Chúa Nhật
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Ml 4,
1-2a
"Các ngươi sẽ được Mặt Trời công
chính mọc lên cho".
Trích sách Tiên tri Malakhi.
"Ðây sẽ đến ngày bừng cháy lên như lò
lửa: tất cả những kẻ kiêu căng và những người làm tội ác sẽ như rơm rạ, ngày
ấy đến sẽ thiêu đốt họ, và không để sót lại cho họ cội rễ ngành chồi gì cả,
Chúa các đạo binh phán như vậy. Phần các ngươi là những kẻ kính sợ thánh
danh Ta, các ngươi sẽ được Mặt Trời công chính mọc lên cho, mang theo sự cứu
chữa trong cánh Người".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 5-6.
7-8. 9
Ðáp: Chúa
ngự tới cai quản chư dân trong đường chính trực (x. c. 9).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa với đàn
cầm, với cây đàn cầm, với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran,
tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua. - Ðáp.
2) Biển khơi và muôn vật trong đó hãy
rống tiếng lên, cả địa cầu và những dân cư ngụ ở trong cũng thế. Các sông
ngòi hãy vỗ tay reo, đồng thời các núi non hãy hân hoan nhảy nhót. - Ðáp.
3) Trước thiên nhan Chúa vì Người ngự
tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người cai quản địa cầu với đức công
minh, và cai quản chư dân trong đường chính trực. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 2 Tx 3,
7-12
"Nếu ai không muốn làm việc thì
đừng có ăn".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, chính anh em biết
phải noi gương chúng tôi thế nào, bởi vì chúng tôi đã không lười biếng lúc ở
giữa anh em, cũng không ăn bám của ai, nhưng chúng tôi làm lụng khó nhọc vất
vả đêm ngày, để không trở nên gánh nặng cho người nào trong anh em. Không
phải chúng tôi không có quyền, nhưng là để nêu gương cho anh em, để anh em
bắt chước chúng tôi. Bởi vì khi chúng tôi còn ở với anh em, chúng tôi đã
truyền dạy anh em rằng: "Nếu ai không muốn làm việc, thì đừng có ăn". Vì
chúng tôi nghe tin có một số người trong anh em sống nhàn cư, chẳng làm việc
gì hết, nhưng lại dây mình vào mọi việc. Ðối với những hạng người đó, chúng
tôi mời gọi và khuyến cáo họ trong Chúa Giêsu Kitô, để họ yên hàn làm việc
và dùng lương thực mình tìm ra.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 24,
42a và 44
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh
thức và sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21,
5-19
"Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ
được linh hồn các con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền
thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán
rằng: "Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá
nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá". Bấy giờ các ông hỏi Người
rằng: "Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những
sự đó sắp xảy đến?" Người phán: "Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối.
Vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: 'Chính ta đây và
thời giờ đã gần đến'. Các con chớ đi theo chúng. Khi các con nghe nói có
chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ, vì những sự ấy phải đến trước đã,
nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu".
Bấy giờ Người phán cùng các ông ấy
rằng: "Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước
nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi; sẽ có ôn dịch đói khát, những
hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể. Nhưng trước
những điều đó, người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các
hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt các vua chúa quan quyền vì
danh Thầy; các con sẽ có dịp làm chứng. Vậy các con hãy ghi nhớ điều này
trong lòng, là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào. Vì chính Thầy
sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con
không thể chống lại và bắt bẻ các con. Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ
nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. Các con sẽ bị mọi người
ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư
mất. Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Thứ
Hai
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Kh
1, 1-4; 2, 1-5a
"Hãy nhớ lại ngươi đã sa sút từ mức
nào và hãy hối cải".
Khởi đầu sách Khải Huyền của Thánh
Gioan Tông đồ.
Mạc khải của Ðức Giêsu Kitô mà Thiên
Chúa đã ban cho Người, để Người tỏ cho các tôi tớ Người các điều sắp xảy ra.
Vậy Người đã sai thiên thần loan báo cho tôi tớ người là Gioan, và Gioan làm
chứng rằng tất cả những gì ông đã thấy là lời của Thiên Chúa và lời chứng
của Ðức Giêsu Kitô. Phúc cho ai đọc và nghe các lời tiên tri này, cùng tuân
giữ những điều đã chép trong đó, vì thời giờ đã gần.
Gioan kính gởi bảy Giáo đoàn ở Tiểu Á.
Nguyện chúc ân sủng và bình an cho anh em do từ Ðấng đang có, đã có và sẽ
đến và do từ bảy thần linh đứng trước ngai của Người.
Tôi nghe Chúa phán bảo tôi: "Hãy viết
cho thiên thần Giáo đoàn Êphêxô rằng: 'Ðây là lời của Ðấng cầm bảy ngôi sao
trong tay hữu và đi giữa bảy chân đèn bằng vàng. Ta biết việc làm của ngươi
nổi bật và lòng kiên nhẫn của ngươi; Ta biết ngươi không thể dung kẻ bất
lương; ngươi đã thử thách những kẻ tự cho mình là tông đồ, mà kỳ thực thì
không phải, nhưng ngươi đã thấu rõ họ là hạng gian dối. Ngươi có lòng kiên
nhẫn, ngươi đã chịu đựng vì danh Ta mà không sờn lòng. Nhưng Ta trách ngươi
điều này, là ngươi đã bỏ lòng yêu mến thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem
ngươi đã sa sút từ mức nào, hãy ăn năn hối cải và làm lại những việc thuở
ban đầu' ".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 1, 1-2.
3. 4 và 6
Ðáp: Ta
sẽ cho kẻ thắng trận ăn trái cây sự sống (Kh 2, 7b).
Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu
toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung
với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm
luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.
2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ
sinh hoa trái đúng mùa: lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm
đều thịnh đạt. - Ðáp.
3) Kẻ gian ác không được như vậy: họ
như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và
đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.
Alleluia: Lc 16, 31
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh
thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người.
- Alleluia.
Phúc Âm: Lc 18,
35-43
"Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi? -
Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi Chúa đến gần thành Giêricô, thì có
một người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Khi nghe tiếng đám đông đi qua, anh
liền hỏi có chuyện gì đó. Người ta nói cho anh biết có Ðức Giêsu Nazareth
đang đi qua. Bấy giờ anh liền kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu con vua Ðavít,
xin thương xót tôi!" Những người đi trước mắng bảo anh nín đi, nhưng anh lại
càng kêu lớn tiếng hơn: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Vậy Chúa
Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người. Khi anh đến gần bên Người,
Người hỏi anh: "Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?" Anh thưa: "Lạy Ngài, xin
cho tôi được xem thấy". Chúa Giêsu bảo anh: "Hãy nhìn xem, lòng tin của
ngươi đã cứu chữa ngươi". Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Người, và ca
tụng Thiên Chúa. Thấy vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Một vũ điệu thần linh tuyệt vời
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Hai Tuần XXXIII Thường Niên,
cũng là bài Phúc Âm theo Thánh Marco (10:46-52) được Giáo Hội
chọn đọc cho Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm B, về phép lạ chữa lành
của Chúa Giêsu "cho một
người mù ngồi ăn xin bên vệ đường".
Tuy nội dung của 2 bài Phúc Âm này được cả hai
Thánh Ký Marco và Luca thuật lại giống nhau,
nhưng về chi tiết hơi khác nhau một chút. Chẳng hạn ở những chi tiết
rõ ràng sau đây:
Trước hết, về
nơi xẩy ra phép lạ Chúa, trong khi Thánh ký
Marco thuật lại rằng "Chúa Giêsu ra
khỏi thành Giêricô", thì
Thánh ký Luca trong bài Phúc Âm hôm nay lại viết rằng "Chúa đến
gần thành Giêricô".
Sau nữa, về bản
thân của nạn nhân mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường ở thành Giêricô
này, trong khi Thánh ký Marco (một vị thánh ký viết Phúc Âm ngắn
nhất trong bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm, nhưng lại khá chi tiết về các biến
cố xẩy ra) cho biết rõ lý lịch của nạn nhân là "con
ông Timê tên là Bartimê", thì
Thánh ký Luca lại chẳng nói gì hết.
Còn nữa, về
thái độ của người mù ngồi ăn xin bên vệ đường này, trong khi Thánh
ký Marco cho biết rõ chi tiết về phản ứng của nạn nhân khi nghe thấy
mình được Chúa Giêsu gọi đến là "anh
ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu", thì
Thánh ký Luca lại chỉ vắn tắt viết: "anh
đến gần bên Người".
Sau hết, về lời
truyền chữa lành của Chúa Giêsu phán cùng nạn nhân, trong khi Thánh
ký Marco ghi lại rằng: "Ðược,
đức tin của anh đã chữa anh", thì
Thánh ký Luca ở đây lại chi tiết hơn Thánh ký Marco một chút như thế
này: "Hãy
nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
Ngoài ra, cả hai
vị Thánh ký đều giống nhau ở thái độ của nạn nhân là khi nghe biết
có Chúa Giêsu ở đấy thì van xin, và càng bị trấn át thì càng la to
hơn, cho đến khi được Người gọi đến,
và cũng giống
nhau ở câu đối đáp giữa Chúa Giêsu và nạn nhân trước khi phép lạ xẩy
ra, đó là Chúa Giêsu hỏi nạn nhân muốn Người làm gì cho nạn nhân và
nạn nhân đã xin
Người phục quang cho mình.
Chi tiết thứ
nhất liên quan đến đấng chữa lành, đó là "Chúa
Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người", và
chi tiết thứ hai liên quan đến nạn nhân được chữa lành: "anh
thấy được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa".
Thật vậy, đây là
quả là một vũ điệu thần linh tuyệt vời. Ở chỗ, tác động thần linh
từ Đấng Chữa Lành đã được phản hồi hết sức tương xứng bằng một đáp ứng
thần linh từ nạn
nhân được chữa lành.
Nạn nhân trước
khi được chữa lành không hề dám tự động quẳng áo choàng đứng
lên tiến đến gần
Chúa Giêsu khi thoạt tiên vừa nghe thấy Người đến gần chỗ nạn
nhân đang ngồi ăn xin, mà chờ đợi cho tới khi được Người gọi tới.
Thái độ cứ ngồi yên một chỗ đợi chờ không phải là thái độ không
nhiệt tình, mà là một thái độ tin tưởng hơn hết, ở chỗ, một đàng
thì kêu la van xin cho bằng được, trong khi lại ngồi yên tại chỗ như
thể nạn nhân cảm thấy mình hoàn toàn bất xứng không đáng đến gần
Chúa Giêsu, cũng như bất
lực không thể nào
làm gì được nếu không có Người.
Đúng thế, tác động thần
linh bao giờ cũng đến trước đáp ứng thần linh của thụ tạo, như yếu
tố thiết yếu và điều
kiện bất khả thiếu để thụ tạo nhờ đó
và do đó mới có
thể bị động, mới có
thể cảm động và mới có
thể di động theo tác động
thần linh. Bởi
thế, chỉ khi nghe thấy Chúa Giêsu truyền gọi, nạn nhân mù lòa
ngồi ăn xin bên vệ đường ở thành Giêricô này mới đến được
và được đến với Người.
