SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
LỄ ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ
(Lễ trọng)
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Ed 34, 11-12. 15-17
"Phần các ngươi là những đoàn chiên của Ta, Ta xét xử giữa chiên với chiên".
Bài trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: "Này chính Ta săn sóc đoàn chiên của Ta và Ta sẽ kiểm soát chúng. Như một mục tử kiểm điểm đoàn chiên trong ngày chúng bị tản mát, thì Ta cũng kiểm điểm đoàn chiên Ta như vậy. Ta sẽ giải thoát chúng khỏi mọi nơi mà chúng đã bị phân tán, và trong ngày mây mù đen tối.
"Chính Ta sẽ chăn dắt các chiên Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ, Chúa là Thiên Chúa phán như thế. Ta sẽ tìm con chiên đã mất, sẽ đem con chiên lạc về, sẽ băng bó con chiên bị thương tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau, con nào mập béo, Ta sẽ chăm sóc, và sẽ chăn dắt nó trong sự công chính.
"Còn các ngươi, hỡi chiên của Ta, Chúa là Thiên Chúa phán thế này: Này Ta sẽ phân xử giữa con này với con khác, giữa cừu đực với dê đực".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 22, 1-2a. 2b-3. 5. 6
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Trên đồng cỏ xanh rì Người thả tôi nằm nghỉ. - Ðáp.
2) Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. - Ðáp.
3) Chúa dọn ra cho tôi mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương: đầu tôi thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu tôi đầy tràn chan chứa. - Ðáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 15, 20-26. 28
"Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, để Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi sự".
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, Ðức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc. Vậy sự chết bởi một người, thì sự kẻ chết sống lại cũng bởi một người. Cũng như mọi người đều phải chết nơi Ađam thế nào, thì mọi người cũng sẽ được tác sinh trong Ðức Kitô như vậy. Nhưng ai nấy đều theo thứ tự của mình, hoa quả đầu mùa là Ðức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Ðức Kitô, những kẻ đã tin Người xuống thế: rồi đến tận cùng khi Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, và đã tiêu diệt mọi đầu mục, quyền năng và thế lực.
Nhưng Người còn phải cai trị cho đến khi Người đặt mọi quân thù dưới chân Người. Kẻ thù cuối cùng sẽ bị tiêu diệt là sự chết. Khi mọi sự đã suy phục Người, bấy giờ chính Con cũng sẽ suy phục Ðấng đã bắt mọi sự suy phục mình, để Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi sự.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mc 11, 10
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước Ðavít tổ phụ chúng ta đã đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 25, 31-46
"Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người, và sẽ phân chia họ ra".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái.
"Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: "Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta".
"Khi ấy người lành đáp lại rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?" Vua đáp lại: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta".
"Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: "Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!"
"Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: "Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?" Khi ấy Người đáp lại: "Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta". Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nguyện Lời Chúa
Điểm then chốt để được cứu độ trong cuộc chung thẩm đó là
con người không thấy mà làm hay không làm, thế thôi
Chúa Nhật XXIV Thường Niên cũng là Chúa Nhật Lễ Trọng Kính Chúa Kitô Vua, Chúa Nhật cuối cùng cũng là Chúa Nhật kết thúc phụng niên, mang ý nghĩa đó là mầu nhiệm cứu độ của
Chúa Kitô đã lên đến tột đỉnh về phụng vụ trong cả một phụng niên, thời điểm mà suốt một năm trời trong giòng lịch sử của nhân loại Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, bao gồm
những biến cố của Người: “Hóa Thành Nhục Thể” (Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh mở màn cho phụng niên), Mầu Nhiệm “ở cùng chúng sinh” (Mùa Thường Niên sau Mùa Giáng Sinh),
Khổ Nạn và Vượt Qua (Mùa Chay, Tuần Thánh và Mùa Phục Sinh), “ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế” nhờ Thánh Linh Hiện Xuống (Mùa Thường Niên sau Mùa Phục Sinh).
Về ý nghĩa liên quan đến Chúa Kitô Vua, mỗi chu kỳ phụng vụ đều có một ý nghĩa khác nhau, tùy theo Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc.
Ở chu kỳ phụng niên Năm A, chiều kích về Chúa Kitô Vua liên quan đến quyền phán xét muôn dân qua cuộc chung thẩm vào lúc Người lại đến trong vinh quang (ám chỉ Người là Vua của
toàn thể nhân loại và của cả vũ trụ này), như Bài Phục Âm Thánh Mathêu ở cuối đoạn 25 hôm nay cho thấy.
Ở chu kỳ phụng niên Năm B, không theo Phúc Âm Thánh Marco như thường lệ mà là theo Phúc Âm Thánh Gioan, chiều kích về Chúa Kitô Vua liên quan đến vương quốc siêu việt không
thuộc về thế gian của Người (so với quyền lực trần tục của đế quốc Rôma hiện thân nơi Tổng Trấn Philato là nhân vật lịch sử đã nghe thấy Người tuyên bố về vương quốc của Người
như vậy).
Ở chu kỳ phụng niên Năm C, chiều kích về Chúa Kitô Vua liên quan đến quyền năng cứu độ của Người (được tỏ ra nơi trường hợp người trộm thống hối, chứng tỏ Nước của Người
không thuộc về thế gian này mà là thuộc về một thế giới thần linh siêu nhiên bất diệt).
Trong cuộc chung thẩm được Bài Phúc Âm Thánh ký Mathêu thuật lại cho Chúa Nhật XXXIV trọng kính Chúa Kitô Vua hôm nay, Chúa Kitô chẳng những tỏ ra Người là vua trời đất (bao
gồm cả các thần trời) mà còn xác định rõ Người là Vua có toàn quyền xét xử và thưởng phạt muôn dân thiên hạ như sau (những chỗ in nghiêng do người viết tự ý nhấn mạnh và chứng
thực những gì đang được diễn giải):
“Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng ‘Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ…’”
Tiêu chuẩn thưởng phạt công minh trong cuộc chung thẩm này đó là đức bác ái yêu thương tha nhân, một tiêu chuẩn áp dụng cho “muôn dân” thiên hạ, chứ không cho riêng gì Dân Chúa Cựu Ước (dân Do Thái) hay Tân Ước (Kitô hữu). Và thành phần tha nhân cần được tỏ lòng bác ái yêu thương đây lại là chính bản thân Người, một bản thân đã được đồng hóa với thành phần bất hạnh cần được thương xót: “các anh em bé mọn nhất của Ta”.
Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Chúa Kitô Vua lại đồng hóa mình với thành phần anh em hèn mọn nhất của Người, nếu không phải vì Người đã “yêu thương những kẻ thuoôc về mình thì Người muốn chứng tỏ Người yêu họ đến cùng” (Gioan 13:1). Mà “đến cùng” đây không phải chỉ đến cùng của tình yêu của Người mà đến con người tội nhân khốn nạn cuối cùng. Bởi thế, tất cả vinh hiển và chân dung của Lòng Thương Xót vô cùng nhân hậu của Người được tỏ ra nơi những con người cùng tận này.
Tuy nhiên, cả thành phần chiên được cứu độ lẫn thành phần dê bị hư đi đều lạ lùng trả lời vị vua thẩm phán tối cao này giống như nhau: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?"
Như thế, bề ngoài thì tiêu chuẩn ở cuộc chung thẩm liên quan đến số phận đời đời của tất cả mọi người và từng người, bao gồm cả chiên lẫn dê, rõ rang đó là đức bác ái yêu thương, thế nhưng bề trong là chính đức tin, một “đức tin thể hiện qua đức ái” (Galata 5:6): “có bao giờ chúng con thấy Chúa”. Điểm then chốt để được cứu độ ở đây là con người không thấy mà làm hay không làm, thế thôi: làm theo đức tin như chiên thì được cứu độ, còn không làm như dê bởi không tin thì bị hư mất.
Vấn đề được đặt ra ở đây là như thế thì chẳng lẽ chỉ có Kitô hữu là chiên được cứu rỗi hay sao, vì chỉ có thành phần Kitô hữu mới có đức tin, tin vào Chúa Kitô, ngoài ra, ai không phải là Kitô hữu, không tin vào Chúa Kitô thì là dê bị hư đi hay sao?
Tất nhiên không phải như vậy. Thậm chí cả Kitô hữu có đức tin ấy cũng có thể bị hư đi nếu không sống “đức tin thể hiện qua đức ái”. Kitô hữu không sống đức ái yêu thương bằng đức tin, thì ở một nghĩa nào đó, cũng chẳng khác gì hay hơn gì dân ngoại hay thành phần thu thuế, thành phần tội lỗi, như chính Chúa Giêsu khẳng định (xem Mathêu 5:47), nghĩa là chẳng khác gì như vô thần.
Trái lại, cho dù là dân ngoại vô thần thường sống buông thả theo tự nhiên hay là thành phần ngoại lai sống chẳng khác gì dân ngoại, điển hình là người Samaritanô nhân lành, trong Phúc Âm Thánh Luca đoạn 10 (33-34), đã tự động ra tay cứu vớt nạn nhân đáng thương lạ mặt thuần Do Thái vốn kỳ thị dân Samaria, họ vẫn là thành phần hữu thần hơn cả vị tư tế và thày levi trước đó trông thấy nạn nhân đều dửng dưng tránh né và bỏ đi.
Qua cuộc chung thẩm về đức bác ái yêu thương trong Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXXIV Trọng Kính Chúa Kitô Vua hôm nay đã cho thấy tính cách làm Vua của Chúa Kitô, ở chỗ Người đến không phải để được phục vụ mà là để phục vụ (xem Mathêu 20:28), phục vụ đoàn chiên của Người, như chính Người, qua miệng tiên tri Êzekiên trong Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy:
"Này chính Ta săn sóc đoàn chiên của Ta và Ta sẽ kiểm soát chúng. Như một mục tử kiểm điểm đoàn chiên trong ngày chúng bị tản mát, thì Ta cũng kiểm điểm đoàn chiên Ta như vậy. Ta sẽ giải thoát chúng khỏi mọi nơi mà chúng đã bị phân tán, và trong ngày mây mù đen tối. Chính Ta sẽ chăn dắt các chiên Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ, Chúa là Thiên Chúa phán như thế. Ta sẽ tìm con chiên đã mất, sẽ đem con chiên lạc về, sẽ băng bó con chiên bị thương tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau, con nào mập béo, Ta sẽ chăm sóc, và sẽ chăn dắt nó trong sự công chính”.
Vì thế, nếu quả thực là chiên của vị mục tử vương giả vô cùng nhân hậu này, họ sẽ không thể nào, vào một lúc nào đó trong đời, không cảm thấy những tâm tình thiết tha cảm mến vị chủ chiên của mình như Thánh Vịnh gia đã bày tỏ và diễn tả ở Thánh Vịnh 22 trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Trên đồng cỏ xanh rì Người thả tôi nằm nghỉ.
2) Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người.
3) Chúa dọn ra cho tôi mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương: đầu tôi thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu tôi đầy tràn chan chứa.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.
Thật ra, Chúa Kitô Vua đã thực sự làm Vua khi Người từ trong cõi chết sống lại, nghĩa là vào lúc Người hoàn toàn chiến thắng tội lỗi và sự chết nơi chung bản thân của Người, là một ngôi vị thần linh, và nơi riêng nhân tính được Người mặc lấy: “Thày được toàn quyền trên trời dưới đất” (Mathêu 28:18). Thánh Phaolô trong Thư gửi Corintô lần đầu cũng ở Bài Đọc 2 hôm nay đã xác tín như vậy:
“Anh em thân mến, Ðức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc. Vậy sự chết bởi một người, thì sự kẻ chết sống lại cũng bởi một người. Cũng như mọi người đều phải chết nơi Ađam thế nào, thì mọi người cũng sẽ được tác sinh trong Ðức Kitô như vậy. Nhưng ai nấy đều theo thứ tự của mình, hoa quả đầu mùa là Ðức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Ðức Kitô, những kẻ đã tin Người xuống thế: rồi đến tận cùng khi Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, và đã tiêu diệt mọi đầu mục, quyền năng và thế lực”.
Tuy nhiên, trên thực tế, cho dù theo nguyên tắc vương quốc của satan từ sau nguyên tội đã bị phá hủy bởi Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, vẫn càng ngày càng hoàng hành và lộng hành như thể Thiên Chúa đã chết hay chẳng có Chúa tể nào khác ngoài satan cùng bọn ngụy thần của hắn, khi mà con người càng văn minh về cả khoa học kỹ thuật lẫn nhân bản càng bạo loạn và tự diệt như ngày nay, không còn luân thường đạo lý gì nữa, ngoài thần tượng tự do duy nhân bản, như đ8ang xẩy ra từ và ở chính thế giới Tây phương Kitô giáo hiện nay. Đó là lý do Thánh Phaolô, trong cùng bức thư ở Bài Đọc 2 hôm nay đã phải công nhận với đầy xác tín về mầu nhiệm cánh chung thuộc về Thiên Chúa, Đấng là nguyên ủy và là cùng đích, là Alpha và Omega (xem Khải Huyền 1:8,23:13), Đấng canh tân đổi mới tất cả mọi sự (xem Khải Huyền 21:5), như sau:
“Nhưng Người còn phải cai trị cho đến khi Người đặt mọi quân thù dưới chân Người. Kẻ thù cuối cùng sẽ bị tiêu diệt là sự chết. Khi mọi sự đã suy phục Người, bấy giờ chính Con cũng sẽ suy phục Ðấng đã bắt mọi sự suy phục mình, để Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi sự”.
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Ðn 1, 1-6. 8-20
"Không ai bằng Ðaniel, Anania, Misael và Azaria".
Khởi đầu sách Tiên tri Ðaniel.
Năm thứ ba triều đại vua Gioakim nước Giuđa, Nabukô-đônôsor, vua Babylon, tiến đến vây hãm Giêrusalem. Chúa trao vua Gioakim nước Giuđa và một phần đồ vật dùng trong đền thờ Chúa vào tay ông: Ông mang các đồ vật ấy về chùa thần minh của ông trong đất Sennaar và trong kho báu thần minh của ông.
Vua truyền cho quan thái giám Asphênez dẫn về hoàng cung các con cái Israel, các người thuộc hoàng tộc và gia đình quyền quý, các thiếu niên không tàn tật, tuấn tú, đầy khôn ngoan, thông minh, sáng trí, xứng đáng sống trong hoàng cung, để dạy văn chương và ngôn ngữ người Calđêa cho các cậu. Vua quy định mỗi ngày cho các cậu ăn đồ của vua ăn, và uống rượu vua uống, để sau ba năm nuôi dưỡng như vậy, các cậu có thể hầu cận trước mặt vua. Trong số các cậu thuộc dòng dõi Giuđa, có Ðaniel, Anania, Misael, và Azaria.
