THỨ SÁU 14/3/2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

Huấn Từ Ngỏ Cùng Các Phần Tử Pháp Tòa Rota Roma 26/1/2008 (tiếp)

   CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

Thánh Long Mộng Phố

Bí Mật Maria  - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria (164-165)

Việc Tận Hiến Cách Hoàn Hảo cho Chúa Giêsu Kitô

2. Việc tôn sùng này giúp chúng ta noi gương bắt chước Chúa Kitô

   MẾN Yêu Thánh Thể  

  ĐTC Gioan Phaolô II

Thông Điệp Thánh Thể (29-30)

Tính Cách Tông Truyền của Thánh Thể và của Giáo Hội 

     YÊU Thương Tha Nhân              

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

“Mối liên hệ đặc biệt nơi cuộc sống hôn nhân của thành phần lãnh nhận phép rửa đối với mầu nhiệm Thiên Chúa”

Huấn Từ của  ngày 30/1/2003 với Pháp Đình Roma dịp Mở Năm Tài Phán (1-3)

 

 

 

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI

 

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

 

Huấn Từ Ngỏ Cùng Các Phần Tử Pháp Tòa Rota Roma 26/1/2008

 

(tiếp THỨ NĂM 13/3/2008)

 

Như thế, cái giá trị của khoa pháp luật luân phiên không phải là một vấn đề tính cách xã hội học cụ thể, vì nó có một tính chất pháp lý thích đáng trong việc phục vụ cho công lý chính yếu. Bởi thế thật là không thích hợp khi công nhận là có một cái gì đó tương phản giữa khoa pháp luật luân phiên và những phán quyết của các tòa án địa phương được kêu gọi để đóng một vai trò bất khả thiếu trong việc làm khả dĩ trực tiếp vấn đề quản trị công lý, cũng như trong việc có thể điều tra và giải quyết các trường hợp cụ thể ở vào những thời điểm liên quan tới các nền văn hóa và tâm thức của dân  chúng. Dù sao thì tất cả mọi phán quyết bao giờ cũng cần phải căn cứ vào những nguyên tắc và qui tắc chung của công lý. Đòi hỏi này, áp dụn g chung cho bất cứ cấp độ tư pháp nào, có một tầm quan trọng đặc biệt trong Giáo Hội tới độ gây nguy hiểm cho những đòi hỏi về mối hiệp thông. Vấn đề này bao gồm việc bảo vệ những gì chung đối với Giáo Hội hoàn vũ, những gì được đặc biệt ủy thác cho Thẩm Quyến Tối Thượng cũng như cho các cơ cấu dự phầnvào thẩm quyến linh thánh của Giáo Hội ad normam iuris.

 

Trong lãnh vực hôn phối, khoa pháp luật học luân phiên đã hoạt động rất đáng chú ý trong 100 năm qua. Nó đặc biệt thực hiện những đóng góp quan trọng được thể hiện nơi việc soạn thảo luật lệ đang có hiệu lực. Vì thế người ta không thể nghĩ rằng tầm quan trọng này của việc dẫn giải lề luật theo khoa pháp luật học của Pháp Đình Rôta đã bị suy giảm. Thật thế, việc áp dụng giáo luật hiện  hành thật sự đòi hỏi là nó phản ảnh cái ý nghĩa thực sự của công lý, cái ý nghĩa trước hết liên quan tới chính yếu tính của hôn nhân. Pháp Đình Rôta Rôma liên lỉ được kêu gọi thi hành một công việc gay go có một tầm ảnh hưởng mãnh liệt trên công việc của tất cả mọi tòa án: một công việc hiểu được việc hiện hữu hay không hiện hữu về thực tại hôn phối, một thực tại tự bản chất có tính cách nhân loại học, thần học và luật học. Để hiểu hơn vai trò của pháp luật học, tôi muốn nhấn mạnh đến những gì tôi đã nói cùng anh chị em năm ngoái liên quan tới “chiều kích pháp lý nội tại của hôn nhân” (cf. Address to Roman Rota, 27 January 2007). Luật lệ không thể trở thành một thứ thuần túy tổng hợp các thứ qui tắc tích cực buộc các tòa án phải áp dụng. Cách duy nhất để đặt nền tảng vững chắc cho công việc của luật pháp học đó là nghĩ về nó như là một việc hành sử thực sự cái prudential iuris. Sự khôn ngoan này hoàn toàn trái ngược với cái độc đoán của chủ nghĩa tương đối, vì nó cho phép các biến cố tỏ hiện sự hiện diện hay vắng bóng ở mối liên hệ đặc biệt của công lý nơi hôn nhân với ý nghĩa nhân loại và cứu độ thực sự. Có thế những câu châm ngôn của khoa luật học mới chiếm được giá trị đích thực của mình mà không trở thành một đống những qui luật trừu tượng và lập đi lập lại, những qui luật có thể được dẫn giải cách chủ quan hay chuyên chế.

