SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cn 31, 10-13, 19-20. 30-31
"Nàng cần mẫn dùng tay làm việc".
Bài trích sách Châm Ngôn.
Ai tìm được một người vợ tài đức? Nàng đáng giá hơn ngọc ngà. Chồng nàng đặt lòng tin tưởng nơi nàng và chàng không thiếu thốn vật thực. Trọn đời, nàng sẽ mang lại cho chồng sự lành, chứ không phải sự dữ. Nàng tìm lông chiên và sợi gai, rồi nàng cần mẫn dùng tay làm việc. Nàng ra tay đưa thoi dệt vải, và ngón tay nàng cầm xe kéo sợi. Nàng rộng tay bố thí cho người nghèo khó, và giơ tay hướng dẫn kẻ bần cùng.
Duyên dáng thì giả dối và nhan sắc thì hão huyền: Người phụ nữ kính sợ Chúa, sẽ được ca tụng. Hãy tặng cho nàng hoa quả do tay mình làm ra, và sự nghiệp của nàng hãy ca tụng nàng tại các cửa thành.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 127, 1-2. 3. 4-5
Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa (x. c. 1a).
Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người. Công quả tay bạn làm ra bạn được an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Ðáp.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. - Ðáp.
3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Thiên Chúa. Nguyện Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống bạn. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Tx 5, 1-6
"Ngày của Chúa bắt chợt anh em như kẻ trộm".
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, về thời nào và lúc nào, anh em không cần chúng tôi viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ ngày Chúa sẽ đến như kẻ trộm trong đêm tối.
Khi người ta nói rằng: "Yên ổn và an toàn", thì chính lúc đó tai hoạ thình lình giáng xuống trên họ, như cơn đau đớn xảy đến cho người mang thai và họ không sao thoát khỏi. Phần anh em, hỡi anh em thân mến, anh em không còn tối tăm, đến nỗi ngày đó bắt chợt anh em như kẻ trộm, vì tất cả anh em là con cái sự sáng, con cái ban ngày; chúng ta không thuộc về ban đêm và tối tăm. Vậy chúng ta đừng mê ngủ như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và điều độ.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 21, 36
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 25, 14-30
"Vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tuỳ theo khả năng của mỗi người, đoạn ông ra đi.
"Người lãnh năm nén bạc, ra đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. Người lãnh hai nén cũng đi làm lợi được hai nén khác. Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình.
"Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi". Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và nói: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi hai nén bạc; đây tôi đã làm lợi được hai nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
"Còn người lãnh một nén bạc đến và nói: "Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt nơi không gieo và thu nơi ông không phát: nên tôi khiếp sợ (mà) đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Ðây của ông, xin trả lại cho ông". Ông chủ trả lời người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ hư thân và biếng nhác, người đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát: vậy lẽ ra người phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời. Bởi thế, các ngươi hãy lấy nén bạc lại mà trao cho người có mười nén. Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
Ðó là lời Chúa.
Hoặc bài vắn này: Mt 25, 14-15. 19-20
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tuỳ theo khả năng của mỗi người, đoạn ông ra đi.
"Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Một thứ “yên ổn và an toàn” nguy hiểm như thể con người “mê ngủ”, rất dễ bị chụp bắt bởi “đêm tối”
Ý nghĩa của Phụng Vụ Lời Chúa nói chung và Bài Phúc Âm nói riêng cho Chúa Nhật XXXIII Thường Niên hôm nay cũng vẫn tiếp tục chiều hướng tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa, một yếu tố then chốt bất khả thiếu và bất khả phân ly để con người chẳng những được cứu độ, nghĩa là “được sống” mà còn có thể “sống viên mãn hơn” (Gioan 10:10).
Vì tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa đây là gì, nếu không phải, trước hết, là chấp nhận những gì Chúa ban cho mình, đó chính là mạc khải thần linh của Ngài và về Ngài qua giòng Lịch Sử của Dân Do Thái cho “tới thời điểm viên trọn” (Galata 4:4) là thời điểm mạc khải thần linh của Ngài nên trọn nơi Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô Nhập Thể và Vượt Qua.
Và tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa đây còn ở chỗ để cho Ngài chiếm đoạt mình, nhờ đó Ngài muốn làm gì thì làm theo ý muốn tối hậu và toàn thiện của Ngài, và nhờ đó Kitô hữu như cành nho đã sinh hoa trái lại càng sinh hoa trái dồi dào hơn nữa (xem Gioan 15:2) nhờ quyền lực vô biên của Ngài nơi họ như đã thể hiện nơi Đức Maria đầy ơn phúc.
Nếu Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXXII tuần trước liên quan đến 5 cô trình nữ phù dâu khôn ngoan ở chỗ cầm đèn sáng đi đón chàng rể kèm theo cả dầu là lòng cậy trông, thì Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXXIII tuần này liên quan đến thành phần đầy tớ được chủ đi xa trao cho các nén bạc tùy khả năng và sứ vụ để làm lợi cho chủ, nhưng có kẻ quả thực đã làm lợi có kẻ không.
Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao người đầy tớ không sinh lợi cho chủ, nhưng cũng chẳng làm thiệt hại gì của chủ, đã cẩn thận giữ nguyên tất cả những gì chủ trao cho mình để hoàn lại cho chủ một cách nguyên vẹn, mà vẫn bị đời đời trầm luân: “Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng"? Trong trường hợp này phải chăng vị chủ nhân ông này đã là một con người đúng như người đầy tớ bất hạnh này đã nghĩ: “keo kiệt, gặt nơi không gieo và thu nơi ông không phát”?
Vấn đề rắc rối ở đây không phải là vị chủ nhân ông mà là người đầy tớ! Tại sao thế? Tại sao hai người đầy tớ kia không có vấn đề gì với vị chủ nhân ông này mà người cuối cùng lại có, nếu không phải vì hai người đầy tớ này biết phận mình trước nhan Thiên Chúa chủ tể bằng niềm tin vào Ngài, trong khi người đầy tớ bất hạnh ấy không tin tưởng vào vị chủ nhân ông ấy, vị chủ nhân ông rất công minh và quảng đại đã tưởng thưởng xứng đáp cho hai người đầy tớ sinh lợi gấp trăm cho nén bạc được trao cho họ, chứ không “keo kiệt” và bóc lột như người đầy tớ thiển cận và lười biếng gán ghép cho chủ như cái cớ chính đáng để hưởng nhàn, khỏi phải vất vả khó nhọc.
Vấn đề không phải chỉ có thế mà người đầy tớ bị phạt quá nặng như vậy, mà là ở chỗ tận thâm tâm người đầy tớ này quá cao ngạo, không muốn làm đầy tớ, làm tôi cho chủ, để chủ hưởng lợi, còn mình phải vất vả khó nhọc, trái lại, người đầy tớ này muốn làm chủ, hơn làm tôi cho chủ, muốn hoàn toàn theo ý riêng mình hơn là ý chủ, khinh khi những gì chủ trao, không muốn chấp nhận chủ nhân ông của mình, nghĩa là không chấp nhận chủ quyền tối thượng của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình, bằng cách không làm theo ý muốn tối cao của Ngài đối với hắn.
Nếu trong cơn cám dỗ bất phục tùng ấy, người đầy tớ này vẫn cố gắng tỏ ra một chút thiện chí nào đó, một chút thiện chí chứng tỏ hắn cũng tin tưởng cậy trông vào vị chủ nhân ông mà hắn tự hiên có thành kiến xấu theo chủ quan của hắn, thì cuối cùng hắn vẫn được xót thương, căn cứ vào thiện chí của hắn, một thiện chí hắn cố gắng tỏ ra với chủ chẳng khác nào như hắn gửi nén bạc được chủ trao vào ngân hàng để lấy lời, nhờ một chút thiện chí của hắn, một thiện chí đã được chính Lòng Thương Xót Chúa chấp nhận và làm cho sinh hoa kết trái là chính phần rỗi đời đời của hắn.
Nếu Bài Đọc 1 tuần trước nói về sự khôn ngoan giúp cho con người tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa, nhờ đó họ được cứu độ, được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô, thì Bài Đọc 1 tuần này lại nói về “một người vợ tài đức”, ám chỉ tấm lòng gắn bó của loài người với Thiên Chúa, hay nói cách khác, ám chỉ lòng “kính sợ Chúa” nơi con người, một lòng kinh sợ bất khả thiếu để có thể dễ dàng phục tùng Thiên Chúa và phụng sự Ngài, một lòng kính sợ cũng đã được Bài Đáp Ca hôm nay dường như sánh ví như “hiền thê bạn” như sau:
1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người. Công quả tay bạn làm ra bạn được an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn.
3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Thiên Chúa. Nguyện Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống bạn.
Thái độ hưởng nhàn của người đầy tớ bất hạnh trong Bài Phúc Âm hôm nay đã được Thánh Phaolô, trong Thư thứ nhất gửi Giáo Đoàn Thessalonica ở Bài Đọc 2 hôm nay so sánh như là một thứ “yên ổn và an toàn” nguy hiểm như thể con người “mê ngủ”, rất dễ bị chụp bắt bởi “đêm tối”, cần phải “tỉnh thức và điều độ” để khỏi lâm vào số phận vô cùng khốn nạn của ngưòi đầy tớ bất hạnh trong Phúc Âm, như sau:
“Khi người ta nói rằng: ‘Yên ổn và an toàn’, thì chính lúc đó tai hoạ thình lình giáng xuống trên họ, như cơn đau đớn xảy đến cho người mang thai và họ không sao thoát khỏi. Phần anh em, hỡi anh em thân mến, anh em không còn tối tăm, đến nỗi ngày đó bắt chợt anh em như kẻ trộm, vì tất cả anh em là con cái sự sáng, con cái ban ngày; chúng ta không thuộc về ban đêm và tối tăm. Vậy chúng ta đừng mê ngủ như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và điều độ”.
