GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ NĂM 22/3/2007 TUẦN IV MÙA CHAY |
? ‘Quyền Tự Do của Tôn Giáo và Lương Tâm cùng các Giới Hạn của nó’
? "Sự sống của con người là những gì linh thánh chính vì, như Thánh Kinh dạy, con người được dựng nên theo Hình Ảnh Thần Linh"
? “Đụn Cát Lún Của Một Bãi Bùn Lầy”
‘Quyền Tự Do của Tôn Giáo và Lương Tâm cùng các Giới Hạn của nó’
Bản Tường Trình Cuộc Họp của Ủy Ban Do Thái và Công Giáo ở Giêrusalem ngày 13/3/2007
Phái Đoàn Đại Biểu của Ủy Ban Tòa Thánh về Các Mối Liên Hệ Tôn Giáo với Người Do Thái và Phái Đoàn Đại Biểu của Phòng Tôn Sư Trưởng về Các Mối Liên Hệ với Giáo Hội Công Giáo – Cuộc Họp Ủy Ban Song Phương
Giêrusalem ngày 11-13 tháng 3 năm 2007; ngày 21-23 tháng Adar năm 5767
1. Vào cuộc họp lần thứ bảy của ủy ban trên đây, được tổ chức ở Giêrusalem, các vị chủ tọa là ĐHY Jorge Mejía và Tôn Sư Trưởng Shear Yashuv Cohen đã nhận định ý nghĩa của con số 7 theo truyền thống thánh kinh như nói lên sự viên trọn và chín mùi. Các vị bày tỏ niềm hy vọng rằng sự viên trọn ấy nơi mối liên hệ giữa các phần tử Công Giáo và Do Thái thuộc ủy ban này sẽ là nguồn ân phúc cho cả hai cộng đồng đức tin cũng như cho chung thế giới.
Đức Hồng Y Mejía cũng ghi nhận việc vừa qua đi của ĐHY Johannes Willbrands là vị nguyên chủ tịch của Uỷ Ban Tòa Thánh về Các Liên Hệ Tôn Giáo với Người Do Thái và là một nhân vật chính trong cuộc biến đổi lịch sử nơi liên hệ Công Giáo và Do Thái. Chớ gì việc hồi niệm về ngài luôn là một phúc lành cho chúng ta.
2. Chủ đề cho cuộc họp này là ‘Quyền Tự Do của Tôn Giáo và Lương Tâm cùng các Giới Hạn của nó’. Khả năng của con người trong việc chọn lựa là một biểu lộ của hình ảnh thần linh là những gì tất cả mọi dân tộc được dựng nên (x Gen 1:26-27), và là nền tảng cho quan niệm theo thánh kinh về trách nhiệm của con người và đức công minh thần linh (x Deut. 30:19).
3. Thiên Chúa đã dựng nên con người như một hữu thể xã hội, một hữu thể xã hội, theo định nghĩa, giới hạn quyền tự do cá nhân của con người. Hơn nữa, quyền tự do chọn lựa được xuất phát từ Thiên Chúa và bởi thế không phải là những gì tuyệt đối mà cần phải phản ảnh ý muốn thần linh và luật lệ thần linh. Theo đó, con người được kêu gọi tự nguyện tuân phục ý muốn thần linh là ý muốn được biểu lộ nơi việc Tạo Thành cũng như nơi lời mạc khải của Ngài.
Truyền thống Do Thái nhấn mạnh đến Giao Ước với Noe (x Gen 9:9-12) là giao ước chứa đựng luật luân lý phổ quát áp đặt trên toàn thể nhân loại. Ý nghĩ này cũng phản ảnh nơi thánh kinh Kitô Giáo trong cuốn Tông Vụ đoạn 15 câu 28 và 29.