Thực tế sống đạo cũng
cho thấy thực tại này, ở
chỗ, những ước
muốn tốt lành của chúng ta cũng cần
phải được
Thiên Chúa tác động trước,
hơn là tự chúng ta có được, vì chúng ta theo bản tính tự
nhiên đã
bị hư đi theo nguyên tội, luôn hướng hạ hơn là hướng thượng. Một
khi chấp nhận ước muốn tốt lành bởi tác động thần linh
khởi động ấy, chúng
ta mới bày
tỏ lòng khát vọng của chúng ta bằng lời cầu nguyện, nhờ đó Thiên
Chúa được dịp ban
cho chúng ta chính những gì Ngài đã muốn ban nên đã soi động chúng
ta ước muốn trước khi van xin.
Cuộc hội ngộ thần linh
trong bài Phúc Âm hôm nay đã
xẩy ra một cách hết
sức ngoạn
mục. Ở chỗ, nạn nhân kháo khát được chữa lành, trong khi Thiên Chúa
vô cùng nhân hậu đã sẵn muốn chữa lành cho nạn nhân rồi, và chỉ
chờ đến giờ của mình là ra tay lập tức, tức
là cho đến khi nghe thấy nạn nhân kêu xin mình thì đáp ứng ngay, như
thể Đấng Chữa Lành thụ động còn nạn nhân chủ động, như
xẩy ra trong trường hợp được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại.
Nạn nhân mù ngồi ăn xin
hằng ngày ở
thành Giêricô tên Bartimê này, chắc đã
lâu lắm rồi, với một thân phận nghèo khổ và tương lai mịt mù như
bóng tối hằng che phủ đôi mắt của nạn nhân, có ngờ đâu lại bất
ngờ được gặp và gặp được Đấng
chữa lành cho mình, và
như thế, quả thực cuộc đời của nạn nhân đã được Thiên Chúa sử
dụng để tỏ mình Ngài ra, giống hệt như trường hợp của người mù từ
lúc mới sinh trong Phúc Âm Thánh ký Gioan (9:3).
Phải chăng cảm nhận được
như vậy, nạn nhân diễm phúc này đã không còn thiết gì thế gian này
nữa, vì nạn nhân được sáng mắt không phải chỉ thấy được ánh sáng tự
nhiên mà nhất là thấy được chính "ánh sáng thế gian" (Gioan
8:12), một thứ ánh sáng thần linh ban sự sống đã chữa lành cho nạn
nhân, và vì thế nạn nhân đã "đi
theo Người, và ca tụng Thiên Chúa"?
Bản thân của nạn
nhân đã trở thành một cuộc thần hiển cho Thiên Chúa tỏ mình ra,
chẳng những cho chính nạn nhân, mà còn cho cả cộng đồng gần xa của
nạn nhân nữa. Mục đích của Thiên Chúa ban ơn cho bất cứ một ai không
phải chỉ cho riêng người đó mà còn qua người đó cho các người khác
nữa. Bao giờ cũng thế. Đó là nguyên tắc và đường lối tỏ mình ra của
Ngài. Bởi
thế, bài Phúc Âm
hôm nay đã kết luận như sau: "Thấy
vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa".
Chưa hết, nếu để ý chúng ta còn thấy người mù ăn xin bên vệ đường
này phải là một con người có một đời sống nội tâm siêu việt, được
bộc lộ ra qua lời van xin của anh ta ngỏ cùng Đấng mà anh ta tin có
thể chữa lành cho anh ta: "Lạy ông Giêsu, con Vua Đavít, xin
thương xót tôi" (lần hai cũng thế, tuy không còn lập lại tên Giêsu).
Tại sao anh mù ăn xin này lại kêu lên câu này, một câu nói cho thấy
tất cả đức tin chân thực của anh ta vào nhân vật Giêsu Nazarét, một
nhân vật lần đầu tiên anh được gặp dù không thấy nhưng vẫn tin, tin
hơn cả thành phần lãnh đạo tôn giáo của dân Do Thái và tin hơn cả
thành phần thông luật và dạy luật trong dân nữa, nếu không phải là
vì anh ta tin rằng nhân vật "Giêsu" ấy chính là Đấng Thiên Sai Cứu
Thế, Đấng được sai đến không phải để giải thoát dân Do Thái khỏi
quyền lực chính trị như hầu hết dân chúng mong đợi, mà là để giải
thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết. Và vì sự chết và đau khổ là
hậu quả của tội lỗi mà nếu nhân vật "Giêsu" là Đấng Thiên Sai Cứu
Thế thì Người có thể cứu anh ta khỏi mù.
Trong câu trả lời của anh ta cho câu hỏi của Chúa Giêsu "anh
muốn tôi làm gì cho anh?" rằng "xin cho tôi được thấy"
cũng hàm chứa một ước vọng sâu xa của anh ta trong thời gian anh ta
bị mù lòa, một thứ mù lòa về thể lý nhưng không thể bịt bùng tâm hồn
chiêm niệm tràn đầy ánh sáng siêu nhiên của anh ta. Ước vọng được
anh ta bày tỏ qua lời "xin cho tôi được thấy" đó là được thấy "ánh
sáng thế gian" (Gioan 8:12) là chính Chúa Giêsu, hơn là chỉ được
thấy ánh sáng mặt trời, thấy lại những người thân yêu, thấy lại họ
hàng thân hữu v.v. Đó là lý do, vì "xin cho tôi được thấy" "ánh sáng
thế gian" mà ngay sau khi được chữa lại, được thấy lại, anh ta đã "đi
theo Người và ca tụng Thiên Chúa".
Thứ Ba
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Kh
3, 1-6. 14-22
"Ai mở cửa cho Ta, Ta sẽ vào dùng
bữa tối ở nhà người ấy".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan
Tông đồ.
Tôi là Gioan, tôi đã nghe Chúa phán
bảo tôi rằng: "Hãy viết cho thiên thần Giáo đoàn Sarđê rằng: 'Ðây là lời
Ðấng có bảy thần linh Thiên Chúa và bảy ngôi sao: Ta biết các việc của ngươi
làm; ngươi có tiếng là đang sống, nhưng ngươi đã chết. Hãy lo tỉnh dậy, hãy
bồi dưỡng chút sinh khí sắp tàn. Vì Ta không thấy các việc ngươi làm trọn
hảo trước mặt Thiên Chúa Ta. Vậy hãy nhớ lại ngươi đã đón nhận và nghe lời
Chúa thế nào, hãy giữ lấy lời ấy và hãy ăn năn hối cải. Vì nếu ngươi không
tỉnh thức, Ta sẽ đến với ngươi như một kẻ trộm, ngươi sẽ không biết giờ nào
Ta sẽ bất chợt đến cùng ngươi. Nhưng tại Sarđê ngươi có một số người đã
không làm dơ bẩn áo của họ; và họ sẽ tháp tùng Ta trong bộ áo trắng của họ
vì họ xứng đáng. Như vậy kẻ chiến thắng sẽ mặc áo trắng, và Ta sẽ không xoá
bỏ tên người ấy khỏi Sách hằng sống, và Ta sẽ tuyên danh người ấy trước mặt
Cha Ta và các thiên thần Người. Ai có tai thì hãy nghe điều Thần linh phán
với các giáo đoàn.
"Hãy viết cho giáo đoàn Laođicia rằng:
'Ðây là lời của Amen, chứng nhân trung thực, nguyên thuỷ công trình sáng thế
của Thiên Chúa. Ta biết các việc làm của ngươi: ngươi không lạnh mà cũng
không nóng; phải chi ngươi lạnh hẳn hoặc nóng hẳn đi! Bởi vì ngươi hâm hẩm,
không lạnh không nóng, nên Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta. Bởi vì ngươi
nói rằng: Tôi giàu có, tôi sung túc, tôi không thiếu thốn gì nữa. Bởi vì
ngươi không biết rằng thực ra ngươi vô phúc, đáng thương, nghèo khó, đui mù
và trần trụi. Vậy ngươi hãy nghe lời Ta khuyên bảo: Hãy mua vàng ròng mà làm
giàu, mua áo trắng tinh mà mặc, hầu che giấu sự trần trụi xấu hổ của ngươi;
hãy mua thuốc nhỏ vào mắt, cho mắt ngươi được sáng. Ta răn bảo và sửa dạy
những kẻ Ta yêu thương. Vậy hãy sốt sắng hơn lên và hối cải đi. Này Ta đứng
ngoài cửa, Ta gõ; nếu ai nghe tiếng Ta mà mở cửa cho Ta, Ta sẽ vào nhà người
ấy và dùng bữa tối với nó, và nó sẽ dùng bữa với Ta. Ai chiến thắng, Ta sẽ
cho ngồi với Ta trên ngai của Ta, cũng như Ta đã chiến thắng và ngự với Cha
Ta trên ngai của Người. Ai có tai thì hãy nghe điều Thần linh phán với các
giáo đoàn".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 14,
2-3ab. 3cd-4ab. 5
Ðáp: Ai
chiến thắng, Ta sẽ cho ngồi với Ta trên ngai của Ta (Kh 3, 21).
Xướng: 1) Người sống thanh liêm và
thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời
vu khống. - Ðáp.
2) Người không làm ác hại bạn đồng
liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng
kính yêu những ai tôn sợ Chúa. - Ðáp.
3) Người không xuất tiền đặt nợ thu
lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những điều kể
đó, thì muôn đời chẳng có lung lay. - Ðáp.
Alleluia: Lc 21, 28
Alleluia, alleluia! - Các con hãy đứng
dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19,
1-10
"Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa
điều gì đã hư mất".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi
ngang qua thành, thì kìa, có một người tên là Giakêu, ông thủ lãnh những
người thu thuế và là người giàu có. Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là
người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông quá, mà ông lại thấp
bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì
Người sắp đi ngang qua đó. Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông
thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: "Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay
Ta phải lưu lại tại nhà ngươi". Ông vội vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp
Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: "Ông này lại đến trọ nhà một
người tội lỗi". Ông Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng: "Lạy Ngài, tôi xin
bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai
điều gì, tôi xin đền gấp bốn". Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: "Hôm nay nhà này
được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng, Con Người
đến tìm kiếm và cứu chữa điễu gì đã hư mất".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Chẳng còn gì ngoài ơn cứu độ
- nhờ một kẽ hở ...
Hôm nay, Thứ Ba Tuần XXXIII Thường Niên, Bài Phúc Âm
ở đầu đoạn 19 của Thánh ký Luca, tiếp
ngay sau Bài Phúc Âm hôm qua ở cuối đoạn 18.
Trong khi ở Bài Phúc Âm hôm qua, cuộc hành trình lên
Giêrusalem của Chúa Giêsu mới "đến
gần thành Giêricô", thì
trong Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca ghi nhận tiếp về cuộc hành
trình này, ở chỗ: "Chúa
Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành".
Cuộc hành trình tiến về
Giêrusalem của Người đã khiến Người gặp gỡ một số con người đặc
biệt được thuật lại trong Phúc Âm, chẳng hạn trường hợp của người mù
ngồi ăn xin ở vệ đường trong Bài Phúc Âm hôm qua, hay vị "thủ
lãnh những người thu thuế và là người giàu có" "tên
là Giakêu"
trong Bài Phúc Âm hôm nay.
