SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Ðn 12, 1-3
"Khi ấy dân ngươi sẽ được cứu thoát".
Bài trích sách Tiên tri Ðaniel.
Khi ấy, tổng lãnh sứ thần Micae sẽ chỗi dậy can thiệp cho con cái dân ngươi, đó sẽ là thời kỳ khốn khổ chưa từng xảy đến từ khi có các dân tộc cho tới bây giờ. Trong thời kỳ ấy dân ngươi, hễ ai đã có ghi tên trong sách, sẽ được cứu thoát.
Nhiều kẻ an giấc trong bụi đất sẽ chỗi dậy; có người sẽ được hưởng phúc trường sinh, có kẻ phải tủi nhục muôn đời.
Những người thông minh sẽ sáng chói như ánh sáng vòm trời, và những kẻ khuyên dạy sự công chính cho nhiều người, sẽ nên như các vì tinh tú tồn tại muôn ngàn đời.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 15, 5 và 8. 9-10. 11
Ðáp: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa (c. 1).
Xướng: 1) Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Người nắm giữ vận mạng của con. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.
2) Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong âm phủ, cũng không để thánh nhân của Người thấy điều hư nát. - Ðáp.
3) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh: sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 10, 11-14. 18
"Người đã làm cho những kẻ được thánh hoá nên hoàn hảo đến muôn đời".
Bài trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Trong khi mọi tư tế hằng ngày đứng gần bàn thờ chu toàn chức vụ mình và hiến dâng cũng ngần ấy của lễ nhiều lần, nhưng không bao giờ xoá được tội lỗi, còn Người khi dâng xong của lễ duy nhất đền tội, đã ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời, và từ đây, Người chờ đợi cho đến khi thù địch bị đặt làm bệ dưới chân Người. Vì chưng, nhờ việc hiến dâng duy nhất mà Người đã làm cho những kẻ được thánh hoá nên hoàn hảo đến muôn đời. Vậy nơi nào tội lỗi được thứ tha, thì không còn việc dâng của lễ đền tội nữa.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Kh 2, 10c
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ngươi hãy giữ lòng trung thành cho đến chết, thì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 13, 24-32
"Người sẽ quy tụ những người được tuyển chọn từ khắp bốn phương trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Trong những ngày ấy, sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang. Và bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất. Nhìn vào cây vả, các con hãy tìm hiểu dụ ngôn này. Khi nó đâm chồi nảy lộc, các con biết rằng mùa hè gần đến. Cũng vậy, khi các con nhìn thấy tất cả những điều đó xảy ra, thì các con hãy biết là Người đã tới gần ngoài cửa rồi. Thầy bảo thật các con: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi sự đó xảy đến. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi.
"Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Thứ Hai
Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Kh
1, 1-4; 2, 1-5a
"Hãy nhớ lại ngươi đã sa sút từ mức nào và hãy hối cải".
Khởi đầu sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Mạc khải của Ðức Giêsu Kitô mà Thiên Chúa đã ban cho Người, để Người tỏ cho
các tôi tớ Người các điều sắp xảy ra. Vậy Người đã sai thiên thần loan báo
cho tôi tớ người là Gioan, và Gioan làm chứng rằng tất cả những gì ông đã
thấy là lời của Thiên Chúa và lời chứng của Ðức Giêsu Kitô. Phúc cho ai đọc
và nghe các lời tiên tri này, cùng tuân giữ những điều đã chép trong đó, vì
thời giờ đã gần.
Gioan kính gởi bảy Giáo đoàn ở Tiểu Á. Nguyện chúc ân sủng và bình an cho
anh em do từ Ðấng đang có, đã có và sẽ đến và do từ bảy thần linh đứng trước
ngai của Người.
Tôi nghe Chúa phán bảo tôi: "Hãy viết cho thiên thần Giáo đoàn Êphêxô rằng:
'Ðây là lời của Ðấng cầm bảy ngôi sao trong tay hữu và đi giữa bảy chân đèn
bằng vàng. Ta biết việc làm của ngươi nổi bật và lòng kiên nhẫn của ngươi;
Ta biết ngươi không thể dung kẻ bất lương; ngươi đã thử thách những kẻ tự
cho mình là tông đồ, mà kỳ thực thì không phải, nhưng ngươi đã thấu rõ họ là
hạng gian dối. Ngươi có lòng kiên nhẫn, ngươi đã chịu đựng vì danh Ta mà
không sờn lòng. Nhưng Ta trách ngươi điều này, là ngươi đã bỏ lòng yêu mến
thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã sa sút từ mức nào, hãy ăn năn hối
cải và làm lại những việc thuở ban đầu' ".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6
Ðáp: Ta
sẽ cho kẻ thắng trận ăn trái cây sự sống (Kh 2, 7b).
Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường
lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui
thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.
2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa: lá cây không
bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.
3) Kẻ gian ác không được như vậy: họ như vỏ trấu
bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác
dẫn tới diệt vong. - Ðáp.
Alleluia: Lc 16, 31
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể
xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 18, 35-43
"Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi? - Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa đến gần thành Giêricô, thì có một người mù ngồi ăn xin bên vệ
đường. Khi nghe tiếng đám đông đi qua, anh liền hỏi có chuyện gì đó. Người
ta nói cho anh biết có Ðức Giêsu Nazareth đang đi qua. Bấy giờ anh liền kêu
lên rằng: "Lạy ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Những người đi
trước mắng bảo anh nín đi, nhưng anh lại càng kêu lớn tiếng hơn: "Lạy con
vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Vậy Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến
cùng Người. Khi anh đến gần bên Người, Người hỏi anh: "Ngươi muốn Ta làm gì
cho ngươi?" Anh thưa: "Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy". Chúa Giêsu bảo
anh: "Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". Tức khắc anh thấy
được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy toàn dân liền ca
ngợi Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Hai Tuần XXXIII Thường Niên, cũng là bài Phúc Âm
theo Thánh Marco (10:46-52) được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật XXX Thường
Niên Năm B, về phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu "cho một
người mù ngồi ăn xin bên vệ đường".
Tuy nội dung của 2 bài Phúc Âm này được cả hai Thánh Ký Marco và Luca thuật
lại giống nhau, nhưng về chi tiết hơi khác nhau một chút. Chẳng hạn ở những
chi tiết rõ ràng sau đây:
Trước hết, về nơi xẩy ra phép lạ Chúa, trong khi Thánh ký Marco thuật lại
rằng "Chúa Giêsu ra
khỏi thành Giêricô",
thì Thánh ký Luca trong bài Phúc Âm hôm nay lại viết rằng "Chúa đến gần
thành Giêricô".
Sau nữa, về bản thân của nạn nhân mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường ở thành
Giêricô này, trong khi Thánh ký Marco (một vị thánh ký viết Phúc Âm ngắn
nhất trong bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm, nhưng lại khá chi tiết về các biến cố xẩy
ra) cho biết rõ lý lịch của nạn nhân là "con ông Timê tên là Bartimê",
thì Thánh ký Luca lại chẳng nói gì hết.
Còn nữa, về thái độ của người mù ngồi ăn xin bên vệ đường này, trong khi
Thánh ký Marco cho biết rõ chi tiết về phản ứng của nạn nhân khi nghe thấy
mình được Chúa Giêsu gọi đến là "anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến
cùng Chúa Giêsu", thì Thánh ký Luca lại chỉ vắn tắt viết: "anh đến
gần bên Người".
Sau hết, về lời truyền chữa lành của Chúa Giêsu phán cùng nạn nhân, trong
khi Thánh ký Marco ghi lại rằng: "Ðược, đức tin của anh đã chữa anh",
thì Thánh ký Luca ở đây lại chi tiết hơn Thánh ký Marco một chút như thế
này: "Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
Ngoài ra, cả hai vị Thánh ký đều giống nhau ở thái độ của nạn nhân là khi
nghe biết có Chúa Giêsu ở đấy thì van xin, và càng bị trấn át thì càng la to
hơn, cho đến khi được Người gọi đến, và cũng giống nhau ở câu đối đáp giữa
Chúa Giêsu và nạn nhân trước khi phép lạ xẩy ra, đó là Chúa Giêsu hỏi nạn
nhân muốn Người làm gì cho nạn nhân và nạn nhân đã xin Người phục quang cho
mình.
Ở đây, để thêm vào các suy niệm và suy diễn đã được chia sẻ cho Phụng
Vụ Lời Chúa - Tuần XXX Thường Niên Chu Kỳ B,
có ba chi tiết khiến chúng ta suy nghĩ không ít:
Chi tiết thứ nhất đó là nạn nhân tuy mù lòa, không biết từ bao giờ và có học hành về Thánh Kinh hay chăng, thế mà còn thông thái và tin tưởng hơn cả thành phần luật sĩ và biệt phái thông luật và dạy luật nữa. Ở chỗ, đã nhận biết nhân vật "Giêsu Nazarét" mà đám đông nói với anh ta bấy giờ là "Giêsu Con Vua Đavít". Mà quê quán của Vua Đavít thì ở Belem, nơi nhân vật "Giêsu Nazarét" được sinh ra và thuộc về giòng dõi vương gia, trong khi đó các nhà thông luật lại căn cứ vào Thánh Kinh cho là "không có một tiên tri nào xuất hiện ở Galilêa" (Gioan 7:52), và Nazarét thuộc về Galilêa, hay "ở Nazarét có gì hay đâu?" (Gioan 1:46).
Chi tiết thứ hai
liên quan đến đấng chữa lành, đó là "Chúa
Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người",
và chi tiết thứ hai liên quan đến nạn nhân được chữa lành: "anh thấy được
và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa".
Thật vậy, đây là quả là một vũ điệu thần linh tuyệt vời. Ở chỗ, tác động
thần linh từ Đấng Chữa Lành đã được phản hồi hết sức tương xứng bằng
một đáp ứng thần linh từ nạn nhân được chữa lành.
Nạn nhân trước khi được chữa lành không hề dám tự động quẳng áo choàng đứng
lên tiến đến gần Chúa Giêsu khi thoạt tiên vừa nghe thấy Người đến gần chỗ
nạn nhân đang ngồi ăn xin, mà chờ đợi cho tới khi được Người gọi tới.
Thái độ cứ ngồi yên một chỗ đợi chờ không phải là thái độ không nhiệt tình,
mà là một thái độ tin tưởng hơn hết, ở chỗ, một đàng thì kêu la van xin cho
bằng được, trong khi lại ngồi yên tại chỗ như thể nạn nhân cảm thấy mình
hoàn toàn bất xứng không đáng đến gần Chúa Giêsu, cũng như bất lực không thể
nào làm gì được nếu không có Người.
Đúng thế, tác động thần linh bao giờ cũng đến trước đáp ứng thần linh
của thụ tạo, như yếu tố thiết yếu và điều kiện bất khả thiếu để thụ tạo
nhờ đó và do đó mới có thể bị động, mới có thể cảm động và mới có thể
di động theo tác động thần linh. Bởi thế, chỉ khi nghe thấy Chúa Giêsu
truyền gọi, nạn nhân mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường ở thành Giêricô này
mới đến được và được đến với Người.
Thực tế sống đạo cũng cho thấy thực tại này, ở chỗ, những ước muốn tốt lành
của chúng ta cũng cần phải được Thiên Chúa tác động trước, hơn là tự chúng
ta có được, vì chúng ta theo bản tính tự nhiên đã bị hư đi theo nguyên tội,
luôn hướng hạ hơn là hướng thượng. Một khi chấp nhận ước muốn tốt lành
bởi tác động thần linh khởi động ấy, chúng ta mới bày tỏ lòng khát vọng của
chúng ta bằng lời cầu nguyện, nhờ đó Thiên Chúa được dịp ban cho chúng ta
chính những gì Ngài đã muốn ban nên đã soi động chúng ta ước muốn trước khi
van xin.
