SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chia sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Chay Tuần 5
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Gr 31,
31-34
"Ta sẽ ký kết giao ước mới và Ta sẽ
không còn nhớ tội lỗi nữa".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Chúa phán: "Ðây tới ngày Ta ký kết
giao ước mới với nhà Israel và nhà Giuđa, giao ước này không giống như giao
ước Ta đã ký kết với tổ phụ của chúng trong ngày Ta cầm tay chúng dắt ra
khỏi đất Ai-cập; giao ước ấy chính chúng đã phản bội, mặc dầu Ta thống trị
chúng". Chúa phán: "Ðây là giao ước Ta sẽ ký kết với nhà Israel sau những
ngày đó. Ta sẽ đặt lề luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm
hồn chúng; Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta". Chúa phán:
"Người này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em
rằng: "Ngươi hãy nhìn biết Chúa", vì mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết
Ta, vì Ta sẽ tha tội ác của chúng, và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của
chúng".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 50, 3-4.
12-13. 14-15
Ðáp: Ôi lạy Chúa,
xin tạo cho con quả tim trong sạch (c. 12a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con
theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con
tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.
2) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả
tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng
loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. -
Ðáp.
3) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu
độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường
nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 5,
7-9
"Người đã học vâng phục và đã trở
nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời".
Trích thư gởi tín hữu Do-thái.
Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã
lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu Người
khỏi chết, và vì lòng thành tín, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên
Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất,
Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục
Người.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước
Phúc Âm: Ga 12, 26
Chúa phán: "Ai phụng sự Ta, hãy theo
Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó".
Phúc Âm: Ga 12,
20-33
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thối
đi, thì nó sinh nhiều bông hạt".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, trong số những người lên dự
lễ, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp Philipphê quê ở Bêtania, xứ Galilêa, và
nói với ông rằng: "Thưa ngài, chúng tôi muốn gặp Ðức Giêsu". Philip-phê đi
nói với Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đáp: "Ðã
đến giờ Con Người được tôn vinh. Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu
hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình;
nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ
mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời
đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở
đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và
biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã
đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha". Lúc đó có tiếng từ
trời phán: "Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa". Ðám đông
đứng đó nghe thấy và nói đó là tiếng sấm. Kẻ khác lại rằng: "Một thiên thần
nói với Ngài". Chúa Giêsu đáp: "Tiếng đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì
các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh
thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi
người lên cùng Ta". Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào.
Ðó là lời Chúa.
Phụng vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật V
Mùa Chay tiếp tục hướng về Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô theo dự án
cứu độ đầy yêu thương của Cha trên trời.
Thật vậy, nếu như trong bài Phúc Âm Chúa Nhật III Mùa Chay Năm B, Chúa Giêsu ví
mình là đền thờ bị phá nhưng được Người dựng lại nội trong ba ngày, ám chỉ Mầu
Nhiệm Vượt Qua, và trong bài Phúc Âm Chúa Nhật IV Mùa Chay Năm B, Chúa Giêsu ví
Người như Đấng bị treo lên để ai tin Người sẽ được sự sống, cũng ám chỉ Mầu
Nhiệm Vượt Qua, thì trong bài Phúc Âm Chúa Nhật V Mùa Chay tuần này (Gioan
12:20-33) cũng ám chỉ Mầu Nhiệm Vượt Qua, khi Chúa Giêsu ngấm ngầm ví mình như "hạt
lúa mì rơi xuống đất...
thối đi" bị mục nát đi để nhờ đó "sinh nhiều bông hạt".
Chúa Giêsu quả thưc là "hạt lúa miến rơi xuống đất" nơi mầu Nhiệm Nhập Thể Giáng
Sinh của Người, và Người cũng đúng là "hạt lúa miến bị mục nát đi" nơi Mầu
Nhiệm Khổ Nạn và Tử Giá của Người, rồi Người còn là hạt lúa miến "sinh nhiều
bông hạt" nơi Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người. Mầu Nhiệm Vượt Qua này đã được
chính Chúa Kitô xác nhận và khẳng định ở cuối bài Phúc Âm hôm nay: "Khi nào Ta
chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta".
Mầu Nhiệm Vượt Qua này của Chúa Kitô đã được Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô cảm
nhận và tuyên xưng trong thư gởi tín hữu Do Thái (5:7-9) như sau: "Khi còn sống
ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên
Ðấng có thể cứu Người khỏi chết, và vì lòng thành tín, Người đã được nhậm lời.
Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và
khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ
tùng phục Người".
Nhờ cuộc phục sinh của Người mà loài người tội lỗi nói chung và dân Chúa nói
riêng mới chẳng những được cứu khỏi tội lỗi và sự chết mà còn được sự sống và là
sự sống viên mãn nữa, nhờ Thánh Thần được Chúa Kitô thông ban cho các tông đồ từ
thân xác phục sinh của Người sau khi Người sống lại từ trong kẻ chết.
Đó là lý do, trong bài đọc 1, trích từ Sách Tiên Tri Giêrêmia (31:31-34), "Chúa
phán: 'Ðây là giao ước Ta sẽ ký kết với nhà Israel sau những ngày đó. Ta sẽ đặt
lề luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng; Ta sẽ là
Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta'", một thứ giao ước mới tràn đầy sự
sống và Thần Linh: "Người này sẽ không còn phải
dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em rằng: 'Ngươi hãy nhìn biết Chúa', vì
mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta", chứ không phải như giao ước cũ,
giao ước
"sau những ngày đó" - "giao ước Ta đã ký kết với
tổ phụ của chúng trong ngày Ta cầm tay chúng dắt ra khỏi đất Ai-cập; giao ước ấy
chính chúng đã phản bội, mặc dầu Ta thống trị chúng".
Trong Bài Phúc Âm hôm nay có một câu Chúa
Giêsu nói có vẻ khó hiểu và mâu thuẫn, đó là câu: "Lạy
Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ
này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha". Phải chăng câu than lên cùng
Cha của mình này của Chúa Giêsu là câu sẽ được Người lập lại trong Vườn Cây
Dầu vào Đêm Thứ Năm Tuần Thánh: "Cha ơi, Cha có quyền thực hiện tất cả
mọi sự. Xin hãy cất chén này khỏi Con. Nhưng xin cứ ý Cha hơn là ý của Con"
(Marco 14:36). Ở Vườn Nhiệt thì Người không được Cha hồi đáp, vì Cha Ngài đã
lên tiếng hồi đáp rồi, trong lần Người đang ở giữa dân chúng, bao gồm cả
thành phần dân ngoại Hy Lạp muốn gặp Người trong Bài Phúc Âm hôm nay:
"Lúc đó có tiếng từ trời phán:
'Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa'".
Cha Người "đã làm vinh
danh" Ngài thế nào hay ở chỗ nào, và "còn
làm vinh danh" Ngài ra sao nữa, nếu không phải, trước hết, Ngài "đã
làm vinh danh" Ngài trong thời Cựu Ước, qua
"giao ước Ta đã ký kết với tổ phụ của chúng trong ngày Ta cầm tay chúng
dắt ra khỏi đất Ai-cập" (Bài Đọc 1), nghĩa là Ngài đã trung thực với
những gì Ngài tự động hứa với tổ phụ của dân Do Thái, bất chấp
"chính chúng đã phản bội, mặc dầu Ta thống
trị chúng", xứng với danh xưng "Ta là Ta / Ta là Đấng Có"
mà Ngài đã tỏ cho Moisen biết ở bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi
(xem Xuất Hành 3:14).
Sau nữa, Ngài "còn làm vinh danh" Ngài nữa, ở giao ước mới, "giao
ước Ta sẽ ký kết với nhà Israel sau những ngày đó. Ta sẽ đặt lề luật của Ta
trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng; Ta sẽ là Chúa của
chúng, và chúng sẽ là dân của Ta" (Bài Đọc 1),
khi Ngài tuôn đổ Thánh Linh của Ngài xuống trên
họ, qua Chúa Kitô Vượt Qua Con Ngài, và nhờ Thánh Linh của Ngài mà họ, tự
mình không thể nhận biết Ngài và liên lỉ phản bội Ngài, có thể "mọi
người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta" (Bài Đọc 1). Thực tế cho thấy
cho đến nay dân Do Thái vẫn chưa nhận biết Ngài nơi Đức Kitô Thiên Sai Cứu
Thế Con Ngài. Thế nhưng, tự mình, Ngài đã tôn vinh Ngài bằng cách tỏ hết
mình ra nơi Người Con Vượt Qua của Ngài, Người Con trong Bài Phúc Âm hôm nay
tuyên bố "đã đến giờ Con Người được tôn vinh", được Cha là Đấng đã
sai Người tôn vinh trên cây thập tự giá để Người có thể tỏ hết mình ra "là
Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), nhờ đó Cha của
Người được nhận biết là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, là tình yêu vô
cùng nhân hậu "cho những ai tín phục Người" (Bài Đọc 2).
Đúng thế, Ngài đã làm vinh danh
Ngài ở chỗ Ngài đã hoàn toàn được toại nguyện nơi tất cả những gì Con Ngài
làm trên trần gian này, Người Con mà Ngài đã hai lần lên tiếng là đẹp lòng
Ngài, lần đầu khi Con Ngài chịu phép rửa ở Sông Jordan (xem Marco 1:11) và
lần sau khi Con Ngài biết hình trên núi cao (xem Marco 9:7), và Ngài sẽ còn
làm vinh danh Ngài nữa ở chỗ Con Ngài chấp nhận uống chén của Ngài, bằng
cuộc khổ nạn và tử giá, bởi vì nhờ Con của Ngài mà Ngài có thể tỏ hết bản
tính là Tình Yêu vô cùng nhân hậu của Ngài ra cho nhân loại khốn nạn tội lỗi
đáng thương, một tình yêu toàn năng mạnh hơn tội lỗi và sự chết, được thể
hiện qua việc Ngài làm cho Chúa Kitô Con Ngài bị tay loài người sát hại phục
sinh vinh hiển.
Thế nhưng, ơn cứu độ của Thiên Chúa thực hiện theo nguyên tắc cho chung tất cả
mọi người nhưng trên thực tế chỉ "cho tất cả những kẻ tùng phục Người" mà
thôi. Đó là lý do trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu mới nói với dân chúng về
tiếng Cha của Người vang ra từ trời rằng:
"Tiếng
đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian
bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa
lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta", nghĩa là làm cho "mọi
người" nhận biết Người để được cứu độ, đúng như Thánh Phaolô xác tín và tuyên bố trong bài đọc 2:
"Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời
cho tất cả những kẻ tùng phục Người",
tức là không
cho những "ai yêu sự sống mình" mà là những "ai ghét sự sống mình ở đời này",
như Chúa Giêsu khẳng định và cảnh báo trong bài Phúc Âm hôm nay.
Bởi thế mà bài đáp ca, được trích từ Thánh Vịnh 50, Thánh Vịnh Thống Hối
(3-4,12-13,14-15), mới vang lên ở câu đáp như là chính tâm nguyện mà Kitô
hữu chúng ta cần dâng lên Chúa trong Chúa Nhật Thư 5 Mùa Chay là: "Ôi lạy Chúa,
xin tạo cho con quả tim trong sạch", nhờ đó, Chúa sẽ không "loại con khỏi thiên
nhan Chúa" và "thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con" để "ban lại cho con niềm vui
ơn cứu độ".
1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo
lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội
ác.
2) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả
tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng
loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.
3) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu
độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường
nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài.
18/3: Lễ Thánh Cyrilô Thành Giêrusalem.
Xin xem bài Giáo Lý 43 về Thánh Cyrilô này của ĐTC Biển Đức XVI
trong loạt 138 bài về Giáo Hội Tông Truyền
Thứ Tư 27/6/2007 - Bài Giáo Lý 43 - Thánh Giáo Phụ Cyril thành Giêrusalem
Thứ
Hai
Lời
Chúa
19/3 Lễ Trọng Kính Thánh Giuse
ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Giuse trong buổi triều kiến chung 19/3/2003
1. Hôm nay chúng ta cử hành lễ trọng kính
Thánh Giuse, vị hôn phu của Mẹ Maria (x Mt 1:24; Lk 1:27). Phụng vụ diễn tả
Ngài là “cha” của Chúa Giêsu (x Lk 2:27,33,41,43,48), sẵn lòng thực thi các
dự án thần linh, ngay cả khi những dự án này vượt quá tầm mức hiểu biết loài
người. Nơi “người con Vua Đavít” (Mt 1:20; Lk 1:27) này, Sách Thánh được nên
trọn và Lời Hằng Sống đã làm người, bởi quyền năng Thánh Linh, trong cung
lòng của Trinh Nữ Maria. Thánh Giuse được Phúc Âm diễn tả như là “một con
người công chính” (Mt 1:19), và Ngài là mẫu gương sống đức tin cho tất cả
mọi tín hữu.
2. Chữ “công chính” nói lên tính cách cương
trực về luân lý của Ngài, việc Ngài chân thành gắn bó với việc thực hành lề
luật cũng như thái độ hoàn toàn cởi mở trước ý muốn của Cha trên trời. Ngay
cả trong những lúc khó khăn, vào những lúc thảm cảnh, người thợ mộc khiêm hạ
thành Nazarét này cũng không bao giờ chiếm cho mình thứ quyền thách đố dự án
của Thiên Chúa. Ngài chờ đợi tiếng gọi từ trên cao và âm thầm tôn kính mầu
nhiệm ấy, bằng cách để cho Chúa hướng dẫn. Một khi lãnh nhận công việc, Ngài
thi hành với tất cả trách nhiệm thành tín: Ngài chuyên chú lắng nghe thiên
thần khi được yêu cầu nhận Trinh Nữ Nazarét làm hiền thể của Ngài (x Mt
1:18-25), trong cuộc trốn sang Ai Cập (x Mt 2:13-15) cũng như trong cuộc trở
về Do Thái (x Ibid 2:19-23). Qua một số giòng chữ, tuy ít nhưng quan trọng,
các vị thánh ký đã cho thấy Ngài như là một vị bảo quản ân cần của Chúa
Giêsu, một phu quân lưu tâm và trung tín, vị thi hành quyền bính của mình
trong gia đình bằng một thái độ phục vụ liên lỉ. Sách Thánh không nói cho
chúng ta biết hơn nữa về Ngài, nhưng trong cái câm nín này đã gói ghém chính
kiểu cách sứ vụ của Ngài, đó là một cuộc hiện hữu được sống động trong âm
thầm của cuộc sống hằng ngày, nhưng bằng một đức tin vững chắc vào Đấng Quan
Phòng.
3. Hằng ngày Thánh Giuse phải cung ứng các
nhu cầu của gia đình bằng việc làm chân tay khó nhọc của Ngài. Vì lý do này,
Giáo Hội đã có lý để đặt Ngài là quan thày của thành phần lao động.
Bởi thế, lễ trọng hôm này cũng là một cơ hội
rất thuận lợi để suy nghĩ về tầm quan trọng của việc làm trong đời sống con
người, nơi gia đình cũng như ngoài cộng đồng.
Con người là chủ thể và là vai chính của việc
làm, và theo chiều hướng của sự thật này, người ta có thể dễ dàng nhận thức
được cái liên hệ trọng yếu hiện hữu giữa con người, việc làm và xã hội. Hoạt
động của con người, theo Công Đồng Chung Vaticanô II, được phát xuất từ con
người và qui hướng về con người. Theo ấn định và ý muốn của Thiên Chúa, nó
phải phục vụ thiện ích thực sự của nhân loại và giúp cho “con người, là một
cá nhân cũng như là một phần tử của xã hội, có thể vun trồng và thực thi ơn
gọi toàn diện của mình” (x Vui Mừng Và Hy Vọng, 35).
Để làm trọn công việc này, cần phải vun trồng
“một linh đạo thực sự của việc làm nhân bản” được sâu xa bắt nguồn từ “Phúc
Âm làm việc”, và là một linh đạo các tín hữu được kêu gọi để loan truyền và
làm chứng cho ý nghĩa việc làm theo Kitô Giáo trong các hoạt động nghề
nghiệp khác nhau của họ (x Thông Điệp Laborens Exercens, 26).