Về trường hợp của
người mù Batimê trong bài Phúc Âm hôm qua được thuật lại bởi Thánh ký
Luca và Marco, nhưng câu
chuyện về nhân vật thủ lãnh thu thuế này chỉ có trong Phúc Âm Thánh Luca
mà thôi, vì Phúc Âm
Thánh ký Luca là
Phúc Âm về Lòng Thương Xót Chúa, một Phúc Âm chất chứa những dụ ngôn về
Lòng Thương Xót Chúa rất cảm kích không có ở trong bất cứ Phúc Âm nào.
Chẳng hạn 3 dụ ngôn tiêu
biểu nhất sau đây: 1- Dụ
Ngôn Người Samaritanô Nhân Hậu (xem Luca 10:25-37); 2- Dụ
Ngôn Người Cha Nhân Hậu Với Hai Đứa Con Đáng
Thương (xem Luca 15:11:32); 3- Dụ
Ngôn Hai Người Lên Đền Thờ Cầu Nguyện (xem Luca 18:9-14) v.v. Cũng chỉ
trong Phúc Âm Thánh ký Luca mới có câu: "Các con hãy thương xót như
Cha của các con là Đấng thương xót" (Luca 6:36), một Lòng Thương
Xót đã được phản ảnh sống động nhất qua lời đầu tiên của Chúa Kitô khổ
giá cũng chỉ ở trong Phúc Âm Thánh Luca:
"Lạy
Cha, xin Cha tha cho họ vì họ lầm không biết việc họ làm"
(Luca 23:34).
Chính trong Bài Phúc Âm hôm
nay có một câu nói của Chúa Giêsu về Lòng Thương Xót Chúa cũng
chỉ có ở trong Phúc Âm Thánh Luca mà thôi, đó là câu:
"Con
Người đến để tìm
kiếm và cứu vớt
những gì
đã hư vong", điển
hình nhất là viên trưởng ban thu thuế Giakêu được Thánh ký Luca thuật
lại.
Nhân vật trưởng ban thu
thuế Giakêu
này thực sự "đã hư
vong", tức đã sống một cuộc đời bê bối tội lỗi khi hành nghề thu
thuế đầy những mánh khóe gian lận tiền bạc để
có thể làm giầu cách
bất chính, đã thực sự là
thành phần tội nhân, chẳng những trước mặt dân Do Thái mà
chính ngay cả bản thân của đương sự cũng phải chân nhận như thế, qua lời
hứa hẹn của đương sự sau khi được gặp gỡ Chúa Giêsu: "Lạy
Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm
thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn".
Nếu Chúa Kitô "đến để tìm
kiếm và cứu vớt những gì đã hư hoại" thì Người rất nhậy cảm với
những tâm hồn đang sống trong giầu sang phú quí với đầy nhưng băn khoăn khắc
khoải không thỏa mãn
làm sao ấy, như trường hợp của viên trưởng ban thu thuế Giakêu trong bài
Phúc Âm hôm nay, đến độ nhân vật này đã phải sẵn sàng bỏ trạm thu thuế
là nơi làm giầu hằng ngày của mình và lánh xa đám nhân viên thu
thuế đồng nghiệp cùng gian lận dưới quyền mình, để quyết tâm đón
gặp được Người, cho dù chỉ muốn "tìm
cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào" thôi,
bằng cách "chạy
lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi
ngang qua đó".
Đúng vậy, vì cố ý "tìm
kiếm và cứu vớt những gì đã hư hoại" mà
Chúa Giêsu đã nhậy
cảm đến độ, trong khi
hình như không ai trông thấy
nhân vật giầu sang phú quí và quyền hành này, đang ẩn
nấp ở trên
một cái cây bên đường, để
một đàng vừa tránh được cái nhìn khinh bỉ của đám đông vẫn giành
cho đương sự, đàng khác lại vừa
dễ trông thấy Chúa Giêsu đi
ngang qua theo
lòng ước nguyện.
Người quả thực đã nhìn
thấy đương sự, nhìn thấy tận đáy lòng của đương sự ước muốn gặp
Người, cũng như nhìn thấy hành động thiện chí như trẻ con trèo lên
cây ẩn nấp trên đó của đương
sự, nên Người đã
tự động lên tiếng gọi đương sự làm cho đương sự giật nẩy mình lên, chẳng
những vì đương sự bất ngờ bị lộ tẩy chân tướng trước mặt đám đông đối
phương của đương sự, mà
còn vì đương sự cảm
thấy vô cùng sung
sướng được Người gọi đích danh của mình, mà đương sự tưởng rằng Người
không hề hay chưa hề biết đến đương
sự bao giờ.
Có một chi tiết liên quan đến việc gọi đích danh tên của viên trưởng ban
thu thuế trong bài Phúc Âm này đó là hình như chỉ có những ai bê bối tội
lỗi hay khổ đau mới được Người gọi đích danh mà thôi, còn những ai được
Người đặc biệt yêu thương lại không được diễm phúc ấy, chẳng như như
Tông Đồ Gioan là "người môn đệ được Chúa Giêsu thương" (Gioan
13:23; 19:26; 20:2; 21:7,20).
Thật vậy, những nhân vật đã từng sống cuộc đời bê bối đã được Chúa Giêsu
gọi đích danh như đích danh "Giakêu" trong bài Phúc Âm hôm nay,
hay như "Maria" Mai Đệ Liên (Gioan 20:16), một con điếm "đã
được Người trừ bảy quỉ" (Marco 16:9), hoặc như "Simon"
Phêrô (Gioan 21:15-17) đã từng trắng trợn và phũ phàng chối Người 3 lần,
hay như "Saule" (Tông Vụ 9:4; 22:7; 26:14) là kẻ bách hại Người nơi
thành phần tín hữu trong thời Giáo Hội sơ khai, hoặc như "Lazarô"
là một thây ma đã chết 4 ngày trong mồ (Gioan 11:43).
Ôi tuyệt vời thay Lòng
Thương Xót Chúa: "Tôi
là vị mục tử nhân lành. Tôi
biết các chiên tôi và chiên tôi biết Tôi"
(Gioan 10:14). Trong khi tội
nhân không hề biết Người, ở chỗ xúc phạm đến Người, thì Người lại biết
họ và kêu gọi đích danh họ, vạch mặt chỉ tên họ, chứng tỏ Người hằng
theo dõi cuộc đời của họ, và ngồi chờ họ ở những nơi sinh hoạt quen
thuộc của họ, như ngồi chờ người đàn bà tội lỗi bên giếng Giacóp (xem
Gioan 4:6-9), hay đi đến tận những nơi thầm kín của họ, như trường hợp
của viên trưởng ban thu thuế Giakêu trong Bài Phúc Âm hôm nay, để
cố ý cứu đương sự khỏi
cuộc đời lén lút mờ mịt của đương
sự.
Chúa Giêsu đã không
nhắc đến tội lỗi của bất cứ tội nhân nào, khi mới gặp họ, dù Người biết
rõ tội của họ hơn ai hết, mà chỉ tỏ lòng thương họ để họ nhờ đó có
thể ăn năn thống hối thôi. Thậm chí Người không sợ gần gũi với tội nhân
xấu xa nhơ nhớp đáng ghê tởm, cho dù có bị chê trách, như Bài Phúc Âm
hôm nay cho thấy: "Ông
này lại đến trọ nhà một người tội lỗi". Vì
họ mới là thành phần "bệnh nhân cần đến thày thuốc" như Người là
một Vị Lương Y thần linh toàn năng có thể chữa lành cả hồn lẫn xác của
họ (xem Mathêu 9:12).
Việc Người chẳng
những tiến vào mà còn ở lại nhà của nhân vật tội lỗi Giakêu: "Hỡi
Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi", để
giao tiếp với thành phần thu thuế tội lỗi như nhân vật này, thật sự là
một hiện diện thần linh cứu độ: "Hôm
nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì
chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều
gì đã hư mất".
Tác dụng của ơn
cứu độ được Chúa Kitô mang đến cho chẳng những riêng nhân vật Giakêu
mà còn cho cả "nhà"
(gia đình) của đương
sự nữa, thậm chí "nhà" đây
còn có thể hiểu là bao gồm cả thành phần nhân viên thu thuế thuộc quyền
lãnh đạo của đương sự nữa, nhất khi chính họ đích
mắt thấy được lòng nhân lành cảm thương tha thứ của Người giành cho vị
thủ lãnh của họ.
Tác dụng xuất phát từ lòng
cảm thương ấy của Chúa Giêsu đã biến đổi hẳn bản thân và cuộc đời của
một nhân vật tội lỗi, đến độ đương sự chẳng những thật lòng ăn năn thống
hối ở chỗ
đền bù tội lỗi của mình đối với những ai bị thiệt hại vật chất bởi đương
sự gian lận trước đó mà còn giành ra nửa phần gia tài để làm phúc bố thí
nữa, nghĩa là kể như trở về tay không để được đổi lấy Nước Trời, lấy ơn
cứu độ vô giá, không gì sánh được: "Lạy
Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm
thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn".
Khi còn sống trong
tội lỗi thì bất cứ ai, dù chẳng làm nghề buôn bán hay thu
thuế như nhân vật Giakêu trong Bài Phúc Âm hôm nay, cũng
sống trong tình trạng gian dối, (tự tội lỗi đã là gian dối), không đúng
với sự thật
về thân phận thụ
tạo làm người trước nhan Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân.
Bởi đó, hoán cải chính là
tác động "đi
từ tối tăm ra ánh sáng lạ lùng"
(1Phêrô 2:9). Sau cuộc đời
sống gian dối bằng hành động gian lận tiền bạc của dân chúng với vai trò
thu thuế của mình, nhân vật Giakêu đã
bắt đầu sống hoàn lương trong chân lý.
Nhưng để được như vậy, Lòng Thương Xót Chúa là chính ơn cứu độ của đương
sự tội nhân này chỉ cần lòng của đương sự hé mở dù chỉ một chút xíu
chăng nữa, và
tính tò mò tự nhiên của đương sự muốn xem nhân vật Giêsu Nazarét là
ai chính là kẽ hở cứu độ đó vậy!
Thánh Albertô Cả,
Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh
Ngày 15: Thánh Albertô cả, giám mục tiến sĩ Hội Thánh
Thánh Albertô được gọi là cả vì tài
khôn ngoan và thông minh đặc biệt của ngài. Ngài sinh vào khoảng năm 1193
tại Lauingen, một làng nhỏ bên bờ sông Danube miền Souabe, nước Ðức.
Ngài theo học tại đại học Padua. Sau
đó xin gia nhập dòng Ða Minh, mặc dầu gia đình ngăn cản. Ngài giữ luật dòng
hết sức trung thành và nghiệm nhặt, có lòng sùng kính Mẹ Maria cách riêng,
và hăng say phục vụ các linh hồn. Năm 1228, ngài được gửi sang Cologne để
học xong chương trình. Sau đó, ngài được mời về làm giáo sư đại học Paris.
Ngài là người thầy đã có công tìm hiểu và hướng dẫn thánh Tôma Aquinô, sau
này trở nên một vị tiến sĩ thời danh của Giáo Hội.
Ít lâu sau, ngài rời Paris để nhận
nhiệm sở khác tại Ðức và tại Rôma. Năm 1260, ngài được gọi làm Giám Mục
Ratisbone và chết tại đó năm 1280.
