SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Ed 33, 7-9
"Nếu ngươi không chịu nói cho kẻ gian ác, thì Ta đòi máu nó bởi tay ngươi".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Ðây Chúa phán: "Hỡi con người, Ta đã làm cho ngươi trở nên người lính canh nhà Israel: vậy khi nghe lời miệng Ta nói, ngươi hãy loan báo cho chúng thay Ta. Khi Ta phán cùng kẻ gian ác rằng: "Hỡi kẻ gian ác, mi sẽ phải chết"; nếu ngươi không chịu nói để kẻ gian ác bỏ đường lối mình, thì chính kẻ gian ác sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng Ta đòi máu nó bởi tay ngươi. Còn khi ngươi loan báo cho kẻ gian ác bỏ đường lối nó, nếu nó không chịu bỏ đường lối nó, thì nó sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng ngươi cứu được mạng sống ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9
Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Các ngươi đừng cứng lòng" (x. c. 8).
Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người! - Ðáp.
2) Hãy tiến liên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. - Ðáp.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 13, 8-10
"Yêu thương là chu toàn cả lề luật".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau. Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn lề luật. Ðó là: "Chớ ngoại tình; chớ giết người; chớ trộm cắp; chớ làm chứng gian; chớ mê tham", và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: "Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình". Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề luật.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 18, 15-20
"Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế.
"Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất, thì trên trời cũng tháo gỡ.
"Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
"lính canh nhà Israel"
"Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó" - có thể nói đây là đề tài chính cho phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XXIII Thường Niên Năm A hôm nay. Nghĩa là phụng vụ lời Chúa hôm nay bao gồm 2 vế: vế phạm nhân "sai lỗi" và vế thẩm quyền "sửa dạy" phạm nhân.
Trước hết, về phía phạm nhân là những ai "lỗi phạm". Trong khi trong Bài Phúc Âm Chúa Giêsu không hề nói đến "lỗi phạm" điều gì hay "lỗi phạm" ra sao hoặc "lỗi phạm" thế nào, mà chỉ nói trống "lỗi phạm" thế thôi.
Thế nhưng, trong Bài Đọc 2, Vị Tông Đồ Phaolô đã nói rõ về những gì phạm nhân có thể "lỗi phạm" mà ngài thấy cần phải liệt kê rõ ở dưới dạng khuyên răn như sau: "Chớ ngoại tình; chớ giết người; chớ trộm cắp; chớ làm chứng gian; chớ mê tham".
Chính vì "lỗi phạm" đến 5 điều căn bản và chính yếu ấy là lỗi phạm đến lề luật của Chúa, một lề luật lại liên quan đến tha nhân, liên quan đến đức bác ái yêu thương mà thánh nhân đã khẳng định rằng: "ai yêu người là đã giữ trọn lề luật... yêu thương là chu toàn cả lề luật".
Sau nữa, về phía thẩm quyền "sửa dạy" phạm nhân. Theo lời Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm "phán cùng các môn đệ" thì họ là các vị thuộc hàng giáo phẩm có quyền quản trị, giảng dạy và thánh hóa đàn chiên của mình.
Các vị có thẩm quyền "sửa dạy" phạm nhân, và việc "sửa dạy" phạm nhân của các vị là điều bắt buộc theo trách nhiệm giảng dạy của các vị mà các vị không thể nào tránh né vì sợ sệt hay nể nang, sợ bị chính chiên ghét bỏ, bị mất cảm tình với chiên mà bỏ qua không dám làm. Bằng không, các vị sẽ phải chịu trách nhiệm của mình, đúng như lời Chúa cảnh báo các vị qua môi miệng của Tiên Tri Êzêkiên trong Bài Đọc I hôm nay:
"Hỡi con người, Ta đã làm cho ngươi trở nên người lính canh nhà Israel: vậy khi nghe lời miệng Ta nói, ngươi hãy loan báo cho chúng thay Ta. Khi Ta phán cùng kẻ gian ác rằng: 'Hỡi kẻ gian ác, mi sẽ phải chết'; nếu ngươi không chịu nói để kẻ gian ác bỏ đường lối mình, thì chính kẻ gian ác sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng Ta đòi máu nó bởi tay ngươi. Còn khi ngươi loan báo cho kẻ gian ác bỏ đường lối nó, nếu nó không chịu bỏ đường lối nó, thì nó sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng ngươi cứu được mạng sống ngươi".
Thẩm quyền của thành phần lãnh đạo dân của Chúa, nhất là dân Tân Ước như các vị tông đồ trong Bài Phúc Âm hôm nay, thành phần sẽ thay Người và cùng với Người dẫn dắt đàn chiên của Người và được Người trao phó cho, có một tầm vóc vĩ đại và trọng đại đến độ, như Chúa Kitô đã khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất, thì trên trời cũng tháo gỡ". Điển hình là một khi bị Giáo Hội tuyệt thông thì linh hồn phạm nhân sẽ nguy hiểm đến phần rỗi nếu họ không sớm được Giáo Hội giải cho trước khi qua đời.
Hay một khi Giáo Hội, qua thẩm quyền vô ngộ của Giáo Hoàng (căn cứ vào câu Phúc Âm của Thánh ký Mathêu 16:19) hay qua Công Đồng Chung (căn cứ vào câu Phúc Âm của Thánh ký Mathêu vừa được trích dẫn) tuyên bố một tín điều nào, liên quan đến Mẹ Maria (như Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội bởi Đức Giáo Hoàng Piô IX ngày 8/12/1854 và Mẹ Mông Triệu bởi Đức Giáo Hoàng Piô XII ngày 1/11/1950), hoặc đến chính thẩm quyền tối thượng của Giáo Hoàng (bởi Công Đồng Chung Vaticanô I năm 1870), thì buộc tất cả mọi con cái của Giáo Hội phải tin tưởng chấp nhận, bằng không sẽ trở thành rối đạo, lạc đạo, tuyệt thông, rất nguy hiểm đến phần rỗi đời đời của phạm nhân, vì "trên trời cũng cầm buộc" như vậy.
Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là phải làm thế nào để thẩm quyền giảng dạy của thành phần "lính canh nhà Israel" này, ám chỉ cả thẩm quyền quản trị của Giáo Hội Chúa Kitô đây, có thể "sửa dạy" một cách khôn khéo nhất, để nhờ đó, mang lại hiệu quả tốt đẹp nơi phạm nhân thuộc thẩm quyền giảng dạy của mình?
Chính Chúa Kitô, trong Bài Phúc Âm hôm nay, đã chỉ dạy những ai lãnh đạo Giáo Hội của Người, những vị thừa kế các tông đồ được Người nói với trong Bài Phúc Âm cách thức thực hiện theo tiến trình từ kín đáo đến công khai, từ nhẹ nhàng theo tình bác ái yêu thương đến quyết liệt theo chính lý công minh, như sau:
"Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế".
Thựa tế cho thấy Giáo Hội đã từng áp dụng đường lối "sửa dạy" này đối với các phần tử "sai lỗi" của mình, nhất là từ sau Công Đồng Chung Vaticano II (1962-1965). Ở chỗ, chẳng hạn, một vị giáo sư nào giảng dạy trong đại học mang danh là Công giáo chính thức của Giáo Hội và trong Giáo Hội, thường là các vị linh mục, được tiếng là thần học gia, có những chủ trương thiên lệch, phản lại với huấn quyền của Giáo Hội, điển hình như về luân lý đối với vấn đề ngừa thai hay phá thai, qua sách vở của các vị, thì vị bản quyền địa phương hay bề trên của vị này cần phải thực hiện tiến trình "sửa dạy" ba bước theo lời Chúa dạy như sau:
Trước hết, "riêng ngươi và nó thôi", nghĩa là mời vị linh mục hay tác giả "sai lỗi" ấy đến nói chuyện riêng. Sau đó, nếu vị ấy vẫn không nghe, vẫn cho mình là đúng, thì đấng bản quyền địa phương hay bề trên mời thêm các chuyên gia về cùng vấn đề được đặt ra trong giáo phận hay trong dòng của mình đến "hãy đem theo một hoặc hai người nữa", để cùng nhau nhận định, hầu tránh tính cách chủ quan hay thiên kiến hoặc ác cảm có thể có nơi vị có thẩm quyền "sửa dạy". Nếu cá nhân "sai lỗi" vẫn bất chấp cả một hội đồng chứng nhân trong dòng hay trong giáo phận của mình thì Đấng bản quyền hay bề trên của vị này trình lên thẩm quyền tối hậu là Tòa Thánh: "hãy trình với cộng đoàn". Để rồi, cuối cùng cá nhân "sai lỗi" ấy vẫn cứ bất chấp cả Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin của Tòa Thánh thì Tòa Thánh đành phải bất đắc dĩ công khai và chính thức ban hành một văn thư cấm vị này không được giảng dạy trong các đại học Công giáo, và tác phẩm của vị ấy không ai được đọc nữa: "hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế".
Phần phạm nhân "sai lỗi", nếu vì lòng ngay và nhận ra lầm lỗi của mình, nhờ đường lối "sửa dạy" khôn ngoan Giáo Hội thực hiện chỉ vì phần rỗi của mình nói riêng và cho công ích của Nhiệm Thể Chúa Kitô nói chung, sẽ không cố chấp đến độ coi cá nhân mình hơn đoàn thể Giáo Hội, coi bản thân hữu hạn của mình trên thẩm quyền bao gồm của Giáo Hội. Bởi vì, Thiên Chúa chỉ ở với đoàn thể hơn là cá nhân, chỉ ngự giữa tình đoàn kết và bác ái yêu thương hơn là những nơi tự phụ và chia rẽ, như chính Chúa Kitô khẳng định ở cuối bài Phúc Âm hôm nay:
"Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy". Ở đây, Chúa Giêsu dường như muốn khẳng định tính chất bất khả ngộ của cộng đồng Giáo Hội được Người thiết lập là vì, chính Người "là đường, là sự thật và là sự sống" (Gioan 14:6), với tư cách là vị mục tử tối cao, luôn "ở cùng các con" là các vị chủ chăn đại diện Người, "cho đến tận thế" (Mathêu 28:10).