Cuộc hội ngộ thần linh trong bài Phúc Âm hôm nay đã xẩy ra một cách hết
sức ngoạn mục. Ở chỗ, nạn nhân kháo khát được chữa lành, trong khi Thiên
Chúa vô cùng nhân hậu đã sẵn muốn chữa lành cho nạn nhân rồi, và chỉ chờ đến
giờ của mình là ra tay lập tức, tức là cho đến khi nghe thấy nạn nhân kêu
xin mình thì đáp ứng ngay, như thể Đấng Chữa Lành thụ động còn nạn nhân
chủ động, như xẩy ra trong trường hợp được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại.
Nạn nhân mù ngồi ăn xin hằng ngày ở thành Giêricô tên Bartimê này, chắc đã
lâu lắm rồi, với một thân phận nghèo khổ và tương lai mịt mù như bóng tối
hằng che phủ đôi mắt của nạn nhân, có ngờ đâu lại bất ngờ được gặp và
gặp được Đấng chữa lành cho mình, và như thế, quả thực cuộc đời của nạn
nhân đã được Thiên Chúa sử dụng để tỏ mình Ngài ra, giống hệt như trường hợp
của người mù từ lúc mới sinh trong Phúc Âm Thánh ký Gioan (9:3).
Phải chăng cảm nhận được như vậy, nạn nhân diễm phúc này đã không còn thiết
gì thế gian này nữa, vì nạn nhân được sáng mắt không phải chỉ thấy được ánh
sáng tự nhiên mà nhất là thấy được chính "ánh sáng thế gian" (Gioan
8:12), một thứ ánh sáng thần linh ban sự sống đã chữa lành cho nạn nhân, và
vì thế nạn nhân đã "đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa"?
Bản thân của nạn nhân đã trở thành một cuộc thần hiển cho Thiên Chúa tỏ mình
ra, chẳng những cho chính nạn nhân, mà còn cho cả cộng đồng gần xa của nạn
nhân nữa. Mục đích của Thiên Chúa ban ơn cho bất cứ một ai không phải chỉ
cho riêng người đó mà còn qua người đó cho các người khác nữa. Bao giờ cũng
thế. Đó là nguyên tắc và đường lối tỏ mình ra của Ngài. Bởi thế, bài Phúc Âm
hôm nay đã kết luận như sau: "Thấy vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa".
Người mù Batimê ở cổng thành Giêricô trong Bài Phúc Âm hôm nay, tuy không
thấy gì những sự vật về thể lý, nhưng lại rất sáng suốt về tâm linh như thế,
không phải nhờ trí khôn thông minh của nạn nhân, mà là bởi có Thần Linh
Thiên Chúa ở cùng, Vị Thần Linh, như Thánh Gioan diễn tả trong Sách Khải
Huyền ở Bài Đọc 1 hôm nay, “của
Ðấng cầm bảy ngôi sao trong tay hữu và đi giữa bảy chân đèn bằng vàng”,
Đấng bởi tràn đầy Thần Linh ấy đã biết được
“Giáo Đoàn Êphêsô” như thế nào, về cả mặt tích cực lẫn tiêu cực của họ,
để khuyên dạy họ, theo chiều hướng của Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác,
không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân
nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm
ngày.
2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa: lá cây không
bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.
3) Kẻ gian ác không được như vậy: họ như vỏ trấu
bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác
dẫn tới diệt vong.
Thứ Ba
Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Kh
3, 1-6. 14-22
"Ai mở cửa cho Ta, Ta sẽ vào dùng bữa tối ở nhà người ấy".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Tôi là Gioan, tôi đã nghe Chúa phán bảo tôi rằng: "Hãy viết cho thiên thần
Giáo đoàn Sarđê rằng: 'Ðây là lời Ðấng có bảy thần linh Thiên Chúa và bảy
ngôi sao: Ta biết các việc của ngươi làm; ngươi có tiếng là đang sống, nhưng
ngươi đã chết. Hãy lo tỉnh dậy, hãy bồi dưỡng chút sinh khí sắp tàn. Vì Ta
không thấy các việc ngươi làm trọn hảo trước mặt Thiên Chúa Ta. Vậy hãy nhớ
lại ngươi đã đón nhận và nghe lời Chúa thế nào, hãy giữ lấy lời ấy và hãy ăn
năn hối cải. Vì nếu ngươi không tỉnh thức, Ta sẽ đến với ngươi như một kẻ
trộm, ngươi sẽ không biết giờ nào Ta sẽ bất chợt đến cùng ngươi. Nhưng tại
Sarđê ngươi có một số người đã không làm dơ bẩn áo của họ; và họ sẽ tháp
tùng Ta trong bộ áo trắng của họ vì họ xứng đáng. Như vậy kẻ chiến thắng sẽ
mặc áo trắng, và Ta sẽ không xoá bỏ tên người ấy khỏi Sách hằng sống, và Ta
sẽ tuyên danh người ấy trước mặt Cha Ta và các thiên thần Người. Ai có tai
thì hãy nghe điều Thần linh phán với các giáo đoàn.
"Hãy viết cho giáo đoàn Laođicia rằng: 'Ðây là lời của Amen, chứng nhân
trung thực, nguyên thuỷ công trình sáng thế của Thiên Chúa. Ta biết các việc
làm của ngươi: ngươi không lạnh mà cũng không nóng; phải chi ngươi lạnh hẳn
hoặc nóng hẳn đi! Bởi vì ngươi hâm hẩm, không lạnh không nóng, nên Ta sẽ mửa
ngươi ra khỏi miệng Ta. Bởi vì ngươi nói rằng: Tôi giàu có, tôi sung túc,
tôi không thiếu thốn gì nữa. Bởi vì ngươi không biết rằng thực ra ngươi vô
phúc, đáng thương, nghèo khó, đui mù và trần trụi. Vậy ngươi hãy nghe lời Ta
khuyên bảo: Hãy mua vàng ròng mà làm giàu, mua áo trắng tinh mà mặc, hầu che
giấu sự trần trụi xấu hổ của ngươi; hãy mua thuốc nhỏ vào mắt, cho mắt ngươi
được sáng. Ta răn bảo và sửa dạy những kẻ Ta yêu thương. Vậy hãy sốt sắng
hơn lên và hối cải đi. Này Ta đứng ngoài cửa, Ta gõ; nếu ai nghe tiếng Ta mà
mở cửa cho Ta, Ta sẽ vào nhà người ấy và dùng bữa tối với nó, và nó sẽ dùng
bữa với Ta. Ai chiến thắng, Ta sẽ cho ngồi với Ta trên ngai của Ta, cũng như
Ta đã chiến thắng và ngự với Cha Ta trên ngai của Người. Ai có tai thì hãy
nghe điều Thần linh phán với các giáo đoàn".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 14, 2-3ab. 3cd-4ab. 5
Ðáp: Ai
chiến thắng, Ta sẽ cho ngồi với Ta trên ngai của Ta (Kh 3, 21).
Xướng: 1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy
nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống. - Ðáp.
2) Người không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận.
Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa. - Ðáp.
3) Người không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng
không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì
muôn đời chẳng có lung lay. - Ðáp.
Alleluia: Lc 21, 28
Alleluia, alleluia! - Các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi
các con đã gần đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19, 1-10
"Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa, có một người
tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Ông
tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì
người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một
cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó. Khi vừa đến nơi,
Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: "Hỡi
Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi". Ông vội
vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm
rằng: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi". Ông Giakêu đứng lên thưa
cùng Chúa rằng: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó,
và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn". Chúa Giêsu
bảo ông ấy rằng: "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con
cái Abraham. Vì chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điễu gì đã hư
mất".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
sự sống ngay thẳng
Hôm nay, Thứ Ba Tuần XXXIII Thường Niên, Bài Phúc Âm ở đầu đoạn 19 của Thánh
ký Luca, tiếp ngay sau Bài Phúc Âm hôm qua ở cuối đoạn 18.
Trong khi ở Bài Phúc Âm hôm qua, cuộc hành trình lên Giêrusalem của Chúa
Giêsu mới "đến
gần thành Giêricô",
thì trong Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca ghi nhận tiếp về cuộc hành
trình này, ở chỗ: "Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành".
Cuộc hành trình tiến về Giêrusalem của Người đã khiến Người gặp gỡ một số
con người đặc biệt được thuật lại trong Phúc Âm, chẳng hạn trường hợp của
người mù ngồi ăn xin ở vệ đường trong Bài Phúc Âm hôm qua, hay vị "thủ
lãnh những người thu thuế và là người giàu có" "tên là Giakêu" trong Bài
Phúc Âm hôm nay.
Về trường hợp của người mù Batimê trong bài Phúc Âm hôm qua được thuật lại
bởi Thánh ký Luca và Marco, nhưng câu chuyện về nhân vật thủ lãnh thu thuế
này chỉ có trong Phúc Âm Thánh Luca mà thôi, vì Phúc Âm Thánh ký Luca là
Phúc Âm về Lòng Thương Xót Chúa, một Phúc Âm chất chứa những dụ ngôn về Lòng
Thương Xót Chúa rất cảm kích không có ở trong bất cứ Phúc Âm nào.
Chẳng hạn 3 dụ ngôn tiêu biểu nhất sau đây: 1- Dụ Ngôn Người Samaritanô Nhân
Hậu (xem Luca 10:25-37); 2- Dụ Ngôn Người Cha Nhân Hậu Với Hai Đứa Con Đáng
Thương (xem Luca 15:11:32); 3- Dụ Ngôn Hai Người Lên Đền Thờ Cầu Nguyện (xem
Luca 18:9-14) v.v. Cũng chỉ trong Phúc Âm Thánh ký Luca mới có câu: "Các
con hãy thương xót như Cha của các con là Đấng thương xót" (Luca 6:36),
một Lòng Thương Xót đã được phản ảnh sống động nhất qua lời đầu tiên của
Chúa Kitô khổ giá cũng chỉ ở trong Phúc Âm Thánh Luca: "Lạy Cha, xin Cha
tha cho họ vì họ lầm không biết việc họ làm" (Luca 23:34).
Chính trong Bài Phúc Âm hôm nay có một câu nói của Chúa Giêsu về Lòng Thương
Xót Chúa cũng chỉ có ở trong Phúc Âm Thánh Luca mà thôi, đó là câu: "Con
Người đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư vong", điển hình nhất là
viên trưởng ban thu thuế Giakêu được Thánh ký Luca thuật lại.
Nhân vật trưởng ban thu thuế Giakêu này thực sự "đã hư vong", tức đã
sống một cuộc đời bê bối tội lỗi khi hành nghề thu thuế đầy những mánh khóe
gian lận tiền bạc để có thể làm giầu cách bất chính, đã thực sự là thành
phần tội nhân, chẳng những trước mặt dân Do Thái mà chính ngay cả bản thân
của đương sự cũng phải chân nhận như thế, qua lời hứa hẹn của đương sự sau
khi được gặp gỡ Chúa Giêsu: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải
tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp
bốn".
Nếu Chúa Kitô "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư hoại" thì
Người rất nhậy cảm với những tâm hồn đang sống trong giầu sang phú quí
với đầy nhưng băn khoăn khắc khoải không thỏa mãn làm sao ấy, như trường hợp
của viên trưởng ban thu thuế Giakêu trong bài Phúc Âm hôm nay, đến độ nhân
vật này đã phải sẵn sàng bỏ trạm thu thuế là nơi làm giầu hằng ngày của
mình và lánh xa đám nhân viên thu thuế đồng nghiệp cùng gian lận dưới
quyền mình, để quyết tâm đón gặp được Người, cho dù chỉ muốn "tìm cách để
nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào" thôi, bằng cách "chạy lên
trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó".