Thứ Hai
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Mcb 1, 11-16. 43-45. 57-60. 65-67
"Dân Israel phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp".
Bài trích sách Macabê quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, bởi dòng các vua Hy-lạp sinh ra một mầm mống tội lỗi, là Antiôcô Êpiphan, con vua Antiôcô, trước kia bị bắt làm con tin tại Rôma; năm vương quốc Hy-lạp một trăm ba mươi bảy, ông lên ngôi vua.
Thời đó từ Israel cũng xuất hiện một số người bất lương mê hoặc được nhiều người, chúng nói rằng: "Này, ta hãy giao ước với các dân ở chung quanh chúng ta, vì từ ngày chúng ta đoạn giao với các dân ấy, chúng ta đã gặp nhiều tai hoạ". Họ cho lời nói ấy là đúng. Một số trong dân chúng hối hả đi yết kiến nhà vua và được nhà vua cho phép tuân giữ các luật lệ của dân ngoại. Họ liền xây cất một thao trường ở Giêrusalem theo tập quán của dân ngoại; họ tìm cách huỷ bỏ vết tích của phép cắt bì, chối bỏ Giao Ước thánh để rồi giao ước với kẻ ngoại. Họ tự bán mình để làm sự dữ.
Vua Antiôcô ra chiếu chỉ khắp nước truyền cho mọi dân hợp thành một dân và mỗi dân phải bỏ tục lệ riêng mình; tất cả các dân ngoại đều tuân lệnh nhà vua. Nhiều người Israel cũng sẵn sàng theo việc phượng tự của nhà vua, họ liền hiến tế cho ngẫu tượng và phế bỏ ngày sabbat.
Ngày rằm tháng Kislêu, năm một trăm bốn mươi lăm, vua Antiôcô đặt một ngẫu tượng ghê tởm ngay trên bàn thờ dâng của lễ toàn thiêu. Người ta cũng lập nhiều bàn thờ khác trong các thành lân cận của Giuđa: người ta đốt hương cúng tế trước cửa nhà và ở các công trường. Hễ gặp thấy sách luật nào, họ xé nát và đem đốt đi. Nếu người ta bắt gặp sách giao ước trong nhà người nào hoặc bắt gặp kẻ nào giữ Luật Chúa, thì kẻ ấy sẽ bị xử tử theo đúng chiếu chỉ của nhà vua. Nhưng cũng có nhiều người Israel tỏ ra kiên quyết, và nhất định không ăn của gì dơ nhớp; họ thà chết chẳng thà làm cho mình ra ô uế bởi của ăn dơ và phạm đến Giao Ước thánh, và quả thực họ đã chết. Dân Israel phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 53. 61. 134. 150. 155. 158
Ðáp: Lạy Chúa, xin bảo toàn cho con sống, và con sẽ tuân giữ lời nghiêm huấn của Ngài (x. c. 88).
Xướng: 1) Con nổi cơn uất hận vì những người tội lỗi, bọn chúng bỏ rơi luật pháp của Ngài. - Ðáp.
2) Thừng chão bọn ác nhân đã trói buộc con, nhưng con chẳng lãng quên luật pháp của Ngài. - Ðáp.
3) Xin Chúa cứu con khỏi người ta áp bức, để con tuân giữ các huấn lệnh của Ngài. - Ðáp.
4) Những kẻ bách hại con cách độc ác đang tiến lại gần, bọn chúng sống xa pháp luật của Chúa. - Ðáp.
5) Ơn cứu độ của Chúa xa bọn ác nhân, vì chúng chẳng lo giữ những thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
6) Nhìn thấy những kẻ phản bội mà con chán nản, vì chúng không tuân giữ lời sấm của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Lc 16, 31
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 18, 35-43
"Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi? - Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa đến gần thành Giêricô, thì có một người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Khi nghe tiếng đám đông đi qua, anh liền hỏi có chuyện gì đó. Người ta nói cho anh biết có Ðức Giêsu Nazareth đang đi qua. Bấy giờ anh liền kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Những người đi trước mắng bảo anh nín đi, nhưng anh lại càng kêu lớn tiếng hơn: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Vậy Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người. Khi anh đến gần bên Người, Người hỏi anh: "Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?" Anh thưa: "Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy". Chúa Giêsu bảo anh: "Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Một con người mù tối mà vẫn thấy được ánh sáng chiếu soi
2) Thừng chão bọn ác nhân đã trói buộc con, nhưng con chẳng lãng quên luật pháp của Ngài.
3) Xin Chúa cứu con khỏi người ta áp bức, để con tuân giữ các huấn lệnh của Ngài.
4) Những kẻ bách hại con cách độc ác đang tiến lại gần, bọn chúng sống xa pháp luật của Chúa.
5) Ơn cứu độ của Chúa xa bọn ác nhân, vì chúng chẳng lo giữ những thánh chỉ của Ngài.
6) Nhìn thấy những kẻ phản bội mà con chán nản, vì chúng không tuân giữ lời sấm của Ngài.
Thứ Ba
Ngày 21 tháng 11
Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ.
(Lễ nhớ)
Bài đọc 1 – Dcr 2, 14-17
"Hỡi thiếu nữ Sion, hãy hân hoan, đây Ta ngự đến".
Bài trích sách Tiên tri Giacaria.
Chúa phán: “Hỡi thiếu nữ Sion hãy ca tụng và hân hoan: vì này đây Ta đến ngự giữa ngươi. Trong ngày ấy, sẽ có nhiều dân tộc quy phục Chúa, họ sẽ là dân Ta và Ta sẽ ngự giữa ngươi. Ngươi sẽ biết rằng Chúa các đạo binh đã sai Ta đến cùng ngươi”. Thiên Chúa sẽ chiếm lấy Giuđa làm sản nghiệp của Người trong thánh địa, và sẽ còn tuyển chọn Giêrusalem. Mọi xác phàm hãy thinh lặng trước nhan thánh Chúa, vì Người đã chỗi dậy trong thành thánh của Người.
Đó là lời Chúa.
Đáp Ca: 1 Sm 2, 1.4-5.6-7.8
Đáp: Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, Đấng Cứu độ tôi (c. 1a).
1) Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, và sức mạnh tôiđược gia tăng trong Thiên Chúa tôi; miệng tôi mở rộng ra trước quân thù, vì tôi reo mừng việc Chúa cứu độ tôi.
2) Chiếc cung những người chiến sĩ đã bị bẻ gãy, và người yếu đuối được mạnh khoẻ thêm. Những kẻ no nê phải làm thuêđộ nhật, và những người đói khát khỏi phải làm thuê; người son sẻ thì sinh năm đẻ bảy, còn kẻ đông con nay phải héo tàn.
3) Chúa làm cho chết và Chúa làm cho sống, Chúa đày xuống Âm phủ và Chúa dẫn ra. Chúa làm cho nghèo và làm cho giàu có, Chúa hạ xuống thấp và Chúa nâng lên cao.
4) Từ nơi cát bụi, Chúa nâng người yếu đuối; từ chỗ phân nhơ, Chúa nhắc kẻ khó nghèo, để cho họ ngồi chung với các vương giả, và cho họ dự phần ngôi báu vinh quang.
Allêluia – Lc 1, 28
All. All. - Kính chào Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ; Trinh Nữ được chúc phúc giữa các người phụ nữ. - All.
PHÚC ÂM – Mt 12, 46-50
"Người giơ tay trên các môn đệ mà nói: Đây là mẹ Ta và là anh em Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu còn đang nói với dân chúng, thì mẹ Người và anh em Người đứng ngoài tìm cách nói chuyện với Người. Có kẻ thưa rằng: "Kìa, mẹ Ngài và anh em Ngài đang đứng tìm Ngài ngoài kia". Nhưng Người trả lời kẻ ấy rằng: "Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta?" Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ mà nói: "Đây là mẹ Ta và là anh em Ta, vì hễ ai làm theo ý Cha Ta trên trời, thì người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta vậy".
Đó là lời Chúa.
Đức
Mẹ dâng mình trong đền thờ
Theo truyền thống Do Thái, người ta thường dâng con trẻ vào đền thờ để được thánh hiến và sau đó con trẻ sẽ ở trong đền thờ một thời gian giúp việc các vị chủ tế... Phúc Âm không đề cập đến thời thơ ấu của Ðức Trinh Nữ Maria. Nhưng theo Thánh Truyền thì Ðức Mẹ cũng đã thi hành tập tục nói trên. Tại đền thánh Giêrusalem, ngài đã thực hành biết bao hy sinh với một tâm hồn quảng đại.
Mười hai năm suy gẫm và cầu nguyện, chính là thời gian chuẩn bị cho chức vụ Mẹ Thiên Chúa. Theo thánh Hiêronimô, chương trình ngày sống của Ðức Mẹ trong đền thờ được phác họa như sau: Từ hừng đông đến 9 giờ sáng, Ngài cầu nguyện; từ 9 giờ sáng đến 3 giờ chiều, Ngài làm việc chân tay và sau đó ngài lại cầu nguyện, sốt sắng suy gẫm Thánh Kinh và siêng năng đọc Thánh Vịnh.