4. Như thế, ý nghĩ về chủ nghĩa tương đối về luân lý là những gì phản đề đối với thế giới quan về tôn giáo này và gây ra một đe dọa trầm trọng cho nhân loại. Cho dù Chủ Nghĩa Minh Tri đã giúp mang lại một thứ thanh tẩy tình trạng lạm dụng tôn giáo, xã hội trần thế vẫn cần đến những nền tảng tôn giáo để bảo trì những giá trị vững bền về luân lý. Quan trọng trong số những giá trị ấy là nguyên tắc về sự linh thánh của sự sống con người và phẩm vị con người. Chủ nghĩa độc thần về đạo lý khẳng định những giá trị này như là những quyền lợi bất khả vi phạm của con người, và bởi thế có thể làm phấn chấn xã hội nói chung về khía cạnh này.
5. Về nguyên tắc, quốc gia không bao giờ được giới hạn quyền tự do tôn giáo đối với cá nhân và cộng đồng cũng như đối với lương tâm luân lý, nó vẫn có trách nhiệm cần phải bảo đảm được tình trạng phúc lợi và an ninh của xã hội. Bởi thế, nó cần phải can thiệp vào bất cứ ở đâu và bất cứ khi nào xẩy ra những thứ đe dọa gây ra bởi việc phát động, giảng dạy hay thực hành bạo động, nhất là khủng bố và mạo dụng tâm lý nhân danh tôn giáo.
6. Ngoài việc tôn trọng quyền tự do chọn lựa tôn giáo, tính cách nguyên tuyền của các cộng đồng đức tin cũng cần phải được bảo đảm nữa. Bởi thế, một xã hội mang căn tính tôn giáo ưu thế có quyền bảo trì đặc tính của mình, bao lâu việc này không giới hạn quyền tự do của các cộng đồng thiểu số và những cá nhân trong việc tuyên xưng những quyết tâm tôn giáo khác nhau của họ, cũng không giới hạn các thứ quyền lợi dân sự đầy đủ của họ và tình trạng trọn vẹn làm công dân của họ, với tư cách là cá nhân cũng như cộng đồng. Điều này buộc tất cả chúng ta bảo toàn tính chất nguyên vẹn và giá trị của các nơi thánh, những địa điểm thờ phượng và những nghĩa trang của tất cả mọi cộng đồng tôn giáo.
7. Trong giòng lịch sử, các cộng đồng tôn giáo không phải bao giờ cũng trung thành với những thứ giá trị ấy. Bởi thế, các vị lãnh đạo tôn giáo và các cộng đồng tôn giáo cần phải có một trách nhiệm đặc biệt trong việc ngăn ngừa việc sử dụng tôn giáo bất chính đáng cũng như trong việc giáo dục đối với vấn đề tôn trọng tính cách đa dạng là những gì thiết yếu để bảo đảm một xã hội lành mạnh, bền vững và an bình.
Về vấn đề này, gia đình, học đường, các vị thẩm quyền trong quốc gia và xã hội cũng như truyền thông đóng một vai trò đặc biệt trong việc thôn g đạt những thứ giá trị ấy cho các thế hệ tương lai.
Tóm lại, ủy ban song phương này đã gặp nhau ở Thánh Thánh Giêrusalem, bày tỏ lời nguyện cầu cùng Đấng Toàn Năng xin Ngài chúc phúc và tác động các vị lãnh đạo và chính trị ở miền này và ngoài miền này, trong việc cương quyết hoạt động để cổ võ hòa bình, phẩm vị, an ninh và bình an nơi Thánh Địa cho tất cả mọi dân tộc ở đây cũng như cho toàn thế giới.