Ðaniel dốc lòng không để cho đồ vua ăn và rượu vua uống làm cậu ra ô uế, và xin quan thái giám đừng làm cho cậu ra ô uế. Thiên Chúa đã ban cho Ðaniel được ân huệ và lòng thương trước mặt vị tổng thái giám. Vị này bảo Ðaniel rằng: "Tôi sợ đức vua, Người đã quy định thức ăn và của uống cho các cậu rồi. Nếu Người xem thấy nét mặt các cậu xanh xao hơn đồng bạn, thế là các cậu nạp đầu tôi cho đức vua rồi". Ðaniel nói với Malasar, kẻ được vị tổng thái giám chỉ định coi sóc Ðaniel, Anania, Misael và Azaria: "Tôi xin ông thử cho chúng tôi, là các tôi tớ ông, ăn rau và uống nước lã, rồi ông ngắm xem nét mặt chúng tôi và nét mặt những đứa dùng lương thực của đức vua; ông thấy sao, thì hãy đối xử với các tôi tớ ông như vậy". Nghe nói thế, ông để thử chúng trong mười ngày. Sau mười ngày, nét mặt bốn cậu trở nên xinh tươi béo tốt hơn mọi thiếu niên dùng lương thực của nhà vua. Malasar cất đồ ăn và rượu uống của các cậu, rồi cho các cậu ăn rau.
Thiên Chúa ban cho các cậu này được thông minh, hiểu biết mọi sách vở và khôn ngoan; phần Ðaniel lại thông hiểu các thị kiến và chiêm bao. Ðến hết thời gian vua chỉ định, vị tổng thái giám dẫn các cậu đến trước mặt vua Nabukôđônôsor. Khi nói chuyện với các cậu, vua thấy mọi người không ai bằng Ðaniel, Anania, Misael và Azaria. Các cậu đứng trước mặt vua. Vua hỏi các cậu về sự khôn ngoan và thông minh, thì thấy các cậu giỏi hơn gấp mười lần các thuật sĩ, đồng bóng trong cả nước của vua.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Ðn 3, 52. 53. 54. 55. 56
Ðáp: Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).
Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. - Ðáp.
2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa ngự trên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Lc 21, 36
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21, 1-4
"Người thấy một bà goá nghèo khó bỏ vào đó hai đồng tiền nhỏ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu nhìn lên, thấy những người giàu có bỏ tiền dâng cúng vào hòm tiền. Người cũng thấy một bà goá nghèo khó bỏ vào đó hai đồng tiền nhỏ, nên bảo rằng: "Thầy bảo thật các con, bà goá nghèo khó này đã bỏ vào hòm tiền nhiều hơn mọi người. Vì mọi người kia lấy của dư thừa mà dâng cho Thiên Chúa, còn bà này túng thiếu, bà đã dâng tất cả những gì bà có để nuôi sống mình".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nguyện Lời Chúa
Một tí muôn vàn vĩ đại
Hôm nay, Thứ Hai Tuần XXXIV Thường Niên, Thánh ký Luca, qua các bài Phúc Âm trong tuần cuối cùng của phụng niên này, tiếp tục thuật lại cho chúng ta biết những giáo huấn cuối cùng của Người ở Giêrusalem sau khi trình thuật, qua các bài Phúc Âm tuần trước, là cuộc hành trình Giêrusalem của Chúa Giêsu đã đạt đến đích điểm của nó là chính Thành Thánh và Đền Thánh Giêrusalem.
Giáo huấn cuối cùng ở Giêrusalem tiếp tục bài giáo huấn đầu tiên trong Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước về sự sống lại, được Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay muốn dạy các môn đệ của Người liên quan đến gương sống đức tin của một bà góa, một sự kiện cũng đã được Thánh ký Marco thuật lại trong Bài Phúc Âm của Chúa Nhật XXXII Thường Niên. Hai bài Phúc Âm về bà góa được đọc trong phụng vụ Lời Chúa này có nội dung giống nhau, tuy Phúc Âm Thánh Marco có vẻ chi tiết hơn và dài hơn.
Chẳng hạn Thánh ký Marco còn thêm những chi tiết sau đây: 1- "Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm", chứ không phải chỉ "nhìn lên, thấy những người giàu có bỏ tiền dâng cúng vào hòm tiền" như Thánh ký Luca thuật lại; 2- "hai đồng tiền là một phần tư xu", chứ không chỉ như Thánh ký Luca vắn tắt "hai đồng tiền nhỏ"; 3- "Người liền gọi các môn đệ và bảo", chứ không nói trống trống "nên bảo rằng" như Thánh Luca.
Ngoài ra, hai Thánh ký đều ghi lại nội dung giống nhau nơi lời nhận định và huấn dụ của Chúa Kitô về sự kiện bà góa bỏ tiền này: 1- bà góa này bỏ nhiều hơn hết trong những người bỏ tiền; 2- vì bà bỏ tất cả những gì bà có cho dù đang túng thiếu, trong khi các người khác chỉ bỏ những của dư thừa của họ.
Tuy nhiên, trong khi Phúc Âm theo Thánh ký Marco cho Chúa Nhật XXXII hình như nhấn mạnh đến bà góa nghèo, thì Phúc Âm theo Thánh ký Luca hôm nay lại liên quan đến người giầu hơn, căn cứ vào 2 chi tiết sau đây: 1- "Chúa Giêsu nhìn lên, thấy những người giàu có bỏ tiền dâng cúng vào hòm tiền"; 2- "lấy của dư thừa mà dâng cho Thiên Chúa". Ở Phúc Âm Thánh Marco không có chi tiết "dâng cho Thiên Chúa" này.
Để tiếp tục chia sẻ bài Phúc Âm về bà góa này, bài đã được chia sẻ cho Chúa Nhật XXXII: Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XXXII Thường Niên Chu Kỳ B, hôm nay, chúng ta cần giải quyết vấn đề là tại sao bà góa nghèo này đã trở thành bài giáo huấn Giêrusalem thứ hai (sau bài đầu ở Phúc Âm Thứ 7 tuần trước) trong các bài giáo huấn cuối cùng công khai của Chúa Kitô? Xin thưa, có thể tại vì sự kiện này có liên hệ đến hai sự kiện khác sau đây:
Thứ nhất là vì, theo bài Phúc Âm của Thánh ký Marcô cho Chúa Nhật XXXII Thường Niên Năm B, việc buôn bán lợi lộc trần gian của dân Chúa đã tục hóa Đền Thánh Giêrusalem vốn là nơi linh thiêng, là nhà cầu nguyện, và đã biến Đền Thánh này thành hang trộm cướp, và việc Chúa Giêsu thẳng tay thanh tẩy đền thờ trong trường hợp này nhắm đến mục đích dạy cho cộng đồng dân Chúa bấy giờ, bao gồm cả thành phần lãnh đạo, là phải kính mến Chúa là Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ hết mình và trên hết mọi sự. Cử chỉ và hành động bà góa tỏ ra tin tưởng tôn kính Thiên Chúa hết mình và trên hết mọi sự, bằng cách đã bỏ tất cả những gì mình có chính là tấm gương Chúa Kitô muốn nêu lên và nhấn mạnh để chung mọi người và riêng môn đệ của Người noi theo bắt chước.
Thứ hai là vì, cuộc hành trình Giêurusalem của Chúa Kitô liên quan đến biến cố Người đến lần thứ hai, với các dấu báo cùng biến động kinh hoàng khủng khiếp mà Người khuyên các môn đệ của Người hãy tỉnh thức, nhất là đừng quyến luyến một sự gì, như Người đã cảnh báo trong Bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần XXXII: "Trong ngày đó, ai ở trên mái nhà có đồ vật trong nhà, thì chớ xuống lấy đi; và ai ở ngoài đồng cũng đừng trở về. Các con hãy nhớ trường hợp vợ ông Lót. Ai lo cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất sự sống mình thì giữ được nó". Gương bà góa bỏ tiền vào hòm tiền trong Đền Thờ mà chẳng hề lo đến việc bảo toàn mạng sống của bà không đáng là bài học Chúa muốn nhấn mạnh trong loạt bài giáo huấn cuối cùng của Người ở Giêrusalem hay sao?
Trong Bài Đọc 1 cho Năm Lẻ hôm nay, chúng ta cũng thấy được những tấm gương về lòng kính mến Thiên Chúa hết mình và trên hết mọi sự của 4 người trẻ Do Thái trong thời gian lưu đầy ở Babylon, tỏ ra bất chấp lệnh truyền của nhà vua ngoại đạo trong việc ăn uống những thứ đồ ăn thức uống của chính nhà vua để nhờ đó, về thân xác được tẩm bổ mà có được một dáng vẻ đáng ngắm nhìn, và về tinh thần được khôn ngoan thông thái hơn người, mà thành quả cho thấy cho dù không ăn uống tẩm bổ từ cao lương mỹ vị của nhà vua, 4 người trẻ Do Thái này vẫn bắt mắt nhà vua.
Việc ăn uống những thứ đồ ăn thức uống của chính nhà vua: "Vua truyền cho quan thái giám Asphênez dẫn về hoàng cung các con cái Israel, các người thuộc hoàng tộc và gia đình quyền quý, các thiếu niên không tàn tật, tuấn tú, đầy khôn ngoan, thông minh, sáng trí, xứng đáng sống trong hoàng cung, để dạy văn chương và ngôn ngữ người Calđêa cho các cậu. Vua quy định mỗi ngày cho các cậu ăn đồ của vua ăn, và uống rượu vua uống, để sau ba năm nuôi dưỡng như vậy, các cậu có thể hầu cận trước mặt vua. Trong số các cậu thuộc dòng dõi Giuđa, có Ðaniel, Anania, Misael, và Azaria".
Lòng kính mến Thiên Chúa hết mình và trên hết mọi sự của 4 người trẻ Do Thái: "Ðaniel dốc lòng không để cho đồ vua ăn và rượu vua uống làm cậu ra ô uế, và xin quan thái giám đừng làm cho cậu ra ô uế. Thiên Chúa đã ban cho Ðaniel được ân huệ và lòng thương trước mặt vị tổng thái giám. Vị này bảo Ðaniel rằng: 'Tôi sợ đức vua, Người đã quy định thức ăn và của uống cho các cậu rồi. Nếu Người xem thấy nét mặt các cậu xanh xao hơn đồng bạn, thế là các cậu nạp đầu tôi cho đức vua rồi'. Ðaniel nói với Malasar, kẻ được vị tổng thái giám chỉ định coi sóc Ðaniel, Anania, Misael và Azaria: 'Tôi xin ông thử cho chúng tôi, là các tôi tớ ông, ăn rau và uống nước lã, rồi ông ngắm xem nét mặt chúng tôi và nét mặt những đứa dùng lương thực của đức vua; ông thấy sao, thì hãy đối xử với các tôi tớ ông như vậy'. Nghe nói thế, ông để thử chúng trong mười ngày. Sau mười ngày, nét mặt bốn cậu trở nên xinh tươi béo tốt hơn mọi thiếu niên dùng lương thực của nhà vua. Malasar cất đồ ăn và rượu uống của các cậu, rồi cho các cậu ăn rau".
Cho dù không ăn uống tẩm bổ từ cao lương mỹ vị của nhà vua, 4 người trẻ Do Thái này vẫn bắt mắt nhà vua: "Thiên Chúa ban cho các cậu này được thông minh, hiểu biết mọi sách vở và khôn ngoan; phần Ðaniel lại thông hiểu các thị kiến và chiêm bao. Ðến hết thời gian vua chỉ định, vị tổng thái giám dẫn các cậu đến trước mặt vua Nabukôđônôsor. Khi nói chuyện với các cậu, vua thấy mọi người không ai bằng Ðaniel, Anania, Misael và Azaria. Các cậu đứng trước mặt vua. Vua hỏi các cậu về sự khôn ngoan và thông minh, thì thấy các cậu giỏi hơn gấp mười lần các thuật sĩ, đồng bóng trong cả nước của vua".
Tinh thần tin tưởng của bà góa trong Bài Phúc Âm hôm nay và của 4 người trẻ trong bài Đọc 1 hôm nay, ở chỗ không coi một sự gì trên thế gian này hơn Chúa là Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình, theo nguyên tắc: "Ai lo cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất sự sống mình thì giữ được nó", là những gì chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa một cách chân thành nhất, hoàn hảo nhất và xứng đáng nhất, như được diễn tả trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời.
2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
3) Chúc tụng Chúa ngự trên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Ðn 2, 31-45
"Thiên Chúa khiến một vương quốc dấy lên và tàn phá hết các vương quốc".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, Ðaniel tâu vua Nabukôđônôsor rằng: "Tâu đức vua, đức vua chiêm bao thấy một tượng to lớn; tượng ấy rất cao sang rực rỡ, đứng trước mặt vua, hình dung thật đáng sợ hãi. Ðầu tượng ấy bằng vàng ròng, ngực và cánh tay bằng bạc, bụng và đùi bằng đồng, ống chân bằng sắt, bàn chân nửa sắt nửa sành. Ðang lúc vua trông thấy thế, thì có tảng đá từ ngọn núi tách ra, không phải do tay người ta làm, tảng đá ấy rớt trúng chân tượng nửa sắt nửa sành, làm nó đổ nát tan tành: Bấy giờ sắt, sành, đồng, bạc, vàng, đều tan nát một trật, bị gió cuốn đi mất, không còn tìm thấy đâu nữa: như bụi mùa hè trên sân lúa; còn tảng đá làm vỡ bức tượng, đã trở thành núi lớn choán khắp địa cầu.