Ngày lễ Mẹ dâng
mình như bước đầu dẫn tới Ðức Khiết Tịnh Kitô giáo. Sau Ngài, biết bao trinh
nữ đã tận hiến toàn thân cho Thiên Chúa. Vì thế Mẹ Maria thực là gương mẫu
bất diệt, là Ðấng bảo trợ nhiệt thành và là Ðấng hướng dẫn chắc chắn trên
đường nhân đức vậy.
Dâng Mình trong Đền Thờ
(Trích Thần Đô Huyền Nhiệm, bản dịch của Phạm Duy Lễ, CRM)
Thánh Gioakim và thánh nữ Anna từ Nagiarét đưa Mẹ lên Đền Thờ Giêrusalem với mấy người thân thuộc đơn sơ. Khi tới Đền Thờ, ông bà cầm tay Con dẫn vào bên trong. Cả ba cùng sốt sắng cầu nguyện, rồi ông bà dâng hiến Mẹ cho Thiên Chúa. Mẹ cũng tự hiến dâng trọn vẹn trót mình dứt khoát cho Người.
Sau khi cầu nguyện, thánh Gioakim và Anna dẫn Mẹ ra giới thiệu với một vị tư tế. Vị này chúc lành cho Mẹ. Rồi tất cả cùng đưa Mẹ tới khu nhà dành riêng cho việc giáo dục những thiếu nữ theo một kỷ luật đạo hạnh. Muốn tới khu nhà ấy, phải đi qua một cầu thang 15 bậc. Vị có nhiệm vụ hướng dẫn Mẹ là một tư tế phẩm trật thấp nhất. Ông đặt Mẹ lên bậc đầu cầu thang. Rồi quay về phía song thân, Mẹ quì gối xin phép lành, hôn kính tay cha mẹ và xin cha mẹ dâng hiến mình cho Thiên Chúa. Thánh Gioakim và Anna vừa bùi ngùi rơi lệ, vừa âu yếm chúc lành cho Con. Sau đó, một mình Mẹ quả quyết bước lên thang, không quay nhìn lại, không rơi một giọt lệ, không chút phàn nàn vì phải lìa cha mẹ.
Thượng tế Simeon, đón nhận Mẹ và trao cho những cô giáo đạo đức việc đào tạo Đức Maria. Trong các cô giáo này, có bà tiên tri Anna, bà này đã được Chúa ban ơn soi sáng riêng, chỉ định làm giáo chức đảm nhiệm coi sóc Đức Nữ. Sau khi tiếp xúc với bà giáo Anna, Mẹ đi gặp mọi thiếu nữ trong viện, chào hỏi niềm nở đoan trang. Khi ôû moät mình trong phoøng nhoû, Me saáp mình xuoáng, thôø laïy caûm taï Chuùa vaø khaán cuøng Chuùa seõ giöõ khieát trinh, thanh baàn, tuaân phuïc vaø vónh vieãn ôû trrong Ñeàn Thôø.
Mẹ đi tìm bà Anna, nộp cho bà tất cả những gì song thân đã cho, để bà định đoạt tùy ý bà. Được Chúa soi sáng, bà Anna nhận lấy tất cả các đồ Mẹ nộp, chỉ để cho Mẹ y phục Mẹ mặc, cho nên Mẹ hoàn toàn nghèo khó. Trong khi các thiếu nữ khác trong viện vẫn còn giữ trọn của cải mình và sử dụng tùy ý. Sau đó, hội ý với Thượng tế Simêon, bà Anna vạch ra một luật sống cho Mẹ, đã vạch một chương trình sống cho Mẹ như sau:
“Con hãy đem hết lòng nhiệt thành tham dự các giờ tán tụng Thiên Chúa. Hãy cầu nguyện cho Đền Thờ của Ngài, cho dân riêng Ngài và cho Đấng Cứu Chuộc mau đến. Buổi tối, con sẽ đi ngủ lúc tám giờ. Tảng sáng con sẽ thức dậy cầu nguyện cho tới chín giờ. Từ giờ đó tới chiều, con sẽ làm các việc thủ công và học tập Thánh Kinh. Trong bữa ăn con hãy dùng lương thực cách điều độ nghiêm cẩn. Trong mọi sự con hãy ở khiêm nhu, dễ yêu và hết sức tuân phục bà giáo, bà sẽ dạy con mọi việc phải làm”.
Mẹ nêu lên một đức khiêm nhượng cao cả khi xin cô giáo cho phép được phục vụ các bạn đồng song, được dùng vào những việc rất thấp hèn như quét nhà, rửa chén đĩa. Mẹ hết sức tiết độ trong bữa ăn, và sẵn sàng chịu mất ngủ, một giấc ngủ vốn đã rất ngắn. Không hề cho phép mình dùng một vật dụng nào thừa thãi, Mẹ tự cắn xén cả một đôi dụng cụ cần thiết. Meï duøng thôøi giôø raát thaän troïng, giôø naøo vieäc aáy khít khao nhau. Thời giờ Mẹ dùng nhiều nhất là thời giờ đọc Thánh Kinh, nhất là những trang liên quan tớiơn Nhập Thể Cứu Chuộc. Mẹ am tường ý nghĩa việc Nhập Thể, nhờ có tri thức Chúa ban dư tràn. Mẹ hiểu biết tất cả các nghi lễ cử hành trong Đền Thờ mà Mẹ tham dự, nhưng bề ngoài Mẹ vẫn đi học hỏi y như khoâng biết gì. Nhi nữ Maria cần phải được đau khổ làm cho nên hoàn thiện và phú quí.
Nỗi phiền sầu đầu tiên Mẹ phải chịu là không được thị kiến thấy Thiên Chúa và cả các thiên thần. Bất thình lình Mẹ phải rơi vào một đêm tối tăm. Con thử thách này không lâu, nhưng Mẹ đã chịu đựng nó trong dằn vặt thiêng liêng hơn tất cả các thánh. Với thử thách đó, Chúa Quan Phòng đã chuẩn bị cho Mẹ mạnh mẽ để chiến thắng một trận khác do rắn già hỏa ngục bày ra.
Thật vậy, Satan với cặp mắt hờn giận, vẫn dõi theo cuộc tiến bộ thánh thiện của Mẹ. Nó đã triệu tập một đại hội những tên quỉ hung dữ nhất trong hỏa ngục, tiết lộ mối lo sợ của nó là: Có lẽ Đức Maria là Người Nữ mà Thiên Chúa đã tỏ cho nó thấy ngày trước, và đe rằng Người sẽ đạp nát đầu nó. Nó thú nhận rằng Người làm cho nó rất kinh hoảng: nó căm giận, nó muốn giết Người đi cho rồi. Nhiều phương pháp xảo trá được các quỉ dữ mang ra thảo luận trong đại hội. Sau cuộc âm mưu nham hiểm ấy, chúng kéo nhau lên tấn công Đô Thành Thiên Chúa là Đức Nữ Maria. Vẫn theo thói thường của chúng, Luxiphe chỉ huy các cuộc tấn công này. Vá nó là tên tấn công trước hết, rồi sau đó, cả bọn chúng mới đồng loạt xung phong.
Lúc Mẹ Maria còn đang chìm ngập trong đau khổ vì vắng mặt Thiên Chúa, bỗng Mẹ cảm thấy bị những cám dỗ rất lạ xông đánh, muốn lôi kéo Mẹ rất xa khỏi những tư tưởng thánh đức cao cả tuyệt vời khôn tả của Mẹ. Không thể hiểu được tâm hồn rất trong trắng của Mẹ phải khổ sở vì chước quái ấy đến đâu. Rắn già thấy Mẹ sầu não khóc lóc, nó vội kết luận rằng chước quỉ quyệt của nó đã tiến bộ. Nhưng tất cả đều uổng công: Người ta càng đập vào một viên đá cứng rắn, viên đá càng nẩy lửa. Mẹ Maria là một viên đá kiên cố với những nhân đức tuyệt vời, nên những đợt tấn công của quỉ dữ càng mạnh, càng làm bắn thêm ra những khối lửa tình yêu mến Chúa nóng hổi. Vừa bị chói mắt, vừa bẽ mặt, vừa náo động, vừa căm giận, Satan thất vọng không thể thắng được một Nữ Nhi non nớt. Giữa những cám dỗ rất nhiều rất mạnh ấy, Mẹ Maria không hề mất bình tĩnh và thản nhiên. Linh hồn Mẹ vẫn cố định trên những tầng trời cao thẳm, rút ra từ những kinh nguyện liên lỉ một sức kháng cự vô địch.
Nhưng Satan không sao nhẫn nhục được với cuộc thất bại vừa chịu. Nó lại bắt đầu môn giảo quyệt của nó qua trung gian những thiếu nữ đồng tu với Mẹ để mưu hại Mẹ. Nó nhóm lên trong lòng các cô một ngọn lửa ganh ghét căm hờn, đến nỗi các cô nhỏ đó đồng ý nhau hành hạ Đức Nữ Maria. Các cô xúm nhau buông lời nặng nhẹ chê bai, nói xấu Đức Maria đủ thứ. Cứ hễ gặp Maria đâu là các cô xỉa xói, chua cay. Các cô hùa nhau xử với Mẹ rất tàn nhẫn, buộc tội cho Mẹ là kẻ gây xáo trộn, kẻ giả hình, kẻ đưa điều, báo cáo ton hót với bề trên. Trước những sỉ vả bêu riếu đó, Mẹ vẫn khiêm nhượng tự nhận là kẻ hèn hạ nhất.