Giêrusalem,
Ngày 13 tháng 3 năm 2007 – Ngày 23 tháng Adar năm 5767
Chief
Rabbi Shear Yashuv Cohen
(Chairman of the Jewish Delegation)
Chief Rabbi Ratson Arussi
Chief Rabbi Yossef Azran
Chief Rabbi David Brodman
Chief Rabbi David Rosen
Mr. Oded Wiener
Jorge Cardinal Mejía
(Chairman of the Catholic Delegation)
Cardinal Georges Cottier
Archbishop Antonio Ortega Franco
Archbishop Elias Chacour
Bishop Giacinto-Boulos Marcuoão
Monsignor Pier Francesco Fumagalli
Father Norbert J. Hofmann S.D.B.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 21/3/2007
? "Sự sống của con người là những gì linh thánh chính vì, như Thánh Kinh dạy, con người được dựng nên theo Hình Ảnh Thần Linh"
Do Thái và Công Giáo Tuyên Ngôn 2006 về việc Tôn Trọng Sự Sống Con Người
Sau đây là nguyên vănbản tuyên ngôn của Do Thái và Công Giáo đúc kết Cuộc Họp của Ủy Ban Song Phương ở Rôma (26-28/2/2006 theo niên lịch Kitô Giáo hay 28-30 Tháng Shevat năm 5766 niên lịch Do Thái Giáo), giữa phái đoàn Đại Biểu của Ủy Ban Tòa Thánh Về Liên Hệ Tôn Giáo Với Người Do Thái và Đại Biểu của Do Thái Về Liên Hệ Với Giáo Hội Công Giáo.
1. Trong cuộc họp lần thứ sáu của ủy ban song phương được tổ chức ở Rôma này, chúng tôi đã nói tới vấn đề liên hệ giữa sự sống con người và kỹ thuật – suy tư về những tiến bộ vượt bực nơi khoa y học cùng với những thách đố cũng như những cơ hội bao gồm nơi những thứ tiến bộ này.
2. Chúng tôi xin khẳng định những nguyên tắc theo các Truyền Thống tương xứng của chúng tôi như sau: Thiên Chúa là Đấng Hóa Công và là Chúa của tất cả mọi sự sống, và sự sống của con người là những gì linh thánh chính vì, như Thánh Kinh dạy, con người được dựng nên theo Hình Ảnh Thần Linh (x Gen 1:26-27). Vì sự sống là một tặng ân Thần Linh cần phải được tôn trọng và bảo trì, mà chúng tôi buộc phải bác bỏ những ý nghĩ cho rằng con người làm chủ sự sống và bất cứ đảng phái con người nào có quyền định đoạt về giá trị hay giới hạn của nó. Do đó chúng tôi phản đối chủ trương chủ động triệt sinh an tử (được gọi là thương hại sát sinh) như là một việc con người lộng quyền trái phép đối với việc độc quyến của Thần Linh trong vấn đề định đoạt thời gian qua đời của con người.
3. Chúng tôi dâng lời tạ ơn Đấng Hóa Công về những khả năng Ngài đã ban cho nhân loại để chữa lành và bảo trì sự sống, cũng như về những thánh đạt đáng kể trong việc dễ dàng hóa được khoa học, y học và kỹ thuật hiện đại thực hiện về khía cạnh này. Tuy nhiên, chúng tôi công nhận rằng những thành đạt phúc lợi này cũng bao gồm cả nhiều trách nhiệm hơn nữa, bao gồm cả những thách đố sâ xa về đạo lý cùng với những nguy hiểm khả dĩ.
4. Về vấn đề này, chúng tôi xin lập lại các giáo huấn của di sản chúng tôi là tất cả mọi kiến thức và khả năng của con người cần phải phục vụ và cổ võ sự sống con người cùng phẩm vị con người, nên chúng phải hòa hợp ăn khớp với các thứ giá trị về luân lý được bắt nguồn từ các nguyên tắc được nói đến trên đây. Bởi vậy cần phải hạn chế việc áp dụng khoa học và kỹ thuật với nhận thức về sự kiện là không phải mọi sự khả dĩ về kỹ thuật đều hợp đạo lý.
5. Việc tôn trọng và chăm sóc cho sự sống của con người cần phải là mệnh lệnh luân lý phổ quát được hết mọi xã hội dân sự cùng với luật lệ của họ bảo đảm, hầu phát động một nền văn hóa sự sống.
6. Vì bác bỏ chủ trương của con người trong việc cướp quyền Thần Linh trong việc định đoạt thời gian chết chóc, chúng tôi khẳng định trách nhiệm phải làm hết sức để giảm bout tình trạng khổ đau của con người.
