hf_jp-ii_apl_05071998_dies-domini_en.html
(loạt bài về Chúa Nhật cho các Chúa Nhật kể từ Chúa Nhật 23/4/2006)
69. Chúa Nhật cũng phải cống hiến cho tín hữu cơ hội để dấn thân làm những công việc của lòng thương xót nữa, của bác ái và tông đồ. Việc cảm nghiệm được niềm vui Chúa Phục Sinh sâu xa ở bên trong là để chia sẻ trọn vẹn tình yêu thổn thức trong tâm can của Người: không có niềm vui nếu không yêu thương! Chính Chúa Giêsu đã cắt nghĩa điều này, khi liên kết “giới răn mới” với tặng ân hân hoan: “Nếu các con tuân giữ những điều Thày truyền các con sẽ ở trong tình yêu của Thày, như Thày đã giữ các mệnh lệnh của Cha và ở trong tình yêu của Ngài. Thày nói với các con điều này để niềm vui của Thày sẽ ở nơi các con cho niềm vui của các con được trọn vẹn. Đây là giới răn của Thày, đó là các con yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con” (Jn 15:10-12).
Bởi thế, Thánh Thể Chúa Nhật chẳng những không tha giải cho tín hữu khỏi các nhiệm vụ bác ái, ngược lại, còn thôi thúc họ thậm chí thực hiện “tất cả mọi hoạt động bác ái, nhân hậu, tông đồ, nhờ đó người tín hữu của Chúa Kitô được coi như không thuộc về thế gian này và còn là ánh sáng thế gian, làm vinh hiển Chúa Cha trước mắt nhân loại” (113).
70. Ngay từ thời Tông Đồ, việc qui tụ lại vào Chúa Nhật đối với Kitô hữu thực sự là một giây phút chia sẻ tình huynh đệ với thành phần rất nghèo khổ. “Vào ngày thứ nhất trong tuần, mỗi người trong anh chị em phải dẹp sang một bên và giành gịum bất cứ những gì ngoại lệ anh chị em kiếm được” (1Cor 16:2), Thánh Phaolô nói điều này có ý ám chỉ việc quyên tiền cho các Giáo Hội nghèo ở Giuđêa. Trong Thánh Thể Chúa Nhật, con tim tin tưởng rộng mở để ôm lấy tất cả mọi khía cạnh của Giáo Hội. Thế nhưng, cần phải chấp nhận tất cả mọi phạm vi của việc tông đồ đòi hỏi: thay vì cố gắng để tạo nên một thứ tâm thứ hạn hẹp về “tặng ân” Thánh Phaolô đã kêu gọi một thứ văn hóa chia sẻ cần thiết, một thứ văn hóa cần phải sống chẳng những nơi chính các phần tử của cộng đồng mà còn nơi xã hội nói chung nữa (114). Hơn bao giờ hết, chúng ta, một lần nữa, cần phải lắng nghe lời cảnh giác nghiêm nghị được Thánh Phaolô ngỏ cùng cộng đoàn Côrintô đã vấp phải lỗi lầm trong việc hạ nhục người nghèo trước tinh thần yêu thương huynh đệ khi cử hành “Bữa của Chúa”: “Khi anh em hội họp với nhau thì anh em không phải là ăn Bữa của Chúa nữa. Vì trong việc ăn uống, mỗi người đã tự động ăn uống bữa của mình rồi, nên người thì đói kẻ thì say sưa. Sao lại thế được nhỉ! Anh em không có nhà cửa để ăn uống hay sao? Hay anh em tỏ ra khinh thường Giáo Hội của Chúa và hạ nhục những ai chẳng có gì ăn uống hay chăng?” (1Cor 11:20-22). Thánh Giacôbê cũng mạnh mẽ không kém nơi những gì ngài viết thế này: “Nếu một người đeo nhẫn vàng và mặc quần áo lụa là đến với cộng đoàn của anh em, và một người nghèo ăn mặc xoàng xĩnh cũng tới, song anh em lại chú trọng tới người ăn mặc sang trọng mà nói với họ rằng ‘xin mời ngồi’, còn người nghèo anh em nói ‘hãy đứng ở đằng kia’, hay ‘ngồi xuống đấy’, thì không phải là anh em đã phân chia nơi anh em rồi hay sao, và trở thành những vị quan án có đầu óc gian tà rồi hay sao?” (2:2-4).