Các cô nói thẳng vào mặt Mẹ là trước mặt các cô, Mẹ chỉ là một con quỉ con thôi. Trước những sỉ vả beêu riếu đó, Mẹ vẫn khiêm nhượng trả lời: “Các chị đối xử với em như vậy là phải lắm. Em đúng là một kẻ hèn hạ nhất. Xin các chị tha cho em, và chỉ bảo cho em để từ nay, em làm vui lòng các chị hơn. Các chị đừng thôi thân ái với em. Em rất muốn thân ái với các chị, em vẫn tôn trọng, vẫn yêu thương các chị lắm. Các chị cứ ra lệnh cho em như tôi tớ các chị, em xin vâng lời các chị tất cả”.
Những lời lành đó không uốn mềm được cõi lòng chai cứng của những cô nhỏ đáng thương kia. Bị rắn già hỏa ngục xúi bẩy, tiêm nọc độc căm phẫn của nó vào, các cô dám mưu giết chết Mẹ cho rảnh. Nhưng Thiên Chúa không cho phép các cô thi hành những ý định đen tối dại dột đó.
Nhưng chưa hết đâu. Nhiều ngày sau, những cô nhỏ cuồng tín đáng thương ấy, say niềm phẫn nộ, kéo Đức Nữ Nhi Maria vào một phòng kín đáo xa Đền Thờ nhất. Ở đó, nghĩ mình được hoàn toàn tự do, các cô tha hồ rủa sả, nhục mạ Mẹ cho thỏa mối hờn thâm gan tím ruột, mong làm sao Mẹ hết nhẫn nại hiền từ, tỏ một vẻ tức giận nào ra cho hả. Nhưng không thể Mẹ Maria lại làm nô lệ cho một khuyết điểm nào dầu một phút một giây, Mẹ cứ nhẫn nhục vô địch, vì lúc đó là lúc cần nhẫn nhục nhất. Nổi tam bành vì không đạt được mục đích quá nham hiểm ấy, các cô vừa xô vào vừa đánh đập vừa la lối om xòm.
Tiếng ồn ào mắng nhiếc vang tới tận Đền Thờ. Các cô giáo và tư tế bèn chạy đến ngay, hỏi xem duyên cớ. Thế là các cô đồng thanh lớn tiếng tố cáo Maria, đổ mọi tội lỗi lên đầu Mẹ: Nào là con nhỏ Maria Nagiarét rất khó nết, tính nó kỳ quặc không ai chịu nổi. Nào là không thể chung sống với nó được, cứ hễ vắng mặt thầy cô là nó chửi bới chúng con. Nào là nó không lúc nào để chúng con yên tâm học hành, chỉ phá phách chọc nhạo mọi người. Nào là nó kiêu căng hợm hĩnh, phách lối làm tàng: Có trách bảo nó, nó lại lên mặt bà cụ non, sấp mình xuống đất, giả bộ khiêm nhượng xin lỗi, nhưng rồi chứng nào tật ấy. Nào là con quỉ con Maria còn đưa điều, ăn không nói có, làm rộn chúng con không còn ai tin ai nữa. Thôi thì đủ thứ tội mà các cô có thể tưởng tượng ra. Lời các cô quả quyết làm cho các tư tế bị lừa.
Các ông dẫn Mẹ vào một căn phòng gần đó, quở trách và đe đuổi Mẹ ra khỏi Đền Thờ, nếu không chịu sửa mình. C3m động sa nước mắt, Mẹ trả lời: “Kính thưa các thày, con xin cám ơn các thày đã sửa mắng con. Con yếu đuối quá, xin các thày tha cho con. Xin các thày chỉ bảo cho con biết cách từ nay làm đẹp lòng Chúa và chị em con hơn”.
Các tư tế còn quở trách Mẹ ít điều nữa, rồi cho Mẹ đi. Mẹ đến gặp các bạn, sấp mình xuống dưới chân họ, khóc lóc xin họ tha thứ. Họ cũng tiếp nhận họ một cách hiền hòa hơn, ngờ là Mẹ khóc vì phải phạt, vì bị thày cô trách mắng. Tưởng mình đã gây được ảnh hưởng nơi các tư tế, các cô tiếp tục cố gắng nghĩ mưu mô hủy diệt tâm tình ưu ái thày cô từng có đốùi với Đức Nữ Maria. Do mưu quỉ lừa dối, các cô ngụy tạo nhiều chứng cớ gian manh để làm các tư tế và các cô giáo quở phạt Mẹ nhiều lần hơn nữa.
Nhưng điều làm Mẹ phiền não tê tái là cứ tiếp tục vắng mặt Chúa mãi. Các tư tế và cô giáo đã được Chúa giác ngộ, không còn tin lời vu khống của các nhi nữ, nên các cô nhỏ ấy dần dần bỏ cuộc, không bắt nạt Mẹ nữa. Nhưng một điều rất lạ lùng là Chúa kéo dài sự vắng mặt của Ngài đối với Mẹ trong mười năm trời. Mẹ phải chịu sự vắng mặt Chúa và thiên thần này tám ngày trước khi Thánh Gioakim giã thế, tức hồi Mẹ lên ba tuổi rưỡi, cho đến lúc Mẹ được mười hai tuổi, tức là tới khi thân mẫu của Mẹ qua đời. Tính ra là mười năm.
Phụng Vụ Lời Chúa (cho năm không trùng với Lễ Mẹ Dâng Mình 21-11 ở bậc lễ nhớ)
Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Mcb 6, 18-31
"Tôi sẽ để lại một tấm gương cao đẹp, nếu tôi tự ý và anh dũng chết cho các lề luật đáng kính và thánh thiện của chúng tôi".
Bài trích sách Macabê quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Êlêazarô, một người trong hàng Luật sĩ vị vọng, ông đã có tuổi và diện mạo oai phong, ông bị người ta cạy miệng bắt phải ăn thịt heo. Nhưng ông thà chết vinh còn hơn sống nhục, nên ông tự ý ra pháp trường. Hiểu rằng ông phải xử trí như thế nào, ông nhẫn nại chịu đựng, khẳng khái không ăn đồ cấm vì ham sống. Các bạn cố tri đứng đó cảm thương ông, gọi lén ông ra khuyên ông xin người ta đem cho ông các thứ thịt ông có phép dùng, rồi ông chỉ giả vờ ăn thịt cúng như nhà vua đã truyền; làm như thế ông sẽ thoát chết; và do tình bạn cố tri, họ đã tỏ lòng nhân đạo như vậy đối với ông. Nhưng nghĩ đến địa vị bậc lão thành, mái tóc bạc khả kính, cách ăn ở tốt đẹp từ thời niên thiếu, mà nhất là sống xứng với lề luật thánh mà chính Thiên Chúa đã lập, ông liền trả lời, bảo họ rằng ông sẵn sàng chịu chết. Ông nói:
"Vì ở tuổi chúng tôi không nên giả vờ, kẻo nhiều thanh niên tưởng rằng Êlêazarô đã chín mươi tuổi đầu mà còn theo lối sống của dân ngoại. Rồi vì sự giả vờ của tôi để sống thêm một ít lâu nữa, tôi sẽ làm cho chính họ cũng lầm lạc, và vì thế, tôi sẽ chuốc lấy nhơ nhớp và ố danh cho tuổi già của tôi. Mà dầu tôi có thoát khỏi hình phạt của loài người, thì dầu sống dầu chết, tôi sẽ không thoát khỏi bàn tay của Thiên Chúa toàn năng. Bởi thế, nếu giờ đây tôi can đảm từ giã cuộc đời, tôi sẽ tỏ ra xứng đáng với tuổi già của tôi; tôi sẽ để lại cho các thiếu niên một tấm gương cao đẹp, nếu tôi tự ý và anh dũng chết cho các lề luật đáng kính và thánh thiện của chúng tôi".
Nói đoạn ông liền bị điệu đến pháp trường. Các người áp giải ông đổi lòng thiện cảm họ có đối với ông trước kia thành ác cảm, vì các lời ông vừa nói mà họ cho là điên khùng. Khi sắp chết vì đòn vọt, ông thều thào trong hơi thở cuối cùng: "Lạy Chúa là Ðấng thông minh chí thánh, Chúa cũng thấu rõ là con có thể thoát chết, nhưng con xin chịu đòn vọt đau đớn trong thân xác con, với niềm vui trong lòng vì kính sợ Chúa". Và như thế ông từ giã cuộc đời, để lại không những cho các thanh niên mà còn cho toàn dân một tấm gương anh dũng và một lưu niệm đạo đức.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 3, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Chúa đã nâng đỡ tôi (c. 6b).
Xướng: 1) Thân lạy Chúa, nhiều thay người bách hại con, nhiều thay người nổi dậy chống con! Về con, nhiều kẻ thốt ra lời: "Hết trông hắn được Chúa Trời cứu độ". - Ðáp.
2) Nhưng lạy Chúa, Chúa là thuẫn hộ thân con, là vinh quang con, Chúa cho con ngẩng đầu lên. - Tôi lên tiếng kêu cầu Chúa, và Chúa đã nghe tôi từ núi thánh của Ngài. - Ðáp.
3) Tôi nằm xuống và đã ngủ ngon, rồi thức khoẻ vì Chúa đỡ nâng tôi. Tôi không kinh hãi ức triệu người ở chung quanh đồn trú hại tôi. - Ðáp.