 

(còn tiếp)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2008/january/documents/hf_ben-xvi_spe_20080126_roman-rota_en.html

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

 

 

 

 

Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria

 

Nguyên Tác của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort)

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL


 

Phn Hai: Việc Trn Ho Sùng Kính Đức M

  

Chương Thứ Ba: Việc Tận Hiến Cách Hoàn Hảo cho Chúa Giêsu Kitô

 

3. Việc tôn sùng này chiếm được nhiều phúc lành từ Đức Mẹ      

164 (2) Việc tôn sùng này là một phương tiện an toàn để đến cùng Chúa Giêsu Kitô, vì vai trò của Mẹ Maria là dẫn chúng ta cách an toàn đến cùng Con Mẹ; cũng như vai trò của Chúa Giêsu dẫn chúng ta tới cùng Cha hằng hữu vậy. Những ai có tâm hồn đạo hạnh không được chiều theo ý nghĩ sai lạc cho rằng Mẹ Mariia cản trở mối hiệp nhất của chúng ta với Thiên Chúa. Làm sao điều này có thể xẩy ra được chứ? Mẹ Maria, vị được ân nghĩa với Thiên Chúa, đối với chung mọi người và đối với tiêng từng người,  làm sao lại ngăn cản một tâm hồn chiếm đạt ơn cao cả nhất là được hiệp nhất với Ngài chứ? Mẹ là vị đầy ân sủng đến trào tràn, nhờ đó được hiệp nhất với Chúa Kitô và được biến đổi trong Thiên Chúa đến nỗi Ngài cần phải mặc lấy xác thịt nơi Mẹ, làm sao lại có thể ngăn cản một tâm hồn trong việc họ trọn vẹn nên một với Ngài chứ? 

Thật là đúng nơi gương của những con người, bất kể là thánh thiện ra sao, đôi khi có thể bị suy yếu về mối hiệp nhất với Thiên Chúa, nhưng không hề xẩy ra với Đức Mẹ, như tôi nđã nói và sẽ không bao giờ ngại lập đi lập lại như thế. Lý do duy nhất cho thấy tại sao chỉ có một số ít linh hồn đạt đến được tầm vóc thành nhân của Chúa Giêsu đó là vì Mẹ Maria vẫn chưa là Mẹ của họ bao nhiêu và vị phu thê sung mãn này của Chúa Thánh Linh vẫn chưa được hiện hình đẹp đẽ trong tâm can của họ. Nếu chúng ta muốn một thứ trái chín mùi và hoàn toàn đẹp đẽ thì chúng ta cần phải có cây mang trái ấy. Nếu chúng ta muốn trái cây sự sống là Chúa Giêsu Kitô thì chúng ta cần phải có cây sự sống là Mẹ Maria. Nếu chúng ta muốn được Thánh Thần  hoạt động trong chúng ta, chúng ta cần phải có vị hôn thê trung tín và bất khả phân ly của Ngài là Mẹ Maria, vị được thần linh ưu ái, vị như tôi đã nói được Ngài làm cho sinh hoa kết trái.