4. Chớ gì Thánh Giuse, một vị thánh cao cả và
khiêm hạ, trở thành một mẫu gương khiến thành phần lao động Kitô hữu noi
theo bắt chước, kêu cầu Ngài trong hết mọi hoàn cảnh. Hôm nay đây, Tôi xin
ký thác cho vị bảo quản ân cần Thánh Gia Nazarét này giới trẻ, thành phần
đang sửa soạn cho một tương lai nghề nghiệp, thành phần thất nghiệp và những
ai đang phải chịu khốn khó vì thiếu nghề nghiệp, các gia đình và toàn thế
giới của việc làm cùng với những mong đợi và thách đố, những trục trặc và
chiều kích của nó.
Xin Thánh Giuse, quan thầy chung của Giáo
Hội, trông coi toàn thể cộng đồng giáo hội, và như một con người thực sự của
hòa bình, cầu cho toàn thể nhân loại, nhất là cho những người đang bị đe dọa
trong thời gian chiến tranh này đây, tặng ân thái hòa và bình an cao quí.
Anh Chị Em thân mến,
Thánh Giuse là vị chúng ta long trọng mừng lễ
hôm nay đây, là gương mẫu sống đức tin. Là vị bảo vệ Thánh Gia, “con người
công chính” (Mt 1:19) này là một con người lao động khiêm tốn, và là một phu
quân và thân phụ trung thành. Đời sống của Ngài cho chúng ta thấy một lòng
tin tưởng bất khả chuyên thay vào Đấng Quan Phòng thần linh.
Thánh Giuse sẵn sàng thực hiện dự án của
Thiên Chúa giành cho Ngài cũng như cho Mẹ Maria, ngay cả khi dự án này dường
như vượt trên mức độ hiểu biết của loài người.
Giáo Hội cũng cử hành mừng Thánh Giuse là
Quan Thày của Thành Phần Lao Động nữa. Trong một thế giới toàn cầu hóa hôm
nay đây chúng ta cần phải nhắc nhở mình là phẩm vị của con người phải đóng
vai trò quan trọng chính yếu nơi tất cả mọi thứ phát triển về xã hội cũng
như kinh tế. Là một con người của hòa bình, chúng ta hãy cầu với Thánh Giuse
cho những ai đang bị de dọa bởi chiến tranh và chúng ta kêu cầu tặng ân thái
hòa cao quí cho toàn thể gia đình nhân loại.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển
dịch từ theo tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 19/3/2003.
Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật III Mùa Chay về Thánh
Giuse 19/3/2006
Anh Chị Em thân mến!
Hôm nay, ngày 19/3, là lễ trọng kính Thánh Giuse, nhưng vì trùng với Chúa
Nhật III Mùa Chay nên phụng vụ được dời vào ngày mai. Tuy nhiên, khung cảnh
Thánh Mẫu của buổi nguyện Kinh Truyền Tin kêu mời chúng ta hãy kính can suy
niệm về hình ảnh vị hôn phu của Trinh Nữ Maria Rất Thánh, quan thày của Giáo
Hội hoàn vũ. Tôi muốn nhắc lại là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thân yêu của
chúng ta cũng rất sùng kính Thánh Giuse, vị được ngài giành hẳn một bức tông
thư ‘Redemptoris Custos’, Vị Bảo Hộ Của Đấng Cứu Chuộc, và là giáo hoàng
chắc chắn đã cảm thấy được sự hỗ trợ của thánh nhân trong giờ lâm tử.
Hình ảnh của vị đại thánh này, cho dù vẫn âm thầm kín ẩn, có một tầm vóc
quan trọng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Trước hết, vì thuộc về chi tộc
Giuđa, thánh nhân đã có liên hệ với Chúa Giêsu theo giòng dõi vua Đavít, bởi
đó, khi hiện thực những lời hứa về Đấng Thiên Sai, người con của Trinh Nữ
Maria mới thực sự được gọi là ‘con vua Đavít’.
Phúc Âm Thánh Mathêu nhấn mạnh một cách đặc biệt đến những lời tiên tri về
đấng thiên sai được nên trọn nơi vai trò của Thánh Giuse: nơi việc Chúa
Giêsu được hạ sinh (2:13-15); tên gọi ‘Nazarene’ (2:22-23). Trong tất cả
những điều này, thánh nhân đã cho thấy bản thân của ngài, như vị hôn thê
Maria của mình, là giòng dõi đích thực của đức tin Abraham: niềm tin nơi
Thiên Chúa đã hướng dẫn các biến cố lịch sử theo dự án cứu độ thần linh của
Ngài. Sự cao cả của thánh nhân, như Mẹ Maria, còn trổi vượt hơn nữa, vì sứ
vụ của thánh nhân được thực hiện trong khiêm hạ cũng như trong sự khuất kín
ở nhà Nazarét. Hơn nữa, chính Thiên Chúa, nơi bản thân Người Con nhập thể
của Ngài, đã chọn đường lối cùng lối sống ấy trên cuộc đời trần gian.
Từ gương mẫu của Thánh Giuse, tất cả chúng ta lãnh nhận một lời mời mmạnh mẽ
trong việc trung thành, đơn sơ và khiêm hạ công việc được Thiên Chúa quan
phòng ấn định cho chúng ta. Trước hết tôi đang nghĩ đến những người làm cha
làm mẹ, và tôi nguyện cầu để họ luôn có thể cảm nhận được vẻ đẹp của một đời
sống giản dị và cần cù, chuyên chú vun trồng mối liên hệ vợ chồng và nhiệt
thành làm trọn sứ vụ giáo dục cao cả nhưng không dễ dàng gì.
Xin Thánh Giuse cầu cho các vị linh mục là thành phần thực thi vai trò làm
cha đối với cộng đồng giáo hội biết yêu mến Giáo Hội một cách thiết tha và
hoàn toàn dấn thân phục vụ, và nâng đỡ thành phần tu trì tận hiến biệt hân
hoan và trung thành tuân giữ các lời khuyên của Phúc Âm sống khó nghèo,
thanh tịnh và tuân phục. Xin thánh nhân bảo vệ thành phần lao động trên thế
giới để họ góp phần bằng các nghề nghiệp khác nhau của họ cho sự tiến bộ của
toàn thể nhân loại, và xin thánh nhân giúp cho hết mọi Kitô hữu nhận biết ý
muốn của Thiên Chúa một cách tin tưởng và mến yêu, nhờ đó cộng tác vào việc
làm trọn công cuộc cứu độ.
Khi Đức Thánh Cha
vừa nói hết câu đầu tiên của bài huấn từ truyền tin trên đây, câu “Anh
Chị Em thân mến. Hôm nay, ngày 19/3, là lễ trọng kính
Thánh Giuse”, liên được đoàn hành hương cả 50 ngàn người vỗ tay vang rền
khu Quảng Trường Thánh Phêrô. Có một số người cầm biểu ngữ với những chữ như
“Auguri, Joseph!” (Chúc Mừng Giuse). Đức Thánh Cha đã mỉm cười và nói cám ơn
mấy lần.
Đaminh Maria
Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
19/3/2006
Phụng Vụ Lời Chúa trong tuần nếu không trùng với Lễ Thánh Giuse
Bài Ðọc I: Ðn 13, 1-9. 15-17.
19-30. 33-62 (Bài
dài)
"Ðây tôi phải chết, dù tôi không làm điều họ vu khống cho tôi".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, có một người đàn ông ở Babylon tên là Gioakim cưới bà
vợ tên là Susanna, con của Helcia, bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa,
vì cha mẹ bà là những người công chính, đã dạy con cho biết giữ luật Môsê.
Lúc đó Gioakim rất giàu có, ông có một khu vườn gần nhà ông, các người
Do-thái năng lui tới nhà ông, vì ông là người đáng kính hơn mọi người khác.
Năm đó, người ta đã đặt lên hai vị thẩm phán trong dân. Chúa đã phán về
những kẻ ấy rằng: "Sự gian ác phát sinh từ Babylon bởi những vị thẩm phán kỳ
lão, là những người xem ra như cai quản dân chúng". Các ông năng lui tới nhà
ông Gioakim, nên tất cả những ai kiện tụng, thì tìm gặp các ông ở đó. Ðến
trưa, khi dân chúng trở về nhà, bà Susanna vào đi bách bộ trong vườn của
chồng. Hai vị kỳ lão thấy bà mỗi ngày đi bách bộ trong vườn, thì phải lửa
dục mê đắm; hai ông mất lương tâm, không còn muốn đưa mắt nhìn lên trời và
không còn muốn nhớ đến sự xét xử công minh.
Hai ông chờ ngày thuận tiện, lúc bà Susanna vào vườn như hôm trước và hôm
trước nữa, bà chỉ dẫn theo hai cô thiếu nữ, bà muốn tắm trong vườn, vì trời
nóng bức. Lúc bấy giờ ở đó không có ai, ngoài hai vị kỳ lão đang ẩn núp và
ngắm nhìn bà. Bà nói với hai cô thiếu nữ rằng: "Hãy mang dầu và thuốc thơm
cho ta, rồi đóng cửa vườn lại để ta tắm".
Khi hai cô thiếu nữ ra khỏi vườn, hai vị kỳ lão đứng lên, tiến lại gần bà
Susanna và nói: "Kìa cửa vườn đã đóng hết; không ai trông thấy ta đâu, chúng
tôi say mê bà, bà hãy chấp nhận lời yêu cầu của chúng tôi và hiến thân cho
chúng tôi. Nếu bà không chấp nhận, chúng tôi sẽ làm chứng nói bà phạm tội
với một thanh niên, và vì đó, bà đã bảo các cô thiếu nữ ra khỏi vườn".
Bà Susanna thở dài và nói: "Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như
thế, tôi phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát
khỏi tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm
tội trước mặt Chúa thì hơn!" Ðoạn bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng kêu
lên tố cáo bà. Và một trong hai ông chạy ra mở cửa vườn. Khi người nhà nghe
tiếng kêu la trong vườn, liền đổ xô ra cửa để xem coi việc gì đã xảy ra. Khi
nghe hai vị kỳ lão kể lại, thì các đầy tớ rất lấy làm hổ thẹn, vì thiên hạ
không khi nào nghe nói như thế về bà Susanna.
Ngày hôm sau, khi dân chúng tụ họp tại nhà ông Gioakim, chồng bà Susanna,
hai vị kỳ lão cũng đến, lòng đầy những ý nghĩ bất chính để tố cáo bà Susanna
cho người ta giết bà. Hai ông nói với dân chúng: "Các người hãy đi tìm bà
Susanna, con ông Helcia, vợ của ông Gioakim". Người ta liền sai đi bắt bà,
bà đến với cả cha mẹ, con cái và tất cả họ hàng. Nhưng tất cả họ hàng và mọi
kẻ biết rõ bà đều khóc lóc.
Khi hai vị kỳ lão ra đứng giữa dân chúng, hai ông đặt tay lên đầu bà. Bà
Susanna thì khóc lóc, ngước mắt lên trời, vì tâm hồn bà tin tưởng nơi Chúa.
Hai vị kỳ lão nói: "Khi chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi
vào với hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ
một chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội với
bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác, chúng tôi liền chạy
đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi không bắt được chàng
thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đã mở cửa tẩu thoát. Còn
bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi chàng thanh niên đó là ai,
nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi biết. Ðó là điều chúng tôi xin làm
chứng". Dân chúng tin lời hai ông nói, vì hai ông là bậc kỳ lão trong dân và
là thẩm phán, nên họ lên án tử hình cho bà.
Bấy giờ bà Susanna kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết
mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con;
và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con".
Chúa nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ
tên là Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: "Còn tôi, tôi không vấy máu bà này".
Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: "Lời mi nói có ý nghĩa gì?" Ðứa
trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: "Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội
thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một
thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại
bà".
Bấy giờ dân chúng vội vã trở lại. Các kỳ lão nói với Ðaniel: "Này, em hãy
ngồi giữa chúng tôi và bảo cho chúng tôi, vì Thiên Chúa đã cho em danh dự
của bậc kỳ lão". Ðaniel liền nói với họ: "Các người hãy tách biệt hai ông
ra, và cho hai ông đứng xa nhau, rồi tôi xét xử hai vị kỳ lão cho".
Khi hai ông đứng xa nhau, Ðaniel gọi ông thứ nhất đến và nói: "Hỡi lão già
độc ác, các tội xưa kia ông đã phạm, giờ đây lại tái phạm, ông đã xét xử bất
công, đã lên án kẻ vô tội và tha cho người có tội, mặc dầu có lời Chúa phán:
"Ngươi chớ giết kẻ vô tội và người công chính". Vậy nếu ông thấy bà Susanna
phạm tội, thì hãy nói hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới
cây chò". Ðaniel liền nói: "Ðúng là ông nói dối. Ðây sứ thần Chúa được lệnh
phân thây ông". Ðaniel cho ông ta lui ra, và bảo dẫn ông kia đến. Ðaniel nói
với ông này rằng: "Hỡi dòng giống Canaan, chớ không phải dòng giống Giuđa,
sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã làm cho tâm hồn ông ra đồi bại. Ông
đã cư xử như thế đối với các thiếu nữ Israel, các cô vì sợ mà phạm tội với
ông. Nhưng một thiếu nữ Giuđa không chiều theo tội ác của ông. Vậy bây giờ,
ông hãy nói cho tôi biết ông đã bắt được hai người phạm tội dưới cây gì?"
Ông ta trả lời: "Dưới cây sồi". Ðaniel liền nói: "Cả ông nữa, ông hoàn toàn
nói dối, cho nên thiên thần Chúa, tay cầm gươm, chờ đợi phân thây tiêu diệt
ông".
Bấy giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những
kẻ trông cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Ðaniel đã minh
chứng rằng hai ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc
ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm
đó máu người vô tội khỏi đổ oan.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: Ðn
13, 41c-62 từ chỗ "họ
lên án tử hình cho bà"
Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Dù
bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con (c.
5ab).
Xướng: 1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì,
Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi;
tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.
2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy
Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng
con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con
thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và
trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2b
Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.
Phúc Âm: Ga 8, 12-20
"Ta là sự sáng thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta là sự sáng thế
gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự
sống".
Những người biệt phái nói: "Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông
không xác thực".
Chúa Giêsu trả lời: "Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng
xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông
không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu. Các ông đoán xét theo
xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu Ta có đoán xét, thì sự đoán
xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha
Ta là Ðấng đã sai Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai
người thì xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Ðấng đã sai Ta, là Chúa Cha,
cũng làm chứng cho Ta nữa".
Họ nói: "Cha của ông đâu?" Chúa Giêsu trả lời: "Các ông không biết Ta, cũng
chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì cũng sẽ biết Cha Ta".
Chúa Giêsu nói những lời trên gần nơi để Kho Tiền, khi Người giảng dạy trong
đền thờ. Thế mà không ai bắt Người, vì chưa đến giờ Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự
Sống chứng thực
Ngày Thứ Hai
trong Tuần V Mùa Chay vẫn tiếp tục với bài Phúc Âm theo Thánh ký
Gioan, bài Phúc Âm chất chứa lời Chúa Giêsu tự làm chứng về Người.
Nếu bài Phúc Âm tuần trước cả dân chúng lẫn thành phần lãnh đạo đều
chia rẽ nhau về nguồn gốc của Chúa Kitô thì tuần này Người tự mình
chính thức làm sáng tỏ nguồn gốc thần linh của Ngưòi. Nếu tuần trước
Người nói Người không tự làm chứng về mình thì tuần này Người không
thể không tự làm chứng về Người bởi không ai biết Người bằng chính
Người.
Thật vậy, tuần trước, các
bài Phúc Âm nói chung theo Thánh ký Gioan, cách riêng bài Phúc Âm
cho Thứ Năm của tuần trước ấy, Chúa Giêsu đã không tự chứng hay chưa
tự làm chứng về Người: "Nếu
chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực", mà
là minh chứng về mình bằng 3 chứng từ khác nhau liên quan đến bản
thân và nguồn gốc của Người:
1- Chứng từ thần linh liên quan đến Cha
là Đấng đã sai Người: "Có
một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì
xác thực";
2- Chứng
từ nhân loại liên
quan đến Tiền
Hô Gioan Tẩy Giả: "Các
ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật";
3- Chứng
từ Thánh Kinh liên quan đến mạc khải thần linh: "Các
ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm
thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà
các ngươi vẫn không chịu đến với Ta để được sống".