Alleluia: Lc 21, 28
Alleluia, alleluia! - Các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19, 1-10
"Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa, có một người tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó. Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: "Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi". Ông vội vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi". Ông Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn". Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điễu gì đã hư mất".
Ðó là lời Chúa.
Chỉ cần một chút tò mò ... thật lòng khao khát
Tất nhiên hậu quả của việc sống chân lý, trung thành với lề luật là chính mạng sống mình. Vị lão thành gương mẫu này đã biết trước nhưng vẫn cương quyết sẵn sàng chấp nhận để chân lý được sáng tỏ nơi ông, như được Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại ở đoạn cuối như sau:
"Nói đoạn ông liền bị điệu đến pháp trường. Các người áp giải ông đổi lòng thiện cảm họ có đối với ông trước kia thành ác cảm, vì các lời ông vừa nói mà họ cho là điên khùng. Khi sắp chết vì đòn vọt, ông thều thào trong hơi thở cuối cùng: 'Lạy Chúa là Ðấng thông minh chí thánh, Chúa cũng thấu rõ là con có thể thoát chết, nhưng con xin chịu đòn vọt đau đớn trong thân xác con, với niềm vui trong lòng vì kính sợ Chúa'. Và như thế ông từ giã cuộc đời, để lại không những cho các thanh niên mà còn cho toàn dân một tấm gương anh dũng và một lưu niệm đạo đức".
Tinh thần bất khuất của một con người công chính sống sự thật và trung thành với sự thật, như nhân vật luật sĩ lão thành Êlêazarô trong Bài Đọc 1 hôm nay, hay thái độ trở lại sống chân thật tin tưởng vào Chúa như nhân vật trưởng ban thu thuế Giakêu trong bài Phúc Âm hôm nay, đều được chất chứa trong những điều xác tín ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Thân lạy Chúa,
nhiều thay người bách hại con, nhiều thay người nổi dậy chống con! Về
con, nhiều kẻ thốt ra lời: "Hết trông hắn được Chúa Trời cứu độ".
2) Nhưng lạy Chúa, Chúa là thuẫn hộ thân con, là vinh quang con, Chúa cho con ngẩng đầu lên. - Tôi lên tiếng kêu cầu Chúa, và Chúa đã nghe tôi từ núi thánh của Ngài.
3) Tôi nằm xuống và đã ngủ ngon, rồi thức khoẻ vì Chúa đỡ nâng tôi. Tôi không kinh hãi ức triệu người ở chung quanh đồn trú hại tôi.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Mcb 7, 1. 20-31
"Ðấng Sáng Tạo vũ trụ sẽ trả lại cho các con tinh thần và sự sống".
Bài trích sách Macabê quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, bảy anh em bị bắt cùng với thân mẫu, và thừa lệnh nhà vua, người ta dùng gậy và roi gân bò đánh đập họ, bắt buộc họ ăn thịt heo mà luật đã cấm.
Ðặc biệt là bà mẹ đáng ca tụng và ghi nhớ: chỉ trong một ngày, bà chứng kiến bảy con mình chết, bà vui lòng chịu đựng và trông cậy vào Thiên Chúa. Bà đầy khôn ngoan, dùng tiếng của cha ông, can đảm khuyên bảo từng đứa con; bà dùng sự hăng say nam nhân mà nâng đỡ tâm hồn phụ nữ của bà. Bà nói với các con: "Mẹ không biết các con đã thành hình trong lòng mẹ ra sao, vì không phải mẹ ban cho các con tinh thần, linh hồn và sự sống, cũng không phải mẹ sắp đặt các chi thể của mỗi con, nhưng là Ðấng Sáng Tạo vũ trụ, Người đã dựng nên loài người, và sáng tạo mọi sự với lòng nhân hậu. Người sẽ trả lại cho các con tinh thần và sự sống, vì giờ đây các con coi rẻ mạng sống các con để bảo vệ luật pháp của Người".
Vua Antiôcô tưởng rằng lời lẽ ấy khinh thị và lăng nhục ông. Bởi thế, đối với đứa con út của bà còn sống, không những ông dùng lời dụ dỗ cậu, ông còn thề hứa với cậu sẽ làm cho cậu được sung sướng giàu có, nếu cậu chối bỏ lề luật của cha ông, sẽ coi cậu như bạn hữu của ông và ban cho cậu nhiều tước lộc. Nhưng cậu không quan tâm đến những lời dụ dỗ ấy, nhà vua liền cho gọi mẹ cậu đến và khuyên bà nhủ bảo con, để cứu lấy mạng sống con mình. Khi nhà vua đã dài lời khuyến khích bà, bà nhận lời thuyết phục con. Vậy bà cúi sát vào con bà, đánh lừa nhà vua độc ác ấy; bà còn dùng tiếng của cha ông mà nói rằng: "Hỡi con, hãy thương mẹ đã cưu mang con chín tháng trong dạ, đã cho con bú sữa trong ba năm, đã nuôi dưỡng và dẫn dắt con cho tới tuổi này. Con ơi, mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất, và tất cả mọi sự trong đó; con biết rằng Thiên Chúa đã tác tạo những vật đó và loài người từ hư vô, nên con đừng sợ tên lý hình này, một hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con và hãy nhận lãnh cái chết, để nhờ lòng lân tuất của Chúa, mẹ sẽ gặp con cùng với các anh con".
Bà mẹ vừa dứt lời thì cậu con út lên tiếng rằng: "Các ông còn chờ gì nữa? Tôi không tuân lệnh nhà vua đâu, nhưng tôi tuân theo lề luật mà Môsê đã ban cho cha ông chúng tôi. Còn nhà vua, là kẻ đã bày ra đủ thứ để bách hại dân Do-thái, nhà vua sẽ không thoát khỏi tay Thiên Chúa đâu".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 16, 1. 5-6. 8b và 15
Ðáp: Lạy Chúa, khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa (c. 15b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nghe điều chính nghĩa của con, xin để ý đến lời con kêu cứu, lắng tai nghe tiếng con thốt ra tự cặp môi chân thành! - Ðáp.
2) Bước con đi bám chặt đường lối của Ngài, chân con đã không hề xiêu té. Con kêu van Ngài, bởi Ngài nhậm lời con, lạy Chúa, xin lắng tai về bên con, xin nghe rõ tiếng con. - Ðáp.
3) Xin che chở con trong bóng cánh của Ngài. Phần con, nhờ công chính, sẽ được thấy thiên nhan; khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Tv 110, 8ab
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, mọi gới răn Chúa được lập ra cho tới muôn đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19 11-28
"Sao ngươi không gửi bạc Ta ở ngân hàng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán thêm một dụ ngôn nữa, vì Người đã đến gần Giêrusalem, mà dân chúng lại cứ tưởng là Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện trong giây lát. Vậy Người phán rằng:
"Có người quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở về. Ông cho gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và dặn rằng: "Hãy làm lợi cho đến khi ta trở về". Nhưng các người dân của ông ấy ghét ông, sai người đi theo mà rằng: "Chúng tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi". Ðược phong vương rồi ông trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia ông đã giao tiền cho, để biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu.
"Người thứ nhất đến và thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được mười nén". Nhà vua bảo: "Ðược, hỡi người tôi tớ tốt lành, ngươi đã trung tín trong điều nhỏ mọn, ngươi sẽ được quyền cai trị mười thành". Người thứ hai đến thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được năm nén". Nhà vua đáp: "Ngươi cũng vậy, hãy cai quản năm thành".
"Người thứ ba đến thưa: "Tâu vua, đây nén bạc của vua, tôi còn giữ trong khăn, vì tôi sợ ngài: ngài là người hà khắc, và lấy cái ngài không gửi, gặt cái ngài không gieo". Vua phán rằng: "Hỡi đầy tớ bất lương, ta cứ lời ngươi mà xử ngươi. Ngươi đã biết ta là người hà khắc, lấy cái ta không gửi, gặt cái ta không gieo, sao ngươi không gửi bạc ta ở ngân hàng, để rồi khi ta trở về, ta có thể lấy cả vốn lẫn lời".
"Vua liền bảo những người đứng đó rằng: "Hãy lấy nén bạc của nó mà trao cho người đã có mười nén". Họ tâu rằng: "Tâu vua, người ấy đã có mười nén rồi". Vua đáp: "Ta nói cùng các ngươi: Ai có sẽ cho thêm, và người đó sẽ được dư dật; còn ai không có, người ta sẽ lấy đi cả cái nó đang có. Còn những kẻ nghịch cùng ta, không muốn ta làm vua, hãy đem chúng ra đây và giết chúng trước mặt ta". Nói thế rồi Chúa liền dẫn họ lên Giêrusalem.
Ðó là lời Chúa.
Không muốn đối phương làm vua của mình mà lại giúp cho đối phương được phong vương
2) Bước con đi bám chặt đường lối của Ngài, chân con đã không hề xiêu té. Con kêu van Ngài, bởi Ngài nhậm lời con, lạy Chúa, xin lắng tai về bên con, xin nghe rõ tiếng con.
3) Xin che chở con trong bóng cánh của Ngài. Phần con, nhờ công chính, sẽ được thấy thiên nhan; khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa.