165.        Cứ nắm chắc một điều là các bạn càng hướng về Mẹ Maria bằng những lời nguyện cầu, bằng những suy niệm, những hành động và những khổ đau, thấy nơi Mẹ, nếu không rõ ràng và minh bạch, ít là một cách tổng quát chung chung, các bạn càng khám phá ra Chúa Giêsu. Vì Người bao giờ cũng cao cả hơn, mãnh lực hơn, hoạt động hơn và lạ lùng hơn khi tác hành qua Mẹ Maria hơn là Người ở nơi bất cứ một tạo vật nào khác trong vũ trụ này, hay thậm chí cả ở trên trời. Bởi thế, Mẹ Maria, hoàn toàn được thần linh ưu ái và chìm đắm trong Thiên Chúa, không hề trở thành một chướng ngại vật cho người lành đang nỗ lực hiệp nhất với Người. Chẳng có bao giờ và sẽ không bao giờ có một tạo vật nào sẵn sàng giúp chúng ta trong việc đạt tới mối hiệp nhất này cách hiệu nghiệm hơn, vì Mẹ sẽ ban cho chúng ta tất cả mọi ân sủng để đạt được mục đích ấy. Như một vị thánh đã có lần nhận định rằng: “Chỉ có một mình Mẹ Maria mới biết cách làm cho tâm trí chúng ta tràn đầy ý nghĩ về Thiên Chúa”. Hơn nữa, Mẹ Maria sẽ bảo toàn chúng ta trước mánh khóe lừa đảo và cái tinh quái của tên gian ác.

(còn tiếp)

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 

 

Thông Điệp Thánh Thể


 
 
ĐTC Gioan Phaolô II

 

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL

 

http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/encyclicals/documents/hf_jp-ii_enc_17042003_ecclesia-de-eucharistia_en.html

Chương Hai

Tính Cách Tông Truyền của Thánh Thể và của Giáo Hội 

29.       Công Đồng Chung Vaticanô II sử dụng nhiều lần lời diễn tả “thành phần linh mục thừa tác, tác hành thay ngôi vị Chúa Kitô, mới là vị thực hiện Hiến Tế Thánh Thể” (58), là lời diễn tả đã được bắt nguồn sâu xa từ giáo huấn của giáo hoàng (59). Như Tôi đã nói đến ở các lần khác, câu in persona Christi “có nghĩa còn hơn là việc hiến dâng ‘nhân danh’ hay ‘thay cho’ Chúa Kitô. In persona nghĩa là đồng hóa đặc biệt về bí tích với Vị Thượng Tế đời đời, Đấng là tác giả và là chủ thể chính của hiến tế này của Người, một hiến tế thực sự không ai có thể thay Người” (60). Thừa tác vụ của các vị linh mục, thành phần đã lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh, trong công cuộc cứu độ được Chúa Kitô tuyển chọn, là thừa tác vụ cho thấy rõ Thánh Thể được các vị cử hành là một tặng ân hoàn toàn trổi vượt trên quyền hạn của cộng đồng, và là một tặng ân hết sức cần thiết cho mối liên hệ thành hiệu giữa việc thánh hiến Thánh Thể với hiến tế Thập Tự cũng như với Bữa Tiệc Ly. Cộng đồng qui tụ lại với nhau để cử hành Thánh Thể, nếu thật sự là cộng đồng Thánh Thể, tuyệt đối cần phải có sự hiện diện của một vị linh mục có chức thánh chủ sự. Ngoài ra, cộng đồng này, tự mình không thể cung cấp một vị thừa tác viên có chức thánh. Vị thừa tác viên này là một tặng ân cộng đồng nhận được qua việc thừa kế hàng giáo phẩm bắt nguồn từ các Vị Tông Đồ. Chính vị Giám Mục, vị qua Bí Tích Truyền Chức Thánh, làm nên một vị tư tế mới bằng việc ban cho họ quyền thánh hiến Thánh Thể. Tóm lại, “mầu nhiệm Thánh Thể không thể được cử hành nơi bất cứ một cộng đoàn nào ngoại trừ bởi một vị linh mục có chức thánh, như Công Đồng Chung Latêranô IV minh nhiên truyền dạy” (61).