Tuần
này, ngay ở bài Phúc Âm Thứ Hai đầu tuần, Chúa
Giêsu bắt đầu chính thức và công khai tự làm chứng về Người và cho
Người, vì
tự Người và chính Người là "chân lý", là "sự thật"
(Gioan 14:6), một chân lý tỏ mình ra như ánh sáng không thể nào
không soi chiếu, nên
ngay ở đầu bài Phúc Âm hôm nay Người đã ngang nhiên và trịnh
trọng tuyên bố: "với
những người biệt phái rằng: 'Tôi là
sự sáng thế gian. Ai theo Tôi sẽ
không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống".
Tất
nhiên, khi Người xưng mình ra như thế, đối với trần gian thì có vẻ
như Người khoe khoang, ngạo mạn, nên một giòng điện dương khi
chạm phải cùng một giòng điện dương chắc
chắn không thể nào không tóe
lửa, nghĩa
là vì cho Người tỏ ra khoe khoang ngạo mạn như thế mà thành phần bản
chất vốn khoe khoang ngạo mạn thính giả của Người bấy giờ là "những
người biệt phái" đã không
thể nào chấp nhận được lời tuyên bố của Người: "Ông
tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông không xác thực".
Tuy nhiên,
Chúa Giêsu đã biện minh cho việc Người tự làm chứng về Người và cho
Người là những gì hoàn toàn chân thực và chính xác, qua chính câu
Người trả lời cho thành phần không tin Người và không chấp nhận lời
tuyên bố của Người: "Cho
dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta
biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết
Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu".
Thật
vậy, nếu chính Chúa Kitô không biết mình là ai và từ đâu đến, như
con người thuần túy chúng ta, thành phần thuần nhân cho tới chết
cũng chưa hoàn toàn biết mình, bởi thế vẫn liên tục sa ngã phạm tội
là những gì sai lạc, không đúng sự thật về bản thân họ cũng như
không đúng sự thật Thiên Chúa muốn nơi họ và cho họ, và
chính
vì thế họ chỉ được giải phóng cho đến khi họ nhận biết sự thật mà
thôi (xem Gioan 8:32).
Muốn biết mình thực sự là ai thì con
người cần phải biết mình "từ đâu tới" và sẽ "đi đâu",
chứ
không phải chỉ biết mình "từ đâu tới" song chẳng biết mình sẽ
"đi đâu" là đủ biết mình một cách chân thực và chính
xác. Chẳng
hạn, theo đức tin của mình, Kitô hữu chúng ta tin rằng, về
nguyên ủy, hay nguồn gốc, "từ đâu tới" chúng ta được dựng nên
từ hư vô, bởi được Thiên Chúa yêu thương,
nhưng trong cuộc sống, về
cùng đích "đi đâu" là nơi chúng ta sẽ tới và cần phạt đạt tới, chúng
ta lại sống như thể không có đời sau, không có Thiên Chúa, chỉ
luôn tìm kiếm và theo đuổi những gì thuộc về hạ giới hợp với xác
thịt của chúng ta hơn là Nước Trời và thay vì vĩnh phúc trường sinh
bất diệt.
Chúa
Giêsu thật sự biết được Người "từ đâu tới" và sẽ "đi đâu":
Người từ Thiên Chúa mà tới, Đấng đã sai Người tới: "Thày từ Cha
mà đến và đã đến trong thế gian" (Gioan
16:28),
và vì thế nơi Người "đi đâu" không còn chỗ nào khác ngoài
chính nơi Cha của Người muốn Người tới, nghĩa là Người được
sai đến để làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người, chứ không phải
làm theo ý của Người, đúng
như Người đã tuyên bố với người Do Thái: "Tôi từ trời xuống không
phải để làm theo ý của mình mà là ý của Đấng đã sai tôi" (Gioan
6:38).
Mà ý của Cha là nơi Người phải tới,
mà Người phải làm theo và chu toàn đây là gì, chính Người cũng biết
rõ ràng và chắc chắn Người mới có thể làm theo đúng và đáp ứng thật:
"Ý muốn của Đấng đã sai Tôi đó là Tôi không được làm mất một sự
gì Ngài đã ban cho Tôi, trái lại, Tôi phải làm cho nó
sống
lại trong
ngày sau hết"
(Gioan 6:39).
"Ngày
sau hết", trong câu Chúa Giêsu
nói đến ở đây, chúng ta thường hiểu về ngày tận thế, nhưng ở đây có
thể hiểu là chính thời điểm của Người, một thời điểm "viên trọn"
(Galata 4:4), thời điểm
"sau hết" Thiên Chúa đã tỏ mình ra nơi chính Người
là Con
của Ngài theo giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái là lịch sử mà mạc
khải thần linh đã được Thiên
Chúa từ
từ tỏ hiện cho đến tột đỉnh nơi Chúa Giêsu Kitô vào
thời "sau hết" như Thánh Phaolô viết ở ngày đầu Thư Do Thái
của thánh nhân (xem
Do Thái 1:1-3).
"Sống
lại", cũng trong lời Chúa Giêsu
nói ở đây,
là
"sống lại" vào
"thời điểm viên trọn" (Galata 4:4) tức là vào "ngày
sau hết",
một
"sống lại" trước hết và trên hết về phần hồn của con người đã
bị hư đi theo nguyên tội và từ nguyên tội, một "sống lại" bởi
cuộc Vượt Qua của Người, khi Người tỏ hết mình ra để bằng cuộc phục
sinh của mình, Người chẳng những chiến thắng tội lỗi và sự chết mà
còn thông ban sự sống và Thánh Linh cho chung nhân loại qua Giáo Hội
của Người mà đầu tiên ở
nơi các tông đồ của Người (xem Gioan 20:21-23).
Về
nguồn gốc của Chúa Kitô, tức về xuất xứ của Người "từ đâu đến", đã
trở thành sự kiện then chốt và đã từng làm cho dân Do Thái nói chung
và thành phần lãnh đạo của họ nói riêng chia rẽ hết sức trầm trọng,
như trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần vừa
rồi cho thấy, thì
về nơi "đi đâu" của
Người hay về việc
Người "đi đâu" lại càng là một mầu nhiệm vô cùng bí ẩn, họ
làm sao biết được và cũng không thể nào biết được.
Cho dù Người có nói ra chăng nữa, như Người đã từng tiết lộ cho các
môn đệ thân tín của Người ba lần, mà các vị vẫn "không
thể nào đến được",
hiểu được, đúng như Người đã quả quyết với các vị như đã quả quyết
với dân Do Thái (xem Gioan 13:33), chứ chưa nói gì đến chuyện các vị
có thể đến được nơi Người "đi đâu",
cho đến khi Người đi dọn chỗ cho các vị trở về đón các vị đi với
Người (xem Gioan 14:2-3).
Đó là lý do Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm
hôm nay đã cho thành phần thính giả của Người biết lý do tại sao họ
không thể chấp nhận chứng từ của Người về chính bản thân Người là Đấng đã
biết rõ về mình, "từ đâu đến"
và sẽ "đi đâu",
chỉ
vì:
"Các
ông đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu
Ta có đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không
phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Ðấng đã sai Ta. Vả lại
trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người thì xác thực. Ta
tự làm chứng về Ta, và Ðấng đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm chứng
cho Ta nữa".
Trong câu
này, Chúa Giêsu chẳng những cho thính giả của Người bấy giờ
thấy được lý do tại sao họ không thể chấp nhận chứng từ của Người là
vì họ "xét đoán theo xác thịt" chứ không theo chân lý, mà còn
cho họ thấy rằng chứng từ của Người là đúng, vì theo nguyên tắc
thì chứng của hai người là chứng thật, và vì thế chứng từ của Người
là
xác thực bởi cả có 2 người làm chứng là chính bản thân Người
lẫn Cha của Người là Đấng đã sai Người làm chứng cùng một điều về
Người.
Và
chính vì Chúa Giêsu nại đến Cha của Người là một trong hai người làm
chứng về Người nên Người đã được thành phần thính giả của Người
thách thức đặt vấn đề: "Cha
của ông đâu?", Đấng
mà Người đến
"để tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) qua bản thân Người, đến độ "ai
thấy Thày là thấy Cha" (Gioan 14:9), nên Người đã cho thành phần
thính giả chất vấn Người về Cha của Người rằng: "Các
ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì
cũng sẽ biết Cha Ta".
Bài Đọc
1 hôm nay được trích từ Sách Tiên Tri Đaniên về câu chuyện của bà
Suzanna công chính nhưng bị mang đi ném đá chết bởi bà bị kết án
theo luật căn cứ vào chứng từ của 2 người chứng, một chứng từ gian
dối nhưng hoàn
toàn lấn át lời tự chứng của người phụ nữ nạn nhân đáng thương này,
chẳng khác nào như Chúa Giêsu tự làm chứng cho mình mà chẳng ai tin
vào Người vậy.
Trước hết là lời
chứng của
hai nhân chứng, tức là của hai lão già đang giữ vai trò làm thẩm
phán trong dân thường sử dụng ngôi nhà rộng rãi sang trọng của
vợ chồng bà để xử các vụ kiện cáo của dân chúng, đã âm mưu chiếm
hưởng thân xác kiều mỹ hấp dẫn của bà khi bà đang tắm kín đáo một
mình trong vườn nhà
của bà
vào
một buổi
trưa nóng
bức:
"Khi
chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi vào với hai đứa
tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ một
chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội
với bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác, chúng tôi
liền chạy đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi không
bắt được chàng thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đã
mở cửa tẩu thoát. Còn bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi
chàng thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi
biết. Ðó là điều chúng tôi xin làm chứng".
Sau nữa
là lời chứng của chính đương sự bị tố cáo là bà Suzanna, như Bài Đọc
1 cho biết, "bà rất
xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa",
và
khi bị hai tên "thẩm phán kỳ lão" ở Babylon "phải
lửa dục mê đắm... mất lương tâm"
rình
mò bà và bất
ngờ tấn công tình dục bà,
nhưng bà đã
cương quyết chống trả bất chấp số mệnh ra sao thì
ra:
"Bà
Susanna thở dài và nói: 'Tôi
phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như thế, tôi phải chết, và
nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát khỏi tay các
ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm tội
trước mặt Chúa thì hơn!' Ðoạn bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng
kêu lên tố cáo bà".
Thế
nhưng, chỉ cần căn cứ vào chứng của hai người, mà hai chứng nhân
này lại là hai vị thẩm phán đáng kính có tuổi và có thế trong dân
thì người vợ thủy chung với chồng và kính sợ Thiên Chúa chỉ có
chết, đến độ dân chúng mù quáng cả tin cả nể chẳng cần nghe bà thanh
minh gì cả đã "lên
án tử hình cho bà".
Khi bị lên án tử rồi, người đàn bà đáng
kính đáng phục này chỉ còn biết kêu đến trời và phó thác mọi sự
trong tay Ngài là Đấng bà kính sợ và tin tưởng, Đấng bà đã không sợ
chết mà xúc phạm đến Ngài, nhất định không chịu chiều theo ý muốn
nhục dục của hai lão già gian ác tồi bại, Đấng duy nhất có thể
thấy được tất cả sự thật: "Lạy
Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra,
Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con
không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con".
Nếu
bên đối phương tấn công bà có hai nhân chứng, và như Chúa Giêsu trong
bài Phúc Âm hôm
nay cũng có 2 nhân chứng về Người là chính bản thân Người và Cha của
Người, thì người đàn bà nạn nhân vô tội bị oan ức này cũng có đủ 2
nhân chứng, đó là chính bản thân bà, vì bà biết bà hơn tất cả mọi
người khác biết về bà, một sự thật về bà đúng như Thiên
Chúa là
nhân chứng thứ hai biết
về
bà. Bởi thế, Thiên Chúa cũng đã nhúng tay vào làm chứng về bà, như
Bài Đọc 1 cho biết tiếp như sau:
"Chúa
nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa
trẻ tên là Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: 'Còn tôi, tôi không vấy máu
bà này'. Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: 'Lời mi nói có
ý nghĩa gì?' Ðứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: 'Hỡi con cái
Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự
thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét
xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà'".
Phải,
Thiên Chúa đã sử
dụng một trang thiếu niên trẻ trung đứng ra xét sử hai lão già thẩm
phán trong dân, để
chẳng những chứng tỏ cho dân của Ngài thấy
rằng: 1- ai tin vào
Ngài sẽ được Ngài chở che bênh đỡ, và 2- "bóng tối không thể
nào át được ánh sáng"
(Gioan 1:5):
"Bấy
giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát
những kẻ trông cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà
Ðaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông
như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên
án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan".
Không
biết khi được Thiên Chúa minh oan cho, bà Suzanna đã cảm thấy ra
sao, nhưng chắc chắn tâm can của bà đã trải qua một cảm nghiệm thần
linh rất sâu xa lạ lùng: "Chúa
dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương", và từ đó tấm
lòng tri ân cảm tạ của bà đã trào dâng lên những tâm tình càng tin
tưởng cậy trông vào Thiên Chúa hơn: "dù
bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng
con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con", đúng như trong Bài Đáp
Ca hôm nay:
1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh
rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người
hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh
Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc
nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an
ủi lòng con.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương.
Ðầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời
sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu
dài.
Thứ Ba
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Ds 21, 4-9
"Kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống".
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, các người Do-thái rời bỏ núi Hor, theo con đường về
phía Biển Ðỏ, để vòng quanh xứ Eđom. Dân chúng đi đường xa mệt nhọc, nên nản
chí, kêu trách Chúa và Môsê rằng: "Tại sao các người dẫn chúng tôi ra khỏi
Ai-cập, cho chúng tôi chết trong hoang địa. Không bánh ăn, không nước uống,
chúng tôi đã ngán thức ăn nhàm chán này".
Bởi đó Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người, họ chạy đến cùng Môsê và
thưa rằng: "Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch
Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn
cắn". Môsê cầu nguyện cho dân. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đúc
một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn
đồng, thì được sống". Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ
nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 101, 2-3. 16-18. 19-21
Ðáp: Lạy
Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới Chúa (c. 2).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên
tới Chúa. Xin Chúa đừng ẩn giấu thánh nhan, trong ngày con phải phiền muộn.
Xin Chúa lắng tai nghe con, khi con cầu nguyện, Chúa mau nhậm lời. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu
sẽ quý trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài xuất hiện trong
vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng nghèo, và không chê
lời họ kêu van.- Ðáp.
3) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác tạo
sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao
Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải
thoát kẻ bị lên án tử. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab
Hôm nay các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa phán.
Phúc Âm: Ga 8, 21-30
"Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta ra đi, các ông sẽ
tìm kiếm Ta và sẽ chết trong tội của các ông. Nơi Ta đi các ông không thể
tới được".
Người Do-thái nói với nhau rằng: "Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói "Nơi
Ta đi các ông không thể tới được"?"
Chúa Giêsu nói tiếp: "Các ông thuộc về hạ giới; còn Ta, Ta bởi trời cao. Các
ông thuộc về thế gian này; còn Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đã
nói: Các ông sẽ chết trong tội các ông. Vì, nếu các ông không tin Ta, các
ông sẽ chết trong tội của các ông".
Vậy họ liền hỏi: "Ông là ai?" Chúa Giêsu trả lời: "Là Nguyên thuỷ đang nói
với các ông đây! Ta có nhiều điều phải nói và đoán xét về các ông, nhưng
Ðấng đã sai Ta là Ðấng chân thật, và điều Ta nói ra trong thế gian đây,
chính là điều Ta đã nghe biết ở Ngài".