71. Những giáo huấn của các vị Tông Đồ từ những thế kỷ đầu đã làm vang lên lòng cảm thương, và đã được mạnh mẽ âm vang nơi giáo huấn của các vị Giáo Phụ của Giáo Hội. Thánh Ambrôsiô đã nói lên những lời nẩy lửa với thành phần giầu có cho mình chu tất các nhiệm vụ về đạo giáo nơi việc tham dự nhà thờ mà lại không chia sẻ sản vật của mình cho người nghèo, và là thành phần thậm chí còn khai thác người nghèo nữa, như sau: “Anh chị em là những người giầu có, anh chị em có nghe những gì Chúa là Thiên Chúa nói hay chăng? Thế mà anh chị em đến nhà thờ mà không cho kẻ nghèo song lại còn lấy của họ nữa?” (115). Thánh Gioan Chrysostom cũng không kém gay gắt: “Có phải anh chị em muốn tôn kính thân thể của Chúa Kitô hay chăng? Thế thì đừng mần ngơ khi Người trần trụi. Đừng kính bái Người trong đền thờ với y phục lụa là để rồi bỏ rơi Người chịu lạnh lẽo và trần trụi ở ngoài đường xá. Đấng đã phán: ‘Đây là mình Thày’ cũng chính là Đấng phán: ‘Các người thấy Ta đói song không cho Ta ăn’ và ‘Những gì các người làm cho một người an hem hèn mọn nhất của Ta là làm cho chính Ta’… Có ích lợi gì khi trên bàn Thánh Thể chất đầy những chén vàng khi mà Người đang chết đói chứ? Hãy bắt đầu bằng việc làm thỏa cơn đói của Người, để rồi với những gì còn lại anh chị em hãy dùng để trang hoàng cả bàn thờ nữa”. (116)
Những lời này thực sự nhắc nhở cộng đồng Kitô hữu về nhiệm vụ làm cho Thánh Thể trở thành nơi cho tình nghĩa huynh đệ biến nên mối kết đoàn thực tiễn, nơi kẻ chót sẽ được ưu tiên trong tâm trí và chú ý của anh chị em họ, nơi chính Chúa Kitô – qua các trao ban quảng đại từ người giầu cho người nghèo – một cách nào đó kéo dài trong thời gian phép lạ bánh hóa ra nhiều (117).
72. Thánh Thể là một biến cố và là một dự án của tình nghĩa huynh đệ chân thực. Từ Thánh Lễ Chúa Nhật xuất phát một triều sóng bác ái tràn lan khắp cả cuộc sống của người tín hữu, bắt đầu bằng việc tác động chính cách thức họ sống những giờ giấc còn lại của Ngày Chúa Nhật. Nếu Chúa Nhật là ngày của niềm vui thì Kitô hữu cần phải tuyên bố bằng hành vi cử chỉ thực sự của mình rằng chúng tôi không thể nào có hạnh phúc “riêng mình”. Họ nhìn chung quanh để tìm kiếm những ai cần họ giúp đỡ. Việc này có thể thực hiện nơi khu xóm của họ, hay nơi những chỗ họ biết có bệnh nhân, có người già lão, trẻ am hay di dân mà vào chính ngày Chúa Nhật cảm thấy hết sức cô độc lẻ loi, thiếu thốn và khổ đau. Thật ra việc dấn thân ấy cho những thành phần này không thể bị hạn hẹp vào các cử chỉ vào dịp Chúa Nhật mà thôi. Thế nhưng, nếu hiểu ý nghĩa dấn thân rộng hơn thì tại sao không làm cho Ngày của Chúa trở thành một thời điểm thiết tha hơn trong việc chia sẻ, trong việc gia tăng tất cả những sáng kiến có tghể theo đức bác ái Kitô giáo? Mời những ai cô đơn đến dùng bữa, viếng thăm kẻ liệt, chia sẽ thực phẩm cho những gia đình thiếu thốn, bỏ ít tiếng đồng hồ làm việc tự nguyện và hoạt động đoàn kết, những việc làm ấy chắc chắn là những cách thức mang đến cho đời sống của dân chúng tình yêu Chúa Kitô được lãnh nhận nơi bàn tiệc Thánh Thể.
73. Sống theo đường lối ấy, thì chẳng những Thánh Thể Chúa Nhật mà còn cả Ngày Chúa Nhật trở thành một trường học cao quí của bác ái, công lý và hòa bình. Việc hiện diện của vị Chúa Phục Sinh giữa dân Người trở thành một công cuộc đoàn kết, một động lực thôi thúc canh tân nội tâm, một hứng khởi trong việc làm thay đổi các thứ cấu trúc của tội lỗi là những gì chi phối cá nhân, cộng đồng và có những lúc cả một dân tộc. Thay vì là một cuộc vượt thoát, Ngày Chúa Nhật Kitô Giáo là một “lời loan báo” được in ấn nơi chính thời gian, một lời loan báo bắt buộc tín hữu theo chân của Đấng đã đến “để rao giảng tin mừng cho người nghèo khổ, công bố sự giải thoát cho những kẻ bị giam cầm và phục quang cho người mù lòa, trả tự do cho những ai bị đàn áp, và loan báo năm hồng ân của Chúa” (Lk 4:18-19). Trong việc tưởng niệm Phục Sinh của Ngày Chúa Nhật, tín hữu học hỏi nơi Chúa Kitô, nhớ lời Người hứa ‘Thày để lại bình an cho các con, Thày ban cho các con bình an của Thày’ (Jn 14:27), về phần họ, họ trở thành những con người dựng xây hòa bình.
(còn tiếp vào mỗi Chúa Nhật)