Đúng vậy, vì cố ý "tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư hoại" mà Chúa
Giêsu đã nhậy cảm đến độ, trong khi hình như không ai trông thấy nhân vật
giầu sang phú quí và quyền hành này, đang ẩn nấp ở trên một cái cây
bên đường, để một đàng vừa tránh được cái nhìn khinh bỉ của đám đông vẫn
giành cho đương sự, đàng khác lại vừa dễ trông thấy Chúa Giêsu đi ngang
qua theo lòng ước nguyện.
Người quả thực đã nhìn thấy đương sự, nhìn thấy tận đáy lòng của đương
sự ước muốn gặp Người, cũng như nhìn thấy hành động thiện chí như trẻ con
trèo lên cây ẩn nấp trên đó của đương sự, nên Người đã tự động lên tiếng
gọi đương sự làm cho đương sự giật nẩy mình lên, chẳng những vì đương sự bất
ngờ bị lộ tẩy chân tướng trước mặt đám đông đối phương của đương sự, mà còn
vì đương sự cảm thấy vô cùng sung sướng được Người gọi đích danh của mình,
mà đương sự tưởng rằng Người không hề hay chưa hề biết đến đương sự bao
giờ.
Có một chi tiết liên quan đến việc gọi đích danh tên của viên trưởng ban thu
thuế trong bài Phúc Âm này đó là hình như chỉ có những ai bê bối tội lỗi hay
khổ đau mới được Người gọi đích danh mà thôi, còn những ai được Người đặc
biệt yêu thương lại không được diễm phúc ấy, chẳng như như Tông Đồ Gioan là
"người môn đệ được Chúa Giêsu thương" (Gioan 13:23; 19:26; 20:2;
21:7,20).
Thật vậy, những nhân vật đã từng sống cuộc đời bê bối đã được Chúa Giêsu gọi
đích danh như đích danh "Giakêu" trong bài Phúc Âm hôm nay, hay như "Maria"
Mai Đệ Liên (Gioan 20:16), một con điếm "đã được Người trừ bảy quỉ"
(Marco 16:9), hoặc như "Simon" Phêrô (Gioan 21:15-17) đã từng trắng
trợn và phũ phàng chối Người 3 lần, hay như "Saule" (Tông Vụ 9:4;
22:7; 26:14) là kẻ bách hại Người nơi thành phần tín hữu trong thời Giáo Hội
sơ khai, hoặc như "Lazarô" là một thây ma đã chết 4 ngày trong mồ
(Gioan 11:43).
Ôi tuyệt vời thay Lòng Thương Xót Chúa: "Tôi là vị mục tử nhân lành. Tôi
biết các chiên tôi và chiên tôi biết Tôi" (Gioan 10:14). Trong khi tội
nhân không hề biết Người, ở chỗ xúc phạm đến Người, thì Người lại biết họ và
kêu gọi đích danh họ, vạch mặt chỉ tên họ, chứng tỏ Người hằng theo dõi
cuộc đời của họ, và ngồi chờ họ ở những nơi sinh hoạt quen thuộc của họ, như
ngồi chờ người đàn bà tội lỗi bên giếng Giacóp (xem Gioan 4:6-9), hay đi đến
tận những nơi thầm kín của họ, như trường hợp của viên trưởng ban thu thuế
Giakêu trong Bài Phúc Âm hôm nay, để cố ý cứu đương sự khỏi cuộc đời lén lút
mờ mịt của đương sự.
Chúa Giêsu đã không nhắc đến tội lỗi của bất cứ tội nhân nào, khi mới gặp
họ, dù Người biết rõ tội của họ hơn ai hết, mà chỉ tỏ lòng thương họ để họ
nhờ đó có thể ăn năn thống hối thôi. Thậm chí Người không sợ gần gũi với tội
nhân xấu xa nhơ nhớp đáng ghê tởm, cho dù có bị chê trách, như Bài Phúc Âm
hôm nay cho thấy: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi". Vì họ
mới là thành phần "bệnh nhân cần đến thày thuốc" như Người là một Vị
Lương Y thần linh toàn năng có thể chữa lành cả hồn lẫn xác của họ (xem
Mathêu 9:12).
Việc Người chẳng những tiến vào mà còn ở lại nhà của nhân vật tội lỗi
Giakêu: "Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà
ngươi", để giao tiếp với thành phần thu thuế tội lỗi như nhân vật này,
thật sự là một hiện diện thần linh cứu độ: "Hôm nay nhà này được ơn cứu
độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng, Con Người đến tìm kiếm
và cứu chữa điều gì đã hư mất".
Tác dụng của ơn cứu độ được Chúa Kitô mang đến cho chẳng những riêng nhân
vật Giakêu mà còn cho cả "nhà" (gia đình) của đương sự nữa, thậm chí
"nhà" đây còn có thể hiểu là bao gồm cả thành phần nhân viên thu thuế
thuộc quyền lãnh đạo của đương sự nữa, nhất khi chính họ đích mắt thấy được
lòng nhân lành cảm thương tha thứ của Người giành cho vị thủ lãnh của họ.
Tác dụng xuất phát từ lòng cảm thương ấy của Chúa Giêsu đã biến đổi hẳn bản
thân và cuộc đời của một nhân vật tội lỗi, đến độ đương sự chẳng những thật
lòng ăn năn thống hối ở chỗ đền bù tội lỗi của mình đối với những ai bị
thiệt hại vật chất bởi đương sự gian lận trước đó mà còn giành ra nửa phần
gia tài để làm phúc bố thí nữa, nghĩa là kể như trở về tay không để được đổi
lấy Nước Trời, lấy ơn cứu độ vô giá, không gì sánh được: "Lạy Ngài, tôi
xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho
ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn".
Khi còn sống trong tội lỗi thì bất cứ ai, dù chẳng làm nghề buôn bán hay thu
thuế như nhân vật Giakêu trong Bài Phúc Âm hôm nay, cũng sống trong tình
trạng gian dối, (tự tội lỗi đã là gian dối), không đúng với sự thật về thân
phận thụ tạo làm người trước nhan Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân.
Thành phần trong Bài Phúc Âm hôm nay, như được Thánh Luca thuật lại, khi
nghe thấy Chúa Giêsu tự động ngỏ ý: "Hỡi
Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi" thì “liền
lẩm bẩm rằng: ‘Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi’", là thành
phần đạo đức giả, giả hình, được “Ðấng
có bảy thần linh Thiên Chúa và bảy ngôi sao”
trong
Sách Khải Huyền của Thánh Gioan trong Bài Đọc 1 hôm nay ám chỉ về “Giáo
đoàn Sarđê”
và “giáo đoàn Laođicia”
như thế này:
“Giáo
đoàn Sarđê” - “Ta biết các việc của ngươi làm; ngươi có tiếng là đang sống,
nhưng ngươi đã chết. Hãy lo tỉnh dậy, hãy bồi dưỡng chút sinh khí sắp tàn.
Vì Ta không thấy các việc ngươi làm trọn hảo trước mặt Thiên Chúa Ta. Vậy
hãy nhớ lại ngươi đã đón nhận và nghe lời Chúa thế nào, hãy giữ lấy lời ấy
và hãy ăn năn hối cải. Vì nếu ngươi không tỉnh thức, Ta sẽ đến với ngươi như
một kẻ trộm, ngươi sẽ không biết giờ nào Ta sẽ bất chợt đến cùng ngươi”
“Giáo đoàn Laođicia”
–
“Ta biết các việc làm của ngươi: ngươi không lạnh mà cũng không nóng; phải
chi ngươi lạnh hẳn hoặc nóng hẳn đi! Bởi vì ngươi hâm hẩm, không lạnh không
nóng, nên Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta. Bởi vì ngươi nói rằng: Tôi giàu
có, tôi sung túc, tôi không thiếu thốn gì nữa. Bởi vì ngươi không biết rằng
thực ra ngươi vô phúc, đáng thương, nghèo khó, đui mù và trần trụi. Vậy
ngươi hãy nghe lời Ta khuyên bảo: Hãy mua vàng ròng mà làm giàu, mua áo
trắng tinh mà mặc, hầu che giấu sự trần trụi xấu hổ của ngươi; hãy mua thuốc
nhỏ vào mắt, cho mắt ngươi được sáng”.
Trái lại, đối với những con người hèn hạ, thậm chí tội lỗi, nếu có lòng
thành và biết thống hối ăn năn, như nhân vật Giakêu trong Bài Phúc Âm hôm
nay, thì
“Ðấng
có bảy thần linh Thiên Chúa và bảy ngôi sao”
lại coi trọng và ưu ái đặc biệt, như Bài Đọc 1 hôm nay đã rõ ràng cho thấy,
thậm chí còn cho thấy hết sức chính xác về riêng trường hợp của nhân vật
trưởng ban thu thuế trong Bài Phúc Âm hôm nay như sau:
“Ta răn bảo và sửa dạy những kẻ Ta yêu thương. Vậy hãy sốt sắng hơn lên và
hối cải đi. Này Ta đứng ngoài cửa, Ta gõ; nếu ai nghe tiếng Ta mà mở cửa cho
Ta, Ta sẽ vào nhà người ấy và dùng bữa tối với nó, và nó sẽ dùng bữa với
Ta”.
Nhân vật Giakêu trong bài Phúc Âm hôm nay, sau khi gặp gỡ Chúa Kitô và được
Người biến đổi, đã trở thành một con người công chính và tỏ ra ngay những
hành vi tương xứng, đúng như những gì được Bài Đáp Ca hôm nay diễn tả:
1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính,
và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống.
2) Người không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận.
Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa.
3) Người không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng
không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì
muôn đời chẳng có lung lay.
Thứ Tư
Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Kh
4, 1-11
"Thánh, Chúa là Thiên Chúa toàn năng, Ðấng đã có, hiện có và sẽ đến".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Tôi là Gioan, tôi đã thấy: kìa cửa trời mở ra và tiếng tôi đã nghe trước kia
nói cùng tôi như tiếng loa rằng: "Hãy lên đây, Ta sẽ cho ngươi thấy điều
phải xảy ra sau này". Bỗng tôi xuất thần, và kìa, một ngai đã đặt trên trời,
có Ðấng ngự trên ngai, và Ðấng ngự trên ngai rực rỡ như bích ngọc hoặc như
hồng thạch; có mống cầu vồng màu lục thạch bao bọc ngai. Chung quanh ngai có
hai mươi bốn toà, và trên đó, có hai mươi bốn trưởng lão, mặc áo trắng tinh,
đầu đội triều thiên vàng. Từ nơi ngai phát ra những tia chớp, tiếng nói và
tiếng sấm; lại có bảy cây đèn cháy trước ngai, đó là bảy Thần linh của Thiên
Chúa. Phía trước ngai coi như có biển trong ngần như pha lê.
Còn chính giữa và chung quanh ngai có bốn con vật, đàng trước đàng sau chỗ
nào cũng có mắt: Con vật thứ nhất giống như sư tử; con vật thứ hai giống như
con bò; con thứ ba có dung mạo như mặt người; con thứ tư như chim phượng
hoàng đang bay. Bốn con vật ấy con nào cũng có sáu cánh quanh mình, và trong
mình đầy những mắt, ngày đêm không ngớt tung hô:
"Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa toàn năng, Ðấng đã có, hiện có, và
sẽ đến".