Nhưng họ không hiểu là Người nói về Chúa Cha, vì thế Chúa Giêsu nói: "Khi
nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai. Ta không
tự mình làm điều gì. Ðiều Ta nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Ta. Ðấng đã
sai Ta đang ở với Ta; Ngài không để Ta một mình, bởi vì Ta luôn luôn làm
điều đẹp lòng Ngài". Khi Người nói những điều ấy thì có nhiều kẻ tin vào
Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự
Sống nhìn lên
Chủ đề
chung cho Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh là "Tôi tự ý bỏ sự sống
mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17) càng rõ nét trong phụng vụ lời
Chúa hôm nay, Thứ Ba trong
Tuần V Mùa Chay, bao gồm cả Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1.
Ở Bài
Phúc Âm, "Tôi tự ý bỏ sự sống của mình đi", ở chỗ, như Chúa
Giêsu đã báo trước cho "những
người biệt phái rằng": "Khi nào quí
vị đưa
Con Người lên cao", nghĩa
là khi nào quí vị hô
hoán đòi "đóng đanh nó vào
thập giá, đóng đanh nó vào thập giá" (Luca
23:21; Marco 15:13-15).
Nhưng "Tôi lấy nó lại", ở chỗ, chính
khi quí vị thách đố Tôi xuống khỏi thập tự
giá Tôi cũng không xuống (xem Matthew 27:39-43; Mark 15:29-32; Luke
23:35-36) thì lại là lúc quí vị bấy giờ mới biết Tôi thật sự là Đấng
Thiên Sai, như Tôi đã nói, Tôi xuống thế gian này là để làm theo ý
Cha là Đấng sai Tôi chứ không phải làm theo ý của Tôi (xem Gioan 6:38).
Ở Bài Đọc 1 cũng thế, chủ đề "Tôi
tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" được
báo trước ngay trong lời Thiên Chúa phán với Moisen rằng: "'Ngươi
hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà
nhìn lên rắn đồng, thì được sống'. Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó
lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa
lành".
Hình ảnh
"con rắn bằng đồng"
có thể chữa lành cho những ai bị "rắn
lửa cắn"
khi họ nhìn lên con rắn treo lên được đúc
bằng đồng ấy ám
chỉ Chúa Kitô tử giá, và thành phần bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn
bằng đồng được treo lên ấy ám chỉ thành phần tội nhân tin tưởng ("nhìn
lên") vào Đấng chịu đóng đanh, bao gồm cả dân ngoại:
"Người này quả là
một
con người vô tội" (Luca 23:47) lẫn dân
Do Thái: "Khi đám đông qui tụ lại trước cảnh tượng ấy nhìn thấy những
gì đã xẩy ra thì trở về đấm ngực" (Luca 23:48).
Thế
nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là, tại sao con rắn vốn tiêu biểu cho
những gì là độc dữ, đã từng bị chính Thiên Chúa nguyền rủa ngay từ
ban đầu sau khi nó là tác nhân gây ra nguyên
tội (xem Khởi Nguyên 3:14; Gioan 8:44), mà trong Bài Đọc 1 trích từ Sách
Dân Số hôm
nay, lại ám
chỉ Chúa Kitô tử giá? Phải chăng là vì Thiên Chúa muốn "lấy của độc
giải độc", ở chỗ, thương đau và chết chóc gây
ra bởi rắn thì chữa
lành và sồng còn cũng bởi rắn?
Thật ra, tự bản thân của mình, Chúa Kitô là
chính Con Thiên Chúa, là Đấng vô cùng thánh hảo, không có một chút hèn
hạ và xấu xa nhơ nhớp nào, thế nhưng, vì Người cũng chính là Đấng
Cứu Thế mà Người đã
cần phải "trở
nên" "Con chiên
Thiên Chúa, Đấng xóa tội
trần gian"
(Gioan 1:29), để
nhờ đó có thể cứu nhân loại nhiễm lây nguyên tội bởi rắn quỉ cắn trong
vườn địa đường khỏi tội lỗi và sự chết do chính rắn quỉ gây ra cho bản
tính của họ, bằng cách chính Người đã phải "trở thành tội lỗi" (2Corinto
5:21) và
"bị nguyền rủa" như một tử tội trên thập tự giá (Galata
3:13), nghĩa
là Người đã trở nên như một con rắn bằng đồng thôi, chứ không phải rắn
thật, một hình tượng tiêu biểu cho tội lỗi và chết chóc.
Đó là một mầu nhiệm vô cùng thâm sâu con
người không thể nào thấu hiểu. Vì theo lập luận của loài người thì Thiên
Chúa là Đấng vô cùng thánh hảo và toàn năng không thể nào lại trở thành
một con người hay không thể nào làm người vô cùng thấp hèn, bất toàn và
bất lực được, chứ chưa nói đến lại còn "trở thành tội lỗi" và "bị
nguyền rủa" vô cùng khốn nạn như thế.
Bởi vậy mà
trong bài Phúc Âm hôm nay chính
Chúa Giêsu đã vừa khẳng định
vừa tiên
báo cho "những
người biệt phái rằng:
'Tôi ra
đi, quí
vị sẽ
tìm kiếm Tôi và
quí
vị sẽ
chết trong tội của quí
vị.
Nơi Tôi đi
quí
vị không
thể nào tới
được'", tức
loài người như họ không
thể nào hiểu được, chứ
chưa nói gì đến việc chấp
nhận được.
Ngay câu Người nói ấy mà họ chưa hiểu nổi ý
nghĩa sâu xa huyền nhiệm của những gì Người muốn nói huống
chi khi họ tận mắt chứng kiến thấy sự thật xẩy ra, do đó: "Người
Do-thái nói với nhau rằng: 'Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói: Nơi Ta
đi các ông không thể tới được?"
Mà
thật, lý do con người bất
khả thấu hiểu mầu
nhiệm Chúa Kitô này là
vì tầm mức chênh lệnh giữa tạo hóa với tạo vật, và tạo vật không thể nào
bằng tạo hóa cùng hiểu được
như tạo hóa, khoảng cách biệt hơn trời với đất. Thế nên, Chúa Giêsu đã
chẳng những cho họ biết lý do họ không hiểu mà còn cho họ biết nguyên do
phạm tội chính khi họ "tìm
kiếm"
Người nữa, đó là:
"Quí
vị thuộc
về hạ giới; còn Ta, Ta bởi trời cao. Quí
vị thuộc
về thế gian này; còn Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đã nói: Quí
vị sẽ
chết trong tội của
quí
vị.
Vì, nếu quí
vị không
tin Ta, quí
vị sẽ
chết trong tội của quí
vị".
Thật
sự là thế, chính vì "quí
vị không
tin Ta" mà "quí
vị sẽ
chết trong tội của quí
vị", đúng
như Người đã quả quyết và cảnh báo: "quí
vị sẽ
tìm kiếm Tôi và
quí
vị sẽ
chết trong tội của quí
vị", ở chỗ, chính khi họ "tìm kiếm"
Người bằng cách cuối cùng "nhân danh Thiên Chúa hằng sống", qua
vị thượng tế Caipha của họ hỏi Người một cách chính thức và hết
sức trịnh trọng có phải là "Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa hay chăng?" (xem
Mathêu
26:63) thì họ, sau khi nghe Người cho họ biết tất cả sự thật về Người, lại
"chết
trong tội" của họ: "Hắn lộng
ngôn... Hắn đáng chết... Họ bắt đầu nhổ vào mặt Người" (Mathêu
26:66-67).
Và
sở dĩ họ không tin Người hay tin lời Người nói là
vì họ chưa nắm bắt được
tất cả sự thật về Người, như bài Phúc Âm hôm nay cho biết, qua câu họ
hỏi Người: "Ông
là ai?"
Bấy
giờ Người chưa tỏ hết mình ra như khi Người phải đối diện với toàn thể
Hội Đồng Đầu Mục Do Thái và được thẩm quyền cao nhất của họ hạch hỏi,
như trên đây, mà chỉ mới tỏ
mình ra một cách xa xa nhưng rất chính xác về Người rằng: "Là
Nguyên thủy đang
nói với các ông đây!"
Thế
nhưng, Người càng nói, càng tỏ mình ra, họ càng "không hiểu". Bởi
vậy, chỉ còn một cách duy nhất là bằng chính cái chết của Người mà
thôi: "Khi
nào quí
vị đưa
Con Người lên cao, quí
vị sẽ
nhận biết Ta là ai". Bởi
vì, chỉ có cách ấy mới có thể chứng thực một cách sống động rằng
Người quả thực là Đấng Thiên Sai, ở chỗ: "Tôi không
tự mình làm điều gì. Ðiều Tôi nói,
chính là điều Chúa Cha đã dạy Tôi.
Ðấng đã sai Tôi đang
ở với Tôi;
Ngài không để Tôi một
mình, bởi vì Tôi luôn
luôn làm điều đẹp lòng Ngài".
Đúng thế, khi
Người
nói những gì liên quan đến Chúa Cha: "Tôi có
nhiều điều phải nói và đoán xét về quí
vị,
nhưng Ðấng đã sai Tôi là
Ðấng chân thật, và điều Tôi nói
ra trong thế gian đây, chính là điều Tôi đã
nghe biết ở Ngài",
thì
"họ
không hiểu là Người nói về Chúa Cha",
nhưng
khi Người nói về chính bản thân Người liên hệ với Chúa Cha, ở chỗ làm
theo ý Cha, "thì
có nhiều kẻ tin vào Người".
Bài Đáp
Ca hôm nay chất chứa lời nguyện cầu của một tâm hồn phiền muộn, tiêu
biểu cho những ai bị rắn lửa cắn trong Bài Đọc 1 hay thành phần những
người biệt phái dầu sao cũng có thiện chí tìm hiểu về Chúa Kitô trong
Bài Phúc Âm hôm nay, một tâm hồn tìm
kiếm Chúa là
Vị Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người, tỏ mình ta cho con người và
muốn cứu độ
con người nói
chung cùng những ai tin tưởng cậy trông nơi Ngài nói riêng:
1) Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới
Chúa. Xin Chúa đừng ẩn giấu thánh nhan, trong ngày con phải phiền muộn.
Xin Chúa lắng tai nghe con, khi con cầu nguyện, Chúa mau nhậm lời.
2) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa
cầu sẽ quý trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài xuất
hiện trong vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng
nghèo, và không chê lời họ kêu van.
3) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác
tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ
trời cao Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù
nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử.
Thứ Tư
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Ðn 3, 14-20. 91-92. 95
"Người đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ Người".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, vua Nabucôđônôsor nói rằng: "Hỡi Sidrach, Misach và
Abđênagô, có phải các ngươi không chịu thờ các thần của ta và lạy tượng vàng
ta đã dựng không? Vậy nếu các ngươi đã sẵn sàng, thì lúc nghe tiếng kèn,
tiếng huyền cầm, tiếng còi, quyển sáo và các thứ nhạc khí, các ngươi phải
sấp mình thờ lạy tượng ta đúc. Nhưng nếu các ngươi không chịu sấp mình thờ
lạy, lập tức các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa cháy bừng. Và coi Chúa nào sẽ
cứu thoát các ngươi khỏi tay ta". Sidrach, Misach và Abđênagô trả lời với
vua Nabucôđônôsor rằng: "Tâu lạy vua, chúng tôi không cần trả lời cùng vua
về việc này, vì đây Thiên Chúa chúng tôi thờ có thể cứu thoát chúng tôi khỏi
lò lửa cháy bừng, và khỏi tay đức vua; nhược bằng Thiên Chúa chúng tôi không
muốn thì, tâu lạy vua, vua nên biết rằng chúng tôi không thờ các thần của
vua và không lạy tượng vàng của vua dựng lên".
Bấy giờ vua Nabucôđônôsor thịnh nộ, mặt biến sắc, nhìn thẳng vào Sidrach,
Misach và Abđênagô, ông ra lệnh đốt lò nóng hơn thường gấp bảy lần, và
truyền lệnh các tráng sĩ trong cơ binh trói chân Sidrach, Misach và
Abđênagô, và ném vào lò lửa cháy bừng.
Bấy giờ vua Nabucôđônôsor bỡ ngỡ, vội vã đứng lên và nói với các triều thần
rằng: "Chớ thì ta không ném ba người bị trói vào lò lửa sao?" Các ông trả
lời với vua rằng: "Tâu lạy vua, thật có". Vua nói: "Ðây ta thấy có bốn người
không bị trói đi lại giữa lò lửa mà không hề hấn gì; dáng điệu người thứ tư
giống như Con Thiên Chúa". Vua Nabucôđônôsor nói tiếp: "Chúc tụng Chúa của
Sidrach, Misach và Abđênagô, Ðấng đã sai thiên thần của Người đến giải thoát
các tôi tớ tin cậy Người, không chịu vâng phục mệnh lệnh của nhà vua và thà
hy sinh thân xác, chớ không phục luỵ thờ lạy Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa
của họ".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Ðn 3, 52. 53. 54. 55. 56
Ðáp: Chúa
đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).
Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng,
đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang
Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. - Ðáp.
2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn
vinh muôn đời. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa ngự lên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh
muôn đời. - Ðáp.
4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh,
đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. -
Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 11, 25a và 26
Chúa phán: "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết đời
đời".
Phúc Âm: Ga 8, 31-42
"Nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi thực sự được tự do".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người Do-thái đã tin nơi Ngài rằng: "Nếu
các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được
biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi". Họ thưa lại Người: "Chúng
tôi là con cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại
nói "Các ngươi sẽ được tự do"?". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Quả thật, quả
thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ
không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con
giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do thực sự. Ta biết các ngươi
là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm
nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các
ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi". Họ đáp lại:
"Cha chúng tôi chính là Abraham!" Chúa Giêsu nói: "Nếu thực các ngươi là con
cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các ngươi đang
tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên
Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các
ngươi!" Họ lại nói: "Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi
chỉ có một Cha là Thiên Chúa!" Chúa Giêsu nói: "Nếu Thiên Chúa là Cha các
ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự
mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự
Sống về nguồn
Nếu
Chúa Nhật Lễ Lá cũng là Chúa Nhật Thương Khó là ngày thứ 40 của Mùa Chay
kể từ Thứ Tư Lễ Tro thì hôm nay là ngày thứ 36 của Mùa Chay, Thứ
Tư trong Tuần V Mùa Chay.
"Tôi tự ý bỏ sự sống
mình đi để rồi lấy lại"
(Gioan 10:17), chủ đề cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, cho
thấy sắp sửa trở thành hiện thực ở biến cố Vượt Qua của Chúa Kitô trong
Tuần Thánh, nhất là Tam Nhật Vượt Qua.
Nếu biến cố tử nạn và phục sinh của Người là tột đỉnh của tất cả mạc
khải thần linh, cho chung con người nhất là cho riêng dân Do Thái, thì
những gì Người tỏ mình ra cho dân Do Thái, qua lời nói của Người, ở các
bài Phúc Âm ngày thường từ Thứ Tư tuần trước, Tuần IV Mùa Chay, cho đến
hết Tuần V Mùa Chay này, là dạo khúc tiến đến tột đỉnh mạc khải thần
linh ấy, một mạc khải Thiên Chúa tỏ hết mình ra cho loài người biết Ngài
là ai và như thế nào nơi Con của Ngài là nhân vật lịch sử Giêsu
Nazarét, Đấng bị chính dân của Người phủ nhận, loại trừ và lên án tử!
Thật vậy, bằng lời chứng của mình, Chúa Giêsu đã từ từ tỏ mình ra cho
dân Do Thái. Nếu căn cứ vào thứ tự các bài Phúc Âm được Giáo Hội
chọn đọc theo Thánh ký Gioan, thì Người tỏ mình ra từ xa tới gần, rất
tài tình, khéo léo và đầy ngoạn mục như sau:
Ở bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần IV Mùa Chay vừa
rồi, chính Người khẳng định và tuyên bố rằng: "Nếu
chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực",
mà ở
bài Phúc Âm Thứ Hai đầu Tuần V Mùa Chay này, Người lại khẳng định và tuyên
bố hoàn
toàn ngược hẳn lại: "Cho
dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ
Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu
tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu".
Để rồi, từ đó, từ chỗ "Ta
biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu" như
thế, một
sự thật vô cùng quan trọng chẳng những đối
với phần rỗi của
chung loài người và riêng dân Do Thái, mà còn đối với cả chính bản thân
của Người nữa. Bởi vì, nếu Người không biết mình là ai, ở chỗ, từ đâu
tới và sẽ đi đâu, thì Người quả là một con người thuần túy, không phải
là "Đức Kitô (Thiên Sai), Con
Thiên Chúa
hằng sống" (Mathêu 16:16), và vì thế
Người không phải là Đấng Cứu Thế, không có tư cách và khả năng cứu độ
trần gian.