Đó là lý do, qua câu đáp chính của Bài Đáp Ca hôm nay, Giáo Hội đã kêu gọi con cái mình nói chung, nhất là những đứa con "sai lỗi" được Giáo Hội sử dụng thẩm quyền quản trị, giảng dạy và thánh hóa của mình để mà "sửa dạy", cho lợi ích chung của Giáo Hội cũng như cho phần rỗi của cá nhân "sai lỗi", hãy ngoan ngoãn trung thành với Thiên Chúa qua thẩm quyền được Ngài trao phó trên trần gian này: "Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: 'Các ngươi đừng cứng lòng'".
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Cl 1, 24 - 2, 3
"Tôi đã được trở thành người phục vụ Hội thánh để rao giảng mầu nhiệm ẩn giấu từ muôn thuở".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, hiện nay tôi vui sướng trong những đau khổ tôi phải chịu vì anh em. Tôi bổ khuyết nơi thân xác tôi những gì còn thiếu sót trong cuộc thương khó của Ðức Kitô, để Hội thánh là thân xác của Người được nhờ. Tôi đã được trở thành người phục vụ Hội thánh, theo sự an bài của Thiên Chúa đã trao phó cho tôi rao giảng đầy đủ lời Chúa, đó là mầu nhiệm ẩn giấu từ muôn thuở qua muôn thế hệ, nhưng nay đã được tỏ bày cho các thánh của Người. Thiên Chúa muốn tỏ bày cho họ biết thế nào là sự phong phú vinh quang của mầu nhiệm nơi dân ngoại, tức là Ðức Kitô trong anh em, Người là niềm hy vọng vinh quang. Tôi loan báo Người, cảnh tỉnh mọi người, đem tất cả khôn ngoan mà dạy dỗ mọi người, để làm cho mọi người nên hoàn hảo trong Ðức Giêsu Kitô. Chính vì lẽ đó, tôi khó nhọc chiến đấu nhờ vào năng lực mà Người hành động mạnh mẽ trong tôi. Vì chưng, tôi muốn anh em nhận thấy tôi lo lắng biết bao cho anh em và cho những người ở Laođicêa, và cho những ai chưa hề thấy mặt tôi tận mắt, để lòng họ được an ủi, và khi được giáo huấn trong đức mến, họ được dư đầy sự thông hiểu là được nhận biết mầu nhiệm Thiên Chúa Cha và Ðức Kitô Giêsu, nơi Người tiềm ẩn mọi kho tàng khôn ngoan và thông hiểu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 61, 6-7. 9
Ðáp: Vinh dự và an toàn của tôi ở nơi Thiên Chúa (c. 8a).
Xướng: 1) Duy nơi Thiên Chúa, hỡi linh hồn tôi, hãy an vui, vì do chính Người, tôi được ơn cứu độ. Phải, chính Chúa là Ðá Tảng, là ơn cứu độ của tôi, Người là chiến luỹ của tôi, tôi sẽ không hề nao núng. - Ðáp.
2) Hỡi dân tộc, hãy trông cậy Người luôn mọi lúc; hãy đổ giốc niềm tâm sự trước nhan Người, vì Thiên Chúa là nơi ta nương náu.- Ðáp.
Alleluia: Pl 2, 15-16
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 6-11
"Các ông quan sát xem Người có chữa lành bệnh trong ngày Sabbat không".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào hội đường và giảng dạy. Khi ấy ở đó có một người tay hữu bị khô bại. Những luật sĩ và biệt phái quan sát xem Người có chữa lành người ấy trong ngày Sabbat không, để có cớ tố cáo Người. Nhưng Người biết tư tưởng các ông, liền bảo người có tay khô bại rằng: "Ngươi hãy chỗi dậy mà đứng ra giữa đây". Người đó đứng thẳng dậy. Ðoạn Chúa Giêsu bảo các ông ấy rằng: "Tôi hỏi các ông, ngày Sabbat được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?" Rồi đưa mắt nhìn mọi người, Chúa bảo người đó rằng: "Ngươi hãy giơ tay ra". Người ấy giơ ra, và tay người ấy được lành.
Bấy giờ các ông đầy lòng tức giận, và bàn định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
"những gì còn thiếu sót trong cuộc thương khó của Ðức Kitô" đây là gì?
Lại xẩy ra một trận đụng độ nữa, liên tục, giữa Chúa Giêsu và "những luật sĩ và biệt phái", thành phần hình như luôn theo dõi nhân vật Giêsu Nazarét xuất đầu lộ diện một cách hết lạ kỳ hầu như lập dị rất ư là cấp tiến này, mà "quan sát xem Người có chữa lành người ấy trong ngày Sabbat không, để có cớ tố cáo Người".
Vì không phải là một con người bình thường, sợ áp lực đám đông và sợ áp lực quyền thế, Chúa Giêsu tỏ ra làm chủ tình hình, ở chỗ "Người biết tư tưởng các ông", thậm chí Người còn lợi dụng yếu điểm của đối phương để hạ gục họ: "Tôi hỏi các ông, ngày Sabbat được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?", nhưng họ vẫn bất chấp cho dù tận mắt chứng kiến thấy phép lạ Người làm "vào một ngày hưu lễ trong hội đường":
Họ chẳng những không bị thuyết phục bởi cả lý lẽ không thể chối cãi của Người và bởi phép lạ tỏ tường Người làm, trái lại, họ vẫn tiếp tục ngoan cố, đến độ: "Bấy giờ các ông đầy lòng tức giận, và bàn định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu".
2) Hỡi dân tộc, hãy trông cậy Người luôn mọi lúc; hãy đổ giốc niềm tâm sự trước nhan Người, vì Thiên Chúa là nơi ta nương náu.
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Cl 2, 6-15
"Chúa đã cho anh em được chung sống với Người, Người đã ân xá mọi tội lỗi của anh em".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, như anh em đã nhận lãnh Chúa Giêsu Kitô, anh em hãy sống trong Người, hãy đâm rễ và xây dựng trong Người, và kiên trì trong lòng tin, như anh em đã học biết, hãy đầy lòng cảm tạ trong Người.
Anh em hãy cẩn thận, đừng để ai lấy triết lý và những mánh khoé gian giảo mà lừa dối anh em, theo truyền thống loài người, theo những yếu tố phàm trần, chứ không theo Ðức Kitô; nơi Người chứa đựng tất cả sự viên mãn của bản tính Thiên Chúa, và trong Người, anh em cũng được sung mãn, chính Người là Ðầu mọi thủ lãnh và quyền năng. Trong Người, anh em đã chịu cắt bì, một phép cắt bì không do tay người phàm cất khỏi xác thịt, nhưng là phép cắt bì của Ðức Kitô. Nhờ phép rửa tội, anh em đã được mai táng làm một với Ðức Kitô, anh em cũng được sống lại với Người, bởi đã tin vào quyền năng Thiên Chúa, Ðấng đã cho Người từ cõi chết sống lại.
Anh em vốn đã chết vì tội lỗi anh em và bởi không cắt bì tính xác thịt của anh em, (nhưng) Thiên Chúa đã cho anh em được chung sống với Người. Người đã ân xá mọi tội lỗi chúng ta, đã huỷ bỏ văn tự bất lợi cho chúng ta, vì (nó) làm cho chúng ta bị kết án; Người đã huỷ bỏ bản văn tự đó bằng cách đóng đinh nó vào thập giá. Người đã tước quyền những kẻ chấp chính và những kẻ cầm quyền. Người đã mạnh bạo điệu chúng ra và toàn thắng chúng trong bản thân Người.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 1-2. 8-9. 10-11
Ðáp: Chúa hảo tâm với hết mọi loài (c. 9a).
Xướng: 1) Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ ca khen Chúa, và con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời. Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. - Ðáp.
2) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Pl 2, 15-16
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống. Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 12-19
"Suốt đêm, Người cầu nguyện, Người chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ: Ðó là Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt là kẻ phản bội.
Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.
Ðó là lời Chúa.
Thứ Tư
Bài Ðọc I: (Năm I) Cl 3, 1-11
"Anh em đã chết với Ðức Kitô. Vậy anh em hãy kiềm chế các chi thể anh em".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Ðức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất. Vì anh em đã chết, và sự sống anh em được ẩn giấu với Ðức Kitô trong Thiên Chúa. Khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang.
Vậy anh em hãy kiềm chế các chi thể anh em, tức là những điều trần tục: là sự gian dâm, ô uế, dục tình, đam mê xấu xa và hà tiện, tức là sự thờ phượng thần tượng. Vì những tội ấy mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống trên những người con phản nghịch. Xưa kia anh em cũng đã sống trong những tội ấy, khi anh em sống trong những thói hư nết xấu đó. Nhưng bây giờ, anh em hãy loại bỏ tất cả những điều đó, là sự giận dữ, phẫn nộ, độc ác, phạm thượng, và lời tục tĩu bởi miệng anh em. Anh em chớ nói dối với nhau; anh em hãy lột bỏ người cũ cùng các việc làm của nó, và mặc lấy người mới, con người được đổi mới theo hình ảnh của Ðấng đã tạo thành nó: ở đấy không còn Hy-lạp hay Do-thái, cắt bì hay không cắt bì, người man rợ hay người Scytha, nô lệ hay tự do nữa; nhưng Ðức Kitô là mọi sự và ở trong mọi sự.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 2-3. 10-11. 12-13ab
Ðáp: Chúa hảo tâm với hết mọi loài (c. 9).
Xướng: 1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. - Ðáp.
3) Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời; chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ. - Ðáp.
Alleluia: Ep 1, 17-18
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được sáng suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 20-26
"Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn các môn đệ và nói:
"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ các ngươi như kẻ bất lương, ngày ấy các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.
"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả".
Ðó là lời Chúa.