7. Chúng tôi kêu gọi những người hoạt động về y khoa và các khoa học gia hãy gắn bó với và tuân theo sự khôn ngoan chỉ dẫn của tôn giáo trong tất cả mọi vấn đề về sự sống và sự chết. Bởi đó, chúng tôi khuyến dụ là trong những vấn đề như thế, ngoài việc tham vấn cần phải có đối với những gia đình trong cuộc, vấn đề bao giờ cũng cần phải được tham vấn với các vị thẩm quyền tôn giáo đương nhiệm.
8. Niềm xác tín chúng tôi chia sẻ, niềm xác tín rằng sự sống trên trần gian này chỉ là một giai đoạn duy nhất cho cuộc hiện hữu của linh hồn, chẳng những cần phải dẫn chúng ta tới chỗ tôn trọng hơn đối với cái bình – là hình thể con người – chất chứa linh hồn ở trên đời này. Bởi đó, chúng tôi hoàn toàn bác bỏ quan điểm cho rằng bản chất tạm bợ của việc con người hiện hữu trên trái đất này cho phép chúng ta được dụng cụ hóa nó. Về vấn đề này, chúng tôi mạnh mẽ lên án bất cứ loại đổ máu nào để phát động bất cứ ý hệ nào – nhất là nếu điều này lại được thực hiện nhân danh Tôn Giáo. Hành động như thế chính là tục hóa Danh Thánh Thần Linh vậy.
9. Bởi thế, chúng tôi tìm cách thăng tiến công ích của nhân loại bằng việc cổ võ lòng trọng kính đối với Thiên Chúa, đối với tôn giáo, đối với những biểu hiệu của tôn giáo, đối với những Nơi Thánh và những Nhà Thờ Phượng. Cần phải loại trừ và lên án việc lạm dụng bất cứ sự gì trong những điều này.
10. Những việc lạm dụng như thế cùng với những căng thẳng hiện nay giữa các nền văn minh cũng đồng thời đòi chúng ta phải vượt ra ngoài cuộc đối thoại song phương của chúng ta là cuộc đối thoại có tính chất thúc bách đặc thù của nó. Bởi thế chúng tôi tin rằng chúng tôi có nhiệm vụ bao gồm cả thế giới Hồi Giáo cùng thành phần lãnh đạo của thế giới này trong việc tham gia vào cuộc trân trọng đối thoại và hợp tác. Ngoài ra chúng tôi kêu gọi các vị lãnh đạo thế giới hãy cảm nhận khả năng thiết yếu của chiều kích tôn giáo trong việc giúp giải quyết các vấn đề xung khắc và xung đột, và kêu gọi họ hãy ủng hộ việc đối thoại liên tôn cho mục đích ấy.
Rôma ngày 28 Tháng Hai năm 2006 – ngày 30 Tháng Shevat năm 5766
Tôn Sư Trưởng Shear Yashuv Cohen, (Chủ Tịch Phái Đoàn Đại Biểu Do Thái)
Tôn Sư Trưởng Ratson Arussi
Tôn Sư Trưởng Yossef Azran
Tôn Sư Trưởng David Brodman
Tôn Sư Trưởng David Rosen
Ông Oded Wiener
Vị Lãnh Sự Shmuel Hadas
Đức Hồng Y Jorge Mejía, (Chủ Tịch Phái Đoàn Đại Biểu Công Giáo)
Đức Hồng Y Georges Cottier, O.P.
Đức Giám Mục Giacinto-Boulos Marcuzzo
Đức Ông Pier Francesco Fumagalli
Cha Norbert Hofmann, S.D.B.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 2/3/2006
“Đụn Cát Lún Của Một Bãi Bùn Lầy”
Truyện về Một Người Con Gái Tốt Trải Qua Những Lúc Khốn Nạn
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Chuyển dịch câu truyện “A Good Girl Who Went Through Bad Times”
của Carolyn Kollegger
trong cuốn Bàng Hoàng Trước Sự Thật 2 – Surprised By Truth 2
edited by Patrick Madrid and published by Sophia Institute Press 2000
Cuộc sống
đang quay nhanh lại càng quay cuồng
Erwin cũng đã từng là một người Công Giáo đạo gốc, sinh ở Thụy Sĩ và được cha mẹ
rất Công Giáo dưỡng dục. Họ thường đưa chàng tới nhà thờ. Họ cầu Kinh Mân Côi
hằng ngày. Họ tham dự những cuộc kiệu rước lễ lậy, và thực hiện các cuộc hành
hương khắp cả Âu Châu. Khi Erwin đi vào đời, không có cha mẹ ở bên cạnh để kềm
kẹp cho chàng đến nhà thờ, chàng đã theo gương của thành phần chàng gặp và đã bỏ
nhà thờ nhà thánh.