Bởi thế, tự biết
mình là
một mầu nhiệm thần linh siêu việt, cho dù có tỏ mình ra, không một ai
trên trần gian này có thể nào hiểu được, kể cả thành phần môn đệ thân
tín của Người, huống chi là dân Do Thái, thành phần mà Người đã thừa
biết, như Người đã khẳng định với
họ về
tầm kiến thức thấp
hèn hạn hẹp của họ
trong bài Phúc Âm hôm qua, rằng "các
người thuộc
về
hạ giới... thuộc về thế gian", nên
không thể nào hiểu được Người là Đấng "bởi trời cao".
Thậm
chí, cho
dù họ có muốn biết, rất
muốn biết về Người, nhưng
khốn
thay, họ càng
muốn biết
thì họ
lại càng
vấp phạm, nhất
là vào chính lúc họ thấy rõ được tất cả sự thật về Người do chính Người
cuối cùng buộc phải công nhận theo câu hỏi dứt khoát về Người bởi lệnh
truyền tối thượng của vị thượng tế Caipha đại diện họ thay mặt Thiên
Chúa (xem Mathêu 26:63-67), như
Người cũng đã
khẳng định với
họ về
số
phận của họ
trong cùng bài
Phúc Âm hôm qua: '"Tôi ra
đi, quí
vị sẽ
tìm kiếm Tôi và
quí
vị sẽ
chết trong tội của quí
vị.
Nơi Tôi đi
quí
vị không
thể nào tới
được".
Trong bài
Phúc Âm Thứ Tư Tuần V Mùa Chay hôm
nay, Chúa
Giêsu tiếp tục dẫn họ tiến sâu
hơn nữa vào
mầu nhiệm về Người, liên quan đến nguồn gốc thần linh của Người, khi
Người khéo léo đưa họ về lại từ đầu, về chính nguồn gốc thần linh của
chính họ, về vị
tổ phụ đầu
tiên của họ là Abraham, người
cha đẻ ra dân tộc của họ về tự nhiên, từ đó, Người dẫn họ tới chính Đấng
là Cha của họ về siêu nhiên, Đấng đã tự xưng mình với Moisen là vị cứu
tinh dân tộc họ, Ngài là "Thiên
Chúa của
Abraham..." (Xuất Hành 3:6,15).
Trước hết, Chúa Giêsu đã khéo léo đưa dân Do
Thái, qua những người đại diện đang nghe Người bấy giờ, về lại từ đầu,
thoạt tiên về vị
tổ phụ Abraham là người
cha đẻ ra dân tộc của họ về tự nhiên:
"'Ta
biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì
lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy
nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha
các ngươi'. Họ đáp lại: 'Cha chúng tôi chính là Abraham!'"
Sau nữa,
từ người cha về tự nhiên này, Chúa Giêsu đã bí mật và kỳ diệu dẫn
họ tới chính Thiên Chúa là
Cha của họ về siêu nhiên:
"'Nếu
thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của
Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi
biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các
ngươi đang làm việc của cha các ngươi!' Họ lại nói: 'Chúng tôi không
phải là những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!'
Chúa Giêsu nói: 'Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến
Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính
Ngài đã sai Ta đến'".
Trong câu
chuyện đối đáp giữa Chúa Giêsu và thành phần thính giả đại diện cho dân
Do Thái bấy giờ liên quan đến nguồn gốc của họ, từ lãnh vực tự
nhiên dính dáng đến
tổ phụ Abraham, lên lãnh vực siêu nhiên đụng chạm tới chính Vị Thiên
Chúa chân
thật duy nhất của họ, và cả hai, tổ phụ Abraham và Thiên Chúa, đều được
dân Do Thái nhận là cha và gọi là cha: "Cha
chúng tôi chính là Abraham!"; "Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!".
Tuy nhiên,
lần nào cũng thế, mỗi lần họ khẳng định và công
nhận với
Người cha của họ là tổ phụ Abraham hay Thiên Chúa, Chúa Giêsu đều công
nhận họ nói đúng về lý thuyết nhưng hoàn toàn không đúng về thực tế, bởi
vì họ có một thứ "cha" nào đó không phải là tổ phụ Abraham hay Thiên
Chúa của họ: "các
ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi"... "các ngươi đang
tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự
Thiên Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của
cha các ngươi!".
Vậy "cha" của
dân Do Thái được Chúa Giêsu nói đến ở đây, không phải là tổ phụ Abraham
cũng không phải là Thiên Chúa thì là
ai vậy?
Phải
chăng là Moisen, vị trung gian môi giới giữa họ và Thiên Chúa là Đấng đã
ban cho họ lề luật qua Moisen, vị được Ngài chọn và sai đến với họ để
giải thoát họ khỏi tình trạng làm nô lệ cho người Ai Cập mà dẫn họ về
miền Đất
Hứa tự
do của riêng họ, được Thiên Chúa hứa ban cho họ qua tổ phụ Abraham của
họ, và vì thế vị cứu tinh trung gian môi giới Moisen này đối với họ có
thể được họ coi như một người cha đã
tái sinh họ từ
sự chết vào sự sống?
Rất
tiếc không phải như thế, nếu chúng ta tiếp tục đọc thêm một chút nữa,
chỉ sau bài Phúc Âm hôm nay 1 câu nữa thôi, tức ở câu 44 cùng đoạn 8 với
bài Phúc Âm hôm nay (chấm dứt ở câu 42), chúng ta sẽ thấy ngay chân
tướng của thứ "cha" được Chúa Giêsu thực sự muốn nói tới liên quan đến
dân Do Thái ở đoạn Phúc Âm hôm nay. Ai vậy? Dạ, xin thưa, đó
là "ma quỉ": "Người cha mà các người xuất phát là ma quỉ và các người
sẵn sàng làm theo những gì hắn muốn...".
Mà "các
ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi", Các ngươi đang làm
việc của cha các ngươi!" và "các
người sẵn sàng làm theo những gì hắn muốn..." đây
là gì, nếu không phải là phản kitô, không chấp nhận Chúa Kitô đến trong
xác thịt (xem 1Gioan 2:22; 2Gioan 7), như hình ảnh tiêu biểu được Thánh
ký Gioan thị kiến thấy trong Sách Khải Huyền (12:4) về môt con khủng
long (ám chỉ Luxiphe hay Satan) rình chực trước người nữ sinh con để
nuốt con trẻ do người nữ sinh ra (ám chỉ Chúa Kitô, vị Thiên Chúa nhập
thể).
Thật ra dân Do Thái không hế biết như vậy, nhưng chính Chúa Giêsu đã
vạch ra cho họ thấy như thế, căn cứ vào việc làm và hành động khách quan
của họ. Tự mình họ thuộc về hạ giới và thế gian đã không thể nào hiểu
được mầu nhiệm Chúa Kitô, cho dù có được chính Người tỏ ra cho, như bài
Phúc Âm hôm qua đặc biệt cho thấy, họ lại còn bị ma quỉ giật giây, chi
phối bởi mầm mống nguyên tội ở nơi họ, mầm mống chống đối như ma quỉ, mà
họ đã tác hành những gì "đã
thấy nơi cha các ngươi", "của cha các ngươi!" và "theo
những gì hắn muốn...".
Wow, cả
là một đụng chạm kinh hoàng, chưa bao giờ xẩy ra... Bởi thế, chúng
ta sẽ tiếp tục thấy được phản ứng của dân Do Thái ra sao, càng ngày càng
dữ dội, càng điên tiết lên, cho đến khi họ bất chấp thủ đoạn miễn là làm
sao có thể hoàn toàn triệt hạ được đối thủ ghê gớm vô cùng đáng ghét này
của họ, và vì vậy, trong khi
họ được Chúa Giêsu tiếp
tục dẫn họ vào sâu hơn nữa nguồn gốc thần linh của Người, cho tới tận
thẳm cung của mầu nhiệm thần linh của Người và về Người, so với tổ
phụ Abraham (bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần V Mùa Chay ngày mai), cũng như ở
nơi mối liên hệ với chính Thiên
Chúa (bài
Phúc Âm ngày kia, Thứ Sáu Tuần V Mùa Chay).
Bài Đọc 1 hôm nay, 3 nhân vật tiêu biểu cho
niềm tin của Do Thái giáo là "Sidrach,
Misach và Abđênagô" đã
chứng tỏ niềm
tin bất khuất của mình vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của dân tộc
họ, bất chấp cái chết về thể xác, nhờ đó họ đã
làm cho cả vị vua dân
ngoại vô thần và thờ tà thần cùng coi mình là thần này ra
lệnh giết họ phải nhận biết Thiên Chúa của họ:
"Bấy
giờ vua Nabucôđônôsor bỡ ngỡ, vội vã đứng lên và nói với các triều thần
rằng: 'Chớ thì ta không ném ba người bị trói vào lò lửa sao?' Các ông
trả lời với vua rằng: 'Tâu lạy vua, đúng
vậy thật'.
Vua nói: 'Ðây ta thấy có bốn người không bị trói đi lại giữa lò lửa mà
không hề hấn gì; dáng điệu người thứ tư giống như Con Thiên Chúa'. Vua
Nabucôđônôsor nói tiếp: 'Chúc tụng Chúa của Sidrach, Misach và Abđênagô,
Ðấng đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ tin cậy
Người, không chịu vâng phục mệnh lệnh của nhà vua và thà hy sinh thân
xác, chớ không phục luỵ thờ lạy Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa của họ'".
Đức tin bất khuất của 3 chứng nhân trẻ trung
này trước mặt quyền bính thế gian bấy giờ, như họ đã hiên ngang tỏ ra: "Thiên
Chúa chúng tôi thờ có thể cứu thoát chúng tôi khỏi lò lửa cháy bừng, và
khỏi tay đức vua; nhược bằng Thiên Chúa chúng tôi không muốn thì, tâu
lạy vua, vua nên biết rằng chúng tôi không thờ các thần của vua và không
lạy tượng vàng của vua dựng lên", thật sự
là một đức tin xứng đáng chứng tỏ họ quả là con cháu của tổ phụ Abraham,
cha của tất cả những
kẻ tin (xem Roma 4:16), một đức
tin Chúa
Giêsu muốn
thấy nhưng rất tiếc không thấy nơi thành phần thính giả của Người bấy
giờ trong
bài Phúc Âm hôm nay: "Nếu
thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của
Abraham!"
Bài Đáp
Ca hôm nay hoàn toàn phản ảnh nội dung của Bài Đọc 1 về niềm tin tưởng
vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, Đấng "đáng
ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời":
1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng
ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang
Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời.
2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và
tôn vinh muôn đời.
3) Chúc tụng Chúa ngự lên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn
vinh muôn đời.
4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh,
đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
Thứ Năm
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: St 17, 3-9
"Ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc".
Trích sách Sáng Thế.
Trong ngày ấy, Abram sấp mình xuống đất và Thiên Chúa phán cùng ông rằng:
"Này Ta đây, Ta giao ước với ngươi, ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc. Thiên
hạ sẽ không còn gọi ngươi là Abram nữa, nhưng sẽ gọi là Abraham, vì Ta đặt
ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta sẽ ban cho ngươi con cháu đông đúc. Ta sẽ
đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc, và nhiều vua chúa xuất thân từ ngươi. Ta
sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi cùng con cháu ngươi từ thế
hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi
ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho
ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất Canaan và Ta sẽ là Chúa của chúng".
Chúa lại phán cùng Abraham rằng: "Phần ngươi và dòng dõi ngươi, từ đời nọ
sang đời kia, hãy giữ lời giao ước của Ta".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 104, 4-5. 6-7. 8-9
Ðáp: Tới
muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).
Xướng: 1) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan
Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và
những điều Ngài phán quyết. - Ðáp.
2) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ
được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của
Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.
3) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới
muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề
với Isaac. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Am 5, 14
Các ngươi hãy tìm điều lành, chớ đừng tìm điều dữ, để các ngươi được sống và
Chúa sẽ ở cùng các ngươi.
Phúc Âm: Ga 8, 51-59
"Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo
các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết". Người
Do-thái lại nói: "Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã
chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: "Ai giữ lời Ta, thì không
bao giờ phải chết". Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao?
Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?"
Chúa Giêsu trả lời: "Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ
không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Ðấng các ngươi
xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta,
Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các
ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là Abraham đã
hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".
Người Do-thái liền nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy
Abraham rồi sao?" Chúa Giêsu trả lời: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các
ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi".
Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự
Sống nguyên ủy
Hôm nay, Thứ Năm Tuần V Mùa Chay, chỉ còn đúng 3 ngày nữa là hết Mùa
Chay, Chúa Nhật Lễ Lá, thời điểm bắt đầu Tuần Thánh cũng gọi là Tuần
Thương Khó.
Đúng như hôm qua đã cảm nhận "chúng
ta sẽ tiếp tục thấy được phản ứng của dân Do Thái ra sao, càng ngày càng
dữ dội, càng điên tiết lên, cho đến khi họ bất chấp thủ đoạn miễn là làm
sao có thể hoàn toàn triệt hạ được đối thủ ghê gớm vô cùng đáng ghét này
của họ, và vì vậy, trong khi
họ được Chúa Giêsu tiếp
tục dẫn họ vào sâu hơn nữa nguồn gốc thần linh của Người, cho tới tận
thẳm cung của mầu nhiệm thần linh của Người và về Người, so với tổ
phụ Abraham (bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần V Mùa Chay ngày mai)".
Trước hết, trong Bài Phúc Âm hôm nay, ở câu
cuối, chúng
ta đã
thấy phản ứng dữ dội đầu tiên của người Do Thái đối với Người, như Thánh
ký Gioan cho biết: "Bấy
giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ".
Phải
chăng trong Tuần V Mùa Chay xẩy
ra sự kiện "Chúa
Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ" này
mà kể từ Chúa Nhật V Mùa Chay đầu tuần, các nhà thờ Công giáo, cách
riêng ở Hoa Kỳ, đã che phủ các ảnh tượng và Thánh Giá lại, cho đến sau
cử hành nghi thức khổ nạn của Chúa Kitô Thứ
Sáu Tuần Thánh mới
bỏ khăn che Thánh Giá ra và cho tới Lễ Vọng
Phục Sinh mới mở các
tấm che các ảnh
tượng khác ra?
Sự kiện theo truyền thống của Giáo Hội che đi
các ảnh tượng và Thánh Giá vào thời điểm này còn có thể hiểu, hay tự
nó mang một dụng ý là mầu nhiệm về Chúa Kitô, một mầu nhiệm thần linh
liên quan đến cuộc khổ nạn tử giá của Người và đạt tới tột đỉnh của mình
nơi biến cố Vượt Qua của Người, một mầu nhiệm thần linh con người nói
chung và dân Do Thái nói riêng tự mình không
thể nào hiểu được,
dù có nghe thấy chính lời tự chứng của Chúa Kitô.
Tuy nhiên, mầu nhiệm thần linh vô cùng siêu
việt về Chúa Kitô ấy sẽ hoàn toàn được tỏ hiện ở chính vào lúc con
người, qua dân Do Thái bấy giờ, "treo Con Người lên cao" (Gioan
8:28) - đó là lý do tấm che Thánh Giá được mở ra sau nghi thức Thương
Khó Thứ Sáu Tuần Thánh, nhất là cho đến khi Người từ trong kẻ chết sống
lại là lúc Người hoàn toàn tỏ mình ra cho thấy tất cả sự thật về Người
là "Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16) - đó
là lý do các ảnh tượng được che đi sẽ hoàn toàn lộ ra vào đêm Vọng Phục
Sinh.