"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được đầy đủ no nê, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi các ngươi được mọi người ca tụng, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả".
Chúng ta thấy cái tương phản hoàn toàn với nhau một cách nẩy lửa giữa 4 điều lành và 4 cái dữ trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, thứ tự như sau:
1- "Phúc cho
các ngươi là những kẻ nghèo khó" >< "Khốn cho các
ngươi là kẻ giàu có";
2- "Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ đã được đầy đủ no nê";
3- "Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười";
4- "Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người các ngươi bị người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng, và loại trừ như kẻ bất lương" >< "Khốn cho các ngươi khi các ngươi được mọi người ca tụng".
Trước hết, chúng ta thấy thứ tự 4 thứ "phúc" và 4 thứ "khôn"
có vẻ rất ăn khớp với nhau như thế này: Về 4 thứ "Phúc" - vì "nghèo" mới "đói", vì "đói" mới "khóc", vì "khóc" mới bị khinh thường "phỉ báng"; trái lại, về 4 thứ "Khốn" - nhờ "giầu" mới "no", nhờ "no" mới "cười", nhờ "cười" mới được "ca tụng".
Thật ra, 4 cái Người gọi là "khốn" này, tự bản chất của chúng, không có gì là xấu, nhưng nếu con người vốn thiên về tự nhiên và hưởng thụ chúng có thể trở thành "dịp tội" nơi họ và cho họ, khiến họ, nhất là thành phần theo Chúa, thành phần sống trọn lành hơn, thành phần chứng nhân của Người, bị hòa đồng với thế gian và biến mất trong thế gian, đến độ có thể trở thành phản chứng Kitô giáo, thành những tiên tri giả hay kitô giả, như vẫn thấy xẩy ra trong lịch sử Giáo Hội, đặc biệt là trong thời đại mà nhiều người cho là tận thế đến nơi rồi đây.
Một điển hình có
thể áp dụng một cách cụ thể vào cái "khốn" cho những ai "no
nê" đó
là những ai
thích thưởng thức loại bữa ăn
"all you can eat / ăn tha hồ mặc sức". Thật
vậy, để có thể "ăn thả dàn, ăn mặc sức" những gì mình thích,
nhiều món mình thích mà giá cũng không mắc lắm hay cũng đáng,
người ta, trước hết phải nhịn ăn trước đó để có sức mà thưởng
thức tối đa. Cái đói trước bữa ăn này đã là một cái "khốn" đầu
tiên. Thế rồi, cái đói trong bữa ăn kiểu này nữa, đó là một
khi ăn món này nhiều thì các món
còn lại cũng
ngon không thể ăn nhiều được nữa, tiếc tiền, đó là cái "khốn"
thứ hai. Cái "khốn" thứ ba đó là sau khi ăn xong cái bụng sao mà
nó nặng nề khó chịu quá sức. Chưa hết, cái "khốn" cuối cùng và
là cái "khốn" nguy hiểm nhất đó là bị cao mỡ, vì đã ăn quá nhiều
tôm hùm hay cua là những hải sản mắc tiền hiếm quí.
Trái lại, cũng thế, 4 điều được Chúa Giêsu gọi là "phúc" đây, tự bản chất của chúng, quả thực là dữ, là xấu, là bất lợi, khiến con người bản tính vốn vướng mắc nguyên tội cảm thấy bất hạnh, nên họ bao giờ cũng hoàn toàn muốn tránh né hay được giải thoát. Thế nhưng, với thành phần sống đức tin và vượt thoát, sống gần với Đấng đã đến để phục vụ hơn hưởng thụ (xem Mathêu 20:28), sống chứng nhân cho Đấng đã sống thân phận mục nát của hạt lúa miến trong lòng đất (xem Gioan 12:24), thì những cái bất hạnh ấy lại trở thành phương tiện siêu thoát của họ và cứu độ trần gian.
Thánh giáo phụ John Chrysostom
Thứ Tư 19/9/2007, ĐTC Biển Đức XVI - Bài Giáo Lý 50 trong loạt bài về Giáo Hội Tông Truyền
Anh Chị Em thân mến,
Năm nay là năm kỷ niệm 16 thế kỷ qua đời của Thánh Gioan Kim Khẩu (407-2007). Có thể nói rằng Thánh Gioan Thành Antiôkia, biệt danh “Chrystostom” tức “kim khẩu – golden-mouthed”, vì sự lợi khẩu của ngài, cũng còn sống cho tới nay nhờ bởi các tác phẩm của ngài. Một sao chép viên ẩn danh đã ghi lại bằng giấy tờ rằng “những tác phẩm ấy lan khắp hoàn cầu như những tia chớp vậy”.
Các tác phẩm của Thánh Gioan Kim Khẩu cũng giúp cho chúng ta có thể, như chúng đã làm nơi tín hữu vào thời của ngài, thành phần trong những lần ngài thường bị phát lưu vắng bóng đã sống bằng sách vở của ngài. Đó là những gì chính ngài đã đề nghị trong một bức thư khi ngài đang bị lưu đầy (To Olympias, Letter 8, 45).
Ngài được sinh vào đời khoảng năm 349 ở Antiôkia xứ Syria (ngày nay là Antakya Nam Thổ Nhĩ Kỳ). Ngài đã thi hành thừa tác vụ linh mục của ngài ở đó 11 n ăm cho đến năm 379 là lúc ngài được bổ nhiệm làm Giám Mục thành Constantinople, ngài đã thi hành thừa tác vụ giáo phẩm của ngài ở thủ đô Đế Quốc ấy trước hai cuộc phát lưu của ngài, cuộc này gần sát với cuộc kia – vào năm 403 và 407. Chúng ta hôm nay chỉ nói tới những năm Thánh Gioan Kim Khẩu sống ở Antiôkia.
Ngài đã bị mất cha ở tuổi còn thơ và đã sống với mẹ ngài là bà Anthusa, một người đã làm thấm nhập nơi ngài cái cảm quan nhân bản cao quí và một niềm tin sâu xa Kitô Giáo.
Sau khi hoàn tất việc học vấn sơ đẳng và cao đẳng lên tới trình độ của các môn học về triết lý và văn chương, ngài đã theo học với bậc thày Libanius, một ngữ học gia ngoại giáo nổi tiếng nhất thời bấy giờ. Ở học đường, Thánh Gioan đã trở thành một diễn giảng viên lừng lẫy nhất thời hậu cổ Hy Lạp.
Ngài được rửa tội vào năm 368 và được huấn luyện sống đời giáo hội bởi Đức Giám Mục Meletius, vị đã chỉ định ngài làm phụ phó tế vào năm 371. Biến cố này đánh dấu việc Thánh Gioan Kim Khẩu gia nhập cursus- cuộc hành trình của Giáo Hội. Từ năm 367 đến 371, ngài đã tham dự Asceterius là một loại chủng viện ở Antioch, cùng với một nhóm người nam trẻ trung, trong đó có một số sau này làm Giám Mục, dưới sự dẫn dắt của nhà dẫn giải thánh kinh Diodore ở Tarsus, vị đã khơi động Thánh Gioan Kim Khẩu bắt tay vào việc dẫn giải văn chương và văn phạm mang đặc tính của truyền thống Antioch.
Bấy giờ, trong vòng 4 năm, ngài đã sống âm thầm với các vị ẩn tu ở Mount Silpius gần đó. Ngài đã kéo dài cuộc sống âm thầm này thêm hai năm nữa, sống một mình ở một cái động theo sự hướng dẫn của một “vị ẩn sĩ già”. Trong thời gian đó, ngài đã hoàn toàn giành giờ suy niệm về “những lề luật của Chúa Kitô”, các Phúc Âm và những Thư của Thánh Phaolô. Lâm bệnh, ngài cảm thấy không thể nào tự lo cho mình nếu không được giúp đỡ, nên ngài đã trở về với cộng đồng Kitô hữu ở Antioch (cf. Palladius, Dialogue on the Life of St John Chrysostom, 5).
Tiểu sử gia của ngài giải thích rằng Chúa đã ra tay can thiệp bằng một chứng bệnh đúng lúc để Thánh Gioan Kim Khẩu có thể theo đuổi ơn gọi thực sự của ngài. Thật vậy, chính ngài về sau đã viết rằng nếu ngài cần phải chọn lựa giữa những trục trặc rắc rối của việc quản trị Giáo Hội và viiệc tĩnh lặng của đời sống đan tu thì ngài thích việc mục vụ hơn cả ngàn lần (cf. On the Priesthood, 6, 7): Chính vì vậy mà Thánh Gioan Kim Khẩu đã cảm thấy ơn gọi của mình.
Chính nơi ơn gọi này ngài đã tiến đến khúc quanh quan trọng trong vấn đề ơn gọi của ngài, đó là hoàn toàn trở thành một vị mục tử chăn dắt các linh hồn! Mối thân tình sâu xa với Lời Chúa được vun trồng ở những năm sống ẩn sĩ, đã phát triển nơi ngài một thôi thúc bất khả chống cưỡng trong việc rao giảng Phúc Âm, trong việc cống hiến cho người khác những gì chính ngài đã lãnh nhận trong những tháng năm suy niệm. Lý tưởng truyền giáo bởi thế đã đẩy ngài vào công cuộc mục vụ, đã nung nấu tâm can của ngài.
Giữa năm 378 và 379, ngài đã trở về với thành phố ấy. Ngài đã được thụ phong phó tế vào năm 381 và linh mục năm 386, rồi trở thành một nhà giảng thuyết danh tiếng ở các nhà thờ thuộc thành phố này. Ngài đã thực hiện những bài giảng chống lại những người theo bè rối Arian, sau đó là những bài giảng tưởng niệm các vị tử đạo thành Antioch và những lễ quan trọng khác: đó là một giáo huấn quan trọng về niềm tin tưởng nơi Chúa Kitô cũng như theo ánh sáng các vị Thánh nhân của ngài.