Chiêm bao là như thế: tâu đức vua, thần xin giải thích chiêm bao trước mặt đức vua. Hoàng thượng là vua các vua. Thiên Chúa trên trời đã ban cho hoàng thượng vương quốc, sức mạnh, quyền thế, và vinh quang. Người còn trao vào tay hoàng thượng nhân dân các nước, thú đồng và chim trời, để hoàng thượng cai quản mọi sự. Vậy chính đức vua là đầu bằng vàng. Sau đức vua, thì có một vương quốc khác bằng bạc, kém hơn đức vua, sẽ dấy lên. Sau đó, có một vương quốc thứ ba bằng đồng, sẽ cai trị khắp địa cầu. Kế đó là vương quốc thứ tư bằng sắt. Sắt tàn phá và chế ngự mọi vật thế nào, thì nước này cũng tàn phá và chế ngự mọi sự như vậy. Ðức vua trông thấy chân và ngón chân nửa sành nửa sắt, đó là nước sẽ phân rẽ; đức vua trông thấy sắt sành lẫn lộn với nhau, đó là nền tảng nước kiên cố như sắt. Ngón chân nửa sắt nửa sành, là vương quốc sẽ nửa mạnh nửa yếu. Ðức vua trông thấy sắt lộn với sành: (chúng sẽ pha loại lai giống người với nhau), nhưng không thể hoà hợp với nhau, như sắt chẳng hoà hợp với sành vậy.
Trong thời đại có những vương quốc ấy, Thiên Chúa trên trời sẽ khiến một nước dấy lên, đời đời sẽ không hề bị tàn phá và không bị trao cho dân tộc khác, sẽ tàn phá và huỷ hoại các nước này; nó sẽ đứng vững muôn đời. (Cũng như) Ðức vua trông thấy tảng đá từ ngọn núi tách ra, không phải (do) người ta làm, nó đã tàn phá sành, sắt, đồng, bạc và vàng. Ấy Thiên Chúa cao cả đã tỏ ra cho vua những sự sẽ xảy đến sau này: Ðây mới thật là chiêm bao, là lời giải thích rất chân thành".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Ðn 3, 57. 58. 59. 60. 61
Ðáp: Hãy ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời (c. 57b).
Xướng: 1) Hãy chúc tụng Chúa đi, mọi công cuộc của Chúa, hãy ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời. - Ðáp.
2) Chúc tụng Chúa đi, các thiên thần của Chúa. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa đi, muôn cõi trời cao. - Ðáp.
4) Chúc tụng Chúa đi, ngàn nước trên cõi cao xanh. - Ðáp.
5) Chúc tụng Chúa đi, muôn đạo thiên binh của Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Lc 21, 36
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21, 5-11
"Không còn hòn đá nào nằn trên hòn đá nào".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: "Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá". Bấy giờ các ông hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?" Người phán: "Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối: vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: "Chính ta đây và thời gian đã gần đến", các con chớ đi theo chúng. Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ: vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu".
Bấy giờ Người phán cùng các ông ấy rằng: "Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể".
Ðó là lời Chúa.
Những Dấu Chỉ Hiện Tượng Tận Số
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Ba Tuần XXXIV Thường Niên, tiếp tục những bài giáo huấn Giêrusalem của Chúa Kitô, lần này, trực tiếp liên quan đến số phận tàn canh tận số sau một thời lừng danh vang bóng của chính Thành Thánh Giêrusalem: "Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: 'Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá'".
Nếu tảng "đá - rock" tượng trưng cho nền tảng đức tin vững chắc (xem Mathêu 7:24;16:18) thì những viên "đá - stones" tượng trưng cho thành phần tín đồ Do Thái giáo trong Cựu Ước cũng như thành phần Kitô hữu trong Tân Ước: "Anh em là những viên đá sống được xây lên như là một lâu đài thiêng liêng..." (1Phêrô 2:5).
Vậy nếu tình trạng Thành Thánh Giêrusalem vào thời điểm tận số của mình tan tành đến độ "không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá", thì phải chăng đó là hình ảnh về Giáo Hội vào ngày cùng tháng tận, được Chúa Giêsu báo trước cho biết về tình trạng khủng hoảng đức tin nơi thành phần tín hữu trước khi Người tái giáng: "Không biết khi Con Người trở lại có còn thấy đức tin trên thế gian này nữa hay chăng?" (Luca 18:8).
Về những dấu hiệu báo trước tình trạng tận số của Thành Giêrusalem ám chỉ dân Chúa này, để trả lời cho câu hỏi "Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?" Chúa Giêsu đã cảnh báo như sau:
"Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối: vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: 'Chính ta đây và thời gian đã gần đến', các con chớ đi theo chúng. Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ: vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu. Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể".
Căn cứ vào lời của Chúa Kitô trên đây thì có 2 dấu hiệu báo trước về tình trạng tận số của Thành Thánh Giêrusalem hay của cộng đồng dân Chúa: hiện tượng đầu tiên là giả dối lừa đảo ("sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: 'Chính ta đây và thời gian đã gần đến'"), và hiện tượng tiếp theo là xẩy ra nào là nhân tai ("chiến tranh loạn lạc... Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ") nào là thiên tai ("sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể").
Hai hiện tượng chính yếu báo trước về tình trạng tận số của Thành Giêrusalem ám chỉ dân Chúa này thật ra cũng liên quan đến chính đức tin. Có nghĩa là, trước khi cộng đồng dân Chúa đi tới chỗ tận số thì xẩy ra những hiện tượng cho thấy đức tin của họ bắt đầu bị khủng hoảng. Ở chỗ, về tinh thần, họ bị mù tối, qua việc tạo nên những Đức Kitô giả tạo theo ý nghĩ của họ, những Đức Kitô không có năm dấu thánh của thành phần cấp tiến phá giới buông thả, hay ngược lại những Đức Kitô chỉ biết luận phạt chém giết tội nhân của thành phần bảo thủ, hoặc một thứ ý hệ cứu độ giả tạo nào đó như các chủ nghĩa đã từng xuất phát từ Tây phương Kitô giáo như cộng sản, hiện sinh, duy nhân, tương đối, toàn cầu v.v.
Chính vì đức tin của thành phần dân Chúa bị lệch lạc như vậy, mà "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6), nên cộng đồng dân Chúa, đặc biệt cộng đồng dân Chúa Tây phương nói chung và Âu Châu nói riêng, mới tiến tới chỗ ghen ghét, hận thù, đến độ sát hại nhau bằng các cuộc chiến tranh chưa từng có trong lịch sử loài người, như Thế Chiến I và II ở thế kỷ 20 với hậu quả phải chịu là 100 triệu nhân mạng, những thế chiến xuất phát từ Âu Châu, thế giới Kitô giáo! Và như các chế độ diệt chủng, chẳng hạn cộng sản và Đức quốc xã, đã tàn sát cả 100 triệu sinh mạng nữa trong thế kỷ 20, chưa kể đến con số phá thai sát hại không biết bao nhiêu mà kể hằng năm từ khi con người "ban phép" phá thai, cũng xuất phát từ Tây phương Kitô giáo!!!
Cũng chính vì đức tin đã càng ngày càng trở nên yếu kém và bị lạc loài như thế mà thế giới Tây phương Kitô giáo văn mình chưa từng có và kỹ nghệ tân tiến hóa, đã vô tình hay cố ý, nhúng tay vào việc gây ra tình trạng khủng hoảng cả về môi sinh, với những biến động bất thường trong thiên nhiên, mà hậu quả là chính con người phải hứng chịu những hậu qua thiên tai liên tục không ngừng xẩy ra ở khắp nơi trên thế giới như vẫn thấy vô cùng thảm thương hiện nay.
Không phải là ngẫu nhiên mà lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội và thế giới xuất hiện một bức thông điệp hoàn toàn không phải về những vấn đề như từ trước đến nay thuần tín lý hay thuần luân lý hoặc phụng vụ hay tu đức, mà là một thông điệp về môi sinh và nhân sinh, Thông Điệp "Laurato Sí", được Vị Giáo Hoàng muốn có một Giáo Hội nghèo và cho người nghèo là Đức Thánh Cha Phanxicô ban hành ngày 24/5/2015.
Nếu hiện tượng khủng hoảng đức tin là dấu báo cho biết biến cố Chúa Kitô tái giáng cũng là biến cố Người đến thế gian lần thứ hai để muôn đời thiết lập Vương Quốc của Người, thì hiện tượng sụp đổ của các đế quốc liên quan đến lịch sử cứu độ của dân Do Thái cho đến khi Vương Quốc của Thiên Chúa được thiết lập cũng đã được tiên tri Đaniên loan báo, qua lời dẫn giải giấc chiêm bao của Vua Nabukôđônôsor trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay.
Trước hết, về giấc mơ của Vua Nabukôđônôsor này: "Đứ
Sau nữa, về lời dẫn giải chiêm bao cho vua ấy của Tiên Tri Đaniên: "... Chính đức vua là đầu bằng vàng. Sau đức vua, thì có một vương quốc khác bằng bạc, kém hơn đức vua, sẽ dấy lên. Sau đó, có một vương quốc thứ ba bằng đồng, sẽ cai trị khắp địa cầu. Kế đó là vương quốc thứ tư bằng sắt. Sắt tàn phá và chế ngự mọi vật thế nào, thì nước này cũng tàn phá và chế ngự mọi sự như vậy. Ðức vua trông thấy chân và ngón chân nửa sành nửa sắt, đó là nước sẽ phân rẽ; đức vua trông thấy sắt sành lẫn lộn với nhau, đó là nền tảng nước kiên cố như sắt. Ngón chân nửa sắt nửa sành, là vương quốc sẽ nửa mạnh nửa yếu. Ðức vua trông thấy sắt lộn với sành: (chúng sẽ pha loại lai giống người với nhau), nhưng không thể hoà hợp với nhau, như sắt chẳng hoà hợp với sành vậy. Trong thời đại có những vương quốc ấy, Thiên Chúa trên trời sẽ khiến một nước dấy lên, đời đời sẽ không hề bị tàn phá và không bị trao cho dân tộc khác, sẽ tàn phá và hủy hoại các nước này; nó sẽ đứng vững muôn đời. (Cũng như) Ðức vua trông thấy tảng đá từ ngọn núi tách ra, không phải (do) người ta làm, nó đã tàn phá sành, sắt, đồng, bạc và vàng".
Phải chăng 4 đế quốc được Tiên Tri Đaniên dẫn giải trên đây, theo lịch sử của dân Do Thái, thứ tự là Đế Quốc Babylon (587-538 BC), sau đó đến Đế Quốc Ba Tư (538-332 BC), rồi tới Đế Quốc Hy Lạp (332-63 BC) và sau cùng là Đế Quốc Rôma (63 BC - 324 AD), và đế quốc cuối cùng này về sau quả thật đã bị chia đôi Đông và Tây như bàn chân nửa sành nửa sắt, để rồi cũng chính trong thời đại của đế quốc Rôma ấy, vương quốc của Ngài, qua Giáo Hội Chúa Kitô trong giòng lịch sử nhân loại, như một tảng đá từ trên núi tự động rơi xuống phá tan tành Đế Quốc Rôma, bao gồm cả 3 đế quốc trước đó trong pho tượng 4 đế quốc ấy nữa?!
Kitô hữu nào còn gắn bó với Giáo Hội Chúa Kitô không thể nào không cảm thấy đức tin của mình được củng cố hơn lúc nào hết và cảm thấy phấn khởi cùng hãnh diện hơn bao giờ hết khi đến thăm viếng Giáo Đô Rôma, nơi mà dáng vẻ nguy nga hùng vĩ và đồ sộ lớn lao của các Đền Thờ cùng với các di tích nghệ thuật tuyệt vời của Giáo Hội Công Giáo Rôma hiện lên trước mắt vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay, trong khi đó, ở cùng một thủ đô của Ý quốc này, cũng là trung tâm của đế quốc Rôma xưa, đầy những di tích lịch sử tàn tạ của một đế quốc lớn nhất và lâu nhất trong lịch sử loài người và đã từng bách hại tín hữu Kitô giáo suốt 300 năm đầu của Giáo Hội Chúa Kitô.
Đó là lý do trước việc làm của Vị Thiên Chúa quan phòng thần linh cũng là Vị Chủ Tể lịch sử của loài người, Đấng đã vô cùng khôn ngoan và toàn năng đến độ đã biến sự dữ do con người gây ra để thành sự lành cứu độ họ, đã thiết lập sự lành cứu độ là Vương Quốc của Ngài trên thế gian này và cho thế gian này, thay thế các vương quốc trần gian tiêu biểu cho vương quốc của Satan ở từng thời đại nào đó, chỉ mang đến bất hạnh cho con người và bắt con người phải làm nô lệ cho chúng, mà nhất là Kitô hữu chúng ta, hãnh diện với đức tin bất khuất của chung Giáo Hội, cần phải hiệp cùng Thánh Vịnh gia dâng lời chúc tụng Thiên Chúa với tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Hãy chúc tụng Chúa đi, mọi công cuộc của Chúa, hãy ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời.
2) Chúc tụng Chúa đi, các thiên thần của Chúa.
3) Chúc tụng Chúa đi, muôn cõi trời cao.
4) Chúc tụng Chúa đi, ngàn nước trên cõi cao xanh.
5) Chúc tụng Chúa đi, muôn đạo thiên binh của Chúa.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Ðn 5, 1-6, 13-14, 16-17, 23-28
"Có những ngón tay hiện ra như bàn tay một người".
Bài trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, vua Baltassar dọn tiệc linh đình đãi một ngàn triều thần: ai nấy cứ theo tuổi mình mà uống rượu. Khi vua đã say rượu, liền truyền đem các bình, chén, bát bằng vàng bạc mà Nabukôđônôsor, phụ vương ông, đã lấy trong đền thờ Giêrusalem đem về, để cho vua, các triều thần, hoàng hậu và cung phi dùng uống rượu. Bấy giờ, người ta mang ra các bình, chén, bát bằng vàng bạc đã lấy trong đền thờ Giêrusalem đem về. Vua, các triều thần, hoàng hậu và cung phi dùng đồ đó mà uống rượu. Họ vừa uống rượu vừa ca tụng các thần minh bằng vàng, bạc, đồng, sắt, gỗ, đá của họ.
Chính lúc ấy, có những ngón tay hiện ra như bàn tay một người viết chữ trên vách tường cung điện, đối diện ánh bạch lạp; vua nhìn thấy ngón tay viết chữ. Bấy giờ mặt vua đổi sắc, tư tưởng rối loạn, xương sống yếu sức, đầu gối va chạm lẫn nhau.
Lúc đó người ta dẫn Ðaniel đến trước mặt vua. Vua hỏi người rằng: "Nhà ngươi có phải là Ðaniel, con cái Giuđa, phải lưu đày mà phụ vương trẫm đã điệu từ Giuđa về đây chăng? Trẫm đã nghe rằng nhà ngươi được thần linh các vị thần phù giúp: ngươi được thông minh, trí tuệ và khôn ngoan phi thường. Trẫm đã nghe rằng nhà ngươi có thể cắt nghĩa những huyền bí và giải thích được những chuyện khúc mắc. Vậy nếu nhà ngươi đọc được hàng chữ này và cắt nghĩa cho trẫm, thì nhà ngươi sẽ được mặc áo đỏ, cổ đeo vòng vàng và trở nên vị tướng thứ ba trong vương quốc trẫm".