Trong bài
Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy được lý do tại sao dân Do Thái đã không
còn chịu được Chúa Giêsu nữa, họ đã tiến từ chỗ nói rằng "ông
bị quỷ ám" sang
hành động
bạo lực là "lượm
đá ném Ngài". Hành động "lượm
đá ném Ngài" này
cũng chưa nặng bằng hành động "họ
tìm cách bắt Người" ở
bài Phúc Âm ngày mai. Bởi vì, ở bài Phúc Âm hôm nay, Người mới
nói đụng đến tổ phụ Abraham đáng kính của họ, còn ở bài Phúc Âm ngày
mai, Người
thậm chí còn dám nói chạm tới cả chính Thiên Chúa tối cao đáng tôn thờ của
họ.
Thế
nhưng, Chúa Kitô đã nói gì trong bài Phúc Âm hôm nay đụng đến tổ
phụ đáng kính Abraham mà
thành phần thính giả đại diện dân Do Thái bấy giờ nghe thấy đã không thể
nào chịu nổi, đến độ đã
ném đá Người như thế. Sau đây
là nguyên văn câu Người nói được thánh ký Gioan ghi lại đã quả thực
không thể nào không gây
chấn động toàn
thể con người của những ai nghe người nói, cả bên trong (tức giận) lẫn
bên ngoài (ném đá):
"'Cha
các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông
đã thấy và đã vui mừng'. Người Do-thái liền nói: 'Ông chưa được năm mươi
tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?' Chúa Giêsu trả lời: 'Quả thật,
quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có
rồi'".
Lời
khẳng định và công khai tuyên bố này của Chúa Kitô về nguồn gốc thần
linh của Người, đúng như Người biết mình là Đấng "bởi trời", như
Người đã khẳng định trước đó với họ trong bài Phúc Âm
Thứ Ba tuần này,
cũng là Đấng biết mình "từ đâu đến" và sẽ "đi đâu", như
Người đã khẳng định trước đó với họ trong bài Phúc Âm
Thứ Hai tuần
này, nhưng đối với dân Do Thái, Người chỉ là một con người thuần túy như
họ đã tỏ ra ngạo mạn hỗn láo, không thể nào chấp nhận được.
"Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi" chẳng
những là câu Chúa Kitô đã tỏ nguồn gốc thần linh của Ngài
ra, đồng thời cũng là câu Người trả lời cho họ khi họ hạch Người ở đầu
Bài Phúc Âm hôm nay rằng: "Chẳng
lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên
tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?".
Như
thế, Người là ai và nguồn gốc thần linh của Người có một liên hệ bất khả
phân ly, Người là ai chính ở nơi nguồn ngốc thần linh của Người, và
nguồn gốc thần linh của Ngài đã chứng tỏ cho thấy Người là ai. Cũng
trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Người là ai có liên hệ
mật thiết với nguồn gốc thần linh của Người, một nguồn gốc thần linh cho
dù tổ phụ Abraham xưa kia cũng không bằng Người hay như Người. Tại sao?
Nếu không phải tại
vì:
"Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị
gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Ngài
là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các
ngươi không biết Ngài.
Còn Ta, Ta biết Ngài.
Nếu Ta nói Ta không biết Ngài,
thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Ngài,
và Ta giữ lời Ngài.
Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta.
Ông đã thấy và đã vui mừng".
Đúng vậy, nguồn
gốc thần linh của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, nhân vật bị dân Do
Thái bấy giờ cho Người là "bị
quỉ ám" rồi bị họ "ném đá", là ở
chỗ Người biết Thiên Chúa: "Ngài
là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các
ngươi không biết Ngài.
Còn Ta, Ta biết Ngài". Kiến
thức thần linh siêu việt này
không phải là người ai cũng có, thậm chí tổ phụ Abraham cũng chẳng
có, mà chỉ được mạc khải cho biết mà thôi. Thế nên, Chúa Kitô đã nói
về vị tổ phụ này rằng: "Cha
các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông
đã thấy và đã vui mừng".
Nghĩa
là, Chúa Kitô, tột đỉnh mạc khải thần linh được Thiên Chúa tỏ ra trong
suốt giòng lịch sử cứu dộ của dân Do Thái, bắt đầu từ tổ phụ Abraham,
chính là đối tượng chính yếu duy nhất của tất cả những gì tổ phụ Abraham
tin tưởng hay hướng về, qua hình ảnh của lòng mong đợi "được
thấy ngày của Ta",
và
chính nhờ đức tin mà quả thực "Ông
đã thấy và đã vui mừng" cho
dù
Chúa Kitô là giòng dõi của ông chưa
sinh ra.
"Ông
đã thấy và đã vui mừng"
ở đây, vì có liên quan đến nguồn gốc thần linh của Chúa Kitô, Đấng có
trước tổ phụ Abraham và vai trên của Abraham, nên có thể hiểu về vị
thượng tế Melchizedek là vị thượng tế đã có một nguồn gốc hoàn toàn siêu
phàm bí mật, đóng vai chúc lành cho Abraham và được Anbraham dâng chiến
lợi phẩm của mình cho (xem Do Thái 7:1-10, nhất là câu 3:) "Không
cha không mẹ hay tổ tiên gì hết, như Con Thiên Chúa, ông muôn đời là tư
tế", và Con Thiên Chúa, trong thân phận làm người, được Thiên Chúa
chứng nhận: "Con là linh mục đời đời theo giòng Melchizedek"
(Do Thái 7:21).
Ngoài ra, "Ông
đã thấy và đã vui mừng"
ở đây còn liên quan đến người con được sinh ra theo lời hứa cho ông. Thật
vậy, Chúa Kitô đã hiện diện nơi Isaac con ông, người con duy nhất theo
lời hứa Thiên Chúa đã ban cho ông khiến ông vui mừng, nhưng Ngài lại muốn ông
sát tế nó cho Ngài, để
nhờ đó ông vui mừng thấy được người con ông không tiếc cùng Thiên
Chúa ấy, như chính Thiên Chúa đã không tiếc Con Một của Ngài (xem Roma
8:32), trở
thành mầm mống cho một dân tộc bao gồm vô
số muôn
dân, đông
như sao trời nhiều cát biển, không
thể nào đếm được, là
thành phần miêu
duệ xuất
phát từ ông là cha của tất cả những ai tin tưởng, thành phần được
cứu chuộc bởi Chúa Kitô, đối
tượng đức tin của ông và của giòng dõi như sao trời cát biển này
của ông.
Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Khởi
Nguyên, cũng cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã có ý định muốn sử dụng nhân
vật Abram là tổ phụ của một giòng dõi
bao gồm tất cả mọi dân tộc trên thế giới, một
giòng dõi tin tưởng được Chúa Kitô cứu độ, Đấng xuất thân từ dân tộc Do
Thái, như Vị Thiên Sai của họ và là Đấng Cứu Thế cho toàn thể nhân loại.
Chính Thiên Chúa đã tự động thiết lập giao ước với
nhân vật Abram này bằng
những lời lẽ bao gồm và mở đầu cho mạc khải thần linh của Ngài trong
giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái cho tới khi mạc khải thần linh này
lên tới tột đỉnh nơi Chúa Kitô "vào thời điểm viên trọn" (Galata
4:4):
"Này Ta đây, Ta giao ước với ngươi, ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc.
Thiên hạ sẽ không còn gọi ngươi là Abram nữa, nhưng sẽ gọi là Abraham,
vì Ta đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta sẽ ban cho ngươi con cháu
đông đúc. Ta sẽ đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc, và nhiều vua chúa
xuất thân từ ngươi. Ta sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi
cùng con cháu ngươi từ thế hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên
Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi
ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất
Canaan và Ta sẽ là Chúa của chúng".
Bài Đáp
Ca hôm nay chất chứa lời kêu gọi dân Do Thái là "miêu
duệ Abraham" được
Thiên Chúa "kén chọn" "hãy
luôn tìm
kiếm thiên nhan Chúa" là Đấng "muôn
đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước... Ngài đã ký cùng Abraham", như Bài Đọc
1 hôm nay thuật lại, và được chính Chúa Giêsu kín đáo nhắc
lại trong Bài
Phúc Âm cùng ngày:
1) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan
Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép
lạ và những điều Ngài phán quyết.
2) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những
kẻ được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị
của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu.
3) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới
muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã
thề với Isaac.
Thứ Sáu
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Gr 20, 10-13
"Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Tôi đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: "Người này gieo khủng bố
khắp nơi. Chúng ta hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó". Tất cả bạn hữu
tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: "Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó
và sẽ trả thù nó". Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì
thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức. Chúng sẽ thất bại bẽ bàng,
chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được.
Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm
can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù chúng cho con, vì con đã
tỏ bày công việc con cho Chúa.
Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người
bất hạnh khỏi tay kẻ dữ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 17, 2-3a. 3bc-4. 5-6. 7
Ðáp: Trong
cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của tôi (x.c.
7).
Xướng: 1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Tảng Ðá,
chiến luỹ, cứu tinh. - Ðáp.
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn,
là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa,
và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. - Ðáp.
3) Sóng tử thần đã bao bọc thân con, và thác nước ôn dịch làm con kinh hãi.
Thừng chão địa ngục đã quấn lấy con, lưới tử thần đã chụp bắt con rồi. -
Ðáp.
4) Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của
tôi; từ nơi thánh đài, Ngài nghe rõ tiếng, và tiếng tôi kêu thấu đến tai
Ngài. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11
Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối
và được sống".
Phúc Âm: Ga 10, 31-42
"Họ tìm bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, người Do-thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng:
"Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà
các ngươi muốn ném đá Ta?"
Người Do-thái trả lời: "Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành,
nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là
Thiên Chúa".
Chúa Giêsu đáp lại: "Nào trong sách luật của các ngươi không có chép câu
này: "Ta đã nói: các ngươi là thần"? Vậy nếu sách luật gọi những kẻ được
nghe lời Chúa là thần, mà Kinh Thánh không thể huỷ diệt được, thì tại sao
các ngươi nói với Ðấng đã được Chúa Cha thánh hoá và sai đến trong trần gian
rằng "Ông nói lộng ngôn", vì Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa? Nếu Ta không
làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những
việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó,
để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha".
Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại qua
bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó.
Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: "Gioan đã không làm một phép lạ nào.
Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả". Và có nhiều kẻ tin
Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự
Sống thần
linh
Ngày thứ 38 của Mùa Chay hôm nay, Thứ Sáu Tuần V Mùa Chay, hành trình
Mùa Chay dẫn chúng ta, cùng với Giáo Hội, qua phụng vụ lời Chúa nói
chung và Bài Phúc Âm nói riêng, vào tới tận cùng của mầu nhiệm Chúa
Kitô, một mầu nhiệm đã khiến Người bị loài người, qua các nhân vật lịch
sử thời ấy, bao gồm cả dân Do Thái lẫn dân ngoại, sát hại, nhưng nhờ thế
mầu nhiệm về Người là Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa càng trở nên rạng
ngời sáng tỏ, đúng với chiều hướng thần linh của lịch sử cứu độ dân Do
Thái, một mầu nhiệm làm nên tất cả lịch sử loài người.
Đúng thế, tận cùng của mầu nhiệm Chúa Kitô là gì, hay nói khác hơn,
tột đỉnh của mầu nhiệm Chúa Kitô là chi, nếu không phải Người là Con
Thiên Chúa. Trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Kitô đã dẫn dân Do Thái, qua
thành phần thính giả đại diện họ đang nghe Người bấy giờ, vào đến cung
thánh mầu nhiệm về Người, thì qua bài Phúc Âm hôm nay, Người đã dẫn họ
vào tận nơi cực thánh là chính bản tính Thiên Chúa của Người.
Hôm qua, theo bài Phúc Âm của Thánh ký
Gioan, Chúa Kitô đã sử dụng ngôn từ của Người để tỏ mình ra, khi dẫn dân
Do Thái vào tới cung thánh của mầu nhiệm về Người, ở chỗ, Người đã tỏ
mình ra cho họ thấy Người là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa, Đấng Thiên
Sai có trước tổ phụ Abraham: "Khi
Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi", Đấng
mà chính vị tổ phụ là cha của tất cả những kẻ tin hướng về: "Cha
các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông
đã thấy và đã vui mừng".
Hôm
nay, bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan tiếp tục cho thấy Chúa Giêsu từ đó,
từ chỗ Người là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa, liên quan đến nhân tính
của Người, dù trên trái đất này và trong xã hội Do Thái bấy giờ, Người
chỉ là một con người lịch sử, Người vẫn là Đấng có
trước cả tổ phụ Abraham và là Đấng chính tổ phụ Abraham phải hướng
về ấy, Đấng
cuối cùng đã dẫn
dân
Do Thái, qua thành
phần thính giả của Người bấy
giờ, vào
tận nơi cực thánh của mầu nhiệm về Người là thần tính của Người.
Bởi vì, Đấng Thiên Sai như Người không phải
chỉ là Đấng được Thiên Chúa sai đến, như các vị tiên tri trong Cựu Ước,
mà là chính Đấng từ Thiên Chúa mà đến, Đấng tự mình biết Thiên Chúa: "Ta
biết Ngài", như
Người đã khẳng định 2
lần
liền trong Bài Phúc Âm hôm qua, chứ
kiến
thức thần linh của Người không
phải làm
nên bởi những gì được
Thiên Chúa tỏ mình ra bằng mạc khải thần linh của Ngài, như Ngài đã làm
"bằng
nhiều thể nhiều cách" với
các vị tổ
phụ Abraham, Isaac và Giacóp,
hay với Moisen hoặc với
các vị tiên tri xưa (xem
Do Thái
1:1).
Thần tính của nhân vật lịch sử Giêsu
Nazarét, trong
bài Phúc Âm hôm nay, đã được
chính Người tự chứng bằng ngôn từ của Người như sau: "Ta
đã nói Ta là Con Thiên Chúa". Và
chính vì chủ trương này của Người, vì lời tuyên bố mà đối với
người Do Thái có vẻ vô cùng bậy bạ đầy ngạo mạn ngông cuồng ấy, mà Người đã
bị họ ném đá,
như
Thánh ký Gioan cho chúng ta biết chi tiết này ở đầu bài Phúc Âm hôm nay:
"Khi ấy, người Do-thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi
rằng: 'Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì
việc nào mà các ngươi muốn ném đá Ta?' Người Do-thái trả lời: 'Chúng tôi
muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi
vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa'".
Tuy nhiên,
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nhẫn nại nhấn mạnh đến yếu tố then chốt nhất mà
Người đã từng sử dụng để chứng thực về Người quả là "Đấng
Thiên Sai", và
cũng chính là "Con
Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu
16:16), ở
chỗ,
như Người tiếp tục dẫn chứng Người
không bao giờ làm theo ý của Người mà là ý của Cha là Đấng đã sai Người:
"Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta.
Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta,
cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong
Ta, và Ta ở trong Cha".
Chứng
từ Người tự chứng về Người thực
sự vừa là Đấng Thiên Sai và vì thế cũng là Con Thiên Chúa ở chỗ chỉ làm
theo ý Cha là Đấng đã sai Người đã gây một tác dụng trái chiều, ở chỗ tự
chứng ấy của Người đã khiến cho một
số là
thành phần thính giả bấy giờ vẫn
không
tin và không
thể nào tin được,
còn một số khác, ở
nơi khác, lại
tin vào Người, như phần kết của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy:
"Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại
qua bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở
lại đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: 'Gioan đã không làm một phép
lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả'. Và có nhiều
kẻ tin Người".
Sở
dĩ còn "có
nhiều kẻ tin Người" là
vì lòng họ còn cởi mở, còn tha thiết với sự thật, còn muốn biết tất cả
sự thật hoàn toàn khách quan về một nhân vật mà trước khi nhân vật ấy
xuất hiện, họ đã từng được nghe Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là vị họ coi như
tiên tri nói tới là "Đấng đến sau tôi, nhưng hơn tôi vì Người có
trước tôi..."
(Gioan 1:30). Họ đã
chấp nhận chứng từ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả về Đấng
cao cả đến sau ngài mà
họ nhờ đó đã có
thể tin vào chính Đấng đến sau đó.