Và mỗi lần bốn con vật tôn vinh, chúc tụng và cảm tạ Ðấng ngự trên ngai, là
Ðấng hằng sống muôn đời, thì hai mươi bốn trưởng lão phủ phục trước Ðấng ngự
trên ngai và thờ lạy Ðấng hằng sống muôn đời; họ gỡ triều thiên của họ mà
đặt trước ngai và tung hô rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, Chúa đáng
được vinh quang, danh dự và quyền năng, vì chính Chúa đã tạo thành vạn vật,
chính do ý Chúa mà muôn vật mới có và được tạo thành".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 150, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Thánh,
thánh, thánh! Chúa là Thiên Chúa toàn năng (Kh 4, 8b).
Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa trong Thánh đài của Chúa, ngợi khen Chúa nơi
thanh không cao cả của Người. Hãy ngợi khen Người vì những kỳ công vĩ đại,
ngợi khen Người bởi sự Người tuyệt đối oai nghiêm. - Ðáp.
2) Hãy ngợi khen Người với tiếng kèn rầm rộ, ngợi khen Người với cây đàn sắt
đàn cầm. Hãy ngợi khen Người với trống rung và ca vũ, ngợi khen Người với
tiếng tơ đàn, với ống tiêu. - Ðáp.
3) Hãy ngợi khen Người với âm vang não bạt, ngợi
khen Người với tiếng rền rĩ mã la. Phàm vật chi có hơi thở, hãy ngợi khen
Thiên Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Tv 110, 8ab
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, mọi gới răn Chúa được lập ra cho tới muôn
đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19 11-28
"Sao ngươi không gửi bạc Ta ở ngân hàng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán thêm một dụ ngôn nữa, vì Người đã đến gần
Giêrusalem, mà dân chúng lại cứ tưởng là Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện trong
giây lát. Vậy Người phán rằng:
"Có người quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở về. Ông cho
gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và dặn rằng: "Hãy làm
lợi cho đến khi ta trở về". Nhưng các người dân của ông ấy ghét ông, sai
người đi theo mà rằng: "Chúng tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi". Ðược
phong vương rồi ông trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia ông đã giao tiền
cho, để biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu.
"Người thứ nhất đến và thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được mười
nén". Nhà vua bảo: "Ðược, hỡi người tôi tớ tốt lành, ngươi đã trung tín
trong điều nhỏ mọn, ngươi sẽ được quyền cai trị mười thành". Người thứ hai
đến thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được năm nén". Nhà vua đáp:
"Ngươi cũng vậy, hãy cai quản năm thành".
"Người thứ ba đến thưa: "Tâu vua, đây nén bạc của vua, tôi còn giữ trong
khăn, vì tôi sợ ngài: ngài là người hà khắc, và lấy cái ngài không gửi, gặt
cái ngài không gieo". Vua phán rằng: "Hỡi đầy tớ bất lương, ta cứ lời ngươi
mà xử ngươi. Ngươi đã biết ta là người hà khắc, lấy cái ta không gửi, gặt
cái ta không gieo, sao ngươi không gửi bạc ta ở ngân hàng, để rồi khi ta trở
về, ta có thể lấy cả vốn lẫn lời".
"Vua liền bảo những người đứng đó rằng: "Hãy lấy nén bạc của nó mà trao cho
người đã có mười nén". Họ tâu rằng: "Tâu vua, người ấy đã có mười nén rồi".
Vua đáp: "Ta nói cùng các ngươi: Ai có sẽ cho thêm, và người đó sẽ được dư
dật; còn ai không có, người ta sẽ lấy đi cả cái nó đang có. Còn những kẻ
nghịch cùng ta, không muốn ta làm vua, hãy đem chúng ra đây và giết chúng
trước mặt ta". Nói thế rồi Chúa liền dẫn họ lên Giêrusalem.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XXXIII Thường Niên, tiếp theo ngay sau bài
Phúc Âm hôm qua. Một chi tiết cho thấy điều đó, chẳng cần theo dõi kỹ
về đoạn và câu của 2 bài Phúc Âm, đó là chi tiết liên quan đến địa điểm của
cuộc hành trình Giêrusalem của Chúa Giêsu.
Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm qua, nếu "Chúa Giêsu vào Giêricô và đi
ngang qua thành" thì trong Bài Phúc Âm hôm nay, "Người đã đến
gần Giêrusalem", và chính "vì" thế, Phúc Âm hôm nay cho biết
tiếp, "mà dân chúng lại cứ tưởng là Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện trong
giây lát".
Bởi thế, Thánh ký Luca ghi nhận rằng: "Chúa Giêsu phán thêm một dụ ngôn
nữa", một dụ ngôn chẳng những trực tiếp liên quan đến cuộc hành trình
Giêurusalem của Người bấy giờ, mà còn liên quan đến "Nước Thiên Chúa", một
thực tại thần linh đã từng được Người sử dụng nhiều hình ảnh khác
nhau để sánh ví trước đó nay Người muốn nói "thêm... nữa" vào lúc
Người gần tới Thành Giêrusalem: "Nói thế rồi Chúa liền dẫn họ lên
Giêrusalem". Và dụ ngôn ấy được Phúc Âm hôm nay cho biết đã bắt đầu như
thế này:
"Có
người quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở về. Ông cho gọi
mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và dặn rằng: 'Hãy làm lợi
cho đến khi ta trở về'. Nhưng các người dân của ông ấy ghét ông, sai người
đi theo mà rằng: 'Chúng tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi'. Ðược phong
vương rồi ông trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia ông đã giao tiền cho,
để biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu".
Trước hết, "người quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở
về" đây phải chăng ám chỉ chính Chúa Kitô, Con Thiên Chúa ("quí
tộc"), từ trời xuống trần gian ("đi phương xa") để hoàn tất công
cuộc cứu chuộc trần gian của mình, ở chỗ được "treo lên" (Gioan 8:28)
trên ngai tòa Thánh Giá (như "được phong vương", nhưng
sau đó người đã tự mình sống lại ("rồi trở về").
Ý nghĩa "đi phương xa" cũng có thể hiểu có liên hệ mật thiết với lời
tiên báo của Chúa Giêsu với các môn đệ của Người trong Bữa Tiệc Ly về việc
Người ra đi đến một nơi mà các môn đệ của Người không thể tới được và chẳng
biết là ở chỗ nào để theo như tông đồ Toma cảm nhận (xem Gioan 14:5): "Thày
chẳng còn ở với các con bao lâu nữa. Các con sẽ tìm kiếm Thày... Nơi Thày đi
các con không thể nào tới được" (Gioan 13:33).
Trước khi lên đường "đi phương xa để được phong vương rồi trở về" như
thế, "ông cho gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và dặn
rằng: 'Hãy làm lợi cho đến khi ta trở về'", phải chăng ở đây Chúa Giêsu
muốn ám chỉ đến Bữa Tiệc Ly là lúc Chúa Giêsu đã trao cho các
vị, một điều bao gồm cả 10 điều răn Cựu Ước (ám chỉ "10 nén bạc") đó
là "giới răn mới" (Gioan 13:34), ở chỗ các vị phải "yêu thương
nhau như Thày đã yêu thương các con. Tất cả mọi người sẽ dấu ấy mà nhận biết
các con là môn đệ của Thày" (Gioan 13:34-35).
Thế nhưng, việc Chúa Kitô hành trình lên Giêrusalem để hoàn tất sứ vụ cứu độ
trần gian của Người như một ông vua như thế không được "dân của"
Người là dân Do Thái vốn "ghét" Người đã ra mặt công khai chống đối:
"Chúng tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi", bằng cách sát hại
Người. Không ngờ, việc họ tự do sát hại Người một cách độc dữ tàn bạo
chưa từng thấy lại giúp cho Người "được phong vương" - "Giêsu Vua
Dân Do Thái" (Luca 23:38), Đấng "được toàn quyền trên trời dưới đất"
(Mathêu 28:18).
"Ðược phong vương rồi ông trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia ông đã giao tiền cho, để biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu". Đúng thế, khi "trở về" vào lúc quang lâm tái giáng của mình trong ngày sau hết, Chúa Kitô sẽ tính sổ sách về nén bạc được Người trao phó cho thành phần đầy tớ của Người thuộc hàng ngũ lãnh đạo đàn chiên của Người, từ các vị tông đồ đến thành phần thừa kế các vị trong hàng giáo phẩm (bao gồm cả giáo sĩ) dọc suốt giòng lịch sử của Giáo Hội Người thiết lập.
Nén bạc đó đối với thành phần đầy tớ của Chúa Kitô (nếu hiểu về các vị chủ
chiên trong hàng giáo phẩm và giáo sĩ) quả thực là đức bác ái, như chính
Người đã hỏi tông đồ Phêrô 3 lần có yêu mến Người hay chăng để Người trao
phó các chiên của Người cho ngài cũng như cho các vị thừa kế ngài cùng tông
đồ đoàn là các vị giáo hoàng và giám mục sau này trong Giáo Hội. Và quả
thực, chính vì nén bạc đó là đức bác ái yêu thương phục vụ mà Người đã căn
cứ vào đức bác ái này mà phán xét cùng thưởng phạt vậy (xem Mathêu
25:31-46).
Vấn đề ở đây là "người quí tộc" trong dụ ngôn đã trao cho 10
người đầy tớ của mình 10 nén bạc, nghĩa là mỗi người một nén bạc chứ không
phải mỗi người 10 nén bạc, ám chỉ 10 điều răn, nhưng được tóm lại thành "một
nén bạc" là "giới răn mới" được Chúa Kitô truyền lại cho các tông
đồ. Vậy "10 người đầy tớ" đây là ai, nếu không phải ở trong Bữa Tiệc
Ly bấy giờ là lúc các môn đệ được Chúa Kitô trao cho nén bạc "giới răn
mới" có thể hiểu là ám chỉ 10 vị trong số 12, vì tông đồ Giuđa bấy
giờ đã bỏ đi bàn việc nộp Người (xem Gioan 13:30), và Tông Đồ Gioan không kể
vì vị tông đồ này tự bản chất và sứ vụ vốn gắn liền với "giới răn mới"
qua cử chỉ dựa vào ngực Chúa Kitô (xem Gioan 13:23).
Tuy nhiên việc sinh lợi nén bạc lại tùy theo trình độ khả năng và mức độ nỗ
lực của mỗi người đầy tớ nữa. Bởi thế, trong 3 loại người đầy tớ tiêu
biểu được chủ gọi đến trình bày trách nhiệm nén bạc của mình, có người sinh
lợi được gấp 10 lần, nhưng cũng có người chỉ sinh lợi được gấp 5 thôi, như
dụ ngôn của Bài Phúc Âm cho thấy.
Ở đây có thể hiểu nén bạc "giới răn mới" là "yêu nhau như Thày"
nơi từng người đầy tớ sinh lợi nhiều như gấp 10, hay sinh lợi vừa như gấp 5,
chẳng những tùy ở ơn gọi hay bậc sống của Kitô hữu, giáo dân hay giáo sĩ, mà
còn tùy ở mức độ nên một với Chúa Kitô nữa, ở chỗ, càng hiệp nhất với Người
thì Người càng yêu thương tha nhân như chính Người đã yêu họ, nghĩa là họ
càng phản ảnh Chúa Kitô một cách trung thực nhất và sống động nhất, gấp 10
lần, hơn gấp 5 lần.
Trong số thành phần đầy tớ cũng không thể thoát được có một thiểu số
nào đó không đáp ứng trách nhiệm nén bạc được trao phó, ở chỗ sống vị kỷ,
hưởng thụ hơn phục vụ, không phản ảnh bản chất đức ái trọn hảo của mình
như "ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:14) chiếu tỏa Chúa Kitô "là ánh
sáng thế gian" (Gioan 8:12).