Thánh Cêcilia 22/11
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1nh_Cecilia
Cecilia ra đời trong một gia đình quý tộc vào năm 214 thời đế quốc La Mã. Ngay từ thuở thiếu thời, cô đã tỏ ra đã say mê Thánh nhạc và đã đóng góp một phần rất lớn khai triển nền Thánh nhạc công giáo với những bản Thánh ca đã sáng tác. Đến tuổi trưởng thành, Cecilia đã kết hôn với Valerian, một người ngoại đạo và thuộc gia đình giàu có, nhưng Cecilia đã thuyết phục chồng theo đạo và đồng ý giữ cho cô đồng trinh.
Trong thời gian chính quyền La Mã bố ráp những người theo Công giáo, Cecilia vần bí mật giúp đỡ những người nghèo và những tín hữu bị vây bắt. Valérien và cô em gái lo chôn cất các Thánh tử đạo và dứt khoát không chịu tế thần, không chịu dâng hương cho thần ngoại. Chính vì thái độ can đảm và cương quyết như thế đã khiến quan quân La Mã bực tức và kết án tử hình cho hai người. Cecilia đã được giáo hội vinh thăng làm Thánh Nữ Đồng Trinh Tử Đạo. Tại nơi Thánh nữ chào đời, giáo hội đã cho xây cất một vương cung Thánh đường để tôn vinh cô.
Thứ Năm
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Mcb 2, 15-29
"Chúng tôi tuân theo lề luật cha ông chúng tôi".
Bài trích sách Macabê quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, vua Antiôcô sai người đến cưỡng bách các người trốn ẩn tại thành Môđin cúng tế dâng hương và chối bỏ lề luật Thiên Chúa. Có nhiều người trong dân Israel tuân lệnh đến với họ, nhưng ông Mathathia và các con ông cương quyết không chịu theo. Các người vua Antiôcô sai đến, lên tiếng nói với Mathathia rằng: "Ông là thủ lãnh có tiếng tăm và có uy tín trong thành này và có nhiều con cái và anh em. Vậy ông hãy tiến lên trước tiên và thi hành lệnh nhà vua, như hết thảy mọi dân tộc, như các người chi tộc Giuđa và những người còn ở lại Giêru-salem đã thi hành rồi, ông và các con ông sẽ là bạn hữu của nhà vua, sẽ được nhà vua ban cho vàng bạc và ân huệ khác". Matha-thia trả lời và nói lớn tiếng rằng: "Cho dầu mọi dân tộc đều tuân lệnh vua Antiôcô, mọi người đều chối bỏ lề luật của cha ông mà vâng lệnh nhà vua, phần tôi và con cái cùng anh em tôi, chúng tôi vẫn tuân theo lề luật cha ông chúng tôi. Xin Thiên Chúa thương đừng để chúng tôi chối bỏ lề luật và giới răn Chúa. Chúng tôi sẽ không nghe theo lệnh vua Antiôcô, cũng chẳng cúng tế mà lỗi phạm lệnh truyền của lề luật chúng tôi, kẻo chúng tôi đi theo con đường khác".
Ông vừa dứt lời thì có một người Do-thái tiến ra cúng thần trước mặt mọi người, trên bàn thờ ở thành Môđin, theo chiếu chỉ của nhà vua. Thấy vậy, Mathathia đau lòng xót dạ, ông nổi giận vì yêu mến lề luật, ông xông tới giết ngay người ấy trên bàn thờ. Ông cũng giết luôn người vua Antiôcô sai đến để cưỡng bách người ta cúng tế; ông lật đổ cả bàn thờ. Lòng nhiệt thành của ông đối với lề luật cũng giống như lòng nhiệt thành của Phinê đã đối xử với Zimri con ông Salomi.
Ðoạn Mathathia kêu lớn tiếng khắp trong thành phố rằng: "Ai nhiệt thành với lề luật, tuân giữ lời Giao ước, hãy ra khỏi thành theo tôi!" Ông và con cái ông trốn lên núi, bỏ lại trong thành mọi tài sản họ có. Bấy giờ một số người còn nhiệt tâm với sự công chính và lề luật, cũng trốn vào hoang địa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 49, 1-2. 5-6. 14-15
Ðáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).
Xướng: 1) Chúa là Thiên Chúa đã lên tiếng kêu gọi địa cầu, từ chỗ mặt trời mọc lên tới nơi lặn xuống. Từ Sion đầy mỹ lệ, Thiên Chúa hiển linh huy hoàng. - Ðáp.
2) Hãy tập họp cho Ta các tín đồ đã ký lời giao ước của Ta cùng hy sinh lễ. Và trời cao sẽ loan truyền sự công chính của Người, và chính Thiên Chúa Người là thẩm phán. - Ðáp.
3) Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và làm trọn điều khấn hứa cùng Ðấng Tối Cao. Ngươi hãy kêu cầu Ta trong ngày khốn khó, Ta sẽ giải thoát ngươi và ngươi sẽ kính trọng Ta. - Ðáp.
Alleluia: x. Cv 16, 14b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời Con Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19, 41-44
"Chớ chi ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem, trông thấy thành thì Người khóc thương thành ấy mà rằng: "Chớ chi hôm nay ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi! Nhưng giờ đây, sứ điệp ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi. Vì sẽ đến ngày quân thù đắp luỹ bao vây ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi cùng con cái ở trong thành. Chúng sẽ không để lại hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng".
Ðó là lời Chúa.
Chúa Giêsu khóc thương Thành Thánh Giêrusalem phải chăng vì nó cho thấy một Giáo Hội cuối thời?!
"Trong những ngày
ấy, vua Antiôcô sai người đến cưỡng bách các người trốn ẩn tại thành
Môđin cúng tế dâng hương và chối bỏ lề luật Thiên Chúa. Có nhiều người
trong dân Israel tuân lệnh đến với họ".
Tuy nhiên, không phải vì thế mà không còn ai trung thành với lề luật, cho dù là rất ít ỏi, chẳng bao nhiêu, trong đó phải kể đến vị luật sĩ lão thành Êlêazarô trong Bài Đọc 1 hôm kia, bà mẹ có 7 đứa con trai tử đạo trong Bài Đọc 1 hôm qua, và nhân vật Mathathia trong Bài Đọc 1 hôm nay.
Đúng thế, nếu hai bài Phúc Âm hôm kia và hôm qua liên quan đến ơn cứu độ tối hậu hay ơn cứu độ vào thời kỳ cuối cùng của Chúa Kitô trong hành trình Giêrusalem của Người "đã gần đến" và "đã đến gần" thành thánh này, và hai Bài Đọc 1 hôm kia và hôm qua liên quan đến đức tin cứu độ nơi thành phần dân Chúa, và nếu bài Phúc Âm hôm nay cũng liên quan đến ơn cứu độ tối hậu của Chúa Kitô được tỏ hiện qua nước mắt của Người khóc thương thành này, thì Bài Đọc 1 hôm nay liên quan đến đức tin cứu độ của nhân vật Mathathia trong thời kỳ bị bách hại như vậy.
Bài Đọc 1 hôm nay đã thuật lại đức tin bất khuất của nhân vật Mathathia này, cho dù được phái đoàn do vua sai tới dụ dỗ bỏ đạo: "ông hãy tiến lên trước tiên và thi hành lệnh nhà vua, như hết thảy mọi dân tộc, như các người chi tộc Giuđa và những người còn ở lại Giêrusalem đã thi hành rồi, ông và các con ông sẽ là bạn hữu của nhà vua, sẽ được nhà vua ban cho vàng bạc và ân huệ khác", vẫn nhất quyết trung thành với lề luật của Thiên Chúa cho tới cùng, như lời ông đáp lại họ như sau:
"Cho dầu mọi dân tộc đều tuân lệnh vua Antiôcô, mọi người đều chối bỏ lề luật của cha ông mà vâng lệnh nhà vua, phần tôi và con cái cùng anh em tôi, chúng tôi vẫn tuân theo lề luật cha ông chúng tôi. Xin Thiên Chúa thương đừng để chúng tôi chối bỏ lề luật và giới răn Chúa. Chúng tôi sẽ không nghe theo lệnh vua Antiôcô, cũng chẳng cúng tế mà lỗi phạm lệnh truyền của lề luật chúng tôi, kẻo chúng tôi đi theo con đường khác".
Nhân vật này chẳng những trung thành với lề luật mà còn bênh vực và bảo vệ lề luật nữa, đến độ, ông không còn biết sợ là gì nữa, trái lại, ông chẳng những dám tấn công cả những người đồng hương và đồng đạo của ông là những người cả gan công khai phạm luật trước mắt ông, mà còn tấn công ngay cả chính kẻ được vua sai đến dụ dỗ ông:
"Ông vừa dứt lời thì có một người Do-thái tiến ra cúng thần trước mặt mọi người, trên bàn thờ ở thành Môđin, theo chiếu chỉ của nhà vua. Thấy vậy, Mathathia đau lòng xót dạ, ông nổi giận vì yêu mến lề luật, ông xông tới giết ngay người ấy trên bàn thờ. Ông cũng giết luôn người vua Antiôcô sai đến để cưỡng bách người ta cúng tế; ông lật đổ cả bàn thờ. Lòng nhiệt thành của ông đối với lề luật cũng giống như lòng nhiệt thành của Phinê đã đối xử với Zimri con ông Salomi".
Chưa hết, nhân vật trung thành với lề luật và bênh vực lề luật này còn cùng với gia đình mình và thành phần nhiệt thành với lề luật chiến đấu cho lề luật đến cùng nữa:
"Ðoạn Mathathia kêu lớn tiếng khắp trong thành phố rằng: 'Ai nhiệt thành với lề luật, tuân giữ lời Giao ước, hãy ra khỏi thành theo tôi!' Ông và con cái ông trốn lên núi, bỏ lại trong thành mọi tài sản họ có. Bấy giờ một số người còn nhiệt tâm với sự công chính và lề luật, cũng trốn vào hoang địa".
Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy Vị Thiên Chúa của Do Thái giáo là Vị Thiên Chúa hiển linh và cầm quyền thẩm phán, nhưng cũng là Vị Thiên Chúa cứu độ:
1) Chúa là Thiên
Chúa đã lên tiếng kêu gọi địa cầu, từ chỗ mặt trời mọc lên tới nơi lặn
xuống. Từ Sion đầy mỹ lệ, Thiên Chúa hiển linh huy hoàng.
2) Hãy tập họp cho Ta các tín đồ đã ký lời giao ước của Ta cùng hy sinh lễ. Và trời cao sẽ loan truyền sự công chính của Người, và chính Thiên Chúa Người là thẩm phán.
3) Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và làm trọn điều khấn hứa cùng Ðấng Tối Cao. Ngươi hãy kêu cầu Ta trong ngày khốn khó, Ta sẽ giải thoát ngươi và ngươi sẽ kính trọng Ta.
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Mcb 4, 36-37, 52-59
"Họ làm lễ cung hiến bàn thờ và hân hoan dâng lễ toàn thiêu".
Bài trích sách Macabê quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Giuđa và anh em ông nói rằng: "Quân thù chúng ta đã bị tiêu diệt, nay chúng ta hãy đi thanh tẩy và cung hiến Ðền thánh lại".
Toàn thể quân đội được triệu tập, rồi cùng lên núi Sion.
Ngày hai mươi lăm tháng chín (tức là tháng Kislêu) năm một trăm bốn mươi tám, họ dậy sớm, dâng lễ tế như Luật dạy trên bàn thờ dùng để dâng lễ toàn thiêu mà họ vừa mới thiết lập. Bàn thờ đã được cung hiến lại giữa những tiếng ca, tiếng đàn lục huyền cầm, phong cầm cùng tiếng não bạt, đúng mùa, đúng ngày trước kia dân ngoại đã xúc phạm đến bàn thờ. Toàn dân sấp mình thờ lạy và ca tụng Ðấng ngự trên trời đã ban chiến thắng cho họ.
Họ làm lễ cung hiến bàn thờ suốt tám ngày, hân hoan dâng lễ toàn thiêu, lễ đền tội và lễ tạ ơn. Họ trang hoàng mặt tiền Ðền thờ với những triều thiên vàng và bảng chương, sửa lại các cửa ra vào và các phòng, đặt cánh cửa lại. Dân chúng nô nức vui mừng vì đã rửa sạch được nỗi tủi nhục do dân ngoại gây nên. Giuđa cùng với anh em ông và cộng đoàn Israel quyết định rằng: Hằng năm, từ ngày hai mươi lăm tháng Kislêu, lễ cung hiến bàn thờ sẽ được cử hành trong vui mừng hân hoan suốt tám ngày.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: 1 Sb 29, 10. 11abc. 11d-12a. 12bcd
Ðáp: Lạy Chúa, chúng con chúc tụng thánh danh vinh hiển của Chúa (c. 13b).
Xướng: 1) Ðavít đã chúc tụng Chúa trước mặt toàn thể cộng đồng, Người thưa: "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng từ đời đời tới muôn muôn thuở". - Ðáp.
2) Lạy Chúa, cao sang, quyền bính và vinh quang, chiến thắng, lời ca khen đều thuộc về Chúa, vì tất cả những gì trên trời dưới đất là của Chúa. - Ðáp.
3) Chúa ngự trên tất cả những đế vương. Giàu sang là của Chúa, và vinh quang là của Chúa. - Ðáp.
4) Chúa thống trị trên tất cả mọi loài, sức mạnh quyền bính đều ở trong tay của Chúa; ở trong tay Chúa, mọi uy phong và vững bền. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 34
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa, và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19, 45-48
"Các ngươi đã biến đền thờ Thiên Chúa thành sào huyệt trộm cướp".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào đền thờ, Người liền xua đuổi các người buôn bán tại đó và phán bảo họ rằng: "Có lời chép rằng: Nhà Ta là nhà cầu nguyện, các ngươi đã biến thành sào huyệt trộm cướp". Và hằng ngày Người giảng dạy trong Ðền thờ. Các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão trong dân tìm cách hại Người, nhưng họ không biết phải làm cách nào, vì dân chúng hết thảy đều chăm chú nghe Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Thanh tẩy Đền
Thờ - Uy quyền của đối phương được phong vương
"Họ làm lễ cung hiến bàn thờ suốt tám ngày, hân hoan dâng lễ toàn thiêu, lễ đền tội và lễ tạ ơn. Họ trang hoàng mặt tiền Ðền thờ với những triều thiên vàng và bảng chương, sửa lại các cửa ra vào và các phòng, đặt cánh cửa lại. Dân chúng nô nức vui mừng vì đã rửa sạch được nỗi tủi nhục do dân ngoại gây nên. Giuđa cùng với anh em ông và cộng đoàn Israel quyết định rằng: Hằng năm, từ ngày hai mươi lăm tháng Kislêu, lễ cung hiến bàn thờ sẽ được cử hành trong vui mừng hân hoan suốt tám ngày".
Bài Đáp Ca hôm nay ghi lại tâm tình của chính thánh vương Đavít trong việc vua hân hoan chúc tụng Thiên Chúa của dân Ngài, những lời chúc tụng đầy lòng tri ân cảm tạ cùng với lòng tin tưởng của vua cũng như của dân dâng lên Thiên Chúa:
1) Ðavít đã chúc
tụng Chúa trước mặt toàn thể cộng đồng, Người thưa: "Lạy Chúa là Thiên
Chúa Israel cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng từ đời đời tới muôn
muôn thuở".
2) Lạy Chúa, cao sang, quyền bính và vinh quang, chiến thắng, lời ca khen đều thuộc về Chúa, vì tất cả những gì trên trời dưới đất là của Chúa.
3) Chúa ngự trên tất cả những đế vương. Giàu sang là của Chúa, và vinh quang là của Chúa.
4) Chúa thống trị trên tất cả mọi loài, sức mạnh quyền bính đều ở trong tay của Chúa; ở trong tay Chúa, mọi uy phong và vững bền.
Lễ Các Thánh Tử Đạo ở Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c_th%C3%A1nh_t%E1%BB%AD_%C4%91%E1%BA%A1o_Vi%E1%BB%87t_Nam
Các thánh tử đạo Việt Nam là danh sách những tín hữu Công giáo người Việt hoặc thừa sai ngoại quốc được Giáo hội Công giáo Rôma tuyên thánh với lý do tử đạo. Trong lịch sử Công giáo tại Việt Nam, ước tính có đến hàng trăm ngàn người đã tử vì đạo để làm chứng cho đức tin Kitô giáo. Trong số đó có 117 vị đã được Giáo hoàng Gioan Phaolô II tuyên Thánh vào ngày 19 tháng 6 năm 1988, và Anrê Phú Yên được tuyên Chân phước ngày 5 tháng 3 năm 2000.
Ngày lễ kính chung cho các thánh tử đạo Việt Nam là ngày 24 tháng 11 và ngày Chúa nhật thứ 33 Mùa Thường niên.
Theo quốc tịch, 117 Thánh Tử đạo Việt Nam được chia ra như sau:
Theo Việt sử, các vị này đã bị giết trong những đời vua chúa sau đây:
Trong thế kỷ 18 và 19, có khoảng từ 130 ngàn đến 300 ngàn người Công giáo đã chết vì đạo; riêng trong thời gian từ 1857 đến 1862, có khoảng 5 ngàn tín hữu bị giết, khoảng 40 ngàn tín hữu cùng 215 giáo sĩ, tu sĩ nam nữ đã bị bắt, bỏ tù hay lưu đày vì đạo[cần dẫn nguồn]. Trong số đó có 117 vị, tử đạo từ 1745 đến 1862, được Giáo hội Công giáo Rôma tôn vinh Chân phước qua bốn đợt:
Và được tuyên Thánh vào ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Khi được tin về việc tuyên thánh, chính phủ Việt Nam lên tiếng phản đối và cho rằng, trong số những người sẽ được tuyên thánh, có nhiều người là tay sai của đế quốc, lót đường cho Pháp đô hộ Việt Nam từ năm 1884. Tuy nhiên, theo quan điểm của phía Công giáo thì họ là những tín hữu đã chết vì lý do tín ngưỡng, họ bị hành quyết bởi bản án do chính tay vua, hay đại diện triều đình thời đó ký nhận. Không có bằng chứng nào cho thấy bản án này có liên quan đến chính trị, ngược lại, chỉ trưng ra lý do duy nhất: các giám mục, linh mục trong số bị kết án vì họ là đạo trưởng (giáo sĩ), các giáo dân bị kết án vì họ không chịu bỏ đạo Công giáo, không chịu bước qua cây thập giá. Nói cách khác, lý do được công khai tuyên bố có tính cách hoàn toàn tôn giáo.[1] Hà Nội nhận định, việc tuyên thánh này sẽ làm cho mối liên lạc giữa chính quyền và Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, cũng như mối quan hệ giữa Việt Nam và Vatican thêm căng thẳng. Đài tiếng nói Việt Nam đọc lệnh của chính phủ, cấm người Công giáo cử hành lễ tuyên thánh này. Các Giám mục lẫn giáo dân Việt Nam cũng không được chính quyền cho phép sang Vatican dự lễ. Trong khi đó, khoảng hơn 10 ngàn người Công giáo Việt Nam ở hải ngoại (chủ yếu sau sự kiện thuyền nhân), nhiều người từ Pháp, Tây Ban Nha đã đến Vatican để dự lễ vì trong số người được tuyên thánh có đồng hương và đồng bào của họ[2].