Năm 387 là “năm anh hùng” của ngài, năm được gọi là “khởi nghĩa chống các pho tượng”. Như một dấu hiệu tỏ ra chống lại việc thâu thuế má, dân chúng đã phá hủy các pho tượng Hoàng Đế. Chính vào những ngày của Mùa Chay này và vì sợ sự trả thù đang chờ đợi của vị Hoàng Đế mà Thánh Gioan Kim Khẩu đã tung ra 22 Bài Giảng nẩy lửa về Các Pho Tượng, với mục đích kêu gọi thống hối và hoán cải. Việc này đã được tiếp nối bằng một giai đoạn an lành chăm sóc mục vụ (387-397).
Thánh Gioan Kim Khẩu thuộc về thành phần các vị Giáo Phụ viết lách nhiều nhất: 17 luận thuyết, trên 700 bài giảng đích thực, những dẫn giải về Phúc Âm Thánh Mathêu và về Thánh Phaolô (những Thư gửi Giáo Đoàn Rôma, Epheso và Do Thái), và 241 bức thư hiện còn lưu giữ. Ngài không phải là một thần học gia loại suy tưởng vậy thôi.
Tuy nhiên, ngài đã truyền đạt truyền thống và giáo lý khả tín của Giáo Hội trong một thời đại của những cuộc tranh luận về thần học được làm bừng lên trước hết bởi bè rối Arian, nói cách khác, bởi việc chối bỏ thiên tính của Chúa Kitô. Bởi thế, ngài là chứng nhân trung thực của việc phát triển tín điều Giáo Hội đạt được từ thế kỷ thứ tư sang thế kỷ thứ năm.
Thần học của ngài hoàn toàn là một thứ thần học về mục vụ, một thứ thần học liên lỉ quan tâm tới việc nhất trí giữa tư tưởng được biểu lộ nơi ngôn từ với cảm nghiệm sống. Đặc biệt vì vậy mà nó đã trở thành đề tài chính cho những bài giáo lý rất hay được ngài dùng để dọn lòng cho thành phần dự tòng lãnh nhận Phép Rửa.
Gần đến lúc qua đời, ngài đã viết rằng giá trị của con người là ở chỗ “hiểu biết xác thực tín lý đích thật và ở cuộc sống trung trực” (Letter from Exile). Cả hai điều này, hiểu biết sự thật và đời sống trung thực, đi liền với nhau: ở chỗ, hiểu biết cần phải thể hiện trong đời sống. Tất cả những bài thuyết giảng của ngài nhắm đến việc phát triển nơi tín hữu việc sử dụng trí thông minh, sử dụng trí khôn thực sự, để hiểu biết và mang ra thực hành những đòi hỏi về luân lý và tu đức của đức tin.
Thánh Gioan Kim Khẩu tỏ ra ân cần kèm theo các bài viết của ngài cả việc phát triển trọn vẹn của con người nơi những khía cạnh về thể lý, lý trí và tôn giáo của họ. Những giai đoạn tăng trưởng khác nhau của họ được so sánh với nhiều biển cả trong một đại dương bao la: “Biển cả đầu tiên của các biển cả này là tầm mức trẻ con” (Homily, 81, 5 on Matthew's Gospel).
Thật vậy, “chính ở lứa tuổi ban đầu này mà các hướng chiều về tính mê nết xấu hay nhân đức đạo hạnh bày tỏ”. Bởi thế, lề luật của Thiên Chúa cần phải được in ấn trên linh hồn từ ban đầu “như trên một cái bàn bằng sáp ong” (Homily 3, 1 on John's Gospel): Thực sự thì đây là một thời tuổi rất quan trọng. Chúng ta cần phải nhớ rằng những sự hướng dẫn cao quí cống hiến cho con người một nhãn quan xứng hợp về đời sống thực sự thấm nhập vào con người trong giai đoạn đầu đời này thật là quan trọng biết bao.
Bởi thế, Thánh Gioan Kim Khẩu đã khuyên bảo rằng: “Từ tuổi thơ ấu nhất, hãy trang bị cho trẻ em những thứ khí giới thiêng liêng và dạy cho chúng làm Dấu Thánh Giá trên trán bằng bàn tay của chúng” (Homily, 12, 7 on First Corinthians).
Thế rồi tới giai đoạn dạy thì và thanh niên: “Sau thời thơ ấu là biển cả dạy thì, thời xẩy ra những cơn gió mạnh …, vì đam mê nhục dục … lớn lên trong chúng ta” (Homily 81, 5 on Matthew's Gospel).
Sau cùng tới việc đính hôn và thành hôn: “Tuổi trẻ được tiếp nối với tuổi con người chín chắn chấp nhận những dấn thân cho gia đình: đó là thời tìm kiếm một người vợ” (ibid).
Ngài đã nhắc lại các m ục đích của hôn nhân, làm cho chúng phong phú – đề cập tới nhân đức và tính chất ôn hòa – bằng một thứ kết cấu phong phú về những liên hệ cá thể. Bởi thế, những đôi phối ngẫu được sửa soạn thích đáng ngăn chặn đường tiến tới chỗ ly dị: hết mọi sự xẩy ra trong hân hoan và con cái được giáo dục sống đức hạnh. Bởi vậy, khi đứa con đầu tiên được sinh ra thì em “giống như là một chiếc cầu; cả ba trở nên một xương thịt, vì đứa con liên kết hai phần lại” (Homily 12, 5 on the Letter to the Colossians), và cả 3 tạo nên “một gia đình, một Giáo Hội thu nhỏ” (Homily 20, 6 on the Letter to the Ephesians).
Việc giảng dạy của Thánh Gioan Kim Khẩu t hường xẩy ra trong phụng vụ, “nơi” cộng đồng được xây dựng bằng Lời Chúa và Thánh Thể. Việc tụ họp ở đó cho thấy một Giáo Hội duy nhất (Homily 8, 7 on the Letter to the Romans), cùng Lời Chúa được ngỏ cho tất cả mọi đời ở khắp mọi nơi (Homily 24, 2 on First Corinthians), và việc Hiệp Lễ trở thành một dấu hiệu hiệp nhất hiệu nghiệm (Homily 32, 7 on Matthew's Gospel).
Dự án mục vụ của ngài được liên kết với đời sống của Giáo Hội, trong đó, thành phần tín hữu giáo dân nhờ Phép Rửa lãnh nhận sứ vụ tư tế, vương giả và ngôn sứ. Ngài đã nói với thành phần tín hữu giáo dân rằng: “Phép Rửa cũng sẽ làm cho anh chị em trở thành vua chúc, tư tế và ngôn sứ” (Homily 3, 5 on Second Corinthians).
Từ đó đã xuất phát nhiệm vụ truyền giáo nồng cốt, vì mỗi một người có trách nhiệm ở một mức độ nào đó đối với phần rỗi của kẻ khác: “Đó là nguyên tắc cho đời sống xã hội của chúng ta… không phải chỉ liên quan tới bản thân chúng ta mà thôi” (Homily 9, 2 on Genesis). Điều này xẩy ra giữa hai cực, đó là Giáo Hội lớn lao và “Giáo Hội thu nhỏ” là gia đình, trong một mối liên hệ hỗ tương.
Anh chị em thân mến, như anh chị em có thể thấy được bài học của Thánh Gioan Kim Khẩu về sự hiện diện Kitô giáo chân thực của thành phần tín hữu giáo dân trong gia đình cũng như xã hội vẫn còn là những gì hợp thời cả cho đến ngày nay. Chúng ta hãy cầu xin Chúa hãy làm cho chúng ta dễ dạy trước những giáo huấn của bậc đại Sư của đức tin này.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/audiences/2007/documents/hf_ben-xvi_aud_20070919_en.html
Thứ Năm
Bài Ðọc I: Ds 21, 4-9 "Kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống".
Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11 "Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".
Phúc Âm: Ga 3, 13-17 "Con Người phải bị treo lên".
Dưới thời hoàng đế Hérachius I, những người Ba Tư xâm chiếm Giêrusalem và lấy mất phần chính của Thánh Giá thật mà thánh Hélène, mẹ của hoàng đế Constantin đã để lại. Hérachius nhất định chiếm lại Thánh Giá này. Ngài cầu nguyện, xin Chúa giúp đỡ và nung nấu lòng can đảm. Quả nhiên, lời cầu xin của nhà vua đã được Chúa chấp thuận, ngài đã đánh bại được quân Ba Tư và trở về Constantinople giữa tiếng reo hò của dân chúng. Với những cành Olive, những ngọn đuốc cháy sáng, Thánh Giá thật của Chúa đã được tôn vinh trong bầu khí khải hoàn. Hoàng đế tràn trề sung sướng muốn trở về Giêrusalem với Thánh Giá này sau 14 năm lưu lạc. Nhà vua tiến vào thành thánh, nhưng trước khi lên núi Sọ, ngài đã không thể bước đi được nữa, khiến cho mọi người đều kinh ngạc sợ hãi. Giáo trưởng Zachazie hô lớn: "Tâu đức vua, chắc chắn phẩm phục của đức vua không xứng đáng với cảnh nghèo nàn và khiêm nhượng của Chúa Giêsu khi vác Thánh Giá".
Hérachius vội cởi bỏ phẩm phục sang trọng, và thay bằng vào bộ quần áo nghèo hèn. Tức thì nhà vua cất bước một cách dễ dàng... và để ra sự khải hoàn, Chúa đã ban nhiều phép lạ cả thể trong ngày ấy.
Từ đó, lễ kính Thánh Giá Chúa Giêsu được lập ra để nhắc nhớ cho các thế hệ kỷ niệm ngày này.
Chúa Giêsu đã hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người
ĐTC Gioan Phaolô II - Bài Giáo Lý 7 về Từng Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa - Thứ Tư ngày 4-2-1998
C |
húa Kitô đã tỏ mình ra, nơi trọn cuộc sống trần gian của Người, như là một Đấng Cứu Thế được Chúa Cha sai đến để cứu chuộc thế giới. Chính tên “Giêsu” của Người cũng đã nói lên sứ vụ này của Người. Tên gọi này thực sự có nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ”.