30.       Giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo về mối liên hệ giữa thừa tác vụ tư tế và Thánh Thể, cũng như giáo huấn về Hiến Tế Thánh Thể đều là chủ đề đối thoại tốt đẹp trong lãnh vực đại kết trong những thập niên gần đây. Chúng ta phải tạ ơn Thiên Chúa Ba Ngôi về sự tiến bộ và chiều hướng qui hội đáng kể đạt được về khía cạnh này là những gì khiến chúng ta hy vọng rằng một ngày kia sẽ tiến tới chỗ trọn vẹn chia sẻ niềm tin. Tuy nhiên, những nhận định của Công Đồng Chung Vaticanô II về các Cộng Đồng Giáo Hội phát xuất ở Tây Phương từ thế kỷ 16 trở đi và là những cộng đồng tách khỏi Giáo Hội Công Giáo vẫn còn là những nhận định hoàn toàn xác thực: “Các Cộng Đồng Giáo Hộitách khỏi chúng ta thiếu hẳn mối hiệp nhất với chúng ta là mối hiệp nhất bắt nguồn từ Phép Rửa, và chúng ta tin rằng vì đặc biệt thiếu bí tích Truyền Chức Thánh họ đã không giữ được thực tại chuyên chính và trọn vẹn của mầu nhiệm Thánh Thể. Tuy nhiên, khi họ tưởng niệm việc Chúa chịu chết và sống lại trong Bữa Dạ Tiệc Thánh là họ tuyên xưng rằng bữa tiệc này tiêu biểu cho sự sống hiệp thông với Chúa Kitô và họ đợi chờ việc Người lại đến trong vinh quang” (62). 

Bởi thế, tín hữu Công giáo, tuy vẫn tôn trọng niềm xác tín tôn giáo của anh chị em ly khai này, cũng phải tránh không được lãnh nhận việc hiệp thông được họ phân phát trong các cuộc cử hành của họ, để không tỏ ra coi thường tính cách mập mờ về bản chất Thánh Thể, từ đó, không chịu thực hiện nhiệm vụ của mình trong việc minh nhiên làm chứng cho chân lý. Điều này đưa đến chỗ làm chậm bước tiến đã được thực hiện về việc hoàn toàn hiệp nhất nên về hình thức bề ngoài. Cũng thế, không thể chấp nhận được việc thay thế Thánh Lễ Chúa Nhật bằng những việc cử hành lời Chúa theo đại kết hay bằng những buổi cầu nguyện chung với Kitô hữu thuộc các Cộng Đồng Giáo Hội được đề cập tới trước đây, hoặc bằng việc tham dự vào những buổi phụng vụ riêng của họ.  Những cuộc cử hành và những buổi như thế, dù sao  vẫn đáng ca ngợi ở một số trường hợp, cũng sửa soạn cho mục đích hoàn toàn hiệp thông, kể cả việc hiệp thông Thánh Thể, song họ không thể thay thế Thánh Lễ Chúa Nhật.

Sự kiện quyền năng thánh hiến Thánh Thể đã được trao phó cho các vị Giám Mục và linh mục mà thôi không phải là việc coi thường một cách nào đó phần Dân Chúa còn lại, vì nơi mối hiệp thông của một thân thể Chúa Kitô duy nhất là Giáo Hội thì tặng ân quyền linh này mang lại thiện ích cho tất cả mọi người.

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

     

ĐTC Gioan Phaolô II

 

“Mối liên hệ đặc biệt nơi cuộc sống hôn nhân của thành phần lãnh nhận phép rửa đối với mầu nhiệm Thiên Chúa”

  Huấn Từ của  ngày 30/1/2003 với Pháp Đình Roma dịp Mở Năm Tài Phán 

Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL,  chuyển dịch

(từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 14/2/2003)  

 

C

ác năm trước Tôi đã nói đến vấn đề liên quan đến khía cạnh tự nhiên của đời sống hôn nhân, hôm nay Tôi muốn Qúi Chức chú ý tới mối liên hệ đặc biệt nơi cuộc sống hôn nhân của thành phần lãnh nhận phép rửa đối với mầu nhiệm Thiên Chúa, một mối liên hệ mà, qua giao ước mới và tối hậu nơi Chúa Kitô, đã mặc lấy phẩm vị của một bí tích.

 

Khía cạnh tự nhiên và mối liên hệ với Thiên Chúa đây không phải là hai khía cạnh sát cánh với nhau, trái lại, chúng liên hệ với nhau một cách sâu xa như là sự thật về con người và là sự thật về Thiên Chúa. Tôi rất tha thiết với đề tài này: Tôi trở lại với nó trong lúc này đây cũng là bởi quan điểm về mối hiệp thông của con người với Thiên Chúa rất hữu ích, thậm chí cần thiết, cho việc làm của các vị thẩm phán, các vị biện hộ cũng như cho tất cả những ai liên quan tới luật lệ của Giáo Hội.