Mầu nhiệm thần linh về một Đấng Thiên Sai,
Con Thiên Chúa, như được chính Chúa Kitô tỏ ra cho dân Do Thái biết vào
"thời điểm viên mãn" (Galata 4:4), thời điểm "sau
hết"
(Do Thái 1:1) của
Người bấy giờ, một mầu nhiệm đã trở thành nguyên cớ cho cuộc khổ nạn và
tử giá của Người, từ chỗ "họ tìm
cách bắt Người" trong bài
Phúc Âm hôm nay, đến chỗ "họ
quyết định giết Người"
trong bài
Phúc Âm ngày mai, đã được chính Người, qua miệng Tiên Tri Giêrêmia,
trong Bài Đọc 1 hôm nay, thốt lên có vẻ thảm não như
sau:
"Tôi
đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: 'Người này gieo khủng bố
khắp nơi. Chúng ta hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó'. Tất cả bạn
hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: 'Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta
thắng nó và sẽ trả thù nó'. Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến
hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức. Chúng sẽ
thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên
được. Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính,
thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù chúng
cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho Chúa".
Tuy nhiên,
chính vì "Tôi tự bỏ sự
sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan
10:17), chủ đề cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, mà Người sẵn
sàng chấp nhận những gì xẩy ra cho Người, vì Người là Đấng
Thiên Sai, Đấng chỉ đến để
làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người, dù ý của Ngài có khiến Người phải
vô cùng khốn khổ đến đâu chăng nữa.
Nhưng cuối cùng Người vẫn có thể "lấy lại
sự sống" của Người, nghĩa là sự sống vô giá của Người không phải
là đồ bỏ hay có thể bị tận diệt, mà là cái giá quí báu duy nhất bất khả
thiếu để cứu chuộc nhân loại và để trở thành sự sống đời đời vô giá cho
loài người nói chung và những ai tin Người nói riêng.
Đó là lý do cuối Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng
Tiên Tri Giêrêmia, Người đã tỏ ra hân hoan phấn khởi mà vang lên những
lời lẽ đầy hứa hẹn như sau: "Hãy
hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người
bất hạnh khỏi tay kẻ dữ".
Tâm
tình của Chúa Kitô Thiên Sai trong Bài Đọc 1 hôm nay, phản ảnh Bài
Phúc Âm cùng ngày, còn được tiếp tục âm vang ở Bài Đáp Ca trong ngày như
sau:
1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Tảng Ðá,
chiến luỹ, cứu tinh.
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên
thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu
cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù.
3) Sóng tử thần đã bao bọc thân con, và thác nước ôn dịch làm con kinh
hãi. Thừng chão địa ngục đã quấn lấy con, lưới tử thần đã chụp bắt con
rồi.
4) Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa
của tôi; từ nơi thánh đài, Ngài nghe rõ tiếng, và tiếng tôi kêu thấu đến
tai Ngài.
Ngày 18: Thánh Cyrillô thành
Giêrusalem, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
Thánh Cyrillô được chọn làm Giám Mục thành Giêrusalem vào khoảng năm 350.
Cuộc đời ngài được dệt nên bởi nhân đức sáng chói, nhất là dòng bác ái và
trí khôn ngoan lạ thường.
Thời đó, toàn xứ Palestina bị hạn hán, mất mùa và đói kém. Rất nhiều người
nghèo khó không biết bấu víu vào đâu ngoài vị cha chung yêu quý của họ. Ngài
đã lấy hết của cải riêng tư và tài sản địa phận để cứu giúp những người con
khốn cùng.
Phép lạ Thánh Giá xuất hiện trên nền trời vào ngày lễ hiện xuống. Ơn nói
tiên tri và đặc biệt đời sống thánh thiện của ngài đã là những liều thuốc
thần diệu tỉnh thức người Công Giáo, đồng thời cũng là những khí giới sắc
bén chống lại bè rối Ariô. Bọn lạc giáo phẫn uất khi thấy hàng ngũ mình bị
tan rã nên đã tìm cách trục xuất ngài và ngài đã bị đi lưu đày nhiều lần.
Thánh nhân qua đời ngày 18/3/386.
Thứ Bảy
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Ed 37, 21-28
"Ta sẽ làm cho chúng trở nên dân tộc duy nhất".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: "Này Ta sẽ đem con cái Israel ra khỏi các dân
tộc mà chúng đang cư ngụ; từ khắp nơi, Ta sẽ quy tụ chúng lại và đưa chúng
về quê hương. Ta sẽ làm cho chúng trở nên dân tộc duy nhất sống trong đất
của chúng, ở trên núi Israel; chỉ có một vua cai trị chúng; chúng sẽ không
còn là hai dân tộc, cũng chẳng còn chia làm hai nước nữa.
Chúng sẽ không còn dơ nhớp vì thần tượng, vì các điều ghê tởm và mọi tội lỗi
của chúng. Ta sẽ cứu thoát chúng khỏi mọi nơi tội lỗi. Ta sẽ thanh tẩy
chúng; chúng sẽ là dân Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng. Ðavit tôi tớ Ta
sẽ là vua của chúng, chúng sẽ chỉ có một chủ chăn mà thôi. Chúng sẽ tuân giữ
và thực thi các giới răn của Ta. Chúng sẽ cư ngụ trong đất mà Ta đã ban cho
Giacóp tôi tớ Ta, và là đất tổ phụ chúng đã cư ngụ; chúng và con cái cùng
cháu chắt của chúng sẽ cư ngụ ở đó đến muôn đời. Và Ðavit, tôi tớ Ta, sẽ là
vua của chúng đến muôn đời. Ta sẽ ký kết với chúng một giao ước hoà bình: Ðó
sẽ là một giao ước vĩnh cửu đối với chúng. Ta sẽ gầy dựng chúng, sẽ cho
chúng sinh sản ra nhiều và sẽ thiết lập nơi thánh Ta giữa chúng cho đến muôn
đời. Nhà Tạm Ta sẽ ở giữa chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân
Ta. Các dân tộc sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðấng thánh hoá Israel, khi đã lập
nơi thánh Ta ở giữa chúng đến muôn đời".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Gr 31, 10. 11-12ab. 13
Ðáp: Chúa
sẽ gìn giữ chúng ta như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình (c. 10d).
Xướng: 1) Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các
đảo xa xăm; hãy nói rằng: "Ðấng đã phân tán Israel, sẽ quy tụ nó lại, và sẽ
gìn giữ nó, như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình". - Ðáp.
2) Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người cứu
thoát nó. Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh
phúc của Người. - Ðáp.
3) Bấy giờ người thiếu nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ
già cũng làm y như thế; Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng ra niềm hân hoan,
sẽ an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11
Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối
và được sống".
Phúc Âm: Ga 11, 45-56
"Ðể quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, trong những người đến thăm Maria và đã chứng kiến việc Ngài làm, có
nhiều kẻ đã tin vào Chúa Giê-su. Nhưng trong nhóm có kẻ đi gặp người biệt
phái và thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm. Do đó, các thượng tế và biệt
phái họp công nghị, và nói: "Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm
nhiều phép lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ
tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta". Một người
trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: "Quý vị không
hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn
là toàn dân bị tiêu diệt". Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh
nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết
thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái
Thiên Chúa đang tản mát về một mối.
Bởi vậy, từ ngày đó, họ quyết định giết Người. Vì thế Chúa Giêsu không còn
công khai đi lại giữa người Do-thái nữa. Người đi về miền gần hoang địa, đến
thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ. Khi đó đã gần đến Lễ
Vượt Qua của người Do-thái. Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước
lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán
với nhau: "Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?" Còn các thượng tế và
biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt
Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự
Sống muôn dân
Hôm
nay là ngày áp chót của Mùa Chay, cũng có thể nói là ngày cuối cùng
(trong tuần) của Mùa Chay, ngày Thứ Bảy Tuần V Mùa Chay, chủ đề "Tôi
tự bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17) càng hiện lộ
trong phụng vụ lời Chúa, cả ở Bài Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1.
Cũng như Thứ Bảy tuần trước, bài Phúc Âm hầu như vắng bóng Chúa Giêsu,
mà chỉ vang bóng của Người thôi, tức là về tình trạng dân chúng và thành
phần lãnh đạo của họ chia rẽ nhau về Người, sau khi Người đã tự chứng về
Người bằng ngôn từ hay bằng phép lạ.
Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy cái âm hưởng quá sức là mãnh liệt gây ra
bởi phép lạ cả thể nhất Người làm, một phép lạ không được thuật lại
trong bài Phúc Âm hôm nay, mà ở trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật Năm A
(hay các Năm B và C nếu muốn thay thế các bài Phúc Âm theo chu kỳ Chúa
Nhật) Tuần V Mùa Chay đầu tuần.
Đó là phép lạ Người hồi sinh cho người bạn
thân Lazarô chết đã 4 ngày của Người, để chứng tỏ một thực tại thần linh
về Người, một thực tại thần linh đúng như Người đã xác nhận và tuyên bố
với Matta là chị của người quá cố: "Thày
là sự sống lại và là sự sống" (Gioan
11:25), và phép lạ này cũng là một dấu chỉ thần linh báo trước về biến
cố Vượt Qua của Người, biến cố Người vượt qua từ cõi chết mà vào cõi
sống, chẳng những hoàn toàn chiến thắng tội lỗi và sự chết mà
còn ban cho chung con người và riêng Giáo Hội của Người "sự sống và
là sự sống viên mãn" (Gioan 10:10).
Trước một
phép lạ cả thế như thế, Thánh ký Gioan đã cho biết thành quả là: "những
người đến thăm Maria và đã chứng kiến việc Ngài làm, có nhiều kẻ đã tin
vào Chúa Giê-su". Nhưng
cũng chính vì phép lạ này, hay nói đúng hơn, chính
vì tác dụng thần linh của phép lạ này nơi lòng tin của nhiều người được
tận mắt chứng kiến thấy Đấng "là sự sống lại và là sự sống" tỏ
mình ra bấy
giờ, mà
thành phần giáo
quyền lãnh đạo
không thể nào không chính thức ra tay can
thiệp, như
Thánh ký Gioan tường thuật như sau:
"Nhưng trong nhóm có kẻ đi gặp người biệt phái và thuật lại các việc
Chúa Giêsu đã làm. Do đó, các thượng tế và biệt phái họp công nghị, và
nói: 'Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm nhiều phép lạ. Nếu
chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân
Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta'. Một người trong nhóm là
Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: 'Quý vị không hiểu gì cả!
Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn
dân bị tiêu diệt'".
Ở đây chúng ta thấy rõ ràng là thành
phần lãnh đạo Do Thái bấy giờ nói
chung có
thành kiến rất nặng về Chúa Giêsu, đến nỗi thành kiến đó đã làm cho họ
trở thành mù quáng với đầy những ác cảm, đến độ họ bất chấp sự thật
trước mắt họ, như họ cũng đã phải công nhận rằng: "người
này làm nhiều phép lạ", chứ không
phải là nhân vật tầm thường như họ, chẳng làm được phép lạ như Người,
chẳng được dân chúng tin theo như Người.
Thế mà, vì thành kiến và ác cảm đã biến thành
ghen tị, đố
kỵ và ghen ghét,
họ đã tìm cách triệt hạ Người, tìm cách loại trừ Người cho bằng được,
với lý do bề ngoài có vẻ tốt đẹp theo công ích, mị dân, như Thánh ký
Gioan cho chúng ta thấy trong bài Phúc Âm hôm nay: "Nếu
chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân
Rôma sẽ kéo đến phá hủy nơi
này và dân tộc ta".
Lý
do được viện ra này quả là tuyệt vời, hoàn toàn vừa che đậy được thành
kiến, ác
cảm, lòng
ghen tị và ghen
ghét của họ,
vừa có tính cách lý tưởng cao cả cho toàn thể dân tộc của họ như
thế, đã được vị có thẩm quyền nhất trong họ bấy giờ là thượng tế Caipha,
như một tay túc cầu chuyên nghiệp ở hàng tiền đạo vừa được đồng
bạn chuyền banh cho liền đá lọt lưới một
cách ngoạn mục vào gôn (goal = đích) của đối
phương:
"Một người trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng:
'Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay
cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt'".
Thế
nhưng, lạ lùng thay họ tưởng rằng họ đã
thắng
bằng quả banh họ chuyền nhau đã làm tung lưới đối
phương là dự án cứu độ của Thiên Chúa, không ngờ lại là
cú đá phản pháo đã phá
lưới chính "gôn
- đích
nhắm, mưu đồ"
của chính họ, như lời dẫn giải của vị Thánh
ký Gioan của
bài Phúc Âm hôm nay ngay
sau cú đá đầy ngoạn
mục hết
sức thần
tình của vị thượng tế Caipha này:
"Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm
ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không
phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản
mát về một mối".
Tuy nhiên,
về phía
họ, họ
vẫn tưởng rằng họ đã nắm chắc phần thắng trong tay, nên họ đã bắt đầu
lấy quyền bính của mình để "ra
lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người", để
có thể đạt được cái "gôn" của mình là "họ quyết
định giết Người" cho
bằng được, để
diệt trừ
hậu hoạn cho toàn dân.
Chắc ai cũng biết được thượng lệnh bất tuân
như thế, một thượng lệnh có lợi cho toàn dân đang bị quân đế quốc Rôma
như vậy, nên đều tỏ ra hết sức quan tâm và muốn tuân hành, nhưng hình
như chỉ ở giáo đô Giêrusalem thôi, chứ không bao gồm ở các nơi khác.
Bởi vậy mà Chúa Giêsu vẫn trở thành một nhân
vật, cho dù "không
còn công khai đi lại giữa người Do-thái nữa. Người đi về miền gần hoang
địa, đến thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ", vẫn
có
sức thu
hút dân
chúng, có thể nói, chính sự vắng khuất của Người vào thời điểm quan
trọng nhất trong năm lại càng khiến dân chúng chú ý đến Người hơn, như
Thánh ký Gioan diễn tả cho thấy trong Bài
Phúc Âm hôm nay:
"Khi đó đã gần đến Lễ Vượt Qua của người Do-thái. Có nhiều người từ các
miền lên Giêrusalem trước lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ
đứng trong đền thờ và bàn tán với nhau: 'Anh em nghĩ sao? Người có đến
hay không?'"
Câu phát ngôn tiêu biểu trên đây cho
thấy thái độ như thể hào hứng trông mong của "nhiều
người từ các miền lên Giêrusalem" và
muốn "tìm
Chúa Giêsu", để được
gặp Người là Đấng họ cảm phục và trông đợi, nhưng lại là nhân vật, trái
lại, như Thánh ký Gioan cho biết ở câu kết thúc của bài Phúc Âm hôm nay:
"Còn
các thượng tế và biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì
phải tố cáo để họ bắt Người".
Đúng thế, chính
vì "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17),
chủ đề cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, mà
cho dù giáo quyền của dân Do Thái bấy giờ có muốn tận diệt Người chăng
nữa, một cách hết sức khôn ngoan và hoàn toàn tự do theo lòng ác cảm và
ghen ghét của họ, họ chẳng những không làm gì được Người mà
còn trở thành dụng cụ bất đắc dĩ của dự án thần linh trong công cuộc
cứu độ trần gian, trong đó bao gồm cả dân tộc của họ, không phải chỉ
thoát khỏi quyền lực chính trị và quân sự, mà là quyền lực tội lỗi và sự
chết.
Dự án cứu độ thần linh vô cùng huyền diệu của
Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô đã được chính Thiên Chúa, qua miệng Tiên
Tri Êzêkiên trong Bài Đọc 1 hôm nay, báo trước về một
viễn
tượng dân
Do Thái thống
nhất và duy
nhất, đúng
như ý Chúa muốn khi Ngài lập giao ước với tổ phụ Abraham của họ, một dân
tộc bao gồm cả dân ngoại trong công cuộc cứu độ do Con của Ngài, Người
Con về nhân tính thuộc
giòng giống của họ thực hiện:
"Này
Ta sẽ đem con cái Israel ra khỏi các dân tộc mà chúng đang cư ngụ; từ
khắp nơi, Ta sẽ quy tụ chúng lại và đưa chúng về quê hương. Ta sẽ làm
cho chúng trở nên dân tộc duy nhất sống trong đất của chúng, ở trên núi
Israel; chỉ có một vua cai trị chúng; chúng sẽ không còn là hai dân tộc,
cũng chẳng còn chia làm hai nước nữa".