Thánh nhân để lại rất nhiều tác phẩm
quý giá về mọi vấn đề, nhất là triết học và thần học. Ngài được tôn phong
Hiển Thánh năm 1931 do Ðức Giáo Hoàng Piô XI. Và năm 1942, Ðức Piô XII đã
đặt cho ngài danh hiệu Tiến Sĩ Hội Thánh.
Thứ Tư
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Kh
4, 1-11
"Thánh, Chúa là Thiên Chúa toàn
năng, Ðấng đã có, hiện có và sẽ đến".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan
Tông đồ.
Tôi là Gioan, tôi đã thấy: kìa cửa
trời mở ra và tiếng tôi đã nghe trước kia nói cùng tôi như tiếng loa rằng:
"Hãy lên đây, Ta sẽ cho ngươi thấy điều phải xảy ra sau này". Bỗng tôi xuất
thần, và kìa, một ngai đã đặt trên trời, có Ðấng ngự trên ngai, và Ðấng ngự
trên ngai rực rỡ như bích ngọc hoặc như hồng thạch; có mống cầu vồng màu lục
thạch bao bọc ngai. Chung quanh ngai có hai mươi bốn toà, và trên đó, có hai
mươi bốn trưởng lão, mặc áo trắng tinh, đầu đội triều thiên vàng. Từ nơi
ngai phát ra những tia chớp, tiếng nói và tiếng sấm; lại có bảy cây đèn cháy
trước ngai, đó là bảy Thần linh của Thiên Chúa. Phía trước ngai coi như có
biển trong ngần như pha lê.
Còn chính giữa và chung quanh ngai có
bốn con vật, đàng trước đàng sau chỗ nào cũng có mắt: Con vật thứ nhất giống
như sư tử; con vật thứ hai giống như con bò; con thứ ba có dung mạo như mặt
người; con thứ tư như chim phượng hoàng đang bay. Bốn con vật ấy con nào
cũng có sáu cánh quanh mình, và trong mình đầy những mắt, ngày đêm không
ngớt tung hô:
"Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên
Chúa toàn năng, Ðấng đã có, hiện có, và sẽ đến".
Và mỗi lần bốn con vật tôn vinh, chúc
tụng và cảm tạ Ðấng ngự trên ngai, là Ðấng hằng sống muôn đời, thì hai mươi
bốn trưởng lão phủ phục trước Ðấng ngự trên ngai và thờ lạy Ðấng hằng sống
muôn đời; họ gỡ triều thiên của họ mà đặt trước ngai và tung hô rằng: "Lạy
Chúa là Thiên Chúa chúng con, Chúa đáng được vinh quang, danh dự và quyền
năng, vì chính Chúa đã tạo thành vạn vật, chính do ý Chúa mà muôn vật mới có
và được tạo thành".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 150,
1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Thánh,
thánh, thánh! Chúa là Thiên Chúa toàn năng (Kh 4, 8b).
Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa trong
Thánh đài của Chúa, ngợi khen Chúa nơi thanh không cao cả của Người. Hãy
ngợi khen Người vì những kỳ công vĩ đại, ngợi khen Người bởi sự Người tuyệt
đối oai nghiêm. - Ðáp.
2) Hãy ngợi khen Người với tiếng kèn
rầm rộ, ngợi khen Người với cây đàn sắt đàn cầm. Hãy ngợi khen Người với
trống rung và ca vũ, ngợi khen Người với tiếng tơ đàn, với ống tiêu. - Ðáp.
3) Hãy ngợi khen Người với âm vang não
bạt, ngợi khen Người với tiếng rền rĩ mã la. Phàm vật chi có hơi thở, hãy
ngợi khen Thiên Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Tv 110,
8ab
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, mọi
gới răn Chúa được lập ra cho tới muôn đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19
11-28
"Sao ngươi không gửi bạc Ta ở ngân
hàng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán thêm một dụ
ngôn nữa, vì Người đã đến gần Giêrusalem, mà dân chúng lại cứ tưởng là Nước
Thiên Chúa sắp xuất hiện trong giây lát. Vậy Người phán rằng:
"Có người quý tộc kia đi phương xa để
được phong vương rồi trở về. Ông cho gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ
mười nén bạc và dặn rằng: "Hãy làm lợi cho đến khi ta trở về". Nhưng các
người dân của ông ấy ghét ông, sai người đi theo mà rằng: "Chúng tôi không
muốn ông ấy làm vua chúng tôi". Ðược phong vương rồi ông trở về, cho gọi các
tôi tớ mà trước kia ông đã giao tiền cho, để biết mỗi người đã làm lợi được
bao nhiêu.
"Người thứ nhất đến và thưa: "Tâu vua,
nén bạc của vua đã sinh lợi được mười nén". Nhà vua bảo: "Ðược, hỡi người
tôi tớ tốt lành, ngươi đã trung tín trong điều nhỏ mọn, ngươi sẽ được quyền
cai trị mười thành". Người thứ hai đến thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã
sinh lợi được năm nén". Nhà vua đáp: "Ngươi cũng vậy, hãy cai quản năm
thành".
"Người thứ ba đến thưa: "Tâu vua, đây
nén bạc của vua, tôi còn giữ trong khăn, vì tôi sợ ngài: ngài là người hà
khắc, và lấy cái ngài không gửi, gặt cái ngài không gieo". Vua phán rằng:
"Hỡi đầy tớ bất lương, ta cứ lời ngươi mà xử ngươi. Ngươi đã biết ta là
người hà khắc, lấy cái ta không gửi, gặt cái ta không gieo, sao ngươi không
gửi bạc ta ở ngân hàng, để rồi khi ta trở về, ta có thể lấy cả vốn lẫn lời".
"Vua liền bảo những người đứng đó
rằng: "Hãy lấy nén bạc của nó mà trao cho người đã có mười nén". Họ tâu
rằng: "Tâu vua, người ấy đã có mười nén rồi". Vua đáp: "Ta nói cùng các
ngươi: Ai có sẽ cho thêm, và người đó sẽ được dư dật; còn ai không có, người
ta sẽ lấy đi cả cái nó đang có. Còn những kẻ nghịch cùng ta, không muốn ta
làm vua, hãy đem chúng ra đây và giết chúng trước mặt ta". Nói thế rồi Chúa
liền dẫn họ lên Giêrusalem.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Đã có được cho thêm là để dự trữ mà bù đắp...
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XXXIII
Thường Niên, tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm hôm qua. Một chi tiết
cho thấy điều đó, chẳng cần theo dõi kỹ về đoạn và câu của 2 bài
Phúc Âm, đó là chi tiết liên quan đến địa điểm của cuộc hành trình
Giêrusalem của Chúa Giêsu.
Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm qua, nếu "Chúa
Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành"
thì trong Bài
Phúc Âm hôm nay, "Người
đã đến gần
Giêrusalem",
và chính "vì"
thế, Phúc Âm hôm nay cho biết tiếp, "mà
dân chúng lại cứ tưởng là Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện trong giây
lát".
Bởi thế, Thánh ký
Luca ghi nhận rằng: "Chúa
Giêsu phán thêm một dụ ngôn nữa", một
dụ ngôn chẳng những trực tiếp liên quan đến cuộc hành trình
Giêurusalem của Người bấy giờ,
mà còn liên
quan đến "Nước
Thiên Chúa", một
thực tại thần linh đã từng được Người sử dụng nhiều hình ảnh khác
nhau để sánh ví trước đó nay Người muốn nói "thêm... nữa" vào
lúc Người gần tới Thành Giêrusalem: "Nói
thế rồi Chúa liền dẫn họ lên Giêrusalem". Và
dụ ngôn ấy được Phúc Âm hôm nay cho biết đã bắt đầu như
thế này:
"Có người quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở
về. Ông cho gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và
dặn rằng: 'Hãy làm lợi cho đến khi ta trở về'. Nhưng
các người dân của ông ấy ghét ông, sai người đi theo mà rằng: 'Chúng
tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi'. Ðược phong vương rồi ông
trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia ông đã giao tiền cho, để
biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu".
Trước hết, "người
quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở về" đây phải
chăng ám
chỉ chính Chúa
Kitô, Con Thiên Chúa ("quí tộc"), từ trời xuống trần gian ("đi
phương xa") để hoàn tất công cuộc cứu chuộc trần
gian của mình, ở chỗ được "treo lên" (Gioan 8:28) trên ngai
tòa Thánh Giá (như "được
phong vương", nhưng
sau đó người đã tự mình sống lại ("rồi
trở về").
Ý nghĩa "đi phương xa" cũng có thể hiểu có liên hệ mật
thiết với lời tiên báo của Chúa Giêsu với các môn đệ của Người trong
Bữa Tiệc Ly về việc Người ra đi đến một nơi mà các môn đệ của Người
không thể tới được và chẳng biết là ở chỗ nào để theo như tông đồ
Toma cảm nhận (xem Gioan 14:5): "Thày chẳng còn ở với các con
bao lâu nữa. Các con sẽ tìm kiếm Thày... Nơi Thày đi các con không
thể nào tới được" (Gioan 13:33).
Trước khi lên đường "đi
phương xa để được phong vương rồi trở về" như
thế, "ông cho
gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và dặn rằng:
'Hãy làm lợi cho đến khi ta trở về'", phải
chăng ở đây Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến
Bữa Tiệc Ly là lúc Chúa Giêsu đã trao cho các
vị,
một điều bao
gồm cả 10 điều răn Cựu Ước (ám chỉ "10 nén bạc") đó là "giới
răn mới"
(Gioan 13:34), ở
chỗ các vị phải "yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con.
Tất cả mọi người sẽ dấu ấy mà nhận biết các con là môn đệ của Thày" (Gioan
13:34-35).
Thế nhưng,
việc
Chúa Kitô hành trình lên Giêrusalem để hoàn tất sứ vụ cứu độ trần
gian của Người như một ông vua như thế không được lòng "dân
của" Người là dân Do Thái vốn "ghét" Người nên
họ đã
ra mặt công khai chống đối:
"Chúng
tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi", bằng
cách sát hại Người. Không
ngờ, việc họ tự do sát hại Người một cách độc dữ tàn bạo chưa từng
thấy lại giúp cho Người "được phong vương" - "Giêsu
Vua Dân Do Thái" (Luca 23:38), Đấng
"được toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18).
"Ðược phong vương rồi ông trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia
ông đã giao tiền cho, để biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu". Đúng
thế, khi "trở về" vào lúc quang lâm tái
giáng của mình
trong ngày sau hết, Chúa Kitô sẽ tính sổ sách về nén bạc được Người
trao phó cho thành phần đầy tớ của Người thuộc hàng ngũ lãnh đạo đàn
chiên của Người, từ các
vị tông đồ đến thành
phần thừa kế các vị trong hàng giáo phẩm (bao gồm cả giáo sĩ) dọc suốt
giòng lịch sử của Giáo Hội Người thiết lập.