Nếu họ cảm thấy "giới răn mới" là "yêu nhau như Thày yêu" là
một lý tưởng quá siêu việt họ không thể nào với tới như lòng mong ước của
chủ mình, nhất là như gương của chủ mình trong việc "được phong vương"
trên Thánh Giá của chủ: "hiến mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người"
(Mathêu 20:28), thì ít nhất họ vẫn có thể sinh lợi nén bạc bác ái được trao
cho họ, bằng cách gửi vào "nhà băng" thần linh, ở chỗ tin tưởng
(trust) ký thác (deposit) vào Lòng Thương Xót Chúa, để chính Người bù đắp
những yếu hèn bất lực thiếu sót của họ, nhờ đó Người "có thể lấy cả vốn
lẫn lời" từ họ, như từ tên tử tội bị đóng đanh bên phải Người trên Đồi
Canvê xưa (xem Luca 23:40-43).
Ở cuối dụ ngôn trong bài Phúc Âm hôm nay còn một chi tiết rất hay nữa, đó là
"Ai có sẽ cho thêm, và người đó sẽ được dư dật; còn ai không có, người ta
sẽ lấy đi cả cái nó đang có", điển hình là người đầy tớ sinh lợi 10 nén
nhiều nhất lại được thêm nén bạc của "người đầy tớ bất lương".
Đúng thế, trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, những tâm hồn thánh thiện
(chứ không phải chỉ ở tầm mức đạo đức thôi) thường được thêm nhiều ơn Chúa
ban, những ơn mà tội nhân vì yếu đuối và mù quáng đánh mất, nhưng không
phải để người đã có hoan hưởng một mình, trái lại, là để bù đắp cho
chính tội nhân đã đánh mất đi ân sủng của họ được Chúa ban, nhờ đó chính tội
nhân cũng được cứu độ. Ôi Lòng Thương Xót Chúa vô cùng khôn ngoan và tìm hết
cách để cứu độ con người, cứu độ từng người.
Ông Vua có quyền được phụng sự, hoàn toàn trái với ý hệ tự cao của người đầy
tớ được trao cho 1 nén, không muốn làm tôi tớ và phụng sự vị có thẩm quyền
hơn mình, vì đã trao phó cho mình những gì ngài muốn, một vị vương chủ tối
cao được Sách Khải Huyền của Thánh Gioan diễn tả trong Bài Đọc 1 hôm nay như
sau:
“Ðấng ngự trên ngai rực rỡ như bích ngọc hoặc như hồng thạch; có mống cầu
vồng màu lục thạch bao bọc ngai. Chung quanh ngai có hai mươi bốn toà, và
trên đó, có hai mươi bốn trưởng lão, mặc áo trắng tinh, đầu đội triều thiên
vàng. Từ nơi ngai phát ra những tia chớp, tiếng nói và tiếng sấm; lại có bảy
cây đèn cháy trước ngai, đó là bảy Thần linh của Thiên Chúa. Phía trước ngai
coi như có biển trong ngần như pha lê. Còn chính giữa và chung quanh ngai có
bốn con vật, đàng trước đàng sau chỗ nào cũng có mắt: Con vật thứ nhất giống
như sư tử; con vật thứ hai giống như con bò; con thứ ba có dung mạo như mặt
người; con thứ tư như chim phượng hoàng đang bay. Bốn con vật ấy con nào
cũng có sáu cánh quanh mình, và trong mình đầy những mắt, ngày đêm không
ngớt tung hô: ‘Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa toàn năng, Ðấng đã
có, hiện có, và sẽ đến’…
Hai mươi bốn trưởng lão phủ phục trước Ðấng ngự trên ngai và thờ lạy Ðấng
hằng sống muôn đời; họ gỡ triều thiên của họ mà đặt trước ngai và tung hô
rằng: ‘Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, Chúa đáng được vinh quang, danh dự
và quyền năng, vì chính Chúa đã tạo thành vạn vật, chính do ý Chúa mà muôn
vật mới có và được tạo thành’".
Vì càng gần cuối phụng niên, Giáo Hội càng soạn chọn phần phụng vụ Lời Chúa
về vương quyền tối cao của Thiên Chúa, hướng đến mầu nhiệm cánh chung, được
kết thúc bằng cuộc chủng thẩm, một biến cố chứng thực tối thượng quyền của
Thiên Chúa, Đấng là chủ tể và điều khiển lịch sử chung tạo vật và riêng loài
người, nên Bài Đọc 1 hôm nay được âm vang bởi Bài Đáp Ca hôm nay đối với Vị
Vương Chủ tối cao, mỗi câu đều được mở đầu bằng lời kêu gọi giống nhau: “Hãy
ngợi khen”:
1) Hãy ngợi khen Chúa trong Thánh đài của Chúa,
ngợi khen Chúa nơi thanh không cao cả của Người. Hãy ngợi khen Người vì
những kỳ công vĩ đại, ngợi khen Người bởi sự Người tuyệt đối oai nghiêm. -
Ðáp.
2) Hãy ngợi khen Người với tiếng kèn rầm rộ, ngợi khen Người với cây đàn sắt
đàn cầm. Hãy ngợi khen Người với trống rung và ca vũ, ngợi khen Người với
tiếng tơ đàn, với ống tiêu. - Ðáp.
3) Hãy ngợi khen Người với âm vang não bạt, ngợi
khen Người với tiếng rền rĩ mã la. Phàm vật chi có hơi thở, hãy ngợi khen
Thiên Chúa. - Ðáp.
Thứ Năm
Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Kh
5, 1-10
"Chiên con đã bị sát tế và đã lấy máu mình mà cứu chuộc chúng tôi thuộc mọi
nước".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Tôi là Gioan, tôi đã thấy nơi tay hữu Ðấng ngự trên ngai một cuốn sách viết
cả trong lẫn ngoài, có ấn niêm phong. Và tôi thấy một thiên thần hùng dũng
lớn tiếng tuyên bố rằng: "Ai xứng đáng mở sách và tháo ấn?" Nhưng cả trên
trời, dưới đất và trong lòng đất không ai có thể mở và đọc sách ấy. Tôi khóc
lớn tiếng vì chẳng có ai xứng đáng mở và đọc sách ấy. Rồi một trong các
trưởng lão nói với tôi rằng: "Thôi đừng khóc nữa, này đây sư tử của chi tộc
Giuđa, dòng dõi của Ðavít đã toàn thắng, chính Người sẽ mở sách và tháo bảy
ấn niêm phong".
Tôi đây cũng trông thấy khoảng giữa ngai và bốn con vật cùng các trưởng lão,
có một Chiên Con đang đứng như đã bị sát tế, có bảy sừng và bảy mắt: tức là
bảy thần linh của Thiên Chúa được sai đi khắp địa cầu. Chiên Con tiến đến
lấy cuốn sách nơi tay hữu Ðấng ngự trên ngai. Khi Chiên Con vừa cầm sách,
thì bốn con vật phủ phục trước Chiên Con, cả hai mươi bốn trưởng lão cũng
làm như thế, mỗi người mang đàn huyền cầm và chén vàng đầy hương thơm, tức
là lời cầu nguyện của các thánh. Họ hát một bài ca mới rằng:
"Lạy Ngài, Ngài đáng lãnh sách và tháo ấn, vì Ngài đã chịu chết và đã lấy
máu Ngài mà cứu chuộc chúng con thuộc mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ, mọi dân và
mọi nước, về cho Thiên Chúa. Ngài đã làm chúng con trở thành vương quốc và
tư tế cho Thiên Chúa; và chúng con sẽ được cai trị địa cầu".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 149, 1-2. 3-4. 5-6a và 9b
Ðáp: Ngài
đã làm cho chúng tôi trở thành vương quốc và tư tế cho Thiên Chúa (Kh 5,
10).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới; hãy vang lên lời khen ngợi trong
công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân; con cái
Sion hãy hân hoan vì vua của họ. - Ðáp.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người; hãy hát mừng Người với cây đàn cầm,
với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường
chiến thắng vẻ vang. - Ðáp.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy
hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên
Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. - Ðáp.
Alleluia: x. Cv 16, 14b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe
lời Con Chúa. - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 19, 41-44
"Chớ chi ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem, trông thấy thành thì Người khóc
thương thành ấy mà rằng: "Chớ chi hôm nay ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà
bình lại cho ngươi! Nhưng giờ đây, sứ điệp ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi.
Vì sẽ đến ngày quân thù đắp luỹ bao vây ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng
sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi cùng con cái ở trong thành. Chúng sẽ không
để lại hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi
được thăm viếng".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Hôm nay, Thứ Năm Tuần XXXIII Thường Niên, bài Phúc Âm tiếp tục thuật lại
hành trình lên Giêrusalem của Chúa Kitô, ở chỗ, sau
khi "Người đã gần đến Giêrusalem - he was near Jerusalem" được Thánh
ký Luca ghi lại trong Bài Phúc Âm hôm qua, thì bài Phúc Âm hôm nay cho biết "Chúa
Giêsu đến gần Giêrusalem - coming within in sight of the city".
Vấn đề đầu tiên, không biết có ai lưu ý hay chăng, có thể đặt ra ở đây để có thể hiểu phần nào ý nghĩa và chiều hướng được chất chứa nơi lời cảnh giác của Chúa Giêsu về Thành Giêsurusalem trong bài Phúc Âm hôm nay, đó là tại sao Thánh ký Luca, trong loạt bài được Giáo Hội chọn đọc cho Tuần XXXIII Thường Niên này, lại trình thuật rất cẩn thận và thứ tự liên tục về nơi chốn hay địa điểm Người đi liên quan đến hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu: 1- "Đến gần thành Giêricô" (Phúc Âm Thứ Hai tuần này về người mù ngồi ăn xin bên vệ đường), "Vào thành và đi ngang qua thành" (Phúc Âm Thứ Ba tuần này về viên trưởng ban thu thuế Giakêu lùn), "gần đến Giêrusalem" (Phúc Âm Thứ Tư tuần này về dụ ngôn người quí tộc - ám chỉ Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người - đi phương xa để được phong vương - ám chỉ cuộc Vượt Qua của Người ở Giêrusalem), và "đến gần Giêrusalem" (Phúc Âm Thứ Năm hôm nay)?
Phải chăng có cái gì đó đặc biệt được chất chứa nơi hai thành Giêricô và Giêrusalem?? Phải chăng Giêricô tiêu biểu cho thế gian, cho quyền lực sự dữ, còn Giêrusalem tiêu biểu cho dân Chúa, nơi Ngài ở giữa họ và làm Chúa của họ???
Đúng thế, Giêricô là một thành trì vĩ đại và kiên cố cũng là thành trì đầu tiên duy nhất dân Do Thái khi bắt đầu vào Đất Hứa, một thành mà tự sức mình, họ không thể nào thắng nổi, nếu không được trời cao hỗ trợ và hướng dẫn qua nhân vật lãnh đạo Gio-Duệ (xem Gio-Duệ toàn đoạn 6:1-27). Giêrico này, trong cuộc hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu, có hai biến cố được Thánh ký Luca thuật lại, đó là một người mù ăn xin ở ngoài thành và một viên thu thuế tham lam tội lỗi ở trong thành, có thể nói cả 2 tiêu biểu nhân tính bị băng hoại bởi nguyên tội của con người, đó là mù lòa về trí khôn hay ý thức (người mù Batimê) và tham lam về lòng muốn (viên thu thuế gian tham Giakêu), cần được Chúa Kitô cứu độ, và họ quả thực đã được cứu nhờ đức tin của họ.