 

3.         Cái liên hệ giữa trào lưu tục hóa và cuộc khủng hoảng đời sống hôn nhân gia đình hẳn nhiên đã quá rõ ràng. Cuộc khủng hoảng liên quan đến ý nghĩa về Thiên Chúa cũng như ý nghĩa về thiện ác theo luân lý đã thành đạt trong việc làm suy giảm cái quen thuộc đối với những nền tảng của đời sống hôn nhân cũng như đời sống gia đình được bắt nguồn từ hôn nhân. Để có thể hiệu nghiệm phục hồi sự thật nơi lãnh vực này, cần phải tái nhận thức chiều kích siêu việt được gắn liền với tất cả sự thật về hôn nhân và gia đình, bằng việc thắng vượt hết mọi phân rẽ có khuynh hướng chia lìa các khía cạnh trần tục với khía cạnh đạo giáo như thể có hai cuộc hôn nhân, một cuộc hôn nhân trần tục và một cuộc hôn nhân linh thánh.

 

“Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài; theo hình ảnh của mình Thiên Chúa đã dựng nên con người; Ngài đã dựng nên họ có nam có nữ” (Gn 1:27). Hình ảnh được Thiên Chúa được thấy nơi tính chất lứa đôi của con người nam và nữ cũng như nơi mối hiệp thông liên cá thể của họ. Đó là lý do siêu việt tính đã sẵn có nơi cuộc hiện hữu của đời sống hôn nhân ngay từ ban đầu, vì nó thuộc về đặc thù tính tự nhiên giữa người nam và người nữ trong trật tự tạo thành. Qua trạng thái “là một thân thể” của mình (Gn 2:24), con người nam và con người nữ này, bằng việc tương trợ nhau và sinh sản, tham dự vào một cái gì đó linh thánh và đạo nghĩa, như được nhấn mạnh đến trong Thông Điệp Arcanum Divinae Sapientiae của Vị Tiền Nhiệm Lêô XIII của Tôi, một văn kiện đề cập đến việc hiểu biết về hôn nhân theo những nền văn minh cổ (10 Feb. 1880, Leonis XIII P.M. Acta, vol. II, p. 22). Đối với vấn đề này, Ngài nhận định rằng hôn nhân “ngay từ ban đầu đã là hình ảnh (adumbratio) của Việc Lời Chúa Nhập Thể” (ibid.). Trong tình trạng công chính nguyên thủy, Adong và Evà đã được hưởng tặng sủng siêu nhiên. Như thế, trước khi Việc Lời Nhập Thể xẩy ra trong giòng lịch sử thì sự thánh hảo của việc Lời Nhập Thể này đã được ban xuống cho nhân loại.

 

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

TRONG THỜI ÐIỂM MARIA

MẸ MARIA XUẤT HIỆN NHƯ BÌNH MINH 

BÁO HIỆU MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH RẠNG NGỜI TỎ HIỆN...

 

“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất

thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai,

cho dù không cùng một kiểu cách -

  Being the way by which Jesus came to us the first time,

    she will also be the way by which He will come the second time,  

 though not in the same manner

      (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)

 

"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.

Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài,

nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể...

the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary,

He sees that his time is getting short,

and he is making every effort to gain as many souls as possible..."

(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes  ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,

The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)

 

"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".

"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day.
He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".

     (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)

 

Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc

thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của

nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành

của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy

‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó

cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ

với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng

hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con

người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến

trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675)

"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"

 

"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”

March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you.     

(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)

 

"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;

tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha.

Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;

sau đó sẽ là ngày của công lý.

Speak to the world about My mercy;

let all mankind recognize My unfathomable mercy.

It is a sign for the end times;

after it will come the day of justice.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)

 

"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha...

Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..."  

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)

 

“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -

Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)

 

"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng

(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa;

nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài,

vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus',

vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis',

là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử',

qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,

vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,

một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương)

để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha -

From her will come forth the spark

that will prepare the world for My final coming”

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)

 

 Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,

và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến

để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -

We are all living in the Advent of the last days of history,

and all trying to prepare for the coming of Christ,

to build the kingdom of God which he proclaimed”

(ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).

 

 

 

Thời Điểm Maria ra mắt ngày 8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được 30.224 lần viếng thăm. Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006. Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006.
 Từ đó TĐM tiếp tục được thêm Hit Counter lần viếng thăm. Đa tạ.

Webmaster@ThoiDiemMaria.Net