Nén bạc đó đối với thành phần đầy tớ của Chúa Kitô (nếu hiểu về các
vị chủ chiên trong hàng giáo phẩm và giáo sĩ) quả thực là đức bác
ái, như chính Người đã hỏi tông đồ Phêrô 3 lần có yêu mến Người hay
chăng để Người trao phó các chiên của Người cho ngài cũng như cho
các vị thừa kế ngài cùng tông đồ đoàn là các vị giáo hoàng và giám
mục sau này trong Giáo Hội. Và quả thực, chính vì nén bạc đó là đức
bác ái yêu thương phục vụ mà Người đã căn cứ vào đức bác ái này mà
phán xét cùng thưởng phạt vậy (xem Mathêu 25:31-46).
Vấn đề ở đây là "người
quí tộc" trong dụ ngôn đã
trao cho 10 người đầy tớ của
mình 10
nén bạc, nghĩa là mỗi người một nén bạc chứ không phải mỗi người 10
nén bạc, ám chỉ 10 điều răn, nhưng được tóm lại thành "một nén
bạc" là "giới răn mới" được Chúa Kitô truyền lại cho
các tông đồ. Vậy "10 người đầy tớ" đây là ai, nếu không
phải ở trong Bữa Tiệc Ly bấy giờ là lúc các môn đệ được Chúa Kitô
trao cho nén bạc "giới răn mới" có thể hiểu là ám chỉ 10 vị
trong số 12,
vì tông đồ Giuđa bấy
giờ đã bỏ đi bàn việc nộp Người (xem Gioan 13:30), và Tông Đồ Gioan
không kể vì vị tông đồ này tự bản chất và sứ vụ vốn gắn liền với "giới răn
mới" qua cử chỉ dựa vào ngực Chúa Kitô (xem Gioan 13:23).
Tuy nhiên việc sinh lợi
nén bạc lại tùy theo trình độ khả năng và mức độ nỗ lực của
mỗi người đầy tớ nữa. Bởi
thế, trong 3 loại người đầy tớ tiêu biểu được chủ gọi đến trình bày
trách nhiệm nén bạc của mình, có người sinh lợi được gấp 10 lần,
nhưng cũng có người chỉ sinh lợi được gấp 5 thôi, như dụ ngôn của
Bài Phúc Âm cho thấy.
Ở đây có thể hiểu nén
bạc "giới răn mới" là "yêu nhau như Thày" nơi từng
người đầy
tớ sinh lợi nhiều
như gấp 10, hay sinh lợi vừa như gấp 5, chẳng những tùy ở ơn gọi hay
bậc sống của Kitô hữu, giáo dân hay giáo sĩ, mà còn tùy ở mức độ
nên một với Chúa
Kitô nữa, ở chỗ, càng hiệp nhất với Người thì Người càng yêu thương
tha nhân như chính Người đã yêu họ, nghĩa là họ càng phản ảnh Chúa
Kitô một cách trung thực nhất và sống động nhất, gấp 10 lần, hơn gấp
5 lần.
Trong số thành phần đầy
tớ cũng không thể thoát được có một thiểu
số nào đó không đáp ứng
trách nhiệm nén bạc được trao phó, ở chỗ sống vị kỷ, hưởng thụ hơn
phục vụ, không
phản ảnh bản chất đức ái trọn hảo của mình như "ánh sáng thế gian"
(Mathêu 5:14) chiếu tỏa Chúa Kitô "là ánh sáng thế gian" (Gioan
8:12).
Nếu họ cảm thấy "giới
răn mới" là "yêu nhau như Thày yêu" là một lý tưởng quá
siêu việt họ không thể nào với tới như lòng mong ước của chủ mình,
nhất là như gương của chủ mình trong việc "được
phong vương" trên
Thánh Giá của
chủ: "hiến mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người" (Mathêu
20:28), thì ít
nhất họ vẫn có thể sinh lợi nén bạc bác ái được
trao cho họ,
bằng cách gửi vào "nhà băng" thần
linh, ở
chỗ tin tưởng
(trust) ký
thác (deposit) vào
Lòng Thương Xót Chúa, để chính Người bù đắp những yếu hèn bất lực
thiếu sót của
họ, nhờ đó Người "có
thể lấy cả vốn lẫn lời" từ
họ, như từ tên tử tội bị đóng đanh bên phải Người trên Đồi Canvê xưa
(xem Luca 23:40-43).
Ở cuối dụ ngôn trong bài
Phúc Âm hôm nay
còn một chi tiết rất hay nữa, đó là "Ai
có sẽ cho thêm, và người đó sẽ được dư dật; còn ai không có, người
ta sẽ lấy đi cả cái nó đang có", điển
hình là người đầy tớ sinh lợi 10 nén nhiều nhất lại được thêm nén
bạc của "người đầy tớ bất lương".
Đúng thế, trong đời sống
thiêng liêng cũng vậy, những tâm hồn thánh thiện (chứ không phải
chỉ ở tầm mức đạo đức thôi) thường được thêm nhiều ơn Chúa ban,
những ơn mà tội nhân vì yếu đuối và mù quáng đánh
mất, nhưng không phải để người đã
có hoan
hưởng một mình, trái lại, là để
bù đắp cho chính tội
nhân đã đánh
mất đi ân sủng của họ được Chúa ban, nhờ đó
chính tội nhân cũng được cứu độ. Ôi Lòng Thương Xót Chúa vô cùng
khôn ngoan và tìm hết cách để cứu độ con người, cứu độ từng người.
Ngày 16: 1. Thánh Margarita Scotia, hoàng hậu
Thánh
Margarita thuộc hoàng tộc Anh quốc, ngài sinh năm 1046 tại Hung Gia Lợi
khi thân phụ đang bị lưu đày ở đấy. Margarita sống một đời niên thiếu
đạo đức thánh thiện. Vì tình hình chính trị, gia đình ngài phải di cư
sang miền Écosse. Trong chuyến đi này, cha ngài từ trần, phủ lên gia
đình ngài tấm khăn tang chua xót.
Tại Écosse,
gia đình ngài được triều đình và dân bản xứ đón tiếp nồng hậu cùng sự
giúp đỡ tận tình. Ngài được vua Écosse là Malcolm III ngỏ lời cầu hôn
năm 1067.
Với tước
hiệu Hoàng hậu, ngài làm gương và hướng dẫn dân chúng đi vào con đường
ánh sáng và cộng tác trong việc giáo dục quần chúng theo tinh thần Phúc
Âm.
Ðiểm nổi
bật nơi thánh nữ là đời sống nội tâm phong phú và đức bác ái dồi dào.
Ngài thường rời triều đình để đến những xóm lao động thăm hỏi, giúp đỡ
dân chúng nghèo túng. Ngài cũng dành nhiều thời giờ cho việc cầu nguyện
và lãnh nhận các phép bí tích.
Dù bận rộn
với những công tác xã hội, ngài vẫn không xao lãng bổn phận làm vợ, làm
mẹ trong gia đình. Ngài để tâm trí vào việc săn sóc chồng và dạy dỗ con
cái.
Ðể thưởng
công nhân đức của thánh nữ, Chúa cho người được nhiều ơn đặc biệt như
biết trước việc chưa xảy đến. Thánh nữ qua đời ngày 16/11/1903 và được
Ðức Giáo Hoàng Innocentê IV phong Hiển Thánh năm 1250.
2.
Thánh Gertruđê, đồng trinh
Thánh
Gertruđê sinh ngày 06/01/1256 tại Eisleben miền Saxe nước Ðức. Ngay từ
nhỏ đã xin nhập dòng Xitô. Tại đây, ngài đã sống một cuộc đời khổ hạnh
giản dị nhưng luôn bình thản, thánh thiện. Sức khỏe của ngài có phần yếu
kém nên thường được miễn tham dự những giờ kinh chung. Sẵn tinh thần
hiếu học, Gertruđê tiến rất mau trên đường học vấn và đặc biệt có khiếu
về văn chương.
Ngày
27/01/1281, Chúa Giêsu đã hiện ra với thánh nữ lần đầu tiên và mạc khải
cho thánh nữ nhiều điều về tình yêu và ân sủng Chúa.
Ngài luôn
luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa và được Chúa ban ơn xuất thần nhiều
lần để chiêm ngưỡng thánh tâm Ngài.
Ngài có một
lòng mến thánh sử và sự thương khó Chúa cách đặc biệt. Ngài qua đời năm
1302 sau một cơn bệnh trầm trọng.
Thứ Năm
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Kh
5, 1-10
"Chiên con đã bị sát tế và đã lấy
máu mình mà cứu chuộc chúng tôi thuộc mọi nước".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan
Tông đồ.
Tôi là Gioan, tôi đã thấy nơi tay hữu
Ðấng ngự trên ngai một cuốn sách viết cả trong lẫn ngoài, có ấn niêm phong.
Và tôi thấy một thiên thần hùng dũng lớn tiếng tuyên bố rằng: "Ai xứng đáng
mở sách và tháo ấn?" Nhưng cả trên trời, dưới đất và trong lòng đất không ai
có thể mở và đọc sách ấy. Tôi khóc lớn tiếng vì chẳng có ai xứng đáng mở và
đọc sách ấy. Rồi một trong các trưởng lão nói với tôi rằng: "Thôi đừng khóc
nữa, này đây sư tử của chi tộc Giuđa, dòng dõi của Ðavít đã toàn thắng,
chính Người sẽ mở sách và tháo bảy ấn niêm phong".
Tôi đây cũng trông thấy khoảng giữa
ngai và bốn con vật cùng các trưởng lão, có một Chiên Con đang đứng như đã
bị sát tế, có bảy sừng và bảy mắt: tức là bảy thần linh của Thiên Chúa được
sai đi khắp địa cầu. Chiên Con tiến đến lấy cuốn sách nơi tay hữu Ðấng ngự
trên ngai. Khi Chiên Con vừa cầm sách, thì bốn con vật phủ phục trước Chiên
Con, cả hai mươi bốn trưởng lão cũng làm như thế, mỗi người mang đàn huyền
cầm và chén vàng đầy hương thơm, tức là lời cầu nguyện của các thánh. Họ hát
một bài ca mới rằng:
"Lạy Ngài, Ngài đáng lãnh sách và tháo
ấn, vì Ngài đã chịu chết và đã lấy máu Ngài mà cứu chuộc chúng con thuộc mọi
chi tộc, mọi ngôn ngữ, mọi dân và mọi nước, về cho Thiên Chúa. Ngài đã làm
chúng con trở thành vương quốc và tư tế cho Thiên Chúa; và chúng con sẽ được
cai trị địa cầu".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 149,
1-2. 3-4. 5-6a và 9b
Ðáp: Ngài
đã làm cho chúng tôi trở thành vương quốc và tư tế cho Thiên Chúa (Kh 5,
10).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca
mới; hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng
vui vì Ðấng tạo tác bản thân; con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ. -
Ðáp.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người;
hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương
dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. - Ðáp.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh
quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô
Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. - Ðáp.