Đây là một tên gọi Người đã được đặt cho như trời cao chỉ định: cả Mẹ Maria và thánh Giuse (Lk.1:31; Mt.1:21) đều nhận được lệnh đặt tên này cho Người. Trong sứ điệp dành cho thánh Giuse, ý nghĩa của tên gọi này còn được giải thích là: “vì Người sẽ cứu dân Người cho khỏi tội lỗi của họ”
2- Chúa Kitô đã xác định sứ vụ cúu chuộc của Người như là một việc phục vụ, một việc phục vụ sẽ được bộc lộ tuyệt vời nhất nơi việc Người hiến mạng sống mình cho nhân loại: “Vì Con Người đến không phải để được phục vụ mà là để phục vụ và để hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người” (Mk.10:45; Mt.20:28). Những lời này, được nói lên để đối lại với xu hướng nơi các tông đồ trong việc tìm kiếm chỗ nhất trong nước trời, chỉ có ý làm thức tỉnh nơi các vị một tâm thức mới, một tâm thức hợp hơn với tâm thức của Người là Thày của các vị .
Trong Sách Tiên Tri Daniel, nhân vật được diễn tả như một “nhân vật là con người” tỏ hiện đầy những hiển vinh xứng với các vị lãnh đạo được cả thế giới tôn kính: “mọi dân tộc, đất nước và ngôn ngữ sẽ phục vụ người” (Dn 7:14). Chúa Giêsu đã đối chiếu nhân vật này tương phản với Con Người, Đấng đặt mình vào vị thế phục vụ mọi người. Là một ngôi vị thần linh, Người hoàn toàn có quyền được hầu hạ. Thế nhưng, khi nói mình đã “đến để phục vụ”, Người cho thấy tính cách nghịch đảo nơi hành vi của Thiên Chúa: tức là, mặc dầu Người có quyền lợi và quyền năng làm cho mình được hầu hạ, Người cũng tự đặt mình “ở vị thế phục vụ” tạo vật của Người.
Chúa Giêsu đã nói lên ước vọng phục vụ này một cách hùng hồn và cảm
kích ở Bữa Tiệc Ly, khi Người rửa chân cho các môn đệ của Người, một
tàc động tiêu biểu sẽ trở thành một luật sống muôn đời lưu lại trong
ký ức các môn đệ: “Các con cũng phải rửa chân cho nhau” (Jn.13:14).
3- Khi nói Con Người đến để hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người, Chúa Giêsu ám chỉ đến lời tiên tri về Người Tôi Tớ thương đau là Đấng “hiến mình làm của lễ đền tội” (Is.53:10). Đây là một hy tế con người, hoàn toàn khác hẳn với những hy tế con vật trong việc phụng thờ xưa kia. Đó là sự sống được trao ban “như giá chuộc cho nhiều người”, tức là, cho muôn vàn con người, cho “tất cả mọi người”.
Như thế, Chúa Giêsu xuất thân như Đấng Cứu Chuộc hoàn vũ: tức là tất cả mọi người, theo ý định thần linh, được chuộc lại, được giải thoát và được cứu độ bởi Người. Thánh Phaolô nói: “Vì tất cả đã phạm tội và làm mất đi vinh hiển của Thiên Chúa, mà họ đã được công chính hóa, nhờ ơn sủng như một tặng ân của Người, do ơn cứu độ nơi Chúa Giêsu Kitô” (Rm 3:24). Ơn cứu độ là một tặng ân mỗi người có thể nhận lãnh theo lòng muốn tự do và việc tự nguyện cộng tác của mình.
4- Là một Đấng Cứu Chuộc hoàn vũ, Chúa Kitô cũng là Đấng Cứu Chuộc duy nhất. Thánh Phêrô đã minh xác chân lý này: “Ơn cứu độ không có nơi một người nào cả, vì không có một danh hiệu nào khác dưới gầm trời này được ban cho con người để nhờ đó chúng ta được cứu độ” (Acts 4:12).
Tương tự như thế, Người cũng được tuyên xưng là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, như Thư Thứ Nhất gửi Timôthêu xác quyết: “Vì chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, và chỉ có một Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, đó là con người Giêsu Kitô, Đấng đã hiến mình làm giá chuộc cho tất cả mọi người” (1Tim.2:5-6). Là Thiên-Chúa-làm-Người, Chúa Giêsu là vị trung gian tuyệt hảo, Đấng nối kết con người với Thiên Chúa, mang lại cho họ những thiện hảo của ơn cứu độ và sự sống thần linh. Đây là một sự trung gian đặc thù, loại trừ mọi thứ trung gian tương khắc hay tương đương, mặc dù nó cũng tương hợp với những thể thức tham dự vào việc làm trung gian (x.Thông Điệp Redemptoris Missio, đoạn 5).
Như thế, bất cứ nguồn mạch hay đường lối cứu độ tự động nào khác cũng không thể nào chấp nhận được, nếu tách biệt khỏi Chúa Kitô. Bởi vậy, nơi những tôn giáo lớn, những tôn giáo được Giáo Hội tôn trọng theo tinh thần của Công Đồng Chung Vaticanô II, Kitô hữu nhận thấy có những yếu tố cứu độ, những yếu tố dù sao cũng chịu ảnh hưởng ân sủng của Chúa Kitô. Thế nên, những tôn giáo này, nhờ tác động nhiệm mầu của Chúa Thánh Thần là Đấng “muốn thổi đâu thì thổi” (Jn.3:8), có thể trợ giúp con người trên con đường tiến đến hạnh phúc đời đời, tuy nhiên, vai trò trợ giúp này cũng là hoa trái từ hoạt động cứu độ của Chúa Kitô. Đối với các tôn giáo khác, Chúa Kitô Cứu Thế cũng nhiệm mầu hoạt động là như thế. Trong công việc này, Người liên kết mình với Giáo Hội, một Giáo Hội được hiểu là “bí tích hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp nhất nơi toàn thể con người” (Hiến Chế Lumen Gentium, đoạn 1).
5- Tôi muốn kết thúc ở đây bằng một đoạn văn tuyệt vời trong Cuốn Thành Thật Sùng Kính Mẹ Maria của Thánh Louis de Montfort, một đoạn văn nói lên đức tin Kitô học của Giáo Hội: “Chúa Giêsu Kitô là Alpha và Omega, là nguyên thủy và là cùng đích mọi sự... Người là thày dạy duy nhất mà chúng ta phải học hỏi; là Chúa duy nhất chúng ta phải lụy thuộc; là Đầu duy nhất chúng ta phải hiệp nhất và là mẫu mực duy nhất chúng ta phải bắt chước. Người là Thày Thuốc duy nhất có thể chữa lành chúng ta; là Mục Tử duy nhất có thể nuôi dưỡng chúng ta; là Đường Lối duy nhất có thể dẫn dắt chúng ta; là Sự Thật duy nhất chúng ta có thể tin tưởng; là Sự Sống duy nhất có thể làm chúng ta linh hoạt. Một mình Người là tất cả cho chúng ta và một mình Người mới có thể thỏa mãn mọi ước vọng của chúng ta... Mỗi người tín hữu không liên kết với Người thì giống như một cành nho tách lìa khỏi thân nho. Nó rụng xuống, héo tàn và chỉ đáng quăng vào lửa. Nếu chúng ta sống trong Chúa Giêsu và Chúa Giêsu sống trong chúng ta, chúng ta khỏi phải sợ bị trầm luân. Dù các thần trời hay ngục qủi, hay bất cứ một tạo vật nào đi nữa có thể hãm hại chúng ta, vì không một loại thụ sinh nào có thể phân cách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Nhờ Người, với Người và trong Người, chúng ta có thể làm được mọi sự và qui mọi danh dự cùng vinh quang về cho Chúa Cha hiệp nhất với Chúa Thánh Thần; chúng ta có thể trở nên hoàn hảo và trở thành hương thơm sự sống đời đời cho anh em của mình” (đoạn 61).
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 11/2/1998)
Phụng Vụ Lời Chúa ngày trong tuần cho năm không trùng với Lễ Suy Tôn Thánh Giá 14/9
Bài Ðọc I: (Năm I) Cl 3, 12-17
"Anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau, nếu người này có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện.
Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em, sự bình an mà anh em đã được kêu gọi tới để làm nên một thân thể. Anh em hãy cảm tạ Thiên Chúa. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em.
Với tất cả sự khôn ngoan, anh em hãy học hỏi và nhủ bảo lẫn nhau. Hãy dùng những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca của Thần khí, cùng với lòng tri ân, để hát mừng Thiên Chúa trong lòng anh em. Và tất cả những gì anh em làm, trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện, anh em hãy làm vì danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 150, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Phàm vật chi có hơi thở, hãy ngợi khen Thiên Chúa (c. 6).
Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa trong thánh đài của Chúa, ngợi khen Chúa nơi thanh không cao cả của Người. Hãy ngợi khen Người vì những kỳ công vĩ đại, ngợi khen Người bởi sự Người tuyệt đối oai nghiêm. - Ðáp.
2) Hãy ngợi khen Chúa với tiếng kèn rầm rộ, ngợi khen Người với cây đàn sắt, đàn cầm, hãy ngợi khen Người với trống rung và ca vũ, ngợi khen Người với tơ đàn, với ống tiêu. - Ðáp.
3) Hãy ngợi khen Người với âm vang não bạt, ngợi khen Người với tiếng rền rĩ mã-la. Phàm vật chi có hơi thở, hãy ngợi khen Thiên Chúa. - Ðáp.
Alleluia: 2 Cr 5, 19
Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa ở trong Ðức Kitô đã giải hoà thế gian với Người, và đã đặt lời giải hoà trên môi miệng chúng tôi. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 27-38
"Các con hãy tỏ lòng thương xót như Cha các con hay thương xót".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại.
Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng.
Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác.
Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được thứ tha. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Bản Thánh Ca Thương Xót
Tiếp tục đề
tài sống
trọn lành hay sống cảm thương với các môn đệ, nhất là với thành phần
12 vị vừa được tuyển chọn làm tông đồ của
mình, Chúa
Giêsu đã đi thẳng và đi ngay vào những gì chính yếu nhất và thiết
yếu nhất Người muốn nói với các vị và muốn các vị sống như
vậy.
Thật thế, ngay sau khi mở màn như một dạo khúc cho bài huấn dụ trọn lành cũng là bài huấn dụ về lòng cảm thương này, một dạo khúc bao gồm 4 "phúc" hạnh và 4 "khốn" nạn tương phản nhau, một dạo khúc đã được Chúa Giêsu tài tình hòa âm cho hai bè hát xung khắc nhau, nhưng một khi trình diễn với tất cả hồn sống của mình thì chính ca sĩ mới cảm thấy thấm thía hơn bao giờ hết, nhất là khi hát đến các phiên khúc chính yếu và các kết thúc của bản thánh ca thương xót huyền diệu siêu vời này.
Bản Thánh Ca Thương Xót này, mà điệp khúc là phần hòa âm hai bè "phúc/khốn" đầy tính chất giằng co nhức nhối, có tất cả 2 phiên khúc và 2 đoạn kết thứ tự được liệt kê như sau:
Bài Thánh Ca Thương Xót - Phiên
khúc thứ
nhất:
"Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ
ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu
nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả con má bên này, thì đưa cả
má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo
trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi
lại".
Bài Thánh Ca
Thương Xót - Phiên
khúc thứ
hai:
"Các con muốn
người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy.
Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả
những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn
cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người
tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông
người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng
cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng".
Bài Thánh Ca Thương Xót - Đoạn tạm kết:
"Vậy các con hãy
yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần
thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng
Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian
ác".
Bài Thánh Ca Thương Xót - Đoạn tận kết:
"Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được thứ tha. Hãy ban tặng, thì các con sẽ tặng lại; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".
Tất cả nội dung và ý nghĩa của bản Thánh Ca Thương Xót này, tức là tột đỉnh của bản Thánh Cha Trọn Lành này đều được cô đọng ở chung đoạn tổng kết và ở riêng câu đầu của đoạn tổng kết ấy, đó là: "các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ". Mà "nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ" ở chỗ nào, nếu không phải, cũng trong đoạn tổng kết, ở 4 thái độ thứ tự là: 1- "Ðừng xét đoán", 2- "Ðừng kết án", 3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng".
Trong 4 thái độ để phản ảnh lòng nhân từ của Cha trên trời xót thương nhân loại vừa được tóm kết trên đây, có 2 thái độ mang tính cách tránh những gì là tiêu cực: 1- "Ðừng xét đoán", 2- "Ðừng kết án", và 2 thái độ có tính cách thực hiện những gì là tích cực: 3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng".
1- "Ðừng xét đoán" và 2- "Ðừng kết án": bởi vì, "Thiên Chúa không sai Con Ngài đến thế gian để luận án thế gian nhưng là để thế gian nhờ Người mà được cứu độ" (Gioan 3:16). Bởi vậy, những ai muốn "thương xót như Cha thương xót", nhất là thành phần môn đệ của Chúa Kitô được Người tuyển chọn làm chứng nhân cho Người, cũng "đừng xét đoán" và "đừng kết án".
3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng": bởi vì, "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến ban Người Con duy nhất của Ngài, để ai tin vào Người thì không phải chết ("tha thứ") nhưng được sự sống đời đời ("ban tặng")" (Gioan 3:16). Bởi vậy, những ai muốn "thương xót như Cha thương xót", nhất là thành phần môn đệ của Chúa Kitô được Người tuyển chọn làm chứng nhân cho Người, cũng "hãy tha thứ" và "hãy ban tặng", ở chỗ vừa "tha thứ" vừa "ban tặng" đúng như phiên khúc 1 đã khuyên dạy: "(Tha Thứ) - Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. (Ban Tặng) - Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại".
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tm 1, 1-2. 12-14
"Trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót".
Khởi đầu thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Timôthêu.
Phaolô, Tông đồ của Ðức Giêsu Kitô theo mệnh lệnh của Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, và của Ðức Giêsu Kitô, niềm hy vọng của chúng ta, gửi lời thăm Timôthêu, người con yêu dấu trong đức tin. Nguyện xin ân sủng, lòng từ bi và bình an của Thiên Chúa Cha, và của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ở cùng con! Cha cảm tạ Ðấng đã ban sức mạnh cho cha, là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì Người đã kể cha là người trung tín, khi đặt cha thi hành chức vụ: dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót, vì cha vô tình làm những sự ấy trong lúc cha chưa tin. Nhưng ân sủng của Chúa chúng ta đã tràn lan dồi dào, cùng với đức tin và đức mến, trong Ðức Giêsu Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 11
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của con (c. 5a).
Xướng: 1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa; con thưa cùng Chúa: "Ngài là Chúa tể con, Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con". - Ðáp.
2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.
3) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 39-42
"Người mù có thể dẫn người mù được chăng?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi.
"Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: "Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh", trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi. Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Lễ Nhớ Đức Mẹ Đau Thương 15/9
Mẹ Maria Liên Kết Bản Thân vào Hy
Tế của Chúa Giêsu
ĐTC GPII buổi Triều Kiến Chung
Thứ Tư ngày 2/4/1997
1.- Regina ceali laetare, alleluia! (Hãy vui lên, hỡi Nữ Vương Thiên
Đàng hãy vui mừng!)
Giáo Hội đã xướng lên như thế trong
Mùa Phục Sinh đây, kêu gọi tín hữu hãy dự phần vào niềm vui thiêng
liêng của Mẹ Maria, Mẹ Đấng Cứu Chuộc. Niềm hân hoan của Đức Trinh
Nữ trong việc Phục Sinh của Chúa Kitô còn cao cả hơn nữa, nếu người
ta xét đến việc Mẹ sâu xa tham dự vào cả cuộc sống của Chúa Giêsu.
Trong việc chấp nhận bằng tất cả tấm lòng cởi mở trước những lời của
Thiên Thần Gabiên, vị truyền tin cho Mẹ rằng Mẹ sẽ trở nên Mẹ Đấng
Thiên Sai, Mẹ Maria đã bắt đầu tham dự vào thảm kịch Cứu Chuộc. Việc
Mẹ gắn liền với hy tế Con của Mẹ, được Simêon tiết lộ cho biết ở
việc Mẹ dâng Con Mẹ trong Đền Thờ, tiếp tục chẳng những trong đoạn
Phúc Âm trình thuật về việc lạc mất rồi tìm thấy thiếu nhi Giêsu 12
tuổi, mà còn suốt cả cuộc đời sống công khai của Người nữa.
Tuy nhiên, việc Đức Trinh Nữ liên kết với sứ vụ của Chúa Kitô chỉ
đạt đến tột đỉnh của mình ở Giêrusalem, vào lúc Khổ Nạn và Tử Giá
của Chúa Kitô mà thôi. Như Phúc Âm Thứ Bốn chứng thực, Mẹ cũng đã có
mặt ở Thành Thánh vào lúc có thể là thời gian cử hành lễ Vượt Qua
của người Do Thái.
2.- Công Đồng đã nhấn mạnh đến khía cạnh sâu xa của việc Đức Trinh
Nữ hiện diện ở đồi Canvê, khi nhắc nhở rằng: “Mẹ kiên trì một cách
trung thành trong việc hiệp nhất với Con Mẹ cho đến chân cây Thập
Giá” (Lumen Gentium, 58), và vạch ra cho thấy là cuộc hiệp nhất này
“nơi công cuộc cứu độ được bộc lộ từ lúc Chúa Kitô hoài thai cho đến
khi chết đi” (cùng nguồn vừa trích dẫn, 57).
Với ánh mắt được soi chiếu bằng ánh quang Phục Sinh, chúng ta hãy
lặng thinh để suy niệm về việc Người Mẹ tham dự vào Cuộc Khổ Nạn cứu
chuộc của Con mình, một cuộc khổ nạn được hoàn tất bằng việc Mẹ
thông phần vào cuộc khổ đau của Người. Một lần nữa chúng ta hãy trở
lại, nhưng giờ đây theo quan điểm của biến cố Phục Sinh, với cây
Thập Giá là nơi Người Mẹ này đã chịu đựng “cùng với Người Con duy
nhất của mình cơn khổ đau thống thiết của Người, bằng việc liên kết
bản thân Mẹ với hy tế của Người trong lòng của Mẹ, và bằng việc sẵn
lòng đồng ý với việc sát tế của hy vật được Mẹ sinh ra đó” (cùng
nguồn vừa dẫn, 58).
Bằng những lời này, Công Đồng nhắc nhở chúng ta về “lòng thương cảm
của Mẹ Maria”; tất cả những gì Chúa Giêsu phải chịu đựng nơi thân
xác và linh hồn của Người đều dội lại nơi trái tim Mẹ, vì Mẹ sẵn
lòng thông phần vào hy tế cứu chuộc của Con Mẹ và liên kết nỗi đau
khổ mẫu thân của Mẹ với lễ dâng tư tế của Người.
Bản văn của Công Đồng còn nhấn mạnh rằng việc ưng thuận của Mẹ cho
việc Chúa Giêsu sát tế không phải là một việc chấp nhận một cách thụ
động, mà là một tác động yêu thương đích thực, một tác động Mẹ thực
hiện để hiến dâng Con Mẹ như là một “hy vật” đền bù tội lỗi của tất
cả nhân loại.
Sau hết, Hiến Chế Lumen Gentium đã liên kết Đức Trinh Nữ với Chúa
Kitô, Đấng đóng vai trò chính yếu trong việc Cứu Chuộc, bằng cách
cho thấy rằng trong việc gắn bó bản thân mình “với hy tế của Người”,
Mẹ đã đóng vai trò phụ trợ cho Người Con thần linh của Mẹ.