Ðaniel tâu lại trước mặt vua rằng: "Lễ vật của vua xin để lại cho vua, và ân huệ nhà vua, xin vua ban cho kẻ khác. Thần xin đọc hàng chữ này và cắt nghĩa cho đức vua. Ðức vua đã tự phụ chống đối Ðấng cai trị trên trời: đã đem bày trước mặt vua các bình, chén, bát lấy trong đền Chúa, rồi vua, triều thần, hoàng hậu và cung phi dùng những đồ ấy mà uống rượu; vua còn ca tụng các thần vàng bạc, đồng, sắt, gỗ, đá, toàn là những thứ không thấy, không nghe và không cảm giác: vua không tôn vinh Thiên Chúa, Ðấng cầm trong tay vận mệnh và đường lối của đức vua. Bởi đó, Chúa khiến ngón tay hiện ra viết hàng chữ đó.
"Ðây những chữ đã viết như sau: Manê, Thêqel, Phares. Xin giải nghĩa những chữ đó như sau: Manê: là Thiên Chúa đã đếm đủ số triều đại nhà vua rồi. Thêqel: là đã cân vua trên cán cân, và thấy vua hụt cân. Phares: là vương quốc của vua đã bị phân chia và trao cho dân Mêđia và Batư".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Ðn 3, 62. 63. 64. 65. 66. 67
Ðáp: Hãy ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời (c. 57b).
Xướng: 1) Chúc tụng Chúa đi, mặt trời cùng với mặt trăng. - Ðáp.
2) Chúc tụng Chúa đi, trên trời cao, muôn tinh tú. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa đi, mưa móc với sương sa. - Ðáp.
4) Chúc tụng Chúa đi, muôn ngàn ngọn gió. - Ðáp.
5) Chúc tụng Chúa đi, lửa đỏ với than hồng. - Ðáp.
6) Chúc tụng Chúa đi, rét mướt và lạnh lẽo. - Ðáp.
Alleluia: Mt 24, 41a và 44
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21, 12-19
"Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy, nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy: các con sẽ có dịp làm chứng. Vậy các con hãy ghi nhớ điều này trong lòng là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào. Vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con.
"Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con cũng sẽ giữ được linh hồn các con".
Ðó là lời Chúa.
Sự dữ gia tăng... tin mừng loan báo
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XXXIV Thường Niên tiếp theo Bài Phúc Âm hôm qua về số phận tận số của Thành Thánh Giêrusalem, nhưng Bài Phúc Âm hôm nay nhấn mạnh đến số phận bị bách hại của thành phần chứng nhân cuối thời.
Thật vậy,
ngoài hai dấu hiệu cho thấy ngày cùng tháng tận đó là hiện tượng giả dối
lừa đảo hoành hành cùng với hiện
tượng nhân tai kèm theo thiên tai xẩy ra cho nhân loại, còn
một dấu hiệu nữa đó là sự kiện bách hại thành phần chứng nhân cuối thời: "Người
ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù,
điệu các con đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy: các con sẽ có
dịp làm chứng".
Đúng thế, chính hiện tượng "sự dữ gia tăng mà lòng mến nơi hầu hết con người ta trở nên nguội lạnh" (Mathêu 24:12) mới xẩy ra tình trạng bách hại thành phần chứng nhân cuối thời. Không biết có đúng hay chăng khi mà vào chính thời điểm lịch sử hiện nay, thời đểm con người càng văn minh về vật chất lại càng băng hoại về luân lý và đạo lý, thì chính ở thế giới Tây phương Kitô giáo, (chứ không phải chỉ ở thế giới Hồi giáo cực đoan chỉ được theo Hồi giáo), lại là nơi đang bắch hại thành phần chứng nhân Kitô giáo, bằng những luật lệ cấm đoán công khai bày tỏ đức tin ở những nơi công cộng, dù là bằng ngôn từ hay hình ảnh, hoặc phải làm theo những điều khoản phản lại lương tâm Kitô giáo của mình, hay bằng việc trắng trợn và cương quyết dứt khoát chối bỏ căn tính Kitô giáo của mình trong Bản Hiến Pháp của Khối Hiệp Nhất Âu Châu, một châu lục hoàn toàn mang gốc gác Kitô giáo và là nơi xuất phát các vị thừa sai khắp thế giới.
Phải chăng lời Chúa Giêsu cảnh báo trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy", cũng bao gồm cả và ám chỉ đến tình hình chính thế giới Tây phương Kitô giáo bách hại Kitô giáo của chính mình?
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã khuyên các môn đệ của Người là hãy lợi dụng tình trạng bị bách hại ấy mà làm chứng cho Người: "các con sẽ có dịp làm chứng". Đó là lý do, vào ngày cuối thời, chính vào lúc "sự dữ gia tăng mà lòng mến nơi hầu hết con người ta trở nên nguội lạnh" (Mathêu 24:12) mới đồng thời xẩy ra một chiến dịch hay phong trào chứng nhân truyền giáo: "Tin mừng về Nước Trời này sẽ được loan truyền khắp thế giới như một chứng từ cho tất cả mọi dân nước. Chỉ sau đó mới tới tận cùng" (Mathêu 24:14).
Phải chăng ngay vào thời điểm thế giới Kitô giáo Tây phương đang băng hoại, đang trở thành trung tâm "văn hóa sự chết" (ĐTC Gioan Phaolô II), thành lò "văn hóa tận số" (ĐTC Phanxicô) mới càng cần đến một Hội Đồng Tòa Thánh về Tân Truyền Bá Phúc Âm Hóa được ĐTC Biển Đức XVI thiết lập, và là Hội Đồng đặc trách tổ chức Năm Thánh tình Thương 2016 do ĐTC Phanxicô khởi xướng; nhất là mới càng có những chuyến tông du của các Đức Giáo Hoàng từ ngay trong Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962 - 8/12/1965), với chuyến tông du đầu tiên của ĐTC Phaolô VI vào đầu năm 1964 ở Thánh Địa (4-6/1), với 104 chuyến tông du của ĐTC Gioan Phaolô II trong vòng 26 năm rưỡi của ngài (16/10/1978 - 2/4/2005), trung bình mỗi năm 4 chuyến, với 24 chuyến tông du của ĐTC Biển Đức XVI trong 8 năm phục vụ Giáo Họi của ngài (19/4/2005 - 28/2/2013), trung bình 3 năm 1 chuyến, và với 21 chuyến tông du của ĐTC Phanxicô trong vòng 2 năm 8 tháng của ngài (13/3/2013 - 30/11/2015), trung bình 5 chuyến 1 năm (bao gồm cả chuyến tông du Phi Châu lần đầu tiên của ngài 6 ngày từ Thứ Tư giữa Tuần XXXIV Thường Niên này cho đến Thứ Hai cuối tháng 11).
Thế nhưng, công cuộc và sứ vụ chứng nhân không phải là việc làm và hành động của cá nhân Kitô hữu, cho bằng của chính Giáo Hội và nhất là của Chúa Kitô, Đấng ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế (xem Mathêu 28:20), Đấng luôn sống động trong Giáo Hội và tỏ mình ra nơi từng chi thể của Giáo Hội là thành phần chứng nhân của Người và cho Người như cành nho dính liền với Người là thân nho (xem Gioan 15:5).
Bởi thế, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô đã trấn an thành phần chứng nhân tiên khởi của Người là các môn đệ đang theo Người và nghe Người bấy giờ, cũng như khẳng định cùng thành phần chứng nhân ở mọi thời và nhất là cuối thời của Người rằng: "Chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con".
Và sở dĩ "mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con" được, như một phó tế Staphanô vị tử đạo tiên khởi của Kitô giáo (xem Tông Vụ toàn đoạn 7), là vì chính Chúa Kitô "là chân lý" (Gioan 14:1) bất diệt tỏ mình ra qua họ như "ánh sáng chiếu trong tăm tối, một thứ tăm tối không thể nào át được ánh sáng" (Gioan 1:5), nhất là khi Người tái xuất hiện trong vinh quang "để phán xét kẻ sống và kẻ chết", cho dù hiện tại dường như sự dữ đang thắng thế, đang làm chủ tình hình và đang hoành hành kinh hoàng khủng khiếp như thể cả thế gian này đã biến thành hỏa ngục trần gian vậy.
Quả thực, trong một giai đoạn sự dữ gia tăng tới tột độ quyền lực của nó vô cùng kinh hoàng khủng khiếp đến độ "nếu giai đoạn ấy không được rút ngắn lại thì không một con ngưòi trần gian nào được cứu độ" (Mathêu 24:22), thì kể cả kẻ lành cũng vẫn có thể gặp nguy hiểm và vẫn có thể bị đánh lừa (xem Mathêu 24:24), như trường hợp cả 5 cô trinh nữ khôn ngoan cũng thiếp ngủ (xem Mathêu 25:5); nhưng 5 trinh nữ khôn ngoan này hoàn toàn khác với 5 trinh nữ khờ dại, ở chỗ, các cô mang dầu đức cậy theo với đèn đức tin để có thể thắp sáng đức mến khi chàng rể bất ngờ xuất hiện, nhờ đó, cho dù các cô mắt có ngủ nhưng lòng vẫn thức, ở chỗ vẫn "thiết tha trông đợi Người" (Do Thái 9:28), Đấng quan phòng thần linh cứu độ, đến độ: "dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất" như chính lời Chúa Giêsu khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay.
Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy viễn ảnh về ngày cùng tháng tận nói chung nơi dấu báo sắp hết thời của đế quốc Babylon xưa. Sách Tiên Tri Đaniên cho Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại sự kiện vua chúa cùng triều thần Babylon đang say sưa chè chén bằng chính những đồ quí giá của dân Do Thái được vương phụ của vị vua đương kim ấy lấy về từ Giêurusalem, nhưng vào chính lúc hoan lạc như thế vua lại thấy xuất hiện những ngón tay của một bàn tay viết trên tường những chữ lạ chất chứa một ý nghĩa huyền nhiệm nào dó không ai trong đất nước của vua có thể hiểu được, ngoại trừ một mình Đaniên là người Thiên Chúa sử dụng để báo trước ngày cùng tháng tận của vương quốc Babylon.
Trước hết, về sự kiện vua chúa cùng triều thần đang say sưa chè chén bằng chính những đồ quí giá của dân Do Thái được vương phụ của vị vua đương kim ấy lấy về từ Giêurusalem, Bài Đọc 1 đã ghi lại rằng:
"Trong những ngày ấy,
vua Baltassar dọn tiệc linh đình đãi một ngàn triều thần: ai nấy cứ theo
tuổi mình mà uống rượu. Khi vua đã say rượu, liền truyền đem các bình, chén,
bát bằng vàng bạc mà Nabukôđônôsor, phụ vương ông, đã lấy trong đền thờ
Giêrusalem đem về, để cho vua, các triều thần, hoàng hậu và cung phi dùng
uống rượu. Bấy giờ, người ta mang ra các bình, chén, bát bằng vàng bạc đã
lấy trong đền thờ Giêrusalem đem về. Vua, các triều thần, hoàng hậu và cung
phi dùng đồ đó mà uống rượu. Họ vừa uống rượu vừa ca tụng các thần minh bằng
vàng, bạc, đồng, sắt, gỗ, đá của họ".
Sau nữa, về những ngón tay của bàn tay viết trên tường những chữ lạ chất chứa một ý nghĩa huyền nhiệm nào dó không ai trong đất nước của vua có thể hiểu được, cũng được Bài Đọc 1 cho biết như thế này:
"Chính lúc ấy, có những ngón tay hiện ra như bàn tay một người viết chữ trên vách tường cung điện, đối diện ánh bạch lạp; vua nhìn thấy ngón tay viết chữ. Bấy giờ mặt vua đổi sắc, tư tưởng rối loạn, xương sống yếu sức, đầu gối va chạm lẫn nhau".
Sau hết, về lời dẫn giải của Tiên Tri Đaniên, Bài Đọc 1 đã tiếp tục tiết lộ như sau:
"Thần xin đọc hàng chữ này và cắt nghĩa cho đức vua. Ðức vua đã tự phụ chống đối Ðấng cai trị trên trời: đã đem bày trước mặt vua các bình, chén, bát lấy trong đền Chúa, rồi vua, triều thần, hoàng hậu và cung phi dùng những đồ ấy mà uống rượu; vua còn ca tụng các thần vàng bạc, đồng, sắt, gỗ, đá, toàn là những thứ không thấy, không nghe và không cảm giác: vua không tôn vinh Thiên Chúa, Ðấng cầm trong tay vận mệnh và đường lối của đức vua. Bởi đó, Chúa khiến ngón tay hiện ra viết hàng chữ đó. Ðây những chữ đã viết như sau: Manê, Thêqel, Phares. Xin giải nghĩa những chữ đó như sau: Manê: là Thiên Chúa đã đếm đủ số triều đại nhà vua rồi. Thêqel: là đã cân vua trên cán cân, và thấy vua hụt cân. Phares: là vương quốc của vua đã bị phân chia và trao cho dân Mêđia và Batư".
Lời dẫn giải của Tiên Tri Đaniên, theo lịch sử, đã ứng nghiệm đúng những gì chính vị tiên tri này, trong Bài Đọc 1 hôm qua, giải nghĩa chiêm bao cho vương phụ của vị vua đương kim, liên quan đến pho tượng có 4 phần, phần đầu bằng vàng ám chỉ vương quốc Babylon, nhưng vương quốc này đã bị vương quốc được ám chỉ nơi phần ngực và hai tay bằng bạc ở pho tượng là vương quốc Ba Tư đánh bại v.v.
Vương quốc Babylon này, theo Sách Khải Huyền của Thánh Gioan, có thể được ám chỉ là thế gian, một đại điếm đô, nơi thu hút đủ mọi thành phần con người ta, thành phần luôn tìm hưởng thụ trên trần gian và ngoại tình với thế gian, một thế gian qua hình ảnh một đại điếm đô sẽ bị trừng phạt xứng đáng với thân phận đáng xóa sổ của nó (xem Khải Huyền đoạn 17-18), ngay trước khi tên vương chủ của nó là con rồng cùng với thành phần tay sai của hắn cuối cùng bị tận diệt (xem Khải Huyền đoạn 20), cho một tân Giêrusalem trong một trời mới đất mới xuất hiện (xem Khải Huyền 2 đoạn cuối cùng 20-21).