Alleluia: x. Cv 16,
14b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin
hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời Con Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19,
41-44
"Chớ chi ngươi hiểu biết sứ điệp
mang hoà bình lại cho ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem,
trông thấy thành thì Người khóc thương thành ấy mà rằng: "Chớ chi hôm nay
ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi! Nhưng giờ đây, sứ điệp
ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi. Vì sẽ đến ngày quân thù đắp luỹ bao vây
ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi cùng
con cái ở trong thành. Chúng sẽ không để lại hòn đá nào trên hòn đá nào, vì
ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Những giọt châu lệ của một Tình Yêu Thương Xót quá thống khổ
Hôm nay, Thứ Năm Tuần XXXIII Thường Niên, bài Phúc Âm
tiếp tục thuật lại hành trình lên Giêrusalem của Chúa Kitô, ở chỗ, sau
khi "Người đã gần đến Giêrusalem
- he was near Jerusalem" được
Thánh ký Luca ghi lại trong Bài Phúc Âm hôm qua, thì bài Phúc Âm hôm nay
cho biết "Chúa
Giêsu đến gần Giêrusalem - coming within in sight of the city".
Thật ra giữa bài
Phúc Âm hôm qua và bài Phúc Âm hôm nay cách nhau một khúc phúc âm
không thích hợp vào
thời điểm của Mùa Thường Niên Tuần XXXIII
này, đó là khúc
phúc âm về biến cố Chúa Giêsu vinh hiển tiến vào Thành Thánh Giêrusalem,
một khúc phúc âm đã được Giáo Hội chọn đọc
cho Chúa Nhật Lễ
Lá, ở phần nghi thức rước lá trước
lễ.
Và tầm mức gần Thành
Giêrusalem của Chúa Giêsu đến độ mắt của Người
có thể trông thấy được
toàn cảnh của thành này, và vì trông thấy thành Giêrusalem như thế mà
Người đã thổn thức khóc, như Phúc Âm thuật lại như sau:
"Trông thấy thành thì Người khóc thương thành ấy mà rằng: 'Chớ chi
hôm nay ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi! Nhưng giờ
đây, sứ điệp ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi. Vì sẽ đến ngày quân thù đắp
lũy bao
vây ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi
cùng con cái ở trong thành. Chúng sẽ không để lại hòn đá nào trên hòn đá
nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng".
Đây là lần thứ hai Chúa
Giêsu khóc được Phúc Âm thuật lại; lần thứ nhất xẩy ra vào lúc trước khi
Người hồi sinh Lazarô (xem Gioan 11:35). Vậy tại sao Người lại khóc khi
thấy thành thánh Giêrusalem này, nếu không phải lý do ở ngay những lời
Người nói với thành thánh ấy: phải chăng chính là vì thành thánh có đền
thánh là nơi Thiên Chúa Cha của Người ngự này sẽ bị quân thù phá tan
tành thành
bình địa "không
hòn đá nào trên hòn đá nào", hay
là vì "ngươi
đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng" nên
sẽ bị nông nỗi kinh hoàng khủng khiếp chưa từng thấy ấy?
Chúa Kitô khóc lần thứ
nhất trước ngôi mộ của Lazarô đã chết đến xông
mùi sau 4 ngày (xem Gioan 11:39) không
phải vì Lazarô là người bạn
thân của
Người đã chết sắp được Người
hồi sinh, cho bằng vì Người thấy trước có một số môn đệ của Người sẽ bị
vĩnh viễn hư đi trong mộ tử thần không bao giờ chỗi dậy được nữa, cho dù
có nghe được tiếng Người gọi, hay hoàn toàn không
còn nghe được tiếng Người nữa.
Bởi vậy, lần khóc thứ hai
này của Người trước hình ảnh của một thành thánh Giêrusalem nguy nga đồ
sộ sẽ bị tàn phá liên quan đến hình ảnh về một Giáo Hội của Người cũng
sẽ có ngày bị "các đạo quân Gog và Magog" đông vô kể công hãm, như Sách Khải
Huyền đã tiên báo (20:9), khiến cho một số chi thể của Người bị tử
thương muôn đời về phần rỗi vô cùng tiếc xót của họ!
Nếu biết được Thiên Chúa yêu thương loài người đến đâu thì mới cảm được
sự kiện khóc thương này của Chúa Giêsu, như thể Người tiếc thương chẳng
những cho các linh hồn bất tử vô cùng quí giá bị hư đi mà còn khóc
thương cho chính Tình Yêu Vô Cùng Nhân Hậu đầy Khôn Ngoan và Toàn Năng
của Thiên Chúa, một tình yêu đã yêu thương loài người "đến cùng" (Gioan
13:1), không còn thể nào yêu hơn được nữa, không còn cách nào để yêu họ
hơn được nữa, đã chẳng những trở nên vô ích và thành đồ bỏ đối với những
linh hồn hư đi ấy, mà còn trở thành án phạt đời đời cho họ nữa.
Phải chăng những giọt nước mắt không thể cầm được nơi Chúa Kitô phần nào
diễn tả tất cả nỗi xót xa đớn đau của một Vị Thiên Chúa Toàn Thiện và
Toàn Ái trước thân phận hư đi của một số linh hồn bất hạnh được Ngài yêu
thương dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Ngài để nhờ đó họ có thể
hiệp thông thần linh với Ngài?
Phải chăng những giọt nước mắt ngọc ngà chảy ra từ đôi mắt vô cùng từ bi
nhân hậu của Vị Thiên Chúa hóa thân làm người Giêsu Nazarét ấy mới là
một chút dạo khúc mở đầu cho nỗi thống khổ sẽ lên tới tột cùng ở Vườn
Cây Dầu khi Vị Thiên Chúa làm người này toát mồ hôi máu ra nhỏ xuống đất
(xem Luca 22:44), hình ảnh báo trước cuộc tử nạn vô cùng đau thương của
Đấng cho dù đã chết vẫn chưa được dung tha, vẫn còn bị một lưỡi đòng phũ
phàng oan nghiệt đâm thâu qua làm cho "máu và nước chảy ra" (Gioan
19:34)?
Ôi LTXC!
Ngày
17: Thánh Elisabeth nước Hung Gia Lợi, nữ tu
Elisabeth sinh
năm 1207 trong một cung điện vua André đệ nhị nước Hung Gia Lợi. Tuy còn ít
tuổi, nhưng lòng đạo đức của Elisabeth đã làm nhiều người phải chú ý. Dù ở
trong cung điện nguy nga nhưng ngài chỉ muốn sống một cuộc đời giản dị và
giàu lòng thương người. Lớn lên, ngài kết bạn với hoàng tử Louis nước Ðức.
Thánh nữ luôn bắt chước gương khiêm tốn của Ðức Mẹ và sống cuộc sống nghiệm
nhặt của các vị tu hành.
Sau khi vua cha
băng hà, hoàng tử Louis lên thế ngôi, thánh nữ đã xin với tân vương cho cất
một bệnh viện ngay tại cạnh hoàng cung để có dịp thường xuyên săn sóc các
bệnh nhân. Ngài rất quảng đại trong việc chăm sóc các cô nhi và những người
nghèo khó. Nhưng cuộc đời ngài cũng không thiếu những thử thách: khi vua
Luois tử trận năm 1227 trong cuộc thánh chiến thì người em là Henri lên kế
vị. Ông này đã trục xuất thánh nữ cùng với các hoàng tử ra khỏi hoàng cung
vì sợ sau này mình sẽ mất ngôi. Bơ vơ không tìm được chỗ nương thân, ngài đã
phải tạm trú trong một chuồng ngựa và còn phải đi ăn xin để nuôi bốn người
con. Trong hoàn cảnh đắng cay này, ngài đã vui lòng chấp nhận để được nên
giống như Chúa xưa.
Khi đoàn quân
viễn chinh trở về, họ đã bắt buộc Henri phải trả lại ngai vàng cho người
cháu, nên thánh nữ đưa các con trở lại hoàng cung. Ít lâu sau, ngài ẩn tu
trong nơi hẻo lánh, sống cuộc đời âm thầm cầu nguyện trong tinh thần nghèo
khó của dòng Phanxicô. Ngài an nghỉ trong Chúa năm 1231. Năm
1235, Ðức Giáo Hoàng Grêgoriô IX đã phong ngài lên bậc Hiển Thánh.
Thứ Sáu
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Kh
10, 8-11
"Tôi cầm lấy cuốn sách mà nuốt".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan
Tông đồ.
Tôi là Gioan, tôi đã nghe có tiếng từ
trời phán cùng tôi rằng: "Ngươi hãy đi lấy cuốn sách mở sẵn trên tay thiên
thần đứng trên biển và trên đất". Tôi liền đến xin thiên thần trao cho tôi
cuốn sách ấy và người nói với tôi: "Ngươi hãy cầm lấy sách mà nuốt đi; nó sẽ
làm cho ruột gan ngươi đầy cay đắng, nhưng miệng ngươi lại cảm thấy ngọt
ngào như mật". Tôi cầm lấy cuốn sách từ tay thiên thần mà nuốt; miệng tôi
cảm thấy ngọt ngào như mật, nhưng khi tôi đã nuốt rồi thì nó làm cho ruột
gan tôi đầy cay đắng. Bấy giờ tiếng lại phán cùng tôi rằng: "Ngươi còn phải
nói tiên tri cho nhiều dân, nhiều nước, nhiều ngôn ngữ và nhiều vua chúa
nữa".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 14.
24. 72. 103. 111. 131
Ðáp: Những
lời sấm của Chúa ngon ngọt thay cho cổ họng con (c. 103a).
Xướng: 1) Con vui vì đường lối lời
Ngài nghiêm huấn, dường như được mọi thứ giàu sang. - Ðáp.
2) Vì lời nghiêm huấn của Ngài là điều
con ưa thích, các thánh chỉ Ngài là những bậc cố vấn của con. - Ðáp.
3) Ðối với con, luật pháp do miệng
Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn. - Ðáp.
4) Những lời sấm của Ngài ngon ngọt
thay cho cổ họng con, ngọt hơn cả mật ong đổ miệng con. - Ðáp.
5) Lời Ngài nghiêm huấn là sản nghiệp
của con muôn đời, vì những điều đó khiến cho lòng con hoan hỉ. - Ðáp.
6) Con há miệng để hút nguồn sinh khí,
vì con ham muốn những chỉ thị của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118,
34
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin
giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa, và để con hết lòng vâng
theo luật đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19,
45-48
"Các ngươi đã biến đền thờ Thiên
Chúa thành sào huyệt trộm cướp".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào đền thờ, Người
liền xua đuổi các người buôn bán tại đó và phán bảo họ rằng: "Có lời chép
rằng: Nhà Ta là nhà cầu nguyện, các ngươi đã biến thành sào huyệt trộm
cướp". Và hằng ngày Người giảng dạy trong Ðền thờ. Các thượng tế, luật sĩ và
kỳ lão trong dân tìm cách hại Người, nhưng họ không biết phải làm cách nào,
vì dân chúng hết thảy đều chăm chú nghe Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Quá yêu thương đến bất khả chấp
Bài Phúc Âm hôm
nay, Thứ Sáu Tuần XXXIII Thường Niên, tiếp tục với cuộc hành trình lên
Giêrusalem của Chúa Kitô, ở chỗ, sau
khi "Người đã gần đến Giêrusalem" trong
Bài Phúc Âm hôm kia, sau đó "Chúa
Giêsu đến gần Giêrusalem" trong bài Phúc Âm hôm qua, và
hôm nay "Chúa
Giêsu vào đền thờ".
Phải, nếu đền thờ
Giêrusalem là nơi Thiên Chúa ngự, là biểu hiệu cho sự hiện diện thần
linh của Thiên Chúa, thì sự kiện Chúa Giêsu có mặt ở đền thờ này cho
thấy Người đã đến được đích điểm
cuộc hành
trình Giêrusalem của Người.