3.- Ở Phúc Âm Thứ Bốn, Thánh Gioan viết rằng “đứng bên Thập Giá của
Chúa Giêsu có Mẹ của Người, cùng người chị em của Mẹ Người là Maria
vợ Clêôpha, và Maria Mai-Đệ-Liên” (19:25). Sử dụng động từ “đứng”,
theo nghĩa đen có nghĩa là “ở trên đôi bàn chân”, là “thẳng đứng”,
có lẽ vị Thánh Ký này muốn cho thấy tư cách và sức mạnh được tỏ ra
nơi nỗi buồn khổ của Mẹ Maria và của hai người nữ kia.
Việc Đức Trinh Nữ “thẳng đứng” dưới chân Thập Giá đã nhắc lại việc
Mẹ không ngừng trung thành và can đảm phi thường khi đối diện với
khổ đau. Nơi những biến cố thảm thương ở đồi Canvê, Mẹ Maria vẫn
vững tin, một đức tin kiên cường qua những biến cố của đời Mẹ, nhất
là trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Công Đồng nhắc lại rằng
“Đức Trinh Nữ tiến tới trong cuộc hành trình đức tin của Mẹ và trung
thành bảo trì việc Mẹ hiệp nhất với Con Mẹ cho đến chân cây Thập
Giá” (Lumen Gentium, 58).
Chia sẻ với những cảm xúc sâu xa nhất của Người, Mẹ đã phản ngược
lại những xỉ nhục ngạo mạn nhắm vào Đấng Thiên Sai bị đóng đinh,
bằng sự chịu đựng và bằng một tấm lòng thứ tha, liên kết mình với
lời Người nguyện cầu cùng Cha: “Xin tha cho họ, vì họ không biết
việc họ làm” (Lk 23:34). Trong việc thông phần vào cảm thức phó mình
cho ý muốn của Chúa Cha, qua lời cuối cùng Chúa Giêsu bày tỏ trên
Thập Giá: “Lạy Cha, Con xin phó thần trí Con trong tay Cha” (Lk
23:46), Mẹ cũng đã, như Công Đồng ghi nhận, tỏ ra lòng mến yêu ưng
thuận của mình “về việc sát tế của hy vật được sinh ra bởi Mẹ ấy”
(Lumen Gentium, 58).
4.- Lời “xin vâng” hết mình của Mẹ Maria này đã chiếu tỏa niềm hy
vọng tin tưởng nơi một tương lai huyền nhiệm, một tương lai được bắt
đầu với cái chết của Người Con tử giá của Mẹ. Những lời Chúa Giêsu
dạy các môn đệ trong cuộc hành trình lên Giêrusalem là “Con Người
phải chịu nhiều khổ đau, bị các kỳ lão, trưởng tế và luật sĩ loại
trừ, rồi bị giết chết, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại” đã vang
vọng nơi trái tim Mẹ vào giờ khắc thảm thiết trên đồi Canvê, khi
khơi lên niềm mong đợi và hướng vọng Phục Sinh.
Niềm hy vọng của Mẹ Maria dưới chân Thập Giá chất chứa một thứ ánh
sáng mạnh hơn thứ bóng tối cai trị nơi nhiều cõi lòng, ở chỗ, trong
việc Hy Tế cứu chuộc được thực hiện, niềm hy vọng của Giáo Hội cũng
như của nhân loại đã được phát sinh nơi Mẹ Maria.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh,
BVL, dịch từ
Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ ngày 9/4/1997)
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Những cao thủ hiệp sĩ mù
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXIII Thường Niên, Thánh ký Luca tiếp tục thuật lại Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Người về lòng "cảm thương như Cha thương xót", mô phạm tối cao của chung nhân loại, của riêng thành phần con cái của Cha trên trời và nhất là của thành phần môn đệ Chúa Kitô, thành phần tông đồ làm chứng cho Chúa Kitô.
Ý tưởng chính trong bài Phúc Âm hôm nay đó là câu Chúa Giêsu nói ở ngay đầu: "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư?" Ngay sau câu này, Chúa Giêsu còn thêm một câu nữa, đó là: "Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi", như thế có nghĩa là gì, câu trước và câu sau có liên hệ gì với nhau chăng?
Tất nhiên một khi Chúa Giêsu đã nói là phải có ý nghĩa của nó, phải có lý của nó. Phải chăng ở đây Người có ý nói rằng người mù không thể nào dẫn người mù được, chắc chắn cả hai sẽ lọt xuống hố mà thôi?
Bởi vậy, con người cần phải học hỏi bởi những người khôn ngoan hơn, cần được họ dẫn dắt như là những bậc sư phụ của mình, đặc biệt là Chúa Giêsu, một Đại Sư đệ nhất thiên hạ, là chính "chân lý" (Gioan 14:6), thì mới có thể tránh được lầm lỗi, thất bại, và nếu con người làm trò tỏ ra biết dễ dạy lắng nghe tuân thủ những gì được các bậc sư phụ khôn ngoan hướng dẫn thì con người mới có thể đạt tới chỗ khôn ngoan "hoàn hảo" như bậc thày của mình.
Một trong những trường hợp hay khuynh hướng chứng thực con người vốn sống mù quáng, đó là con người không "tri kỷ tri bỉ", không biết mình biết người, như Chúa Giêsu đã nêu lên trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái
đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói
với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt
anh', trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi.
Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy
giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi".
Thật thế, theo tâm lý tự nhiên, thường ai cũng cho mình là hay là tốt, hiếm người hay ít người tự nhận mình là kém tài kém đức thua nhiều người khác. Thậm chí miệng nói tôi tài hèn sức mọn, ấy thế mà không được trọng dụng thì bất mãn, hay thấy ai nổi hơn mình thì chọc phá tìm cách hạ bệ. Hoặc bị phê bình hay chê trách là choảng lại liền, hay đổ lỗi cho người khác hoặc cho hoàn cảnh, vì lý do kỹ thuật v.v.
Với tâm tính đầy tự cao tự đại và nặng tự ái như thế, con người tự nhiên chẳng những tìm cách bênh vực mình bao nhiêu có thể trong mọi sự, không muốn bị ai dò xét, không muốn bị người nào bình phẩm hay đụng chạm tới, ngược lại, họ cứ thích pha mình vào cuộc đời của người khác, ở chỗ xét đoán người khác, thường là xét đoán xấu hơn là xét đoán tốt, thậm chí còn tự suy diễn và kết tội người khác, chẳng những trong lòng của họ mà còn công khai trước cộng đồng của họ nữa.
Nếu người ta đeo kính râm thì nhìn mọi sự mờ mờ hơn là sáng tỏ thế nào, thì bản chất con người vốn hướng hạ và hướng xấu, nhất là dễ tin những điều xấu hơn điều tốt, họ sẽ thấy anh chị em của mình một cách thiển cận, không rõ ràng, thậm chí còn có khuynh hướng suy bụng ta ra bụng người nữa - mình xấu thì không ai được tốt hơn. Đó là lý do nguyên tắc và đường lối sáng suốt khôn ngoan mà Vị Đại Sư dạy trong bài Phúc Âm hôm nay cần phải được áp dụng: "hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi".
Chính vì con người rất khó bỏ tật xét đoán tha nhân một cách thiển cận và ngặt nghèo mà, theo tu đức, vì lòng nhân từ của mình, muốn cho một tâm hồn nào đó biết mình, nhờ đó họ không dám khinh người nào nữa, Cha trên trời hay sử dụng chiêu "các con lấy đấu nào mà đong cho ai thì sẽ bị đong lại cho đấu ấy" (Mathêu 7:2). Cái đấu ấy cũng có thể là chính lòng thương xót: "Ai có lòng xót thương ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được thương xót vậy" (Mathêu 5:7).
Cha trên trời hay sử dụng chiêu "các con lấy đấu nào mà đong cho ai thì sẽ bị đong lại cho đấu ấy" (Mathêu 7:2) bằng cách để cho người xét đoán xấu cho anh chị em mình bị người khác xét đoán xấu y như vậy hay hơn vậy nữa. Nếu nạn nhân bị người khác đong trả cho đấu mà họ đong cho người khác, bấy giờ, tâm hồn thiện chí thấy được Thiên Chúa thật tốt lành, đã sử dụng chính những xét đoán xấu của người khác để làm cho họ mở mắt ra không dám xét đoán xấu cho ai nữa, trái lại, hoàn toàn thông cảm với mọi người hơn trước, không dám khinh thường một ai.
Thứ Bảy
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tm 1, 15-17
"Người đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Lời nói chân thật và đáng tiếp nhận mọi đàng là: Ðức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này, để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất. Vì thế, cha được hưởng nhờ ơn thương xót, là Ðức Giêsu Kitô tỏ ra tất cả lòng khoan dung trong cha trước hết, để nêu gương cho những ai sẽ tin vào Người hầu được sống đời đời. (Nguyện) danh dự và vinh quang (quy về) Thiên Chúa độc nhất, hằng sống, vô hình, là Vua muôn đời! Amen.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 112, 1-2. 3-4. 5a và 6-7
Ðáp: Nguyện danh Chúa được chúc tụng đến muôn đời (x. c. 2).
Xướng: 1) Hãy ngợi khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời. - Ðáp.
2) Từ mặt trời mọc lên tới khi lặn xuống, nguyện cho danh Chúa được ngợi khen. Chúa siêu việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời, là vinh quang của Chúa. - Ðáp.
3) Ai được như Thiên Chúa chúng tôi, Người để mắt nhìn coi khắp cả trên trời dưới đất? Người nâng kẻ hèn hạ lên khỏi trần ai, và rước người nghèo khó khỏi nơi phẩn thổ. - Ðáp.
Alleluia: x. Cv 16, 14b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 43-49
"Tại sao các con gọi Thầy "Lạy Chúa, lạy Chúa", mà không thi hành điều Thầy dạy bảo?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái trái vả nơi bụi gai, và người ta cũng không hái trái nho nơi cây dâu đất. Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, và kẻ xấu phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của nó, vì lòng đầy thì miệng mới nói ra. Tại sao các con gọi Thầy: "Lạy Chúa, lạy Chúa", mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành. Thầy sẽ chỉ cho các con biết người ấy giống ai. Người ấy giống như người xây nhà: ông ta đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá. Trái lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống như người xây nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào nhà, nó liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề".