Theo lời Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ - cáo thỉnh viên án tuyên thánh thì: theo thông lệ, khi xin nhật kì tuyên thánh, bao giờ cũng phải dự tính sẵn 3 ngày, để đề phòng trường hợp Tòa Thánh đã có chương trình xếp đặt nào khác thì phải thay đổi theo. Lễ tuyên thánh Việt Nam đã xin vào ngày 29 tháng 6 năm 1988 - trùng lễ kính hai Thánh Phêrô và Phaolô, nhưng người ta khuyến cáo không nên chọn vào ngày đó vì sẽ bị lễ hai Thánh quá lừng danh này lấn át mất. Sau đó có dự tính chuyển sang ngày Chủ nhật 26 tháng 6 nhưng cũng không ổn, vì hôm đó Giáo hoàng phải đi công du bên nước Áo. Chỉ còn ngày Chủ nhật 19 tháng 6, nghĩa là xếp trước cuộc công du của Giáo hoàng một tuần lễ, vì trước và sau ngày đó không còn cách nào khác. Đây là lý do duy nhất và dễ hiểu cho việc chọn ngày lễ tuyên thánh tử đạo Việt Nam là ngày 19 tháng 6, chứ không hề có chuyện nghĩ tới, hay là mảy may muốn kỉ niệm Ngày Quân lực Việt Nam Cộng hòa.[3]
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Mcb 6, 1-13
"Vì các tai hoạ trẫm đã gây cho Giêrusalem mà trẫm phải buồn bực mà chết".
Trích sách Macabê quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, vua Antiôcô rảo khắp các tỉnh miền bắc. Vua nghe nói tại Ba-tư có thành Êlymai nổi tiếng là giàu có và lắm vàng bạc; trong thành lại có một ngôi đền thờ lắm bảo vật, đầy những binh giáp bằng vàng, chiến bào, khiên mộc di sản của Alexanđrô, con Philipphê, vua xứ Macêđônia, là vua tiên khởi cai trị dân Hy-lạp. Vậy ông đến tìm cách chiếm lấy thành để cướp của. Nhưng ông không thành công, vì dân thành đã biết trước ý định của ông, nên đã vùng lên chống lại. Ông bỏ chạy và buồn bực lui quân trở về Babylon.
Lúc vua còn ở Ba-tư, có người đến đem tin cho vua hay toán quân của ông ở Giuđa đã bị đánh bại chạy tán loạn, và Lysia, vị tướng chỉ huy một đoàn quân hùng hậu, cũng đã phải tháo lui chạy trốn quân Do-thái; quân Do-thái lại càng mạnh thêm nhờ ở khí giới, lương thực và chiến lợi phẩm rất nhiều đã lấy được của các đoàn quân họ đánh bại. Họ đã hạ tượng thần vua đã đặt trên bàn thờ ở Giêrusalem; họ cũng đã xây thành đắp luỹ cao như trước chung quanh Ðền thờ và chung quanh thành Bethsura.
Nghe tin ấy, nhà vua khiếp đảm và rất xúc động. Vua vật mình xuống giường và buồn đến lâm bệnh, (bởi vì) sự việc đã không xảy ra như vua ước muốn. Vua liệt giường nhiều ngày, càng ngày càng buồn. Và tưởng mình sắp chết, vua liền triệu tập tất cả bạn hữu lại mà nói với họ rằng: "Trẫm không còn chớp mắt được nữa và lòng trẫm tan nát vì ưu tư. Trẫm tự nghĩ: trước kia khi trẫm còn quyền thế, trẫm vui sướng và được người ta quý mến, mà giờ đây trẫm lâm cảnh buồn sầu và đau khổ biết bao! Bây giờ trẫm hồi tưởng lại các tai hoạ trẫm đã gây cho Giêru-salem: trẫm đã chiếm đoạt các chén bằng vàng bạc tại đó, và đã ra lệnh tiêu diệt dân Giuđêa cách vô cớ. Trẫm nhìn nhận là vì các việc ấy mà phải khốn khổ như thế này, mà giờ đây trẫm phải buồn bực mà chết nơi đất khách quê người".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 9, 2-3. 4 và 6. 16b và 19
Ðáp: Lạy Chúa, con mừng rỡ vì ơn Ngài cứu độ (x. c. 16a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, con sẽ kể ra mọi điều lạ lùng của Chúa. Con sẽ mừng rỡ hân hoan trong Chúa, con sẽ đàn ca danh Ngài, lạy Ðấng Tối Cao. - Ðáp.
2) Vì quân thù của con đã tháo lui, chúng chạy trốn và vong mạng trước thiên nhan Chúa. Chúa trách phạt chư dân, diệt vong đứa ác, bôi nhoà tên tuổi chúng tới muôn đời. - Ðáp.
3) Người chư dân rơi chìm xuống hố mà họ đã đào, chân họ mắc vào cạm bẫy mà họ đã che. Vì kẻ cơ bần không bị đời đời quên bỏ, hy vọng người đau khổ không mãi mãi tiêu tan. - Ðáp.
Alleluia: Pl 2, 15-16
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 20, 27-40
"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ đó để anh mình có kẻ nối dòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ, rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào. Sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy, vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ?"
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng; họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho Chúa".
Bấy giờ có mấy luật sĩ lên tiếng thưa Người rằng: "Lạy thầy, Thầy dậy đúng lắm". Và họ không dám hỏi Người điều gì nữa.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Không có vấn đề luân hồi mà là phục sinh, là được biến đổi...
Sách Tiên Tri Daniên trong Bài Đọc 1 Chúa Nhật XXXII vừa rồi cũng chứng thực như vậy, chứng thực rằng cả kẻ dữ người lành đều sống lại, nhưng kẻ lành thì hiển vinh sáng láng: "Nhiều kẻ an giấc trong bụi đất sẽ chỗi dậy; có người sẽ được hưởng phúc trường sinh, có kẻ phải tủi nhục muôn đời. Những người thông minh sẽ sáng chói như ánh sáng vòm trời, và những kẻ khuyên dạy sự công chính cho nhiều người, sẽ nên như các vì tinh tú tồn tại muôn ngàn đời".
1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, con sẽ kể ra mọi điều lạ lùng của Chúa. Con sẽ mừng rỡ hân hoan trong Chúa, con sẽ đàn ca danh Ngài, lạy Ðấng Tối Cao.
2) Vì quân thù của con đã tháo lui, chúng chạy trốn và vong mạng trước thiên nhan Chúa. Chúa trách phạt chư dân, diệt vong đứa ác, bôi nhoà tên tuổi chúng tới muôn đời.
3) Người chư dân rơi chìm xuống hố mà họ đã đào, chân họ mắc vào cạm bẫy mà họ đã che. Vì kẻ cơ bần không bị đời đời quên bỏ, hy vọng người đau khổ không mãi mãi tiêu tan.
Ngày 25/11 - Thánh nữ Catarina thành Alexandria
Thánh Catarina Alexandria là một trong những vị thánh được nhiều người sùng bái. Thánh nhân cũng nhận được tiếng nói từ trời thúc dục như thánh Jeanne d’Arc một thiếu nữ chăn cừu cầm quân đánh đuổi quân Anh giúp vua nước Pháp.
Theo truyền tụng thì Thánh Catarina thuộc dòng dỏi quí tộc, sinh tại
Alexandria, xứ Ai cập, dười thời quân Roma cai trị xứ này. Sau khi học
hỏi và nghiên cứu về triết lý, Thánh Catarina đã gia nhập Ðạo Công giáo
vì nhận thấy đây là con đường duy nhất dẫn đến chân lý.
Thánh nhân đã tranh luận với các triết gia thời bây giờ, có một số đông
nghe lời thuyết phục của bà nên đã trờ lại theo Công giáo. Thánh cũng cố
gắng thuyết phục hoàng đế, nhưng hoàng đế chỉ say mê sác đẹp của bà và
chỉ muốn cưới bà làm tì thiếp
Thánh Catarina đã từ chối lời đề nghị của hoàng đế vì bà đã trọn dâng mình cho Chúa và chấp nhận bị tù đày và hành hạ. Hoàng đế tức giận bỏ tù bà và trong tù bà đã thuyết phục được hoàng hậu cùng một số quân lính theo đạo. Tức giận đến cực độ hoàng đế đã ra lệnh giết vợ và số quan quân đã theo đạo Công giáo.
Còn thánh Catarina thì bị buộc vào bánh xe có kết gươm để phanh thây như
một hình phạt. Nhưng xe bị hỏng một cách kỳ lạ và những mảnh sắt văng
tung tóe làm chết một số đông người tham dự, Hoàng đế bèn ra lệnh dùng
gươm mà giết người đàn bà nguy hiểm này.
Thánh Catarina qua nhiều thế kỷ được tôn sùng như là bổn mạng của những
triết gia, những nhà thuyết giáo. Thánh Catarina cũng được tôn sùng như
là sự khôn ngoan của các phụ nữ trong công việc đời hỏi công bình và tự
do cho nữ giới.
http://www.xuanha.net/