Bởi Người đến "là để
tỏ Cha ra" (Gioan 1:18), tức để làm cho dân của Người biết Cha của
Người thực sự là Đấng nào,
Vị Thiên Chúa đã từng tỏ mình ra cho họ trong suốt giòng lịch sử cứu độ
của họ như là một Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, ngoài
Ngài ra không còn một vị Thiên Chúa nào khác, và vì thế họ phải hết
mình kính mến Ngài, chỉ một mình Ngài thôi, "hết lòng, hết linh hồn và
hết sức" của họ (xem Đệ Nhị Luật 6:4-5), nghĩa là trên hết mọi sự.
Bởi thế, không lạ gì, khi
thấy cảnh tượng dân chúng buôn bán trong đền thờ "là
nhà cầu nguyện", như
chính Người nói trong Bài Phúc Âm hôm nay, đã
bị "biến
thành sào huyệt trộm cướp", thì làm
sao Người là Đấng kính mến Cha Người hết mình và trên hết mọi sự, khi
thấy nơi biểu hiệu cho sự hiện diện thần linh của Cha bị chính dân của
Ngài tục hóa, có thể nào chịu đựng được, đến độ dù Người vốn "hiền
lành và khiêm nhượng trong lòng"
(Mathêu 11:29) cũng
không thể nào không ra tay "xua
đuổi các người buôn bán tại đó".
Phải chăng đó là một
trong những lý do chính yếu khiến Người vừa thấy thành thánh Giêrusalem,
Người đã thổn thức khóc, như bài Phúc Âm hôm qua thuật lại? Người đã
không khóc khi thấy Cha của Người
bị xúc phạm cho bằng
khóc thương dân của Người, vì họ không ngừng liên tục
xúc phạm đến Cha của
Người mà nguy hiểm đến phần rỗi đời đời của chính họ.
Bởi thế mà trên đường vác thập giá lên Núi Sọ, Người đã khuyên đám phụ
nữ thương khóc Người bấy
giờ rằng:
"Chớ
khóc thương Tôi, một khóc thương các ngươi cùng con cháu của các ngươi"
(Luca 23:27-28).
Đúng vậy, nếu
con người ta nói
chung và những ai tin vào Người nói riêng thật sự biết
khóc thương bản thân mình, ở chỗ tỏ ra ăn năn thồng hối tội lỗi của
mình, thì đó là tác động họ khóc thương Người rồi vậy, vì họ sẽ không
dám xúc phạm đến Người nữa, họ sẽ không làm cho Người phải khổ sở vác
thập giá của họ và cho họ nữa, thập
giá do chính họ chất lên vai của Người.
Tội lỗi của họ chính là thập giá mà Người phải vác vậy. Và thập giá cũng
là biểu hiệu cho từng con chiên lạc Người cần
phải tìm
kiếm và vác
trên vai mang về nhà Cha của Người vậy (xem Luca 15:5).
Đó là lý do Người quả thật
không hề ghét bỏ dân của Người qua hành động đánh đuổi họ như thế, trái
lại, chỉ vì Người thương họ hơn bao giờ hết, khi thấy họ lầm lạc đến độ
chính họ là dân được Thiên Chúa là Cha của Người tuyển chọn đã tục hóa
một nơi thánh nhất của họ, chứ không phải bị tục hóa bởi dân ngoại không
biết gì đến Vị Thiên Chúa của họ, như đã phũ phàng và trắng trợn xẩy ra
vào thời kỳ hậu lưu đầy của họ, khi họ bị ngoại bang xâm chiếm và đô hộ,
đến độ quyền lực ngoại bang bấy giờ đã ra
tay tàn phá và tục
hóa đền thờ ấy,
một biến cố lịch
sử đầy nhơ nhớp được
Sách Macabê quyển thứ nhất diễn thuật trong Bài Đọc 1 Thứ Hai đầu tuần
này.
Việc Chúa Giêsu "xua
đuổi các người buôn bán tại đó" còn
mang một ngậm ý trách móc cả thành phần lãnh đạo dân Chúa bấy giờ nữa,
thành phần có thẩm quyền để hướng dẫn dân Chúa theo đường lối của Thiên
Chúa, theo lề luật thánh lại để xẩy ra tình trạng tục hóa công khai này,
một là vì chính họ cho phép hai là vì họ cứ để cho dân
chúng tha hồ tục
hóa đền thờ linh thánh này, không hề ngăn cản tí nào, như thể vừa tán
thành vừa đồng lõa với tội lỗi của dân.
Người biết rằng việc Người
tự động "xua
đuổi các người buôn bán tại đó" chắc
chắn sẽ đụng chạm đến quyền bính của thành phần lãnh đạo này. Thế nhưng,
vì Người đến cứu cả thành phần lãnh đạo mù quáng ấy nữa,
nên Người vẫn bất
chấp, họ có tỏ ra hận thù Người hơn bao giờ hết, như được Bài Phúc Âm
hôm nay cho thấy: "Các
thượng tế, luật sĩ và kỳ lão trong dân tìm cách hại Người, nhưng họ
không biết phải làm cách nào, vì dân chúng hết thảy đều chăm chú nghe
Người".
Họ càng hận thù và
tìm cách hại Người bao nhiêu thì chính họ là thành phần "không muốn" xẩy
ra chuyện "phong vương" của Người càng được thành
tựu, như ý nghĩa
trọng dụ ngôn của
Bài Phúc Âm hôm kia
cho biết vào thời điểm Người "gần đến Giêrusalem" là nơi Người sẽ
bị rơi vào tay họ như Người đã báo trước cho các môn đệ của Người về
biến cố bất khả tránh này 3 lần, đúng
như ý định vô cùng nhiệm mầu của Cha Người về cuộc hành
trình Giêrusalem của Người là để Người được "phong
vương"
trên ngai tòa thập tự
giá một cách danh
chính ngôn thuận: "Giêsu Vua
Dân Do Thái"
(Luca 23:38).
Tuy nhiên, ngay lúc
bấy giờ, lúc Người "xua
đuổi các người buôn bán tại đó" thì
họ còn sợ dân chúng, tức chưa đến giờ của người, nhờ đó, như Phúc Âm cho
biết: "hằng
ngày Người giảng dạy trong Ðền thờ". Và
vì thế, từ ngày mai Thứ Bảy Tuần XXXIII Thường Niên cho tới hết tuần 34
Thường Niên là tuần cuối cùng của phụng niên hằng năm, chúng ta sẽ đọc
thấy các bài Phúc Âm cho ngày thường trong tuần liên quan đến giáo huấn
Giêrusalem của Người, những giáo huấn cuối cùng của hành trình
Giêrusalem được Người công khai truyền
dạy ở chính thành thánh Giêrusalem, giáo đô
của Do Thái giáo, cũng là khởi điểm truyền giáo (xem
Tông Vụ 1:8) ngay sau
biến cố Thánh
Linh Hiện Xuống của
Giáo Hội được Người thiết lập.
Kỷ
Niệm Cung Hiến Ðền Thờ Thánh Phêrô Và Phaolô Tông Ðồ
Vua Constantin Cả
(270-337) đã chiến thắng quân Maxence dưới tường thành Rôma năm 312, nhờ
sự xuất hiện lạ lùng của cây Thánh Giá lơ lửng giữa không trung với hàng
chữ: "In hoc signo vince" (Tin vào dấu này, ông sẽ thắng). Năm 313, ngài
đã ban hành chiếu chỉ (Edit de Milan) chấm dứt cuộc bách hại người Công
Giáo và cho tự do tôn giáo. Sau đó, năm 323, nhà vua mới thật sự trở lại
Công giáo. Ðể tỏ lòng biết ơn về chiến thắng Maxence, ngài đã xây cất
nhiều đại thánh đường nguy nga, trong số đó phải kể vương cung thánh
đường thánh Phêrô và thánh Phaolô.
Ðền thờ thánh Phêrô được
xây cất năm 326 và được nới rộng ra năm 1506 với sự cộng tác đắc lực của
nhiều kỹ sư và nghệ sĩ có tiếng: Rosellinô. Bramante, Raphael, Michel
Ange, Carlô Modernô và Silvestrê. Riêng cái tháp cao 138m, rộng 42m.
Thánh Silvestrê và Ðức Giáo Hoàng Urbanô VIII đã thánh hiến ngày
18/11/1626.
Ðền thờ
thánh Phaolô được xây cất trên đường Ostie, bên "ngoài thành" Vatican,
và được thánh hiến cũng cùng một ngày với đền thánh Phêrô. Năm 1823, một
cuộc hỏa tai đã thiêu hủy gần hết và Ðức Grêgoriô XVI và Ðức Piô IX đã
chọn ngày định tín "Ðức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội" để thánh hiến lại,
với sự chứng kiến đông đảo của các Giám Mục.
Thứ Bảy
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Kh
11, 4-12
"Hai vị tiên tri ấy đã làm cho dân
trên hoàn cầu chịu nhiều khổ cực".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan
Tông đồ.
Có lời phán cùng tôi là Gioan rằng:
"Hai chứng tá của Ta là hai cây ôliu và hai cây đèn đặt trước mặt Chúa Tể
địa cầu. Và nếu ai toan hãm hại các ngài, thì sẽ có lửa từ miệng các ngài
phun ra tiêu diệt các địch thù; ai toan làm hại các ngài thì chính kẻ ấy
phải bị giết như vậy. Các ngài có quyền đóng cửa trời, khiến trời không mưa
trong những ngày các ngài nói tiên tri. Các ngài lại có quyền biến nước
thành máu, và gieo tai hoạ cho trần gian bất cứ lúc nào tùy ý. Và khi các
ngài đã hoàn tất nhiệm vụ chứng tá rồi, thì con mãnh thú từ vực thẳm lên sẽ
giao chiến với các ngài, nó sẽ thắng và giết chết các ngài. Thi thể các ngài
sẽ bị bêu nơi công trường của Thành lớn, gọi cách bóng bảy là Sôđôma và
Ai-cập, là nơi Chúa các ngài đã bị đóng đinh. Thiên hạ thuộc mọi chi tộc,
mọi dân, mọi nước, và mọi ngôn ngữ, đã xem thấy thi thể các ngài trong ba
ngày rưỡi, và người ta không để cho thi thể các ngài được chôn cất trong mộ.
Dân chúng trên khắp mặt đất sẽ vui mừng vì cái chết của các ngài và hoan hỉ
tặng quà cho nhau, vì hai vị tiên tri ấy đã từng làm cho họ chịu nhiều khổ
cực. Nhưng sau ba ngày rưỡi, (sinh khí từ) Thiên Chúa nhập vào các ngài. Và
các ngài đứng dậy, khiến cho những người trông thấy phải khiếp sợ. Rồi các
ngài nghe có tiếng vang lớn từ trời phán cùng các ngài rằng: 'Hãy lên đây'.
Các ngài liền lên trời, trong đám mây trước mắt các địch thù của các ngài.
Chính lúc đó đất chuyển động dữ dội,
và một phần mười của thành thị bị sụp đổ, làm bảy ngàn người thiệt mạng
trong cơn động đất ấy. Còn các người sống sót thì kính sợ và cao rao vinh
danh Ðức Chúa Trời".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 143, 1.