Viễn ảnh thế gian được biểu hiệu nơi đại điếm đô Babylon cùng với quyền lực sự dữ được tiêu biểu nơi con rồng đều bị tận diệt và thay thế bằng một tân Giêurusalem trong một trời mới đất mới như thế cho thấy Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của Do Thái giáo cũng như của Kitô giáo là một Vị Thiên Chúa cứu độ, Vị Thiên Chúa biến dữ thành lành, Vị Thiên Chúa hằng sống, Vị Thiên Chúa chẳng những cứu độ con người mà còn cứu độ cả thiên nhiên tạo vật được Ngài dựng nên cho con người nữa, khi con người cuối cùng nhờ Vị Thiên Chúa cứu độ đạt được "tự do vinh quang của con cái Thiên Chúa" (Roma 8:21), bởi thế, chính thiên nhiên tạo vật cũng được con người thúc giục cùng mình tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa theo tâm tình và ngôn từ của Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúc tụng Chúa đi,
mặt trời cùng với mặt trăng.
2) Chúc tụng Chúa đi, trên trời cao, muôn tinh tú.
3) Chúc tụng Chúa đi, mưa móc với sương sa.
4) Chúc tụng Chúa đi, muôn ngàn ngọn gió.
5) Chúc tụng Chúa đi, lửa đỏ với than hồng.
6) Chúc tụng Chúa đi, rét mướt và lạnh lẽo.
Thứ Năm
“Tông Đồ Anrê, Vị được gọi đầu tiên”
Bài 11 Thứ Tư 14/6/2006 - trong loạt 138 bài về chủ đề Giáo Hội Tông Truyền của ĐTC Biển Đức XVI
Anh Chị Em thân mến,
Ở ba bài giáo lý vừa rồi chúng ta đã nói về hình ảnh của Thánh Phêrô. Giờ đây, căn cứ vào những gì có trong tay, chúng ta muốn nói tới 11 vị tông đồ khác một chút. Bởi thế, hôm nay chúng ta nói tới người anh em của Simon Phêrô là Thánh Anrê, vị cũng là một trong Nhóm 12.
Điều đầu tiên làm cho người ta chú ý về Thánh Anrê là tên gọi của ngài, ở chỗ, tên của ngài không phải là tiếng Do Thái mà là tiếng Hy Lạp, dấu hiệu cho thấy một tính cách cởi mở về văn hóa nào đó của gia đình ngài. Chính chúng ta cũng thấy được ở Galilêa là nơi tiếng Hy Lạp và văn hóa Hy Lạp khá thông dụng.
Trong các danh sách về Nhóm 12 thì Anrê được liệt kê thứ hai ở Phúc Âm Thánh Mathêu (10:1-4) và ở Phúc Âm Thánh Luca (6:13-16), hay thứ bốn ở Thánh Marcô (3:13-18) và ở Sách Tông Vụ (1:13-14). Dù sao chăng nữa thì ngài chắc chắn là ngài có một uy tín lớn trong các cộng đồng Kitô Giáo sơ khai.
Mối liên hệ về máu mủ giữa Thánh Phêrô và Anrê, cũng như việc Chúa Giêsu gọi chung cả hai vị, đều là những gì được minh nhiên trình thuật trong các Phúc Âm. Người ta đọc thấy rằng: ‘Khi bước đi bên bờ Biển Galilêa, thì Người thấy hai anh em, Simon cũng được là Phêrô và Anrê là người anh em của ngài, cả hai đang thả lưới xuống biển; vì họ là những tay đánh cá. Người đã nói với họ rằng: ‘Hãy theo Thày, và tôi sẽ làm cho các người thành những tay đánh cá người ta’ (Mt 4:18-19; Mk 1:16-17).
Theo Phúc Âm thứ bốn, chúng ta biết được một chi tiết quan trọng khác, đó là, mới đầu, Anrê là một người môn đệ của Thánh Gioan Tẩy Giả; và điều này cho chúng ta thấy rằng ngài là một con người tìm kiếm, một con người đã chia sẻ niềm hy vọng của Yến Duyên, một con người muốn biết hơn nữa về lời của Chúa, về sự hiện diện của Chúa.
Ngài thực sự là con người của đức tin và đức cậy; nên một ngày kia nghe thấy Gioan Tẩy Giả giảng về Đức Giêsu như là ‘Chiên Thiên Chúa’ (Jn 1:36); bấy giờ ngài đã bị tác động, để rồi cùng với một người môn đệ khác được giấu tên, đã đi theo Đức Giêsu, vị đã được Thánh Gioan gọi là ‘Chiên Thiên Chúa’. Vị Thánh Ký viết: ‘Họ đã thấy nơi Người ở; và họ đã ở với Người’ (Jn 1:40-43), một việc chứng tỏ cho thấy ngay một tinh thần tông đồ khác thường. Bởi thế, Anrê là vị tông đồ đầu tiên được kêu gọi và đã theo Chúa Giêsu.
Đó là lý do phụng vụ của Giáo Hội Byzantine t6on kính ngài với dan hiệu là ‘Protoklitos’, tức là người ‘được ọi đầu tiên’.
Vì mối liên hệ huynh đệ giữa Phêrô và Anrê mà Giáo Hội Rôma và Giáo Hội Constantinople coi minh là hai Giáo Hội chị em với nhau. Để nhấn mạnh đến mối liên hệ này, vị tiền nhiệm của tôi là Giáo Hoàng Phaolô VI, vào năm 1964, đã hoàn lại di hài nổi tiếng của Thánh Anrê là những gì cho tới bấy giờ vẫn được lưu giữ ở đền thờ Vatican, to vị giám mục tổng giáo phận Chính Thống ở thành phố Patras, Hy Lạp, nơi mà theo truyền thống, vị tông đồ này đã bị đóng đanh.
Các truyền thống Phúc Âm đề cập đến tên Anrê đặc biệt vào 3 trường hợp khác nữa, giúp cho chúng ta có thể biết thêm về con người này. Lần thứ nhất đó là vào biến cố bánh hóa ra nhiều ở Galiêa. Lần này, Anrê đã chỉ cho Chúa Giêsu biết về sự hiện diện của một em trai có 5 ổ bánh và 2 con cá: ngài nói là rất ít ỏi cho tất cả đám dân chúng đang tu họp lại ở nơi ấy (x Jn 6:8-9).
Cấn phải nhấn mạnh đến tính cách thiết thực của Anrê. Ngài đã thấy em trai này, tức là ngài đã hỏi Người rằng: ‘Thế nhưng điều này thì có nghĩa gì đối với tất cả bằng ấy người chứ?’ (ibid) và ngài đã biết được tình trạng thiếu phương tiện. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã có thể làm cho chúng trở thành đủ cho đám đông dân chúng đã đến nghe Người rao giảng.
Lần thứ hai ở Giêrusalem. Khi rời thành phố, một người môn đệ đã chỉ cho Người phong cảnh của những tường thành vĩ đại vây bọc ngôi đền thờ. Lời đáp ứng của Vị Sư Phụ đã làm bàng hoàng sửng sốt đó là Người nói rằng những bức tường thành đó sẽ không còn một hòn đá nào trên hòn đá nào. Bấy giờ Anrê, cùng với Phêrô, Giacôbề và Gioan, đã hỏi Người rằng: ‘Xin Thày nói cho chúng con biết khi nào thì điều này sẽ xẩy ra, và đâu là dấu hiệu cho thấy tất cả những điều ấy đều được nên trọn’ (Mk 13:1-4).
Để trả lời cho vấn nạn ấy, Chúa Giêsu đã nói một bài quan trọng về việc Thành Giêrusalem bị hủy diệt và về ngày cùng tháng tận của thế giới, kêu gọi các môn đệ hãy can thận để ý tới các dấu chỉ thời đại và luôn giữ thái độ tỉnh thức. Theo tình tiết này thì chúng ta có thể suy diễn là chúng ta không cần phải sợ đặt vấn đề với Chúa Giêsu, thế nhưng đồng thời chúng ta cũng phải sẵn sàng chấp nhận các giáo huấn của Người, những giáo huấn cũng kinh hoàng và khó khăn.
Sau hết, các Phúc Âm ghi nhận lần thứ ba nói về Anrê. Trường hợp này cũng ở Giêrusalem, ngay trước Cuộc Khổ Nạn một chút. Đó là vào dịp Lễ Vượt Qua, Thánh Ký Gioan thuật rằng, có một số người Hy Lạp đã đến Thành Thánh này, có lẽ là thành phần cải đạo hay những con người kính sợ Thiên Chúa, để tôn thờ Vị Thiên Chúa của dân Do Thái trong dịp lễ Vượt Qua.
Anrê và Philiphê, hai người môn đệ mang tên gọi Hy Lạp, đã đóng vai thông dịch viên và môi giới cho Chúa Giêsu của nhóm người Hy Lạp nhỏ bé này. Câu Chúa Giêsu trả lời cho câu hỏi của ngài có vẻ khó hiểu, như vẫn thường xẩy ra ở Phúc Âm Thánh Gioan, thế nhưng chính vì thế mà nó cho thấy tất cả ý nghĩa của nó. Chúa Giêsu nói cùng những người môn đệ của Người, và qua môi giới của họ, với thế giới Hy Lạp rằng: ‘Đã đến giờ Con người được hiển vinh. Thật vậy, thật vậy, Thày nói cùng các con hay là trừ phi hạt lúa miến rơi xuống đất chết đi bằng không nó vẫn y nguyên như thế; nó có chết đi mới sinh nhiều hoa trái’ (Jn 12:23-24).
Trong bối cảnh ấy những lời này có nghĩa là gì? Chúa Giêsu muốn nói rằng: Phải, cuộc gặp gỡ của Thày với những người Hy Lạp sẽ xẩy ra, thế nhưng cuộc gặp gỡ của Thày sẽ không phải là một cuộc nói chuyện giản dị và ngắn ngủi với một số người nào đó được tác động trước hết bởi tính tò mò vậy thôi. Bằng cái chết của mình, có thể được so sánh với việc hạt lúa miến rơi xuống đất, thời điểm hiển vinh của Thày sẽ đến. Nhờ cái chết trên cây thập tự giá mới phát sinh nhiều hoa trái. ‘Hạt lúa miến chết đi’ – tiêu biểu cho việc Thày bị đóng đanh – sẽ trở thành, nhờ Cuộc Phục Sinh, bánh sự sống cho thế gian: Nó sẽ là ánh sáng coi chiếu cho các dân tộc và các nền văn hóa.
Phải, cuộc gặp gỡ với cái hồn Hy Lạp, với thế giới Hy Lạp, sẽ xẩy ra ở cái ý nghĩa sâu sắc được hạt lúa miến ám chỉ như thế, một biến cố thu hút các quyền lực của cả trái đất lẫn trời cao và trở thành bánh sự sống. Nói cách khác, Chúa Giêsu nói tiên tri về Giáo Hội của người Hy Lạp, Giáo Hội của dân ngoại, Giáo Hội của thế giới là hoa trái của Cuộc Người Vượt Qua.
Các truyền thống rất cổ tin rằng Anrê, vị đã chuyển đạt những lời ấy cho các người Hy Lạp, chẳng những là thông dịch viên của một số người Hy Lạp trong cuộc họ gặp gỡ Chúa Giêsu như chúng ta vừa nhớ lại, mà ngài còn được coi là vị Tông Đồ của người Hy Lạp vào những năm sau Biến Cố Hiện Xuống nữa; những truyền thống ấy cho chúng ta biết rằng cả cuộc đời còn lại của mình, ngài là người rao giảng tin mừng và là thông dịch viên về Chúa Giêsu cho thế giới Hy Lạp.
Phêrô, người anh em của ngài, đã từ Giêrusalem đến Rôma, đi ngang qua Antiôkia, để thi hành sứ vụ hoàn vũ của mình; Anrê, trái lại, là vị Tông Đồ của thế giới Hy Lạp. Bởi thế, cả khi sống lẫn lúc chất, các vị đều là những người anh em chân thực, một tình huynh đệ được diễn tả một cách tượng trưng nơi mối liên hệ đặc biệt của các giáo hội Rôma và Constantinople, hai Giáo Hội là chị em với nhau thực sự.
Một truyền thống sau đó, như tôi đã nói, thuật lại cái chết của Thánh Anrê ở Patras, nơi ngài cũng bị hành quyết đóng đinh vào thập giá. Tuy nhiên, vào chính giây phút cuối cùng ấy, như người anh em Phêrô của mình, ngài đã xin được đóng đanh khác với cách của Chúa Giêsu. Nơi trường hợp của ngài thì cây thập tự giá theo kiểu chữ X, tức là có hai thanh gỗ bắt chéo nhau, nên mới được gọi là ‘cây thập giá của Thánh Anrê’.
Đó là những gì, theo một trình thuật cổ (vào đầu thế kỷ thứ sáu), với nhan đề ‘Cuộc Khổ Nạn của Thánh Anrê’: vào lúc ấy ngài đã nói rằng: ‘Kính mừng, Ôi cây thập giá, được thân thể Chúa Kitô khai mạc, một thập tự giá đã trở thành đồ trang điểm cho các phần tử của Người, như thể họ là những viên ngọc quí. Trước khi Chúa Kitô cưỡi lên ngươi thì ngươi gây kinh hoàng cho trần thế. Tuy nhiên, giờ đây, được tình yêu thiên quốc ban tặng, ngươi đã trở thành một tặng ân. Thành phần tín hữu cảm thấy niềm vui biết bao nơi ngươi, bao nhiêu là tặng ân do người cống hiến. Bởi thế, hãy tin tưởng và tràn đầy niềm vui, ta đến đây để ngươi cũng sẽ nhận lấy ta hân hoan như người môn đệ của Đấng đã bị treo lên trên ngươi… Hỡi cây thập tự giá diễm phúc…, cây thập tự giá đã lãnh nhận cái uy nghi và kiều diễm của những chi thể Chúa Kitô…, xin hãy nhận lấy ta và hãy dẫn ta xa khỏi con người và trao ta cho Vị Sư Phụ của ta, để nhờ ngươi, Người sẽ lãnh nhận ta, Đấng nhờ người đã cứu chuộc ta. Kính mừng, Ôi cây thập tự giá, phải, xin thực lòng kính chào ngươi!’.