Trong khi tôi đã trở thành một người mẫu và là một nữ diễn viên thì Erwin là một
tay trượt tuyết có hạng trên thế giới, đang được huấn luyện để tranh giải Thế
Vận Hội, cho đến khi tai nạn xe hơi xẩy ra làm gẫy hết mọi cái xương trong thân
thể của chàng, khiến các ước vọng của chàng bị khựng lại. Khi cơ hội nghề nghiệp
đến tay vào một dịp Thế Vận Hội khác, Erwin đã chộp lấy thời cơ. Qua một thời
gian dài, chàng đã du hành khắp thế giới như là một tay đua trượt tuyết, sống
hết mình với cái nghề này, ở chỗ đua đòi theo thành phần tiêu khiển nổi tiếng,
theo những chính trị gia lừng danh, cũng như theo những thành phần quí phái khác.
Sau đó, có một người bạn rủ Erwin đột xuất khởi công để mở một công ty nhập cảng
quần áo lót nữ giới cho anh ta. Vào tuổi mới tam thập bấy giờ, Erwin đã muốn
sống ổn định chút xíu, nên ý nghĩ về một việc làm vững chắc đã gọi mời chàng. Và
sự kiện xẩy ra là công việc làm ăn này bao hàm cả việc gần gũi với nhiều phụ nữ
diễm kiều đã khiến chàng không chần chừ chấp nhận việc làm ấy. Chàng đã mở một
thương vụ tại một trong những vùng thượng lưu trên đường Madison Avenue ở Nữu
Ước và bắt đầu làm việc với những tiệm cỡ lớn nhất trong nước.
Erwin và tôi gặp nhau khi chàng thuê tôi làm người mẫu cho một tấm ảnh chụp và
chúng tôi đã yêu nhau. Ngay từ đầu tôi đã cảm thấy được rằng tôi sẽ sống trọn
đời tôi với chàng. Thế nhưng cuộc đời chúng tôi bắt đầu sống chung là những gì
trống rỗng, cho dù đầy những sinh động. Nó được xây trên tiền bạc và những gì
bạc tiền có thể làm được. Hầu như đêm nào chúng tôi cũng liên hoan ăn uống ở
những nhà hàng đắt tiền cũng như ở những câu lạc bộ sang trọng. Chúng tôi dễ
dàng tung ra cả hằng mấy trăm Mỹ kim cho một bữa tối, rồi sau đó đi dạo phố trên
chiếc xe Porsche mầu bạc láng. Như lời của một bài hát, chúng tôi đã quen biết
với tất cả những chân nhân, chúng tôi đã dùng tất cả những thứ chân dược. Chúng
tôi nhào đầu vào những thứ tiệc tùng dễ sợ và chúng tôi đã phải trang trải những
món tiền ngập đầu.
Một người con gái bị gặp trục trặc là điều tạm bợ xẩy ra
Không bao lâu sau lần hẹn hò đầu tiên của chúng tôi ấy, Erwin và tôi đã về chung
sống với nhau. Chúng tôi hết sức yêu nhau, và chàng là một “Romeo” đẹp trai đầy
công thành danh toại của tôi. Cái trống rỗng của đời tôi dường như được khỏa lấp
bằng mối liên hệ của chúng tôi ấy. Tôi cảm thấy như thể không gì có thể làm đắng
cay cuộc đời chung sống ung dung của chúng tôi này. Sáu tháng sau, tôi có thai
và đến gặp bác sĩ sản phụ khoa ở phòng mạch Park Avenue. Bà ta nhìn tôi và nói:
“Cô đâu có muốn cái thai này phải không?” Tôi gật đầu, khi nhớ lại điều Erwin đã
bảo tôi vào lần hẹn hò đầu tiên, đó là chàng chỉ muốn làm tiền, du lịch, và ăn
chơi mà thôi. Tôi nghĩ rằng đứa nhỏ sẽ kết thúc mối liên hệ của chúng tôi. Bà
bác sĩ của tôi nói: “Được rồi. Chúng tôi sẽ sắp xếp để cô chấm dứt việc mang bầu”.