2. 9-10
Ðáp: Ôi
Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa! (c. 1a).
Xướng: 1) Ôi Ðá Tảng của con, chúc
tụng Chúa là Ðấng rèn luyện cho tay con biết đấu tranh, cho các ngón tay con
thiện nghề chinh chiến. - Ðáp.
2) Chúa là tình thương và là chiến
luỹ, là Ðấng phù trợ và giải phóng con. Chúa là khiên thuẫn, là chỗ con
nương náu; Ngài bắt chư dân phải khuất phục con. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, con sẽ hát mừng Ngài
bài ca mới; với cây đàn mười dây, con sẽ ca mừng Ngài, vì Ngài đã ban cho
các vua chiến thắng, đã giải phóng Ðavít là tôi tớ của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Pl 2,
15-16
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích
trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian.
- Alleluia.
Phúc Âm: Lc 20,
27-40
"Thiên Chúa không phải là Thiên
Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc,
là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người
rằng: "Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: nếu ai có một người anh cưới
vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ đó để anh
mình có kẻ nối dòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ, rồi chết mà
không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người
thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và
đều chết mà không để lại người con nào. Sau cùng người thiếu phụ đó cũng
chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy,
vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ?"
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Con cái đời
này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và
được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng; họ sẽ không thể
chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con
cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê trong đoạn nói về
Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên
Chúa Giacóp. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ
sống, vì mọi người đều sống cho Chúa".
Bấy giờ có mấy luật sĩ lên tiếng thưa
Người rằng: "Lạy thầy, Thầy dậy đúng lắm". Và họ không dám hỏi Người điều gì
nữa.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Một cánh chung biến đổi canh tân
Hôm nay, Thứ Bảy,
cuối Tuần XXXIII Thường Niên, Bài
Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc vẫn tiếp tục bài
Phúc Âm hôm qua là bài Phúc Âm cho biết cuộc hành trình Giêrusalem
của Người đã tới đích điểm của nó là chung thành thành Giêrusalem và
riêng đền thánh Giêrusalem, nơi Người sau khi thanh tẩy thì Người tiếp
tục giảng dạy cho dân chúng.
Và
giáo huấn cuối cùng trong cuộc hành
trình Giêrusalem của
Người ở chính giáo đô Giêrusalem là đích điểm tỏ mình ra của Người này, đặc
biệt liên
quan đến mầu nhiệm cánh chung và lai thời hậu
thế, như bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, qua lời vấn đáp của Chúa Giêsu
với "mấy
người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại",
nên đã
"đến
gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng:
"Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: nếu ai có một người anh cưới
vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ đó để
anh mình có kẻ nối dòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ, rồi
chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không
con. Người thứ ba cũng cưới người vợ góa đó.
Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người
con nào. Sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại,
người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy, vì tất cả bảy người đều
lấy người ấy làm vợ?"
Qua thực đây
là một câu hỏi của những người không tin có vấn đề sống lại, nghĩa là
không tin có đời sau, hay có đời sau thì cũng không thể nào xẩy ra
chuyện bao
gồm cả thân xác hữu hình và hữu hạn này, nghĩa
là thân xác con người không thể nào trở thành vô hình và vô hạn bất biến
với thời gian sau thời gian ở đời này được.
Theo lý lẽ tự
nhiên thì không phải là họ
không có
lý. Và
chính vì thế, họ mới phủ nhận sự kiện thân xác phục sinh, hay ngược
lại, vì có ý nghĩ không thể nào có vấn đề phục sinh của thân xác mà
họ mới đặt
ra một
trường hợp không bao giờ có thể xẩy ra, hoàn toàn không thực tế, hợp với
tầm mức hiểu biết thiển cận theo tự nhiên của họ trên đây.
Tuy nhiên, họ đã
lầm. Nhưng cũng may, họ vẫn còn thiện chí để nói ra, để hỏi han, lại hỏi
ngay chính vị mà họ tin rằng, (hơn là cố ý thử Người như thường thấy nơi
thành phần luật sĩ và biệt phái tin có sự sống lại), có thể giải đáp
vấn đề then chốt nhất của họ, nhưng cũng là vấn đề hóc
búa đến độ
như thể bất
khả nan giải của họ.
Câu
trả lời của Chúa Giêsu là Đấng tự thân sẽ
sống lại đầu tiên từ trong kẻ chết như thế này, một
câu trả lời đã được chính thành phần luật sĩ cũng có mặt ở đó bấy giờ
hết sức khâm phục: "Lạy
thầy, Thầy dậy đúng lắm", đến độ
"họ
không dám hỏi Người điều gì nữa". Và
câu trả lời của Chúa Giêsu về chuyện xác loài người ta sẽ sống lại như
sau:
"Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự
phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy
chồng; họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con
cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống
lại, thì Môsê trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa
Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Thiên Chúa không phải
là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho
Chúa".
Trong câu
trả lời này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Đấng "là sự sống lại và là
sự sống" (Gioan 11:25) bao
gồm cả sự sống lại của
thân xác và
sự sống bất
diệt đời sau của cả toàn thân con người cả hồn lẫn xác.
Trước hết, về sự sống lại, lần đầu tiên Chúa
Giêsu được dịp chính
thức mạc
khải cho biết rằng con người
ta sẽ sống lại, mà sống lại là sự kiện trước hết liên quan đến thân
xác đã
chết đi của
họ, nên
vấn đề sống lại là vấn đề của thân xác, và một khi thân xác sống lại thì
"sẽ
không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con cái Thiên
Chúa".
Nghĩa
là thân xác hữu hình và hữu hạn của con người khi còn tại thế, còn sống trong
không gian và thời gian, khi sống
lại sẽ trở thành thiêng liêng vô hình, trở
thành bất tử và bất diệt, như
thân xác phục sinh của Ngưòi sau này, có thể xuyên qua cả căn phòng khóa
kín của các tông đồ đang sợ
sệt trốn
lánh bấy
giờ.
Thế
nhưng, tự mình thân xác hữu hình và hữu hạn của con người không thể nào
sống nếu thiếu linh hồn vẫn được gọi là hồn sống của nó, thì cũng thế nó
sẽ không tự mình sống lại và sống đời sau vô cùng nếu
không có hồn thiêng bất tử của nó.
Mà linh hồn của
con người chỉ thực sự sống, sống sự sống thần linh, sống sự sống siêu
nhiên, sống sự sống đời đời, sống sự sống trường sinh bất tử, dù ở đời
này hay ở đời sau, ở chỗ nhận biết "Thiên Chúa chân thật duy nhất" được
tỏ hiện nơi Chúa Giêsu Kitô (xem Gioan 17:3), tức là nhận biết vị Thiên
Chúa bất biến trước sau như một: "Thiên
Chúa của Abraham,
Thiên Chúa của Isaac,
và Thiên Chúa của Giacóp", vị
Thiên Chúa hằng hữu và tồn tại dù con người có
qua đi ba đời Abraham, Isaac và Giacóp, một
khoảng thời gian không ai còn tồn tại trên trần gian thế mà Thiên Chúa
hằng sống vẫn hiện hữu.
"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống" là
như thế,
"vì mọi người đều sống cho Chúa", ở
chỗ nhận biết Ngài như Ngài là, như Ngài đã tỏ ra nơi Chúa Giêsu Kitô
là Người Con nhập thể và vượt qua của Ngài, nhờ đó "họ sẽ
không thể chết nữa" cùng
với thân xác của họ, với tư cách "là
con cái Thiên Chúa" như
Chúa Kitô, nhờ Thánh Linh là Đấng chứng tỏ họ là con cái Thiên Chúa (xem
Roma 8:16; 1Gioan 4:13): "Nếu
Thần Linh của Đấng đã làm cho Chúa Kitô từ trong kẻ chết sống lại thì
cũng sẽ mang lại sự sống cho thân xác chết chóc của anh em, nhờ Thần
Linh của Người ở trong anh em" (Rôma 8:11).
Vậy
vấn đề được đặt ra ở đây là nếu thân xác con người sống lại là nhờ linh
hồn nhận biết Thiên Chúa hằng sống thì những linh hồn nào không nhận
biết Thiên Chúa hằng sống có sống lại nơi thân xác của họ và với thân
xác của họ hay
chăng?
Theo tín
lý dạy thì tất cả mọi người đều sống lại, dù là "kẻ sống" hay "kẻ
chết", kẻ
lành hay kẻ dữ, kẻ được rỗi hay kẻ hư đi. Bởi vì, dù là thành phần kẻ dữ
bị hư đi vì khi còn sống trên thế gian này họ không nhận biết Thiên Chúa
chân thật duy nhất để hội đủ điều kiện được cứu
rỗi chăng
nữa, khi qua khỏi trần gian này, khi không còn thời gian nữa thì trong
cõi đời đời họ
lại càng không thể chối cãi sự thật mà họ chối bỏ là
chính Vị Thiên Chúa hằng sống của họ.
Và vì các linh hồn hư đi sau khi qua khỏi đời này không thể không nhận
biết Thiên Chúa hằng
sống như Ngài đã
tỏ tất cả mình ra là
nơi Chúa Giêsu Kitô, một
cách bất đắc dĩ không chân nhận không được, mà
linh hồn
hư đi ấy
vẫn tồn tại với cả
thân xác của họ, vô
cùng ở đời sau, trong cõi đời đời. Nhưng tình
trạng hư đi của họ hoàn
toàn khác với tình
trạng của các
linh hồn được cứu rỗi là thành phần, nhận
biết Thiên Chúa chân thật duy nhất nhờ Thánh Thần, như
lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, "xét
đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết", một
cách rạng
ngời "giống
như thân xác vinh hiển của
Người
(Chúa
Kitô)" (Philiphê
3:21).
Sách Tiên Tri Daniên trong Bài Đọc 1 Chúa Nhật XXXII Chu Kỳ
Năm B
cũng chứng thực như vậy, chứng thực rằng cả kẻ dữ người lành đều sống lại,
nhưng kẻ lành thì hiển vinh sáng láng: "Nhiều kẻ an giấc trong bụi đất sẽ chỗi dậy; có người sẽ được hưởng phúc
trường sinh, có kẻ phải tủi nhục muôn đời.
Những người thông minh sẽ sáng chói như ánh sáng vòm trời, và những kẻ
khuyên dạy sự công chính cho nhiều người, sẽ nên như các vì tinh tú tồn tại
muôn ngàn đời".
Kinh nghiệm
nhân sinh cho thấy con
người ta
khi còn sống trên đời này, vì bản tính đã bị nhiễm lây nguyên tội, nên
luôn hướng hạ theo trần tục hơn là hướng thượng sống siêu nhiên, cho dù
linh hồn họ được Thiên Chúa dựng nên để được hạnh phúc trường sinh ở đời
sau. Và chính vì linh hồn con người vô hình thiêng liêng tự bản chất bất
tử "như các thiên thần" mà họ rất sợ chết, và cho dù cả đời có
tìm kiếm đủ mọi thứ thỏa mãn trên trần gian này họ vẫn không no thỏa,
vẫn không thể nào thỏa đáng được ước vọng bất tử của chính cõi lòng luôn
hướng về vô biên viên mãn của
con người.