Như chúng ta có thể thấy, chúng ta đang đứng trước một linh đạo Kitô Giáo hết sức sâu xa, một linh đạo thấy nơi cây thập tự giá, vượt ra ngoài tính cách một dụng cụ hành hình, như một phương tiện khôn sánh cho việc hoàn toàn nên giống với Đấng Cứu Chuộc, nên giống hạt lúa miến rơi xuống đất. Chúng ta cần phải học được bài học rất quan trọng này, đó là, những thập tự giá của chúng ta có một giá trị nếu chúng được coi và đón nhận như yếu tố của thập giá Chúa Kitô, nếu chúng được chạm tới bằng việc phản ảnh ánh sáng của Người. Chỉ nhờ những cây thập tự giá như thế, các nỗi đau thương của chúng ta cũng mới cao quí và đạt được ý nghĩa đích thực của chúng.
Chớ gì Tông Đồ Anrê dạy cho chúng ta biết theo Chúa Giêsu một cách mau mắn (x Mt 4:20; Mk 1:18), nói một cách nhiệt tình về Người với tất cả những ai chúng ta gặp gỡ, trước hết là để vun trồng một mối liên hệ thân tình thực sự với Người, với ý thức là chỉ ở nơi Người chúng ta mới có thể tìm thấy ý nghĩa tối hậu nơi cuộc sống cũng như nơi cái chết của chúng ta mà thôi.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 14/6/2006
Phụng Vụ Lời Chúa (cho năm nào không trùng với lễ kính Tông Đồ Anrê)
Bài Ðọc I: (Năm I) Ðn 6, 11-27
"Thiên Chúa đã sai thiên sứ đến bịt miệng sư tử lại".
Bài trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, có những người tọc mạch dò xét, họ bắt gặp Ðaniel đang cầu nguyện kêu xin cùng Chúa mình. Họ liền đến tâu vua về điều lệ rằng: "Tâu đức vua, chớ thì đức vua đã chẳng quy định rằng: trong ba mươi ngày, hễ ai cầu xin cùng thần minh nào hay người nào ngoài đức vua, thì, lạy đức vua, nó sẽ bị ném vào hang sư tử đó sao?" Vua trả lời rằng: "Ðúng, cứ như sắc chỉ Mêđia và Batư, thì không được sai lỗi". Bấy giờ họ lại tâu vua rằng: "Ðaniel thuộc con cái Giuđa phải lưu đày, đã chẳng xem sao lề luật và chiếu chỉ vua đã quy định: mỗi ngày nó đọc kinh cầu nguyện ba lần". Khi nghe biết điều đó, nhà vua rất đỗi buồn rầu. Vua quyết tâm cứu chữa Ðaniel, và cố gắng cứu người cho đến khi mặt trời lặn. Những người ấy hiểu ý vua, liền tâu vua rằng: "Tâu đức vua, xin đức vua biết cho rằng dân Mêđia và Batư có lề luật này là bất cứ sắc chỉ nào đức vua ra, thì không được thay đổi". Bấy giờ vua truyền dẫn Ðaniel ra, và họ ném người xuống hang sư tử. Vua bảo Ðaniel rằng: "Xin Thiên Chúa ngươi hằng thờ lạy sẽ cứu thoát ngươi". Người ta liền lấy hòn đá chận cửa hang, vua lấy nhẫn mình và nhẫn các quan triều thần mà đóng ấn niêm phong, để bảo đảm vụ Ðaniel.
Vua trở về hoàng cung liền đi ngủ, không chịu ăn uống lương thực dâng trước mặt vua, nhưng vua không sao ngủ được. Trời vừa rạng đông, vua liền chỗi dậy, vội vã chạy ra hang sư tử. Khi đến gần cửa hang, vua liền lớn tiếng khóc thương Ðaniel rằng: "Hỡi Ðaniel tôi tớ Thiên Chúa hằng sống, không biết Thiên Chúa ngươi hằng thờ lạy có cứu chữa được ngươi thoát khỏi sư tử chăng?" Ðaniel trả lời rằng: "Tâu đức vua muôn tuổi, Thiên Chúa của thần đã sai thiên sứ đến bịt miệng sư tử lại, nên chúng không làm hại được thần; vì trước mặt Thiên Chúa, thần là người công chính; vả lại tâu đức vua, trước mặt đức vua, thần cũng chẳng làm điều gì sai lỗi. Bấy giờ vua mừng rỡ, truyền kéo Ðaniel ra khỏi hang. Khi Ðaniel ra khỏi hang, người ta thấy người không bị hề hấn gì, vì người đã tin cậy vào Thiên Chúa của người. Vua liền truyền đem các người tố cáo Ðaniel, cùng vợ con của chúng, ném vào hang sư tử, chúng chưa kịp rơi xuống tới đáy hang, thì đã bị sư tử cắn xé nát thịt tan xương.
Bấy giờ vua Ðariô ra chiếu chỉ cho toàn dân, các chi họ, các thổ ngữ, những người đang cư ngụ trong toàn quốc rằng: "Nguyện cho các ngươi được thêm sự bình an. Ta đã ra chiếu chỉ cho các địa phương trong nước ta, ai nấy đều phải kính sợ Thiên Chúa của Ðaniel. Vì chính Người mới là Thiên Chúa hằng sống, và hằng có đời đời; nước Người không hề tan rã, và quyền bính Người tồn tại đến muôn đời. Chính Người là Ðấng Giải thoát và Cứu độ, Người làm những dấu lạ và những việc kỳ diệu trên trời dưới đất: Người đã cứu chữa Ðaniel khỏi hang sư tử".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Ðn 3, 68. 69. 70. 71. 72. 73. 74
Ðáp: Hãy ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời (c. 57b).
Xướng: 1) Chúc tụng Chúa đi, mưa đổ với sương rơi. - Ðáp.
2) Chúc tụng Chúa đi, nước đông và băng giá. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa đi, nước đọng với tuyết sa. - Ðáp.
4) Chúc tụng Chúa đi, ngày quang và đêm tối. - Ðáp.
5) Chúc tụng Chúa đi, sáng sủa với thâm u. - Ðáp.
6) Chúc tụng Chúa đi, mây trôi và chớp giật. - Ðáp.
7) Hãy chúc tụng Chúa đi, hỡi địa cầu, hãy ngợi khen tán tạ Chúa tới muôn thuở. - Ðáp.
Alleluia: Lc 21, 28
Alleluia, alleluia! - Các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21, 20-28
"Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho các dân ngoại chấm dứt".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi các con thấy Giêrusalem bị các đạo binh bao vây, các con hãy biết rằng đã gần đến lúc thành ấy bị tàn phá. Bấy giờ những ai ở trong đất Giuđa, hãy chạy trốn lên núi, những ai ở trong thành, hãy rời xa, và những ai ở vùng quê, chớ có vào thành; vì những ngày ấy là những ngày báo oán, để ứng nghiệm mọi lời đã ghi chép.
"Khốn cho những đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt đi làm tôi trong các dân, và Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt.
"Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn, chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nguyện Lời Chúa
Tiếp theo bài Phúc Âm hôm qua về số phận bị bách hại của thành phần chứng nhân cuối thời, hôm nay, Thứ Năm Tuần XXXIV Thường Niên, Bài Phúc Âm thuật lại thêm những lời cảnh báo kèm huấn dụ của Chúa Giêsu với các môn đệ về việc ứng phó với tình hình cuối thời, sau đó Người lại cho biết tiếp về hiện tượng cuối thời diễn tiến cho đến khi Người tái xuất hiện.
Về những lời huấn dụ kiêm cảnh báo của Chúa Giêsu với các môn đệ liên quan đến việc ứng phó tình hình cuối thời:
"Khi các con thấy Giêrusalem bị các đạo binh bao vây, các con hãy biết rằng đã gần đến lúc thành ấy bị tàn phá. Bấy giờ những ai ở trong đất Giuđa, hãy chạy trốn lên núi, những ai ở trong thành, hãy rời xa, và những ai ở vùng quê, chớ có vào thành; vì những ngày ấy là những ngày báo oán, để ứng nghiệm mọi lời đã ghi chép. Khốn cho những đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt đi làm tôi trong các dân, và Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt".
Về hiện tượng cuối thời diễn tiến cho đến khi Chúa Kitô xuất hiện:
"Sẽ có những điềm lạ
trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo
lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn, chờ đợi những gì sẽ xảy
đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy
trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những
điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu
rỗi các con đã gần đến".
Để tiếp tục những cảm nhận và dẫn giải về mầu nhiệm cùng biến cố tái giáng của Chúa Kitô, như đã được trình bày và chia sẻ ở Thứ Sáu Tuần XXXII Thường Niên - Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XXXII Thường Niên Chu Kỳ B, và Chúa Nhật XXXIII Thường Niên: Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XXXIII Thường Niên Chu Kỳ B - ở đây, hôm nay, chúng ta lưu ý thêm những chi tiết chưa có trong 2 bài Phúc Âm trên, thứ tự như sau:
Trước hết, "Khi các con thấy Giêrusalem bị các đạo binh bao vây (có thể ám chỉ đạo binh gog và magog ở Khải Huyền 20:8-9), các con hãy biết rằng đã gần đến lúc thành ấy bị tàn phá. Bấy giờ những ai ở trong đất Giuđa (có thể ám chỉ cộng đồng dân Chúa trên thế giới, vì Giuđêa là miền nam nước Do Thái, miền đất chính yếu của Do Thái giáo, nơi có giáo đô và đền thờ Giêrusalem bị xâm chiếm và tàn phá), hãy chạy trốn lên núi, những ai ở trong thành, hãy rời xa, và những ai ở vùng quê, chớ có vào thành".
Nghĩa là thành phần chứng nhân cuối thời phải làm sao để có thể thoát nạn khi đến thời điểm xẩy ra là "ngày báo oán" và ở ngoài địa điểm xẩy ra là "thành Giêrusalem". Việc họ có thể vượt thoát hoạn nạn kinh hoàng hầu như bất khả đối với khả năng tự nhiên của con người này chứng tỏ thành phần chứng nhân cuối thời thật sự tỉnh thức, nhận ra dấu chỉ thời đại và ứng biến một cách khôn ngoan, không giống như thành phần nạn nhân bị mắc kẹt ở lại không thể thoát thân, gây ra bởi chính tình trạng mù quáng và nặng nề chậm chạp của họ, như được nói đến ngay dưới đây.
Sau nữa, "khốn cho những đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì chưng sẽ xẩy ra những khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt đi làm tôi trong các dân".
"Người đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ" đây có thể ám chỉ những ai lo toan bận bịu vướng mắc thế gian vào lúc bấy giờ, như thành phần buôn bán trong Đền Thờ Giêrusalem bị Chúa đánh đuổi trong bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần XXXIII Thường Niên vừa rồi, sẽ chịu "khốn cực cả thể", ở chỗ họ "sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị bắt đi làm tôi trong các dân, và Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt".
"Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt" Vào thời điểm ngày cùng tháng tận, "các dân ngoại" đây không phải là thành phần ngoài dân Do Thái thời Cựu Ước và là thành phần đã làm nên Giáo Hội Chúa Kitô thời Tân Ước, mà là tất cả những ai, dù là Kitô hữu, sống như không có đức tin, sống theo tinh thần và khuynh hướng của dân ngoại, theo trào lưu vô thần duy vật, hoàn toàn phản lại với Chúa Kitô và bất chấp lề luật Thiên Chúa, như tình trạng văn hóa Kitô giáo đang bị hủy hoại ở thế giới Tây phương Kitô giáo hiện nay... Nhưng tình trạng "Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp" này chỉ kéo dài trong một thời gian giới hạn được phép, tức "cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt". Nghĩa là cho tới khi Chúa Kitô xuất hiện như Người đã xuất hiện để thanh tẩy đền thờ Giêrusalem trong Bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần XXXIII vừa rồi.
Sau hết, "Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến". Đúng thế, "Khi những điều đó bắt đầu xảy đến" nghĩa là lúc "Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp", thì đó là dấu báo cho biết "giờ cứu rỗi các con đã gần đến", nghĩa là lúc Chúa Kitô sắp sửa xuất hiện để thanh tẩy Đền Thánh của Người, thì thành phần chứng nhân cuối thời chẳng những không được sợ hãi hay chán nản bỏ cuộc, trái lại, còn phải hân hoan vui mừng "đứng dậy và ngẩng đầu lên" nữa, để sửa soạn tiến lên nghênh đón Người là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần - Redemptor Hominis (nhan đề của bức thông điệp đầu tay được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ban hành ngày 4/3/1979), đúng như những gì đã được Thánh Phaolô Tông Đồ ngưỡng vọng:
"Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của
Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã
chết trong Đức Ki-tô sẽ sống lại trước tiên; rồi
đến chúng ta, là những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ
được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung.
Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi". (1Thessalonica 4:16-17).
Sự kiện Chúa Kitô tái giáng và thành phần chứng nhân cuối thời được hội ngộ cùng Người như được Thánh Phaolô ngưỡng vọng trên đây dường như đã được tiên báo theo tinh thần của Bài Đọc 1 hôm nay, một biến cố Cựu Ước xẩy ra cho chính bản thân của Tiên Tri Đaniên ở Babylon cho chúng ta thấy quả thực "Người sẽ xuất hiện lần thứ hai để mang ơn cứu độ đến cho tất cả những ai thiết tha trông đợi Người" (Do Thái 9:28).
Thật vậy, Sách Tiên Tri Đaniên trong Bài Đọc 1 hôm nay đã cho thấy chứng nhân Đaniên đã bị theo dõi, tố cáo và bị sát hại vì sống công chính theo lề luật của Thiên Chúa bất chấp luật lệ dân ngoại như sau:
"Trong những ngày ấy,
có những người tọc mạch dò xét, họ bắt gặp Ðaniel đang cầu nguyện kêu xin
cùng Chúa mình. Họ liền đến tâu vua về điều lệ rằng: 'Tâu đức vua, chớ thì
đức vua đã chẳng quy định rằng: trong ba mươi ngày, hễ ai cầu xin cùng thần
minh nào hay người nào ngoài đức vua, thì, lạy đức vua, nó sẽ bị ném vào
hang sư tử đó sao?' Vua trả lời rằng: 'Ðúng, cứ như sắc chỉ Mêđia và Batư,
thì không được sai lỗi'. Bấy giờ họ lại tâu vua rằng: 'Ðaniel thuộc con cái
Giuđa phải lưu đày, đã chẳng xem sao lề luật và chiếu chỉ vua đã quy định:
mỗi ngày nó đọc kinh cầu nguyện ba lần'. Khi nghe biết điều đó, nhà vua rất
đỗi buồn rầu. Vua quyết tâm cứu chữa Ðaniel, và cố gắng cứu người cho đến
khi mặt trời lặn. Những người ấy hiểu ý vua, liền tâu vua rằng: 'Tâu đức
vua, xin đức vua biết cho rằng dân Mêđia và Batư có lề luật này là bất cứ
sắc chỉ nào đức vua ra, thì không được thay đổi'. Bấy giờ vua truyền dẫn
Ðaniel ra, và họ ném người xuống hang sư tử. Vua bảo Ðaniel rằng: 'Xin Thiên
Chúa ngươi hằng thờ lạy sẽ cứu thoát ngươi'. Người ta liền lấy hòn đá chận
cửa hang, vua lấy nhẫn mình và nhẫn các quan triều thần mà đóng ấn niêm
phong, để bảo đảm vụ Ðaniel".