Vì Giêricô được tiêu biểu cho thế gian, cho quyền lực sự dữ nên Chúa Giêsu có thể đã ám chỉ trong dụ ngôn người Samaritanô nhân lành (ám chỉ Chúa Giêsu), nhân vật cứu nạn nhân (ám chỉ loài người mắc nguyên tội) đang ngấp ngoái cần cứu thương, bởi nạn nhân đáng thương này bị bọn cướp (ám chỉ quyền lực sự dữ hoành hành nơi con người) chặn đường cướp giật (ơn nghĩa Chúa khi con người còn sống trong tình trạng công chính nguyên thủy trước nguyên tội), chỉ vì nạn nhân "đi từ Giêrusalem xuống Giêrico" (Luca 10:30 và tất cả dụ ngôn 25-37), nghĩa là từ đời sống siêu nhiên (Giêrusalem) theo tự nhiên (Giêrico), tức là bỏ Thiên Chúa (Giêrusalem) mà theo thần dữ (Giêrico), nên mới trở thành khốn nạn như thế, cần được cứu độ.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Giêrusalem là Thành Thánh của dân Chúa, nơi có Đền Thánh là tòa Thiên Chúa ngự giữa dân của Ngài, vậy mà Chúa Kitô lại cảnh báo và tiên báo rằng nó sẽ bị tàn phá đến độ "không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào". Tại sao vậy - Chính Chúa Giêsu đã cho biết rõ lý do: "vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng", nghĩa là đã không tin vào Thiên Chúa và Đấng Thiên sai Giêsu Kitô của Ngài, như người mù Batimê và viên thu thuế Giakêu ở Thành Giêrico. Thế nhưng, dân Chúa đã không nhân biết giờ họ được viếng thăm hay không tin vào Chúa Kitô ở chỗ nào và như thế nào, thì câu trả lời sẽ được tìm thấy trong bài Phúc Âm ngày mai Thứ Sáu: "khi Chúa Giêsu vào Đền Thờ", sau khi Người đã "đến gần Thành Giêrusalem" trong Bài Phúc Âm hôm nay.
Thật ra giữa bài Phúc Âm hôm qua và bài Phúc Âm hôm nay cách nhau một
khúc phúc âm không thích hợp vào thời điểm của Mùa Thường Niên Tuần XXXIII
này, đó là khúc phúc âm về biến cố Chúa Giêsu vinh hiển tiến vào Thành Thánh
Giêrusalem, một khúc phúc âm đã được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật Lễ
Lá, ở phần nghi thức rước lá trước lễ.
Và tầm mức gần Thành Giêrusalem của Chúa Giêsu đến độ mắt của Người có thể
trông thấy được toàn cảnh của thành này, và vì trông thấy thành Giêrusalem
như thế mà Người đã thổn thức khóc, như Phúc Âm thuật lại như sau:
"Trông
thấy thành thì Người khóc thương thành ấy mà rằng: 'Chớ chi hôm nay ngươi
hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi! Nhưng giờ đây, sứ điệp ấy bị
che khuất khỏi mắt ngươi. Vì sẽ đến ngày quân thù đắp lũy bao vây ngươi,
xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi cùng con cái ở
trong thành. Chúng sẽ không để lại hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã
không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng".
Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu khóc được Phúc Âm thuật lại; lần thứ nhất xẩy
ra vào lúc trước khi Người hồi sinh Lazarô (xem Gioan 11:35). Vậy tại sao
Người lại khóc khi thấy thành thánh Giêrusalem này, nếu không phải lý do ở
ngay những lời Người nói với thành thánh ấy: phải chăng chính là vì thành
thánh có đền thánh là nơi Thiên Chúa Cha của Người ngự này sẽ bị quân
thù phá tan tành thành bình địa "không hòn đá nào trên hòn đá nào", hay
là vì "ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng" nên sẽ bị
nông nỗi kinh hoàng khủng khiếp chưa từng thấy ấy?
Chúa Kitô khóc lần thứ nhất trước ngôi mộ của Lazarô đã chết đến xông mùi
sau 4 ngày (xem Gioan 11:39) không phải vì Lazarô là người bạn thân của
Người đã chết sắp được Người hồi sinh, cho bằng vì Người thấy trước có một
số môn đệ của Người sẽ bị vĩnh viễn hư đi trong mộ tử thần không bao giờ
chỗi dậy được nữa, cho dù có nghe được tiếng Người gọi, hay hoàn toàn không
còn nghe được tiếng Người nữa.
Bởi vậy, lần khóc thứ hai này của Người trước hình ảnh của một thành thánh
Giêrusalem nguy nga đồ sộ sẽ bị tàn phá liên quan đến hình ảnh về một Giáo
Hội của Người cũng sẽ có ngày bị "các đạo quân Gog và Magog" công
hãm, như Sách Khải Huyền đã tiên báo (20:9), khiến cho một số chi thể của
Người bị tử thương muôn đời về phần rỗi của họ vô cùng tiếc xót!
Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy số phận bị hủy diệt của giáo đô Giêrusalem của
Do Thái giáo chỉ vì tội lỗi của dân Chúa thế nào thì Bài Đọc 1, được trích
từ Khải Huyền của Thánh Gioan cũng cho thấy viễn tượng về “một
cuốn sách viết cả trong lẫn ngoài, có ấn niêm phong”,
và về thẩm quyền duy nhất có thể mở cuốn sách bí mật đươc niêm ấn này, đó
là: “Chiên Con tiến đến lấy cuốn sách
nơi tay hữu Ðấng ngự trên ngai”.
Thế nhưng, cuốn sách đươc niêm ấn này không phải chỉ
chất chứa danh sách của thành phần bị hủy diệt, mà là cuốn sách hằng sống,
cuốn sách ghi tên những ai được cứu rỗi, bởi vì, nó được mở bởi Con Chiên
Thiên Chúa, Đấng được Thánh Gioan thị kiến thấy trong Sách Khải Huyền và
được ngài diễn tả như sau:
“Khi Chiên Con vừa cầm sách, thì bốn con vật phủ phục trước Chiên Con, cả
hai mươi bốn trưởng lão cũng làm như thế, mỗi người mang đàn huyền cầm và
chén vàng đầy hương thơm, tức là lời cầu nguyện của các thánh. Họ hát một
bài ca mới rằng: ‘Lạy Ngài, Ngài đáng lãnh sách và tháo ấn, vì Ngài đã chịu
chết và đã lấy máu Ngài mà cứu chuộc chúng con thuộc mọi chi tộc, mọi ngôn
ngữ, mọi dân và mọi nước, về cho Thiên Chúa. Ngài đã làm chúng con trở thành
vương quốc và tư tế cho Thiên Chúa; và chúng con sẽ được cai trị địa cầu’".
Bởi thê, bầu khí của mầu nhiệm cánh chung được Giáo Hội cử hành vào những
tuần lễ cuối cùng qua phụng vụ Lời Chúa cho thấy phhấn khởi lien quan đến ơn
cứu độ hơn là bi quan lien quan đến cái chết lần thứ hai, và bầu khí này
được tỏ hiện qua các Bài Đáp Ca, bao gồm cả Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới; hãy vang lên lời khen ngợi trong công
hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân; con cái Sion
hãy hân hoan vì vua của họ.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người; hãy hát mừng Người với cây đàn cầm,
với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường
chiến thắng vẻ vang.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy
hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên
Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa.
Thứ Sáu
Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Kh
10, 8-11
"Tôi cầm lấy cuốn sách mà nuốt".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Tôi là Gioan, tôi đã nghe có tiếng từ trời phán cùng tôi rằng: "Ngươi hãy đi
lấy cuốn sách mở sẵn trên tay thiên thần đứng trên biển và trên đất". Tôi
liền đến xin thiên thần trao cho tôi cuốn sách ấy và người nói với tôi:
"Ngươi hãy cầm lấy sách mà nuốt đi; nó sẽ làm cho ruột gan ngươi đầy cay
đắng, nhưng miệng ngươi lại cảm thấy ngọt ngào như mật". Tôi cầm lấy cuốn
sách từ tay thiên thần mà nuốt; miệng tôi cảm thấy ngọt ngào như mật, nhưng
khi tôi đã nuốt rồi thì nó làm cho ruột gan tôi đầy cay đắng. Bấy giờ tiếng
lại phán cùng tôi rằng: "Ngươi còn phải nói tiên tri cho nhiều dân, nhiều
nước, nhiều ngôn ngữ và nhiều vua chúa nữa".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 14. 24. 72. 103. 111. 131
Ðáp: Những
lời sấm của Chúa ngon ngọt thay cho cổ họng con (c. 103a).
Xướng: 1) Con vui vì đường lối lời Ngài nghiêm huấn, dường như được mọi thứ
giàu sang. - Ðáp.
2) Vì lời nghiêm huấn của Ngài là điều con ưa thích, các thánh chỉ Ngài là
những bậc cố vấn của con. - Ðáp.
3) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu
muôn ngàn. - Ðáp.
4) Những lời sấm của Ngài ngon ngọt thay cho cổ họng con, ngọt hơn cả mật
ong đổ miệng con. - Ðáp.
5) Lời Ngài nghiêm huấn là sản nghiệp của con muôn đời, vì những điều đó
khiến cho lòng con hoan hỉ. - Ðáp.
6) Con há miệng để hút nguồn sinh khí, vì con ham
muốn những chỉ thị của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 34
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp
của Chúa, và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 19, 45-48
"Các ngươi đã biến đền thờ Thiên Chúa thành sào huyệt trộm cướp".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào đền thờ, Người liền xua đuổi các người buôn bán tại
đó và phán bảo họ rằng: "Có lời chép rằng: Nhà Ta là nhà cầu nguyện, các
ngươi đã biến thành sào huyệt trộm cướp". Và hằng ngày Người giảng dạy trong
Ðền thờ. Các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão trong dân tìm cách hại Người,
nhưng họ không biết phải làm cách nào, vì dân chúng hết thảy đều chăm chú
nghe Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXXIII Thường Niên, tiếp tục với cuộc hành
trình lên Giêrusalem của Chúa Kitô, ở chỗ, sau
khi "Người đã gần đến Giêrusalem" trong Bài Phúc Âm hôm kia, sau đó "Chúa
Giêsu đến gần Giêrusalem"
trong bài Phúc Âm hôm qua, và hôm nay "Chúa Giêsu vào đền thờ".
Phải, nếu đền thờ Giêrusalem là nơi Thiên Chúa ngự, là biểu hiệu cho sự hiện
diện thần linh của Thiên Chúa, thì sự kiện Chúa Giêsu có mặt ở đền thờ này
cho thấy Người đã đến được đích điểm cuộc hành trình Giêrusalem của Người.
Bởi Người đến "là để tỏ Cha ra" (Gioan 1:18), tức để làm cho dân của
Người biết Cha của Người thực sự là Đấng nào, Vị Thiên Chúa đã từng tỏ mình
ra cho họ trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ như là một Vị Thiên Chúa
chân thật duy nhất, ngoài Ngài ra không còn một vị Thiên Chúa nào khác, và
vì thế họ phải hết mình kính mến Ngài, chỉ một mình Ngài thôi, "hết lòng,
hết linh hồn và hết sức" của họ (xem Đệ Nhị Luật 6:4-5), nghĩa là trên hết
mọi sự.
Bởi thế, không lạ gì, khi thấy cảnh tượng dân chúng buôn bán trong đền thờ "là
nhà cầu nguyện", như chính Người nói trong Bài Phúc Âm hôm nay, đã bị "biến
thành sào huyệt trộm cướp", thì làm sao Người là Đấng kính mến Cha Người
hết mình và trên hết mọi sự, khi thấy nơi biểu hiệu cho sự hiện diện thần
linh của Cha bị chính dân của Ngài tục hóa, có thể
nào chịu đựng được, đến độ dù Người vốn "hiền lành và khiêm nhượng trong
lòng" (Mathêu 11:29) cũng không thể nào không ra tay "xua đuổi các
người buôn bán tại đó".