“Chấm dứt việc
mang bầu”. Sao có vẻ dễ nghe quá vậy. Nó không có tính cách sát hại đứa nhỏ tí
nào hết. Nó dường như là việc ngăn chặn một cái gì đó trước khi điều đó xẩy ra
thôi. Tôi cảm thấy hết sức nhẹ nhàng. Vào tháng Tư năm 1982, tôi đã để cho một
đứa bé dễ thương đang được ủ ấp trong bụng của tôi bị giết chết.
Sau cái tát vào mặt Thiên Chúa ấy, giữa Erwin và tôi không bao giờ còn được như
trước nữa. Sự kiện cho thấy chẳng có gì gọi là bí tích hay thánh hảo về cuộc
sống chung của chúng tôi bắt đầu lộ diện. Chúng tôi cảm thấy khó chịu bởi những
gì chúng tôi làm, thế nhưng chúng tôi vẫn không thể biết được nó là vấn đề trục
trặc. Thay vì tấn công cái trục trặc này, chúng tôi lại quay ra tấn công nhau.
Khi chúng tôi không bị phân tâm bởi tiệc tùng, du lịch và tiêu pha, chúng tôi
lại quay ra cãi lẫy nhau. Erwin nói ra những lời chê bai bình phẩm tôi. Theo như
những gì được chàng quan tâm thì tôi không đẹp cho lắm hay thân mình không thon
gầy vừa phải, không nấu ăn vừa miệng hay không sạch sẽ cho đủ. Tôi không thể
kiếm được đủ tiền để làm hài lòng chàng, bất kể tiền tôi kiếm được là bao nhiêu.
Chàng thấy nơi tôi đầy những lỗi lầm. Thế rồi chúng tôi hôn nhau và làm hòa với
nhau đúng lúc, để sửa soạn cho một cuộc tái diễn khác về tất cả những gì là thái
quá vị kỷ sau đó.
Sau một năm phá thai lần thứ nhất, bất chấp phương pháp ngừa thai của chúng tôi,
tôi lại mang bầu một lần nữa. Lại hẹn hò để đến gặp bác sĩ sản phụ khoa.
Bấy giờ tôi nghĩ rằng mối liên hệ hiện tại của chúng tôi không thể nào cải tiến
được nữa. Tôi nghĩ nếu Erwin cưới tôi là tốt nhất. Khi chúng tôi mới về chung
sống với nhau, tôi đã tự nhủ với lòng mình rằng tôi sẽ cho Erwin thời gian 5 năm
để cưới tôi. Tôi đã thấy nhiều nữ diễn viên sống với một người đàn ông cả mấy
thập niên, hy vọng người đàn ông ấy sẽ lấy mình làm vợ, để rồi cuối cùng ly tán.
Khi đặt vấn đề giới hạn thời gian là tôi cho rằng tôi tinh khôn. Chúng tôi đã
mau chóng tiến tới thời hạn 5 năm của tôi (một thời hạn Erwin không hề biết gì
về nó), là lúc tôi lại có thai đến lần thứ ba. Lần này, tôi không muốn “chấm dứt”
việc mang thai nữa. Tôi nghĩ rằng quyết định của tôi sẽ khiến cho Erwin cưới tôi
làm vợ. Trái lại, chàng thề rằng chàng sẽ bỏ tôi.
Thế là việc gặp bác sĩ sản phụ khoa lại được sắp xếp để kết thúc lần thứ ba một
mạng sống quí hóa.
(còn tiếp)