Vẫn biết không phải vị chứng nhân đức tin nào trong giòng lịch sử cứu độ trong cả Cựu Ước lẫn Tân Ước đều được Thiên Chúa ra tay giải cứu, nhưng cũng có trường hợp Ngài cần phải làm như vậy để tỏ ra quyền năng của Ngài cho một quyền lực trần thế nào đó, nhờ đó dân ngoại càng nhận biết Ngài hơn, tùy theo từng trường hợp, như trong trường hợp đặc biệt của chứng nhân Đaniên trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Vua trở về hoàng cung liền đi ngủ, không chịu ăn uống lương thực dâng trước mặt vua, nhưng vua không sao ngủ được. Trời vừa rạng đông, vua liền chỗi dậy, vội vã chạy ra hang sư tử. Khi đến gần cửa hang, vua liền lớn tiếng khóc thương Ðaniel rằng: 'Hỡi Ðaniel tôi tớ Thiên Chúa hằng sống, không biết Thiên Chúa ngươi hằng thờ lạy có cứu chữa được ngươi thoát khỏi sư tử chăng?' Ðaniel trả lời rằng: 'Tâu đức vua muôn tuổi, Thiên Chúa của thần đã sai thiên sứ đến bịt miệng sư tử lại, nên chúng không làm hại được thần; vì trước mặt Thiên Chúa, thần là người công chính; vả lại tâu đức vua, trước mặt đức vua, thần cũng chẳng làm điều gì sai lỗi'. Bấy giờ vua mừng rỡ, truyền kéo Ðaniel ra khỏi hang. Khi Ðaniel ra khỏi hang, người ta thấy người không bị hề hấn gì, vì người đã tin cậy vào Thiên Chúa của người. Vua liền truyền đem các người tố cáo Ðaniel, cùng vợ con của chúng, ném vào hang sư tử, chúng chưa kịp rơi xuống tới đáy hang, thì đã bị sư tử cắn xé nát thịt tan xương. Bấy giờ vua Ðariô ra chiếu chỉ cho toàn dân, các chi họ, các thổ ngữ, những người đang cư ngụ trong toàn quốc rằng: 'Nguyện cho các ngươi được thêm sự bình an. Ta đã ra chiếu chỉ cho các địa phương trong nước ta, ai nấy đều phải kính sợ Thiên Chúa của Ðaniel. Vì chính Người mới là Thiên Chúa hằng sống, và hằng có đời đời; nước Người không hề tan rã, và quyền bính Người tồn tại đến muôn đời. Chính Người là Ðấng Giải thoát và Cứu độ, Người làm những dấu lạ và những việc kỳ diệu trên trời dưới đất: Người đã cứu chữa Ðaniel khỏi hang sư tử'".
Một khi Thiên Chúa bao giờ cũng là Vị Thiên Chúa cứu độ, nhất là đối với những ai tin tưởng vào Ngài, thành phần "đứng thẳng và ngước đầu lên", một cử chỉ sống công chính bằng lòng tin tưởng cậy trông mong chờ được cứu thoát của thành phần chứng nhân cuối thời như trong Bài Phúc Âm hôm nay, mà điển hình là chứng nhân Đaniên trong Bài Đọc 1 hôm nay, thì thành phần chứng nhân này không thể nào không thôi thúc thiên nhiên tạo vật là loài nhờ họ và với họ cũng sẽ được giải thoát vang lên lời ca tụng ngợi khen Thiên Chúa như trong bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúc tụng Chúa đi,
mưa đổ với sương rơi.
2) Chúc tụng Chúa đi, nước đông và băng giá.
3) Chúc tụng Chúa đi, nước đọng với tuyết sa.
4) Chúc tụng Chúa đi, ngày quang và đêm tối.
5) Chúc tụng Chúa đi, sáng sủa với thâm u.
6) Chúc tụng Chúa đi, mây trôi và chớp giật.
7) Hãy chúc tụng Chúa đi, hỡi địa cầu, hãy ngợi khen tán tạ Chúa tới muôn thuở.
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Ðn 7, 2-14
"Kìa có ai như con người ngự trên đám mây".
Bài trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong một thị kiến ban đêm, tôi nhìn thấy có những ngọn gió từ bốn phương trời, làm dấy động biển cả. Có bốn con thú khổng lồ khác nhau từ biển đi lên. Con thứ nhất giống như con sư tử cái, mang hai cánh chim phượng: tôi nhìn nó mãi cho đến khi hai cánh nó bị nhổ đi, nó cất lên khỏi đất và đứng thẳng hai chân như con người, nó được ban tặng quả tim loài người.
Con thú thứ hai giống như con gấu đứng một bên: trong miệng nó có ba hàng răng và người ta bảo nó rằng: "Mi hãy chỗi dậy ăn cho thật nhiều thịt". Kế đó, tôi nhìn xem, và đây, con thú thứ ba giống như con beo, trên mình nó có bốn cánh như con chim, và nó có bốn đầu, nó được ban tặng một thứ quyền năng.
Sau đó, trong một thị kiến ban đêm, tôi thấy con thú thứ tư dữ tợn lạ lùng và mạnh mẽ: nó có nanh sắt to lớn, nó đang cắn nuốt nhai xé, và những gì còn sót lại thì nó lấy chân giày đạp; nó khác hẳn những con thú tôi đã trông thấy trước, nó có mười sừng. Tôi nhìn các sừng của nó, thì kìa một cái sừng nhỏ khác mọc lên giữa các sừng kia, ba trong số mười sừng trước bị nhổ ra trước mặt nó: trong chiếc sừng nhỏ có mắt như loài người và có miệng nói những lời trịnh trọng.
Tôi chăm chú nhìn mãi cho đến khi đặt xong các toà, và vị Bô Lão lên ngự trên toà: áo Người trắng như tuyết, tóc trên đầu Người tinh tuyền như lông chiên, toà của Người như ngọn lửa, các bánh xe như lửa cháy. Trước mặt Người có con sông lửa cuộn chảy như thác. Có hằng ngàn kẻ phụng sự Người và muôn muôn vàn kẻ chầu chực Người. Người ngự toà xét xử và các quyển sách đã được mở ra. Tôi nhìn về phía có tiếng ầm ầm từ chiếc sừng ấy phát ra: Tôi thấy con thú đó bị giết, xác nó bị huỷ diệt và bị lửa đốt. Các con thú khác cũng bị tước đoạt hết quyền lực, và thời gian sinh sống của chúng đã được quy định từng thời kỳ này đến thời kỳ kia.
Trong một thị kiến ban đêm, tôi ngắm nhìn, và đây tôi nhìn thấy Con Người đến trong đám mây trên trời, Ngài tiến đến vị Bô Lão, và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị này ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc. Tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài: quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất; vương quốc của Ngài không khi nào bị phá huỷ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Ðn 3, 75. 76. 77. 78. 79. 80. 81
Ðáp: Hãy ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời (c. 57b).
Xướng: 1) Chúc tụng Chúa đi, núi non và các ngọn đồi. - Ðáp.
2) Chúc tụng Chúa đi, cỏ hoa mọc cõi trần ai. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa đi, những dòng suối nước. - Ðáp.
4) Chúc tụng Chúa đi, biển cả với sông ngòi. - Ðáp.
5) Chúc tụng Chúa đi, cá voi và muôn loài lội nước. - Ðáp.
6) Chúc tụng Chúa đi, hết mọi giống chim trời. - Ðáp.
7) Chúc tụng Chúa đi, mọi thú rừng và gia súc, hãy ngợi khen và tán tạ Chúa muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Kh 2, 10c
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ngươi hãy giữ lòng trung thành cho đến chết, thì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống". - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21, 29-33
"Khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ thí dụ này rằng: "Các con hãy xem cây vả và mọi thứ cây cối. Khi chúng đâm chồi nảy lộc, thì các con biết rằng mùa hè đã gần đến. Cũng thế, khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến. Thầy bảo thật các con, thế hệ này sẽ chẳng qua đi cho đến khi mọi sự ấy xảy đến. Trời đất sẽ qua đi; nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nguyện Lời Chúa
Mùa Hè "đâm chồi nẩy lộc" Thánh Giá
Hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXXIV Thường Niên, Bài Phúc Âm tiếp theo Bài Phúc Âm hôm qua về đường lối ứng phó của thành phần chứng nhân cuối thời, vào thời điểm Giêrusalem ám chỉ cộng đồng dân Chúa bị tàn phá (như được báo trước trong Bài Phúc Âm Thứ Ba tuần này), cũng như về số phận bị bách hại của thành phần chứng nhân cuối thời (như được tiên báo trong Bài Phúc Âm Thứ Tư sau đó), trong khi bài Phúc Âm hôm nay lại cho thấy lóe sáng niềm hy vọng như thế này:
"Các con hãy xem cây
vả và mọi thứ cây cối. Khi chúng đâm chồi nảy lộc, thì các con biết rằng mùa
hè đã gần đến. Cũng thế, khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy
biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến. Thầy bảo thật các con, thế hệ này sẽ
chẳng qua đi cho đến khi mọi sự ấy xảy đến. Trời đất sẽ qua đi; nhưng lời
Thầy nói sẽ chẳng qua đâu".
Bài Phúc Âm vắn gọn chỉ có 5 câu ngắn này quả thực đã cho chúng ta thấy ánh sáng cuối đường hầm. Ở chỗ, trong khi mọi sự trước đó toàn là những gì tai ương, hoạn nạn, chết chóc, tang thương thì cuối cùng lại thấy sự sống ló dạng và bừng nở, như hình ảnh "cây vả và mọi thứ cây cối... đâm chồi nảy lộc" để báo hiệu "mùa hè đã gần đến" ở Lời Chúa trong Bài Phúc Âm hôm nay.
Đây là một hình ảnh tuyệt vời tràn đầy hy vọng, liên quan chẳng những đến sự sống mà còn là một sự sống viên mãn nữa (xem Gioan 10:10). "Sự sống" ở đây được biểu hiệu nơi hình ảnh "cây vả và mọi thứ cây cối... đâm chồi nảy lộc", và "sự sống viên mãn" đây biểu hiệu nơi "mùa hè đã gần đến". Vì qua các mùa của một năm, trong khi mùa đông lạnh lẽo biểu hiệu cho chết chóc, mùa thu ảm đạm biểu hiệu cho buồn tẻ yếm thế, và mùa xuân tươi mát biểu hiệu cho sự sống hồi sinh sau mùa đông chết chóc, thì mùa hè biểu hiệu cho sự sống phong phú, mạnh mẽ và tràn đầy, với ánh sáng cùng với nhiệt năng sinh động.
Cuộc khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô thật sự, về thời điểm, đã xẩy ra từ 12 giờ trưa đến 3 giờ chiều là thời điểm "mùa hè" chói chang ánh sáng và sức nóng nhất của một ngày, sau mùa xuân ban sáng và mùa đông ban đêm, và trước mùa thu ban chiều trong một ngày sống của con người trên thế gian này.
Và chính vào thời điểm lịch sử của loài người ấy, ở nước Do Thái xưa, mà Vương Quốc của Thiên Chúa đã thực sự được thiết lập và trị đến nơi "Vua Dân Do Thái" (Luca 23:38) trên ngai tòa thập giá ở đồi Canvê xưa, một vương quốc đang bất diệt qua sự tồn tại của Giáo Hội Chúa Kitô dù liên lỉ bị bách hại và sát hại trên trần gian này, cho tới khi vương quốc này hoàn toàn được tỏ hiện nơi mầu nhiệm cánh chung khi Chúa Kitô trở lại trong vinh quang, được nghênh đón bởi vị hôn thê diễm lệ của Người là một tân Giêrusalem từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống (xem Khải Huyền 21:2).
Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay còn cho thấy rõ hơn nữa về sự sống bừng nở trong "mùa hè", thời điểm được Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay liên kết với thời điểm "nước Thiên Chúa đã gần đến".
Thật vậy, theo Bài Đọc 1 này thì trước hết, Tiên Tri Đaniên "thị kiến ban đêm" thấy "có bốn con thú khổng lồ khác nhau từ biển đi lên", tượng trưng cho các tác nhân hay quyền lực phá hoại của sự dữ để hoành hành trên thế gian này trong một thời gian được phép, cho đến khi, như Bài Đọc 1 tiếp tục cho biết, "con thú đó bị giết, xác nó bị huỷ diệt và bị lửa đốt. Các con thú khác cũng bị tước đoạt hết quyền lực, và thời gian sinh sống của chúng đã được quy định từng thời kỳ này đến thời kỳ kia".
Thế rồi, sau khi bốn con vật tiêu biểu cho các tác nhân hay quyền lực chính yếu phá hoại của sự dữ bị hủy diệt, thì ở "một thị kiến ban đêm" sau đó, vị tiên tri trẻ này đã thấy vương quốc của Thiên Chúa trị đến như thế này: "Tôi nhìn thấy Con Người đến trong đám mây trên trời, Ngài tiến đến vị Bô Lão, và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị này ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc. Tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài: quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất; vương quốc của Ngài không khi nào bị phá hủy".
"Con Người" đây chắc chắn không ai khác hơn là chính Chúa Giêsu Kitô, một Chúa Kitô "đến trong đám mây trên trời", như ám chỉ biến cố Người thăng thiên về cùng Cha là Đấng đã sai Người: "Ngài tiến đến vị Bô Lão", và vì Người chính là Đấng Thiên Sai đã được Cha sai đến để cứu chuộc trần gian bằng cách hoàn toàn chu toàn tất cả những gì Ngài trao phó hầu có thể "tỏ Cha ra" (Gioan 1:18), nhờ đó mọi người có thể qua Người mà nhận biết Cha của Người, nên Người đã được "Vị này ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc. Tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài: quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất; vương quốc của Ngài không khi nào bị phá hủy".