Hình ảnh
về một dân Do Thái thống nhất và duy nhất tiêu biểu cho một dân tộc như
sao trời cát biển bao gồm cả dân ngoại là tất cả những ai tin tưởng vào
Chúa Kitô ấy,
cũng đã được
Thánh ký Gioan tiên báo trong bài Phúc Âm hôm nay: "Chúa
Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn
để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối", một
lời dẫn giải hoàn toàn hợp với những gì Thiên Chúa phán trong Bài Đọc 1
hôm nay qua miệng Tiên Tri Đaniên:
"Và Ðavit, tôi tớ Ta, sẽ là vua của chúng đến muôn đời. Ta sẽ ký kết với
chúng một giao ước hoà bình: Ðó sẽ là một giao ước vĩnh cửu đối với
chúng. Ta sẽ gầy dựng chúng, sẽ cho chúng sinh sản ra nhiều và sẽ thiết
lập nơi thánh Ta giữa chúng cho đến muôn đời. Nhà Tạm Ta sẽ ở giữa
chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân Ta. Các dân tộc sẽ
biết rằng Ta là Chúa, Ðấng thánh hoá Israel, khi đã lập nơi thánh Ta ở
giữa chúng đến muôn đời".
Bài Đáp
Ca hôm nay chất chứa những tâm tình tràn đầy hy vọng và hoan hỉ như
thể ơn cứu độ thực sự đã
đến, một ơn
cứu độ được hiện thực nơi Chúa Giêsu Kitô Thiên Sai Cứu Thế vào
thời điểm viên trọn của Người, một biến cố Vượt
Qua chẳng
những được dân Do Thái cử hành hằng năm mà còn được chính chung Kitô
giáo và riêng Giáo
Hội
Công giáo Roma cử hành vào Tuần Thánh, nhất là vào Tam Nhật Vượt Qua,
bắt đầu từ ngày mai, Chúa Nhật Lễ Lá, kết thúc Mùa Chay và bắt đầu Tuần
Thương Khó:
1) Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các đảo
xa xăm; hãy nói rằng: "Ðấng đã phân tán Israel, sẽ quy tụ nó lại, và sẽ
gìn giữ nó, như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình".
2) Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người
cứu thoát nó. Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về
phía hạnh phúc của Người.
3) Bấy giờ người thiếu nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các
cụ già cũng làm y như thế; Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng ra niềm hân
hoan, sẽ an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ.
Bài Đáp Ca hôm nay, Thứ Bảy Tuần V Mùa
Chay, chất chứa những tâm tình hân hoan như một dạo khúc hướng về một
Chúa Nhật Lễ Lá ngày mai, thời điểm Chúa Kitô vinh quang tiến vào Thành
Thánh Giêrusalem, giáo đô của Do Thái Giáo, nơi chứng kiến thấy tột đỉnh
mạc khải thần linh của lịch sử cứu độ dân Do Thái cũng là tất cả mạc
khải thần linh của lịch sử nhân loại nơi Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế
trong Tam Nhật Vượt Qua của Người trong Tuần Thánh, kể từ Chúa Nhật Lễ
Lá, bắt đầu Tuần Thương Khó của Người được Giáo Hội Nhiệm Thể Người hằng
năm long trọng cử hành như tột đỉnh của phụng niên.
28/3/2015 (Thứ
Bảy):
Phụng vụ
Lời Chúa cho Thứ Bảy trong Tuần 5 Mùa Chay hôm nay dường như hoàn toàn
tương phản nhau giữa bài đọc một (Ezekien 37:21-28) có vẻ tích cực và
lạc quan: "Này
Ta sẽ đem con cái Israel ra khỏi các dân tộc mà chúng đang cư ngụ; từ
khắp nơi, Ta sẽ quy tụ chúng lại và đưa chúng về quê hương",
trong khi bài Phúc Âm (Gioan 11:45-56) lại cho thấy bầu trời u ám đến
ghê rợn, ở chỗ: "Từ
ngày đó, họ quyết định giết Người", chứ
không phải chỉ lên án Người
là kẻ lộng
ngôn, hay chỉ ném đá
Người hoặc chỉ tìm
bắt Người.
"Quyết định giết Người" này của giáo quyền Do Thái, một quyết định xẩy
ra vào thời điểm sắp tới Lễ Vượt Qua, một quyết định gắt gao tới nỗi,
như cuối bài Phúc Âm cho thấy: "các
thượng tế và biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải
tố cáo để họ bắt Người". Lý
do hoàn toàn nhuộm mầu sắc lo sợ về chính trị: "Chúng
ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm nhiều phép lạ. Nếu chúng ta để
mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân Rôma sẽ kéo
đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta".
Như
thế, giáo quyền Do Thái, cho dù công nhận "người
này làm nhiều phép lạ", mà
họ là một dân tộc ưa thích điềm lạ (xem 1Corinto 1:22), cái gì
cũng đòi điềm lạ (xem Gioan 2:18), mà chỉ là điềm lạ theo ý của họ muốn
thôi, chứ những điềm lạ như việc Người trừ quỉ hay chữa lành bệnh tật
v.v. không ai làm được như Người, kể cả việc Người làm cho Lazarô hồi
sinh từ một tử thi đã xông mùi mà họ vừa được tường trình cho biết (xem
Gioan 11:43-44,46), cũng chẳng hợp với ý muốn của họ, vẫn không phải
là điềm lạ họ đòi hỏi để tin, nên chẳng lạ gì họ vẫn tìm cách triệt hạ
Người cho bằng được, không phải bởi lo sợ cho toàn dân hơn là, đúng như
vị tổng trấn của đế quốc Rôma là Philatô đã
nhận định: "vì ghen
tương mà họ đã nộp Người cho ông" (Marco
15:10).
Chúng
ta có thể tóm gọn tổng lược tiến trình tỏ mình ra của Chúa Kitô và
phản ứng của người Do Thái trước mạc khải thần linh là Chúa Kitô trong
Tuần Lễ 5 Mùa Chay như sau:
Tuần 5 Mùa
Chay
|
Ý đồ người Do Thái
|
Chúa Giêsu tỏ mình cho
người Do Thái
|
Phản ứng của người do
Thái
|
Thứ 3
Gioan 8:21-30
|
|
"Ta ra đi, các ông sẽ tìm kiếm Ta và sẽ
chết trong tội của các ông. Nơi Ta đi các ông không thể tới
được"… "Khi nào các
ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”.
|
"Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại
nói ‘Nơi Ta đi các ông không thể tới được?’"
"Ông là ai?"
“Khi Người nói những điều ấy thì có
nhiều kẻ tin vào Người”
|
Thứ 4
Gioan 8:31-42
|
|
"Nếu các ông ở lại trong lời của tôi,
thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự
thật sẽ giải phóng các ông."… “Hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho
tội… nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực
sự là những người tự do”
|
“Chúng tôi là dòng dõi ông Áp-ra-ham.
Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ”…
"Chúng tôi đâu phải là con hoang. Chúng
tôi chỉ có một Cha: đó là Thiên Chúa!"
|
Thứ 5
Gioan 8:51-59
|
|
“Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ
không phải chết"…
“Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã
có rồi”
|
"Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông
bị quỷ ám… Ông cho mình là ai?”
“Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng
Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ”.
|
Thứ 6
Gioan 10:31-42
|
|
"Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc
tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá
Ta?"
“Dầu các ngươi không muốn tin Ta,
cũng hãy tin vào các việc của Cha Ta, để các ngươi biết và tin
rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha"
|
"Chúng
tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời
lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên
Chúa".
“Bởi đó
họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ… Có nhiều
kẻ đến cùng Người. .. Và có nhiều kẻ tin Người"
|
Thứ 7
Gioan 11:45-56
|
(Sau
khi Chúa Giêsu làm phép lạ hồi sinh Lazarô)
“có kẻ đi gặp người biệt phái và
thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm”.
“Từ ngày đó, họ quyết định giết
Người”.
|
“Vì thế Chúa Giêsu không còn công khai
đi lại giữa người Do-thái nữa. Người đi về miền gần hoang địa,
đến thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ”.
|
“Khi đó đã gần đến Lễ Vượt Qua của
người Do-thái. Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước
lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ
và bàn tán với nhau: ‘Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?’"
"Còn các thượng tế và biệt phái đã
ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt
Người".
|
Thật
ra, thái độ cứng lòng và mù quáng của chung người Do Thái và riêng thành
phần giáo quyền lãnh đạo
Do Thái tỏ ra
trước Chúa Giêsu Kitô, dữ dội đến độ Người càng tỏ mình ra họ lại càng muốn
tiêu diệt Người đi, cũng
vẫn có thể thông cảm được. Bởi vì, chính thành phần tông đồ được Người
tuyển chọn ở với Người để có thể nhận biết Người nhờ đó trở thành những
chứng nhân tiên khởi cho Người sau này mà còn bán nộp Người và trắng
trợn chối bỏ Người huống chi là họ.
Cái lạ lùng quái quẩn ở đây nữa là thậm chí các tông đồ đã thực sự nhận
biết và tuyên
xưng
Người một
cách chính xác đúng như căn tính của Người rằng: "Thày là Đức Kitô, Con
Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), ấy thế mà một người là
Giuđa Íchca trong họ vẫn
phản nộp Người và chính
vị lãnh đạo tông đồ đoàn của họ lại trắng trợn chối
bỏ Người, và
"tất cả đều bỏ Người mà tẩu
thoát" (Marco 14:50) khi Người
bị bắt trong Vườn Cây Dầu vào đêm Thứ Năm Tuần Thánh.
Đó là lý do cả thành phần môn đệ yêu
dấu thân cận nhất của
Người, chung dân Do Thái và cách riêng thành phần lãnh đạo dân Do Thái,
kể cả thành phần
dân ngoại thuôc đế quốc Rôma lên án tử cho Người và hành hạ Người một
cách vô cùng dã man vô nhân đạo, đều được
bao gồm trong lời đầu tiên của Chúa Giêsu trên thập tự giá: "Lạy Cha,
xin tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết việc họ làm" (Luca 23:34).
Đúng như câu đáp chính yếu của bài Đáp Ca hôm nay (Giêrêmia
31:10,11-12ab,13), Người
quả là "mục tử chăn dắt đoàn chiên mình", một đoàn chiên bao gồm toàn
thể loài người, bởi Người đã mặc lấy nhân tính của chung loài người, chứ
không phải bản tính riêng của người Do Thái, nhưng lại mang chính giòng
máu Do Thái, với tư cách là Đấng Thiên Sai của họ, nhờ đó mới là Đấng
Cứu Thế xuất thân từ Do Thái, đúng như giao ước và lời hứa của Thiên
Chúa Cha Người đã tự động ký kết với cha ông tổ phụ của họ và thực hiện
trong lịch sử cứu độ của họ, bất chấp họ có trung thành với giao ước của
Ngài hay chăng, cho đến khi Ngài hoàn tất hết mọi sự nơi Con của Ngài
"khi đến thời điểm
viên trọn" (Galata 4:4).
Bởi thế, cho dù bài phúc âm hôm nay đượm mầu sắc và bầu khí đầy
những ảm đạm cùng buồn thảm, nhưng trong bài đọc một lại hiện lên cả một
chân trời sáng lánh rạng ngời theo dự án thần linh cứu độ của Vị Thiên
Chúa chân thật
duy nhất vô cùng yêu thương nhân hậu đã tỏ mình ra nơi Con của Ngài, một
dự án thần linh cũng được le lói ngay trong bài phúc âm hôm nay, qua lời
chú giải của vị thánh ký đóng vai tiên tri, đó là tông đồ Gioan, vị
tông đồ tiên tri có thể nói duy
nhất của Tân Ước, vì
ngài còn là tác giả của Sách Khải Huyền liên quan đến "trời
mới đất mới" (Khải
Huyền 21:1), đến "một tân đô Giêrusalem" (Khải Huyền 21:2), đến "mọi sự
mới" (Khải
Huyền 21:5).
Đúng vậy, trong bài phúc âm hôm nay, ngay sau khi ghi lại lời của Thượng
Tế Caipha liên quan đến mưu đồ sát hại Chúa Giêsu: "Quý
vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho
dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt", vị
tông đồ được Chúa Giêsu yêu này đã chú giải "không
phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông
đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải
cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về
một mối".
Vị
tông đồ tiên tri này dường như đã chú giải theo chiều hướng của dự án
thần linh đã được Tiên Tri Êzêkiên loan báo trong Cựu Ước, trong đó bao
gồm chẳng những vai trò "chỉ
có một chủ chăn mà thôi" của chính Chúa Kitô Thiên Sai, qua nhân
vật biểu
tượng Đavít là
cha ông của Người và Người
là dòng dõi theo huyết tộc, mà
còn bao gồm cả "một
giao ước vĩnh cửu" mà
Người sẽ thiết lập bằng máu của Người, như Người đã long trọng tuyên
bố trong Bữa Tiệc Ly khi lập Bí Tích Thánh Thể (xem Luca 22:20), với các
tông đồ là nền tảng của một Giáo Hội được Người thiết lập như
là một "nơi thánh", một "Nhà Tạm... đến
muôn đời":
"Ðavit, tôi tớ Ta, sẽ là vua của chúng đến muôn
đời. Ta sẽ ký kết với chúng một giao ước hoà bình: Ðó sẽ là một giao ước
vĩnh cửu đối với chúng. Ta sẽ gầy dựng chúng, sẽ cho chúng sinh sản ra
nhiều và sẽ thiết lập nơi thánh Ta giữa chúng cho đến muôn đời. Nhà Tạm
Ta sẽ ở giữa chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân Ta. Các
dân tộc sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðấng thánh hoá Israel, khi đã lập nơi
thánh Ta ở giữa chúng đến muôn đời".
Phải chăng những lời tiên tri này của Cựu Ước đã được ứng nghiệm ngay từ
Chúa Nhật Lễ Lá (ngày mai), thời điểm Giáo Hội long trọng cử hành biến cố
Chúa Kitô vinh quang tiến vào Thành Thánh Giêrusalem như một Đứa Vua và được
hoan hô chúc tụng là “Hoan hô Con Vua Đavít” (Mathêu 21:9) hay “chúc tụng
vương quốc Đavít cha ông của chúng ta đã đến” (Marcô 11:10).
Sự kiện Chúa Giêsu vinh quang tiến vào Thành Thánh Giêrusalem ấy là câu trả
lời hùng hồn nhất cho thắc mắc của những người đã có mặt ở Giêrusalem bấy
giờ, như bài phúc âm hôm nay thuật lại: “Có
nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm
Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán với nhau: ‘Anh em nghĩ sao?
Người có đến hay không?’"
Phải, Người phải đến, phải xuất hiện, vì “đã đến giờ Con Người được vinh
hiển” (Gioan 12:23), không phải là vinh hiển khi Người tiến vào Thành Thánh
Giêrusalem, được các môn đệ và đa số dân chúng đông đảo hoan hô chúc tụng
nghênh đón, cho bằng cái vinh hiển của Người trên Sọ Trường (Golgotha)
Canvê, với triều thiên là mạo gai, ngai tòa là Thánh Giá và vệ quân là hai
tên tử tội trộm cướp, với tấm bảng được gắn ở cây thập tự giá: “Giêsu
Nazarét – Vua Dân Do Thái” (Gioan 19:19).
Trong Mùa Chay, từ tuần lễ Thứ Tư trở đi, Giáo Hội đã cố ý chọn đọc các bài
Phúc Âm của Thánh ký Gioan về tiến trình tỏ mình ra của Chúa Kitô Thiên Sai
với dân Do Thái, trong đó bao gồm cả những thái độ cùng phản ứng ngược chiều
của thành phần dân tuyển chọn này, cho đến khi dự án cứu độ thần linh vô
cùng huyền diệu của Thiên Chúa được hiện thực một cách hoàn toàn ứng nghiệm
nơi Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô khổ nạn, tử giá và phục sinh, một biến
cố tột đỉnh của tất cả Lòng Thương Xót Chúa cũng như của Phụng Niên, được cử
hành trong Tuần Thánh, nhất là Tam Nhật Vượt Qua, bắt đầu từ ngày mai, Chúa
Nhật Lễ Lá bắt đầu Tuần Thương Khó được kết thúc vào Chúa Nhật Phục Sinh.