Phải chăng đó là một trong những lý do chính yếu khiến Người vừa thấy thành
thánh Giêrusalem, Người đã thổn thức khóc, như bài Phúc Âm hôm qua thuật
lại? Người đã không khóc khi thấy Cha của Người bị xúc phạm cho bằng khóc
thương dân của Người, vì họ không ngừng liên tục xúc phạm đến Cha của Người
mà nguy hiểm đến phần rỗi đời đời của chính họ. Bởi thế mà trên đường vác
thập giá lên Núi Sọ, Người đã khuyên đám phụ nữ thương khóc Người bấy
giờ rằng: "Chớ khóc thương Tôi, một khóc thương các ngươi cùng con cháu
của các ngươi" (Luca 23:27-28).
Đúng vậy, nếu con người ta nói chung và những ai tin vào Người nói
riêng thật sự biết khóc thương bản thân mình, ở chỗ tỏ ra ăn năn thồng hối
tội lỗi của mình, thì đó là tác động họ khóc thương Người rồi vậy, vì họ sẽ
không dám xúc phạm đến Người nữa, họ sẽ không làm cho Người phải khổ sở vác
thập giá của họ và cho họ nữa, thập giá do chính họ chất lên vai của Người.
Tội lỗi của họ chính là thập giá mà Người phải vác vậy. Và thập giá cũng là
biểu hiệu cho từng con chiên lạc Người cần phải tìm kiếm và vác trên vai
mang về nhà Cha của Người vậy (xem Luca 15:5).
Đó là lý do Người quả thật không hề ghét bỏ dân của Người qua
hành động đánh đuổi họ như thế, trái lại, chỉ vì Người thương họ hơn bao giờ
hết, khi thấy họ lầm lạc đến độ chính họ là dân được Thiên Chúa là Cha
của Người tuyển chọn đã tục hóa một nơi thánh nhất của họ, chứ không phải bị
tục hóa bởi dân ngoại không biết gì đến Vị Thiên Chúa của họ, như đã phũ
phàng và trắng trợn xẩy ra vào thời kỳ hậu lưu đầy của họ, khi họ bị ngoại
bang xâm chiếm và đô hộ, đến độ quyền lực ngoại bang bấy giờ đã ra tay tàn
phá và tục hóa đền thờ ấy, một biến cố lịch sử đầy nhơ nhớp được Sách Macabê
quyển thứ nhất diễn thuật trong Bài Đọc 1 Thứ Hai đầu tuần này.
Việc Chúa Giêsu "xua đuổi các người buôn bán tại đó" còn mang một
ngậm ý trách móc cả thành phần lãnh đạo dân Chúa bấy giờ nữa, thành phần có
thẩm quyền để hướng dẫn dân Chúa theo đường lối của Thiên Chúa, theo lề luật
thánh lại để xẩy ra tình trạng tục hóa công khai này, một là vì chính họ cho
phép hai là vì họ cứ để cho dân chúng tha hồ tục hóa đền thờ linh thánh này,
không hề ngăn cản tí nào, như thể vừa tán thành vừa đồng lõa với tội lỗi của
dân.
Người biết rằng việc Người tự động "xua đuổi các người buôn bán tại đó"
chắc chắn sẽ đụng chạm đến quyền bính của thành phần lãnh đạo này.
Thế nhưng, vì Người đến cứu cả thành phần lãnh đạo mù quáng ấy nữa, nên
Người vẫn bất chấp, họ có tỏ ra hận thù Người hơn bao giờ hết, như được Bài
Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão trong dân tìm
cách hại Người, nhưng họ không biết phải làm cách nào, vì dân chúng hết thảy
đều chăm chú nghe Người".
Họ càng hận thù và tìm cách hại Người bao nhiêu thì chính họ là thành phần "không
muốn" xẩy ra chuyện "phong vương" của Người càng được thành
tựu, như ý nghĩa trọng dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm kia cho biết vào
thời điểm Người "gần đến Giêrusalem" là nơi Người sẽ bị rơi vào tay
họ như Người đã báo trước cho các môn đệ của Người về biến cố bất khả
tránh này 3 lần, đúng như ý định vô cùng nhiệm mầu của Cha Người về
cuộc hành trình Giêrusalem của Người là để Người được "phong vương"
trên ngai tòa thập tự giá một cách danh chính ngôn thuận: "Giêsu Vua Dân
Do Thái" (Luca 23:38).
Tuy nhiên, ngay lúc bấy giờ, lúc Người "xua đuổi các người buôn bán tại
đó" thì họ còn sợ dân chúng, tức chưa đến giờ của người, nhờ đó, như
Phúc Âm cho biết: "hằng ngày Người giảng dạy trong Ðền thờ". Và vì
thế, từ ngày mai Thứ Bảy Tuần XXXIII Thường Niên cho tới hết tuần 34 Thường
Niên là tuần cuối cùng của phụng niên hằng năm, chúng ta sẽ đọc thấy các bài
Phúc Âm cho ngày thường trong tuần liên quan đến giáo huấn Giêrusalem của
Người, những giáo huấn cuối cùng của hành trình Giêrusalem được Người công
khai truyền dạy ở chính thành thánh Giêrusalem, giáo đô của Do Thái giáo,
cũng là khởi điểm truyền giáo (xem Tông Vụ 1:8) ngay sau biến cố Thánh Linh
Hiện Xuống của Giáo Hội được Người thiết lập.
Sự kiện Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ Giêrusalem trong Bài Phúc Âm hôm nay,
với tâm tình gắn bó với Cha của mình, ở chỗ tỏ ra bảo vệ tính chất linh
thánh của nơi Cha mình ngự, chẳng khác gì cảm giác được Thánh Gioan trong
Bài Đọc 1 hôm nay: “miệng
tôi cảm thấy ngọt ngào như mật, nhưng khi tôi đã nuốt rồi thì nó làm cho
ruột gan tôi đầy cay đắng.".
Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã đau lòng trước tội lỗi
của dân Người mà Người phải vì yêu thương thẳng thắn lên tiếng cảnh báo dân
Người, nhờ đó họ có thể trở về với Vị Thiên nChúa chân thật duy nhất của
mình mà được cứu độ. Đó là lý do mới có những lời của Bài Đáp Ca hôm nay:
1)
Con vui vì đường lối lời Ngài nghiêm huấn, dường như được mọi thứ giàu sang.
2) Vì lời nghiêm huấn của Ngài là điều con ưa thích, các thánh chỉ Ngài là
những bậc cố vấn của con.
3) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu
muôn ngàn.
4) Những lời sấm của Ngài ngon ngọt thay cho cổ họng con, ngọt hơn cả mật
ong đổ miệng con.
5) Lời Ngài nghiêm huấn là sản nghiệp của con muôn đời, vì những điều đó
khiến cho lòng con hoan hỉ.
6) Con há miệng để hút nguồn sinh khí, vì con ham
muốn những chỉ thị của Ngài.
Thứ Bảy
Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Kh
11, 4-12
"Hai vị tiên tri ấy đã làm cho dân trên hoàn cầu chịu nhiều khổ cực".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Có lời phán cùng tôi là Gioan rằng: "Hai chứng tá của Ta là hai cây ôliu và
hai cây đèn đặt trước mặt Chúa Tể địa cầu. Và nếu ai toan hãm hại các ngài,
thì sẽ có lửa từ miệng các ngài phun ra tiêu diệt các địch thù; ai toan làm
hại các ngài thì chính kẻ ấy phải bị giết như vậy. Các ngài có quyền đóng
cửa trời, khiến trời không mưa trong những ngày các ngài nói tiên tri. Các
ngài lại có quyền biến nước thành máu, và gieo tai hoạ cho trần gian bất cứ
lúc nào tùy ý. Và khi các ngài đã hoàn tất nhiệm vụ chứng tá rồi, thì con
mãnh thú từ vực thẳm lên sẽ giao chiến với các ngài, nó sẽ thắng và giết
chết các ngài. Thi thể các ngài sẽ bị bêu nơi công trường của Thành lớn, gọi
cách bóng bảy là Sôđôma và Ai-cập, là nơi Chúa các ngài đã bị đóng đinh.
Thiên hạ thuộc mọi chi tộc, mọi dân, mọi nước, và mọi ngôn ngữ, đã xem thấy
thi thể các ngài trong ba ngày rưỡi, và người ta không để cho thi thể các
ngài được chôn cất trong mộ. Dân chúng trên khắp mặt đất sẽ vui mừng vì cái
chết của các ngài và hoan hỉ tặng quà cho nhau, vì hai vị tiên tri ấy đã
từng làm cho họ chịu nhiều khổ cực. Nhưng sau ba ngày rưỡi, (sinh khí từ)
Thiên Chúa nhập vào các ngài. Và các ngài đứng dậy, khiến cho những người
trông thấy phải khiếp sợ. Rồi các ngài nghe có tiếng vang lớn từ trời phán
cùng các ngài rằng: 'Hãy lên đây'. Các ngài liền lên trời, trong đám mây
trước mắt các địch thù của các ngài.
Chính lúc đó đất chuyển động dữ dội, và một phần mười của thành thị bị sụp
đổ, làm bảy ngàn người thiệt mạng trong cơn động đất ấy. Còn các người sống
sót thì kính sợ và cao rao vinh danh Ðức Chúa Trời".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 143, 1. 2. 9-10
Ðáp: Ôi
Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa! (c. 1a).
Xướng: 1) Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa là Ðấng rèn luyện cho tay con
biết đấu tranh, cho các ngón tay con thiện nghề chinh chiến. - Ðáp.
2) Chúa là tình thương và là chiến luỹ, là Ðấng phù trợ và giải phóng con.
Chúa là khiên thuẫn, là chỗ con nương náu; Ngài bắt chư dân phải khuất phục
con. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, con sẽ hát mừng Ngài bài ca mới;
với cây đàn mười dây, con sẽ ca mừng Ngài, vì Ngài đã ban cho các vua chiến
thắng, đã giải phóng Ðavít là tôi tớ của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Pl 2, 15-16
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu
sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 20, 27-40
"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự
sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Môsê đã viết cho
chúng tôi: nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì
người em phải cưới người vợ đó để anh mình có kẻ nối dòng. Vậy có bảy anh
em: người thứ nhất cưới vợ, rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ
goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và
tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào.
Sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà
đó sẽ là vợ ai trong các người ấy, vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm
vợ?"
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai
sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không
cưới vợ lấy chồng; họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ
là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết
sống lại, thì Môsê trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa
Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Thiên Chúa không phải là
Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho Chúa".
Bấy giờ có mấy luật sĩ lên tiếng thưa Người rằng: "Lạy thầy, Thầy dậy đúng
lắm". Và họ không dám hỏi Người điều gì nữa.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Hôm nay, Thứ Bảy, cuối Tuần XXXIII Thường Niên, Bài Phúc Âm được Giáo Hội
chọn đọc vẫn tiếp tục bài Phúc Âm hôm qua là bài Phúc Âm cho biết cuộc hành
trình Giêrusalem của Người đã tới đích điểm của nó là chung thành thành
Giêrusalem và riêng đền thánh Giêrusalem, nơi Người sau khi thanh tẩy thì
Người tiếp tục giảng dạy cho dân chúng.
Và giáo huấn cuối cùng trong cuộc hành trình Giêrusalem của Người ở chính
giáo đô Giêrusalem là đích điểm tỏ mình ra của Người này, đặc biệt liên
quan đến mầu nhiệm cánh chung và lai thời hậu thế, như bài Phúc Âm hôm nay
cho thấy, qua lời vấn đáp của Chúa Giêsu với "mấy người thuộc phái Sađốc,
là những người chối không tin có sự sống lại", nên đã "đến gần Chúa
Giêsu hỏi Người rằng:
"Thưa
Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết
đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ đó để anh mình có kẻ nối
dòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ, rồi chết mà không có con.
Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng
cưới người vợ góa đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà
không để lại người con nào. Sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến
ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy, vì tất cả bảy
người đều lấy người ấy làm vợ?"
Qua thực đây là một câu hỏi của những người không tin có vấn đề sống lại,
nghĩa là không tin có đời sau, hay có đời sau thì cũng không thể nào xẩy ra
chuyện bao gồm cả thân xác hữu hình và hữu hạn này, nghĩa là thân xác con
người không thể nào trở thành vô hình và vô hạn bất biến với thời gian sau
thời gian ở đời này được.
Theo lý lẽ tự nhiên thì không phải là họ không có lý. Và chính vì thế, họ
mới phủ nhận sự kiện thân xác phục sinh, hay ngược lại, vì có ý nghĩ không
thể nào có vấn đề phục sinh của thân xác mà họ mới đặt ra một trường hợp
không bao giờ có thể xẩy ra, hoàn toàn không thực tế, hợp với tầm mức hiểu
biết thiển cận theo tự nhiên của họ trên đây.
Tuy nhiên, họ đã lầm. Nhưng cũng may, họ vẫn còn thiện chí để nói ra, để hỏi
han, lại hỏi ngay chính vị mà họ tin rằng, (hơn là cố ý thử Người như thường
thấy nơi thành phần luật sĩ và biệt phái tin có sự sống lại), có thể
giải đáp vấn đề then chốt nhất của họ, nhưng cũng là vấn đề hóc búa đến độ
như thể bất khả nan giải của họ.
Câu trả lời của Chúa Giêsu là Đấng tự thân sẽ sống lại đầu tiên từ trong kẻ
chết như thế này, một câu trả lời đã được chính thành phần luật sĩ cũng có
mặt ở đó bấy giờ hết sức khâm phục: "Lạy thầy, Thầy dậy đúng lắm", đến độ
"họ không dám hỏi Người điều gì nữa". Và câu trả lời của Chúa Giêsu
về chuyện xác loài người ta sẽ sống lại như sau:
"Con
cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời
sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng; họ sẽ
không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa: vì
họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê trong
đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa
Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ
chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho Chúa".
Trong câu trả lời này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Đấng "là sự sống lại
và là sự sống" (Gioan 11:25) bao gồm cả sự sống lại của thân xác và sự
sống bất diệt đời sau của cả toàn thân con người cả hồn lẫn xác.
Trước hết, về sự sống lại, lần đầu tiên Chúa Giêsu được dịp chính thức mạc
khải cho biết rằng con người ta sẽ sống lại, mà sống lại là sự kiện trước
hết liên quan đến thân xác đã chết đi của họ, nên vấn đề sống lại là vấn đề
của thân xác, và một khi thân xác sống lại thì "sẽ không thể chết nữa, vì
họ giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa".
Nghĩa là thân xác hữu hình và hữu hạn của con người khi còn tại thế, còn
sống trong không gian và thời gian, khi sống lại sẽ trở thành thiêng liêng
vô hình, trở thành bất tử và bất diệt, như thân xác phục sinh của Ngưòi sau
này, có thể xuyên qua cả căn phòng khóa kín của các tông đồ đang sợ sệt trốn
lánh bấy giờ.
Thế nhưng, tự mình thân xác hữu hình và hữu hạn của con người không thể nào
sống nếu thiếu linh hồn vẫn được gọi là hồn sống của nó, thì cũng thế nó sẽ
không tự mình sống lại và sống đời sau vô cùng nếu không có hồn thiêng bất
tử của nó.
Mà linh hồn của con người chỉ thực sự sống, sống sự sống thần linh, sống sự
sống siêu nhiên, sống sự sống đời đời, sống sự sống trường sinh bất tử,
dù ở đời này hay ở đời sau, ở chỗ nhận biết "Thiên Chúa chân thật duy
nhất" được tỏ hiện nơi Chúa Giêsu Kitô (xem Gioan 17:3), tức là nhận
biết vị Thiên Chúa bất biến trước sau như một: "Thiên Chúa của Abraham,
Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của Giacóp", vị Thiên Chúa hằng hữu
và tồn tại dù con người có qua đi ba đời Abraham, Isaac và Giacóp, một
khoảng thời gian không ai còn tồn tại trên trần gian thế mà Thiên Chúa hằng
sống vẫn hiện hữu.
"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống" là
như thế, "vì mọi người đều sống cho Chúa", ở chỗ nhận biết Ngài như
Ngài là, như Ngài đã tỏ ra nơi Chúa Giêsu Kitô là Người Con nhập thể và vượt
qua của Ngài, nhờ đó "họ sẽ không thể chết nữa" cùng với thân
xác của họ, với tư cách "là con cái Thiên Chúa" như Chúa Kitô,
nhờ Thánh Linh là Đấng chứng tỏ họ là con cái Thiên Chúa (xem Roma 8:16;
1Gioan 4:13): "Nếu Thần Linh của Đấng đã làm cho Chúa Kitô từ trong kẻ
chết sống lại thì cũng sẽ mang lại sự sống cho thân xác chết chóc của anh
em, nhờ Thần Linh của Người ở trong anh em" (Rôma 8:11).
Vậy vấn đề được đặt ra ở đây là nếu thân xác con người sống lại là nhờ linh
hồn nhận biết Thiên Chúa hằng sống thì những linh hồn nào không nhận biết
Thiên Chúa hằng sống có sống lại nơi thân xác của họ và với thân xác của
họ hay chăng?
Theo tín lý dạy thì tất cả mọi người đều sống lại, dù là "kẻ sống" hay "kẻ
chết", kẻ lành hay kẻ dữ, kẻ được rỗi hay kẻ hư đi. Bởi vì, dù là thành phần
kẻ dữ bị hư đi vì khi còn sống trên thế gian này họ không nhận biết Thiên
Chúa chân thật duy nhất để hội đủ điều kiện được cứu rỗi chăng nữa, khi qua
khỏi trần gian này, khi không còn thời gian nữa thì trong cõi đời đời họ lại
càng không thể chối cãi sự thật mà họ chối bỏ là chính Vị Thiên Chúa hằng
sống của họ.
Và vì các linh hồn hư đi sau khi qua khỏi đời này không thể không nhận biết
Thiên Chúa hằng sống như Ngài đã tỏ tất cả mình ra là nơi Chúa Giêsu Kitô,
một cách bất đắc dĩ không chân nhận không được, mà linh hồn hư đi ấy vẫn tồn
tại với cả thân xác của họ, vô cùng ở đời sau, trong cõi đời đời. Nhưng tình
trạng hư đi của họ hoàn toàn khác với tình trạng của các linh hồn được cứu
rỗi là thành phần, nhận biết Thiên Chúa chân thật duy nhất nhờ Thánh
Thần, như lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, "xét đáng được dự
phần đời sau và được sống lại từ cõi chết", một cách rạng ngời "giống
như thân xác vinh hiển của Người (Chúa Kitô)" (Philiphê 3:21).
Sách Tiên Tri Daniên trong Bài Đọc 1 Chúa Nhật XXXII vừa rồi cũng chứng thực
như vậy, chứng thực rằng cả kẻ dữ người lành đều sống lại, nhưng kẻ lành thì
hiển vinh sáng láng: "Nhiều kẻ an giấc trong bụi đất sẽ chỗi dậy; có
người sẽ được hưởng phúc trường sinh, có kẻ phải tủi nhục muôn đời. Những
người thông minh sẽ sáng chói như ánh sáng vòm trời, và những kẻ khuyên dạy
sự công chính cho nhiều người, sẽ nên như các vì tinh tú tồn tại muôn ngàn
đời".
Kinh nghiệm nhân sinh cho thấy con người ta khi còn sống trên đời này, vì
bản tính đã bị nhiễm lây nguyên tội, nên luôn hướng hạ theo trần tục hơn là
hướng thượng sống siêu nhiên, cho dù linh hồn họ được Thiên Chúa dựng
nên để được hạnh phúc trường sinh ở đời sau. Và chính vì linh hồn con người
vô hình thiêng liêng tự bản chất bất tử "như các thiên thần" mà họ
rất sợ chết, và cho dù cả đời có tìm kiếm đủ mọi thứ thỏa mãn trên trần gian
này họ vẫn không no thỏa, vẫn không thể nào thỏa đáng được ước vọng bất tử
của chính cõi lòng luôn hướng về vô biên viên mãn của con người.
Mầu nhiệm phục sinh hay viễn tượng phục sinh của thân xác con người mà những
người thuộc phái Sađốc không tin, nhưng được Chúa Giêsu khẳng định về thực
tại sự sống bất diệt của thân xác con người sau cuộc chung thẩm, và còn được
Sách Khải Huyền của ở Bài Đọc 2 hôm nay chứng nhận khi cho thấy về trường
hợp:
"Hai chứng tá của Ta là hai cây ôliu và hai cây đèn đặt trước
mặt Chúa Tể địa cầu. Và nếu ai toan
hãm hại các ngài, thì sẽ có lửa từ miệng các ngài phun ra tiêu diệt các địch
thù; ai toan làm hại các ngài thì chính kẻ ấy phải bị giết như vậy. Các ngài
có quyền đóng cửa trời, khiến trời không mưa trong những ngày các ngài nói
tiên tri. Các ngài lại có quyền biến nước thành máu, và gieo tai hoạ cho
trần gian bất cứ lúc nào tùy ý”.
Thế nhưng, chính vì quyền năng của hai nhân chứng này
như thế mà hai vị đã trở thành mục tiêu tấn công của “mãnh
thú từ vực thẳm lên sẽ giao chiến với các ngài, nó sẽ thắng và giết chết các
ngài”. Tuy nhiên, như Chúa Kitô bị sát hại về phương diện nhân tính, vẫn
sống lại về phương diện thần tính thế nào, hai chứng nhân này cũng thế, cũng
phục sinh như vậy:
“Thi thể các ngài sẽ bị bêu nơi công trường của Thành lớn, gọi cách bóng bảy
là Sôđôma và Ai-cập, là nơi Chúa các ngài đã bị đóng đinh. Thiên hạ thuộc
mọi chi tộc, mọi dân, mọi nước, và mọi ngôn ngữ, đã xem thấy thi thể các
ngài trong ba ngày rưỡi, và người ta không để cho thi thể các ngài được chôn
cất trong mộ. Dân chúng trên khắp mặt đất sẽ vui mừng vì cái chết của các
ngài và hoan hỉ tặng quà cho nhau, vì hai vị tiên tri ấy đã từng làm cho họ
chịu nhiều khổ cực. Nhưng sau ba ngày rưỡi, (sinh khí từ) Thiên Chúa nhập
vào các ngài. Và các ngài đứng dậy, khiến cho những người trông thấy phải
khiếp sợ. Rồi các ngài nghe có tiếng vang lớn từ trời phán cùng các ngài
rằng: 'Hãy lên đây'. Các ngài liền lên trời, trong đám mây trước mắt các
địch thù của các ngài.”
Việc phục sinh của con người là do Thiên Chúa, Đấng
giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết, Đấng mà con người cần phải tin
tưởng, như tâm tưởng được chất chứa trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa là Ðấng rèn
luyện cho tay con biết đấu tranh, cho các ngón tay con thiện nghề chinh
chiến.
2) Chúa là tình thương và là chiến luỹ, là Ðấng phù trợ và giải phóng con.
Chúa là khiên thuẫn, là chỗ con nương náu; Ngài bắt chư dân phải khuất phục
con.
3) Ôi Thiên Chúa, con sẽ hát mừng Ngài bài ca mới;
với cây đàn mười dây, con sẽ ca mừng Ngài, vì Ngài đã ban cho các vua chiến
thắng, đã giải phóng Ðavít là tôi tớ của Ngài.