Ðó là lời Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần XXIII Thường Niên, là phần kết của những lời Chúa Giêsu huấn dụ các môn đệ của Người về đời sống trọn lành bằng Lòng Thương Xót như Cha trên trời, cho dù bài Phúc Âm hôm nay không trực tiếp đến chủ đề chính yếu ấy. Tuy nhiên, không phải vì bài Phúc Âm hôm nay không trực tiếp đến chủ đề chính yếu ấy mà Chúa Giêsu không nói đến như một phần bất khả thiếu của tất cả những gì Người muốn huấn dụ thành phần môn đệ của Người, bằng không, bài huấn dụ quan trọng này có thể sẽ trở thành vô bổ.
Chủ ý Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở trong bài Phúc Âm hôm nay đó là hãy đem những gì Người truyền dạy ra thực hành chứ đừng nghe xuông thì chẳng bổ ích chi: "Tại sao các con gọi Thầy: 'Lạy Chúa, lạy Chúa', mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành".
Qua câu vừa có tính cách chất vấn (khúc đầu) vừa có tính cách khẳng định (khúc cuối) này, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ vừa nghe xong chủ đề sống lòng thương xót như Cha trên trời rằng: nếu các con coi Thày là Thày của các con thì các con hãy thi hành những gì Thày đã truyền dạy cho các con, như thế các con mới chứng tỏ các con quả thực là môn đệ của Thày và thật sự muốn theo Thày.
Không biết khi nói câu này, Chúa Giêsu có nghĩ đến một trong thành phần 12 tông đồ được Người tuyển chọn sau cả một đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa là Giuđa Íchca hay chăng? Bởi vì, nếu người tông đồ được liệt kê cuối cùng này đem những gì Người truyền dạy ra thực hành thì người tông đồ đáng thương này đã không đi đến chỗ phản nộp Người.
Phải chăng đó là lý do ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã nêu lên nguyên tắc "trong sao ngoài vậy" và đường lối "xem quả biết cây" để thấy được chân tướng của những ai có thực hành lời Người hay chăng và họ để cho lời của Người tác dụng nơi họ hay chăng:
"Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái trái vả nơi bụi gai, và người ta cũng không hái trái nho nơi cây dâu đất. Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, và kẻ xấu phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của nó, vì lòng đầy thì miệng mới nói ra".
Đường lối xem quả biết cây như thế không phải chỉ liên quan đến thiên nhiên nơi loại thảo mộc mà còn liên quan đến chính vấn đề khôn ngoan và công sức của con người nữa, như trong việc con người có biết xây nhà trên nền tảng vững chắc hay không. Chúa Giêsu đã so sánh thành phần nghe lời của Người mà đem ra thực hành hay không đem ra thực hành như sau:
"Người ấy (Người thực hành lời Chúa) giống như người xây nhà: người ấy đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá. Trái lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống như người xây nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào nhà, nó liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề".
Nếu ở câu đầu bài Phúc Âm hôm nay, khi nói đến nguyên tắc "trong sao ngoài vậy" và đường lối "xem quả biết cây" có thể Chúa Giêsu đã nghĩ đến tông đồ Giuđa Íchca thế nào, thì trong câu Phúc Âm cuối bài này, Chúa Giêsu cũng có thể đã nghĩ đến tông đồ Phêrô sẽ được Người đổi tên là "đá", một người môn đệ cho dù sau này có lỡ chối bỏ Người, nhưng tự bản chất rất chân tình và nhiệt tình, luôn đơn sơ dễ dậy lắng nghe và thực hành lời của Người, như bài Phúc Âm Thứ Năm tuần trước về mẻ cá lạ cho thấy, vẫn được Người đặt làm nền tảng cho Giáo Hội Người thiết lập (xem Mathêu 16:18).
"Đá" liên quan đến tên gọi "Phêrô, con là đá" (Mathêu 16:18) ở đây có một ý nghĩa thiêng liêng hơn là tự nhiên. Thật vậy, theo tự nhiên thì đã là đá thì tự bản chất của nó phải cứng rắn và vững chắc, bằng không không phải là đá, như đã là ánh sáng thì phải chiếu soi, bằng không không phải là ánh sáng. Nhưng "đá" được Chúa Giêsu sử dụng để làm nền tảng cho Giáo Hội Người thiết lập đây lại bao gồm 2 đặc tính hoàn toàn tương phản nhau, ở chỗ vừa cứng lại vừa mềm: mềm ở bản chất của con người lãnh đạo tông đồ đoàn mang tên Simon này, và cứng ở lòng tin tưởng của ngài nơi Đấng đã kêu gọi và tuyển chọn ngài. Đó là lý do Chúa Giêsu đã nhắn nhủ ngài rằng:
"Simôn, Simôn ơi, kìa Satan đã xin được sàng tất cả các con như người ta sàng gạo. Thế nhưng Thầy đã cầu nguyện cho con để con không bị mất lòng tin. Phần con, một khi đã trở lại, con hãy kiên cường củng cố cho anh em của con" (Luca 22:31-32).
Thật ra, tự bản chất của mình, một con người đã nhiễm lây nguyên tội, thì chẳng ai là một thứ cây tốt để có thể sinh ra hoa trái tốt là việc làm của mình hay con cái của mình. Bởi thế, muốn nên tốt thì phải thực hành lời Chúa, phải sống Lời Chúa, vì Lời Chúa là thần linh và là sự sống mới biến đổi con người từ xấu thành tốt, nhờ đó họ mới có thể suy nghĩ, phán đoán, chọn lựa và quyết định một cách chân thực và hoàn hảo theo ý Chúa.
Câu xác quyết của Chúa: "Lòng đầy mới trào ra ngoài miệng" hoàn toàn hợp với tiến trình tâm lý tự nhiên, ở chỗ: việc làm của con người xuất phát từ quyết định của họ (muốn hành động), quyết định của họ lại xuất phát từ việc chọn lựa của họ (chọn lựa giữa 2 sự việc hay hai sự vật khác nhau tùy theo phẩm chất và tác dụng của nó), chọn lựa của họ lại phát xuất từ suy tư tính toán của họ (một trong hai sự vật hay sự việc có lợi hay bất lợi v.v.), và suy tư tính toán của họ lại xuất phát từ chính bản chất của họ hay bị bản chất của chủ thể chi phối, một bản chất bao gồm khuynh hướng hạ thiên về trần tục và khuynh hướng nội thiên về vị kỷ, vốn là một bản chất bị nhiễm lây nguyên tội xấu xa nên chỉ có thể làm những gì xấu, bao gồm cả những sự vật hay sự việc được họ cho là tốt nhưng chưa chắc đã thực sự tốt lành trọn hảo đúng như Thiên Chúa muốn, điển hình là trường hợp của Thánh Phêrô bị trở thành Satan, dù ngài hoàn toàn có ý tốt và chỉ vì mến thương Thày mà thôi (xem Mathêu 16:23), nếu không có ơn Chúa đặc biệt, không được thanh tẩy bởi chính lời Chúa và Thần Linh: "Không ai có thể vào Vương Quốc của Thiên Chúa mà không được sinh lại bởi nước và Thần Linh" (Gioan 3: 5).
Ngày 16: Thánh Cornêliô, Giáo Hoàng và Cyprianô, Giám Mục tử đạo
Thánh Cornêliô sinh trưởng tại Rôma, ngài được nhiều người biết đến về tính hiền hậu và tiết độ. Năm 251, ngài được bầu lên ngôi Giáo Hoàng kế vị Ðức Fabianô giữa lúc con thuyền Giáo Hội đang nghiêng ngửa trong cơn bách đạo của hoàng đế Gallô và Volusianô. Ngoài ra, ngài còn phải đương đầu với ly giáo Novatianô và đã viết nhiều sách nói về những người bội giáo.
Vì trung thành với Chúa Kitô, thánh Cornêliô bị đày ở Civita Vecchia và chịu tử đạo ở đó vào cuối tháng 6 năm 253.
Hôm nay chúng ta mừng lễ thánh Cyprianô. Ngài sinh năm 200 tại Phi Châu trong một gia đình quý phái ngoại giáo. Sau khi trở lại, ngài phân phát hết của cải cho người nghèo. Dù mới trở lại chưa đầy một năm nhưng lòng nhiệt thành và hoạt động truyền giáo của ngài đã vang dội khắp nơi. Ngài được phong chức linh mục và sau đó được gọi giữ chức Giám Mục thành Carthagô. Chính trong thời thánh nhân làm Giám Mục cũng là lúc bạo vương Ðêciô ra tay tàn sát người Công Giáo. Cả Phi Châu sống trong lo sợ. Trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ngài thấy cần phải điều khiển địa phận trong âm thầm hơn là công khai đương đầu với địch thủ, nên đã rút vào nơi bí mật. Bằng những thơ luân lưu, ngài khuyến khích các tín hữu bị tù đày can đảm chịu đau khổ và những người chối đạo trở về với Giáo Hội. Khi cuộc bách hại tạm yên được một thời gian, ngài phải lo kiếm tiền để giải thoát cho hàng trăm ngàn người bị bắt làm nô lệ. Ngoài ra, ngài còn phải đương đầu với ly giáo Novatianô. Ngài viết nhiều sách để kêu gọi họ trở về Giáo Hội.
Năm 257, Valêrianô ban hành sắc lệnh bách hại đạo Công Giáo lần nữa. Thánh Cyprianô bị bắt và đày ở đảo Curubi và người ta buộc ngài phải dâng hương tế thần, nhưng ngài đã cương quyết từ chối. Vì vậy, ngày 14/9/258, ngài được vinh dự lấy máu đào làm chứng cho Chúa.