Nhưng "Vị Bô Lão" trong thị kiến thứ hai trong Bài Đọc 1 về "Con Người" đây là ai, nếu không phải là Đấng đã sai Người, là Vị Thiên Chúa hằng sống, như được Tiên Tri Đaniên thị kiến thấy và diễn tả cũng trong Bài Đọc 1 hôm nay như sau: "Vị Bô Lão lên ngự trên toà: áo Người trắng như tuyết (có thể tiêu biểu bản tính Thiên Chúa là Đấng chân thật), tóc trên đầu Người tinh tuyền như lông chiên (có thể tiêu biểu nội tâm nhân hậu của Thiên Chúa), tòa của Người như ngọn lửa, các bánh xe như lửa cháy (có thể tiêu biểu quyền năng thống trị của Thiên Chúa). Trước mặt Người có con sông lửa cuộn chảy như thác (có lẽ ám chỉ sự sống thần linh thông ban của Thiên Chúa). Có hằng ngàn kẻ phụng sự Người và muôn muôn vàn kẻ chầu chực Người (có lẽ ám chỉ các thần thánh trên trời). Người ngự toà xét xử và các quyển sách đã được mở ra (có lẽ ám chỉ phẩm tính vô cùng khôn ngoan thông biết của Thiên Chúa)".
Trước một Vị Thiên Chúa hằng sống và ban sự sống cho nhân loại qua Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô như thế, và tất cả mọi tạo vật đã bị trở thành hư hoại bởi tội lỗi của con người lại nhờ con người đựợc cứu độ mà cuối cùng chúng sẽ được giải thoát (xem Roma 8:21), nên tất cả mọi tạo vật cũng cần phải hợp với con người ngợi khen chúc tụng Thiên Chúa như Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúc tụng Chúa đi,
núi non và các ngọn đồi.
2) Chúc tụng Chúa đi, cỏ hoa mọc cõi trần ai.
3) Chúc tụng Chúa đi, những dòng suối nước.
4) Chúc tụng Chúa đi, biển cả với sông ngòi.
5) Chúc tụng Chúa đi, cá voi và muôn loài lội nước.
6) Chúc tụng Chúa đi, hết mọi giống chim trời.
7) Chúc tụng Chúa đi, mọi thú rừng và gia súc, hãy ngợi khen và tán tạ Chúa muôn đời.
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Ðn 7, 15-27
"Sẽ trao quốc gia và quyền hành cho dân thánh của Ðấng Tối Cao".
Bài trích sách Tiên tri Ðaniel.
Tôi là Ðaniel, lòng tôi kinh khiếp, tôi run sợ vì những sự đã thấy, các thị kiến trong đầu óc tôi khiến tôi bối rối. Tôi tiến lại gần một vị hầu cận, hỏi người ý nghĩa thật về những sự đó. Người liền giải thích cho tôi và bảo rằng: "Bốn con thú to lớn đó là bốn quốc gia sẽ dấy lên trên địa cầu. Nhưng các thánh của Thiên Chúa Tối Cao sẽ lên ngôi và sẽ nắm giữ quốc gia đến muôn muôn ngàn đời".
Sau đó, tôi muốn tìm hiểu cặn kẽ về con vật thứ tư, nó khác xa mọi con thú kia và rất dữ tợn: nanh móng nó bằng sắt, nó cắn nuốt nhai nghiến, và lấy chân giày đạp những gì còn sót lại. Tôi cũng muốn biết rõ về mười cái sừng trên đầu nó, và một cái sừng mới mọc lên, trước khi ba cái sừng kia bị nhổ đi: cái sừng mới mọc lên lại có mắt và miệng, nó nói lên những điều trọng đại, và nó lớn hơn các sừng khác. Tôi nhìn xem chiếc sừng ấy giao chiến với các thánh và nó toàn thắng, cho tới khi vị Bô Lão đến trao quyền xét xử cho các thánh của Ðấng Cao Cả, tức là tới thời kỳ các thánh chiếm đoạt quốc gia.
Người lại bảo như thế này: "Con vật thứ tư là quốc gia thứ tư trên địa cầu, nó rộng lớn hơn mọi quốc gia, thôn tính cả hoàn cầu và giày đạp phá huỷ địa cầu. Còn mười chiếc sừng là mười vua trong nước đó. Sau mười vua ấy, thì một vua khác dấy lên, có quyền thế hơn các vua trước, và đánh đổ được ba vua. Ông ta nói những lời phạm đến Ðấng Chí Tôn, tàn sát các thánh của Ðấng Tối Cao, ông tưởng mình có thể thay đổi cả thời gian và luật pháp, và người ta sẽ trao vào tay ông một thời kỳ, hai thời kỳ và nửa thời kỳ.
"Ðoạn sẽ có phán quyết để truất phế, tiêu diệt và huỷ hoại ông ta cho tận tuyệt. Còn quốc gia, quyền hành và sự cao sang dưới các tầng trời, sẽ trao cho dân thánh của Ðấng Tối Cao: nước Người là nước hằng hữu, mọi vua chúa sẽ suy phục vâng lời Người".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Ðn 3, 82. 83. 84. 85. 86. 87
Ðáp: Hãy ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời (c. 57b).
Xướng: 1) Hãy chúc tụng Chúa đi, con người ta hỡi. - Ðáp.
2) Chúc tụng Chúa đi, hỡi Israel. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa đi, các thầy tư tế của Chúa. - Ðáp.
4) Chúc tụng Chúa đi, mọi người tôi tớ Chúa. - Ðáp.
5) Chúc tụng Chúa đi, thần hồn các vị hiền nhân. - Ðáp.
6) Chúc tụng Chúa đi, người thánh và lòng khiêm nhượng. - Ðáp.
Alleluia: Lc 21, 36
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21, 34-36
"Các con hãy tỉnh thức, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề bởi chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!"
Ðó là lời Chúa.
"Khi những điều đó bắt đầu xảy đến..."
Thứ Bảy cuối Tuần XXXIV Thường Niên cũng là ngày cuối cùng của phụng niên nói chung và của chu kỳ phụng niên năm B nói riêng, Bài Phúc Âm hôm nay chỉ có 3 trong 5 câu cuối cùng ở đoạn 21 Phúc Âm Thánh Luca.
Đúng thế, 2 câu cuối cùng 37 và 38 của đoạn 21 được Thánh ký Luca cho biết về lịch trình cùng nơi chốn sinh hoạt hay giảng dạy của Chúa Giêsu vào những giây phút cuối cùng của Người ở Giêrusalem trước cuộc khổ nạn và tử giá của Người: "Ban ngày Người giảng dạy trong đền thờ, và ban đêm Người rời thành này mà về Núi Cây Dầu. Khi ngày tới thì tất cả mọi người đều đến nghe Người trong đền thờ".
Tuy nhiên, cho dù "Khi ngày tới thì tất cả mọi người đều đến nghe Người trong đền thờ", mà loạt bài giáo huấn cuối cùng ở Giêrusalem của Người, từ bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước cho đến nay, Chúa Giêsu chỉ nói với các môn đệ của Người mà thôi, chứ Người không nói với các vị một cách riêng tư như Người sẽ làm thế khi cử hành Lễ Vượt Qua với các vị trong Bữa Tiệc Ly ở căn thượng lầu riêng biệt giữa Người và các vị, và kể cả trong bài Phúc Âm hôm nay, Người vẫn nói với các vị một cách công khai trước mặt quần chúng và nơi đền thờ Giêrusalem.
Thật vậy, trước ngay 2 câu cuối cùng ở đoạn 24 này, Thánh ký Luca đã ghi lại lời Chúa Giêsu huấn dụ sau hết của Người trong loạt giáo huấn cuối cùng của Người ở Giêrusalem, cho riêng các môn đệ của Người cũng như cho chung dân chúng đang qui tụ lại với các môn đệ của Người để nghe Người bấy giờ. Và lời huấn dụ cuối cùng mà Người muốn nhắn nhủ cho cả hai thành phần nghe Người bấy giờ được thánh ký Luca ghi lại trong bài Phúc Âm hôm nay đó là:
"Các
con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề bởi chè chén say sưa và lo
lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con như chiếc lưới chụp
xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện
luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con
Người!"
Trong lời huấn dụ cuối cùng ở Giêrusalem này, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ và toàn thể đám đông dân chúng đang lắng nghe Người bấy giờ 2 điều, một có tính cách tránh lánh tiêu cực: "hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề bởi chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất", và một có tính cách áp dụng thực hành tích cực: "hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!"
Về lời khuyên tránh lánh những gì là tiêu cực "hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề bởi chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất" là lời khuyên được Người lập lại theo lời cảnh báo của Người trước kia liên quan đến việc ứng phó của thành phần chứng nhân cuối thời khi thấy thành Giêrusalem bị công hãm thì làm sao phải thoát thân chứ đừng bị kẹt lại mà khốn, như lời Người trong Bài Phúc Âm Thứ Năm tuần này:
"Khốn cho những đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt đi làm tôi trong các dân".
Về lời khuyên áp dụng thực hành tích cực "hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!" cũng được Người lập lại những gì Người đã trấn an và phấn khích thành phần chứng nhân cuối thời trong cùng Bài Phúc Âm Thứ Năm tuần này mới hôm kia: "Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến".
Vẫn biết vương quốc của ma quỉ, của thần dữ đã bị phá hủy bởi Chúa Kitô khi Người đến trần gian lần thứ nhất, đặc biệt là bằng cuộc Vượt Qua của Người (xem 1Gioan 3:8). Tuy nhiên, khi còn sống trên thế gian này, trong không gian và thời gian, con người dù đã được cứu độ khi lãnh nhận Phép Rửa tái sinh, vẫn sống với một bản tính bị nhiễm lây nguyên tội, nên vẫn phải chịu hậu quả của nguyên tội là khổ đau và chết đi, và vì thế vẫn sống với tất cả các mầm mống tội lỗi là đam mê nhục dục và tính mê nết xấu, và do đó vẫn có thể bị hư đi, nếu không tự "giữ mình" và "luôn tỉnh thức và cầu nguyện".
Kinh nghiệm tu đức cho thấy rõ đúng là như vậy, và chính Phúc Âm cũng đã ghi lại trường hợp điển hình nhất về ba vị tông đồ thân tín nhất của Chúa Kitô ở trong Vườn Cây Dầu vào Đêm Thứ Năm Tuần Thánh với Chúa Giêsu, cả 3 vị đã không thể nào mở mắt thức với Người được lấy 1 giờ đồng hồ trong lúc Người "buồn thảm đến chết đi được" (xem Mathêu 26:36-46), bởi thế mà ba vị tông đồ thân tín này đã cùng với những vị còn lại "tất cả đã bỏ Người mà thoát thân" (Marco 14:50), ngay chính lúc các vị cần phải tỏ ra hiên ngang cương quyết sống chết với Thày của mình!
Các vị tông đồ sở dĩ đã có những phản ứng phản bội mau mắn trắng trợn như vậy, chẳng những tự thân các vị "tinh thần thì mau mắn nhưng bản chất thì yếu nhược" (Mathêu 26:41), mà còn vì các vị không tự "giữ mình" và "luôn tỉnh thức và cầu nguyện", để chống lại với tất cả mọi chước cám dỗ đến từ bên ngoài các vị nữa. Bài Đọc 1 hôm nay cho chúng ta thấy quyền lực sự dữ kinh hoàng ở nơi "con thú thứ tư" được tiên tri Đaniên thị kiến thấy và hết sức cố gắng tìm hiểu nó cho bằng được như sau:
"Nó
khác xa mọi con thú kia và rất dữ tợn: nanh móng nó bằng sắt, nó cắn nuốt
nhai nghiến, và lấy chân giày đạp những gì còn sót lại. Tôi cũng muốn biết
rõ về mười cái sừng trên đầu nó, và một cái sừng mới mọc lên, trước khi ba
cái sừng kia bị nhổ đi: cái sừng mới mọc lên lại có mắt và miệng, nó nói lên
những điều trọng đại, và nó lớn hơn các sừng khác. Tôi nhìn xem chiếc sừng
ấy giao chiến với các thánh và nó toàn thắng, cho tới khi vị Bô Lão
đến trao quyền xét xử cho các thánh của Ðấng Cao Cả, tức là tới thời kỳ các
thánh chiếm đoạt quốc gia.
Phải quyền lực mãnh liệt nhất của sự dữ được tiêu biểu nơi hình thù quái gở đầy hung dữ và ác độc của nó đến độ nó có thể thắng được cả các thánh nữa - "chiếc sừng ấy giao chiến với các thánh và nó toàn thắng", chứ đừng nói đến người thường, không biết "giữ mình" và "tỉnh thức cầu nguyện luôn" như các thánh.
Chính vì thế, chỉ có Thiên Chúa toàn năng mới có thể chế ngự nó khi tới thời điểm của Ngài: "cho tới khi vị Bô Lão đến trao quyền xét xử cho các thánh của Ðấng Cao Cả, tức là tới thời kỳ các thánh chiếm đoạt quốc gia". Tức là cho tới khi "quốc gia, quyền hành và sự cao sang dưới các tầng trời, sẽ trao cho dân thánh của Ðấng Tối Cao: nước Người là nước hằng hữu, mọi vua chúa sẽ suy phục vâng lời Người", như Bài Đọc 1 hôm nay cho biết.
Đó là lý do chính con người ở mọi cấp bậc và mọi ơn gọi đã được Thiên Chúa cứu độ cần phải liên lỉ cùng nhau chúc tụng ngợi khen Ngài theo tâm tình kêu gọi của Tiên Tri Đaniên trong các Bài Đáp Ca hầu như suốt tuần lễ cuối cùng này, nhất là Bài Đáp Ca chỉ giành riêng cho con người hôm nay.
1) Hãy chúc tụng Chúa
đi, con người ta hỡi.
2) Chúc tụng Chúa đi, hỡi Israel.
3) Chúc tụng Chúa đi, các thầy tư tế của Chúa.
4) Chúc tụng Chúa đi, mọi người tôi tớ Chúa.
5) Chúc tụng Chúa đi, thần hồn các vị hiền nhân.
6) Chúc tụng Chúa đi, người thánh và lòng khiêm nhượng.