SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Gn 3, 1-5. 10
"Dân thành tin tưởng nơi Chúa: họ công bố việc ăn chay".
Trích sách Tiên tri Giona.
Lời Chúa phán cùng Giona rằng: "Hãy chỗi dậy và đi đến Ninivê, một thành phố lớn, và rao giảng cho nó điều Ta sẽ nói cho ngươi". Giona chỗi dậy và đi đến Ninivê theo lời Chúa dạy. Ninivê là một thành phố lớn, rộng bằng ba ngày đàng, Giona tiến vào thành phố đi một ngày đàng, rồi rao giảng rằng: "Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá huỷ". Dân thành tin tưởng nơi Chúa: họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa bỏ ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 24, 4bc-5ab. 6-7bc. 8-9.
Ðáp: Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. (c. 4b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con. - Ðáp.
2) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 7, 29-31
"Bộ mặt thế gian này đang qua đi".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi nói cùng anh em điều này là: Thời giờ vắn vỏi; còn có cách là những ai có vợ, hãy ở như không có; những ai than khóc, hãy ăn ở như không than khóc; những kẻ hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những người mua sắm, hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời này, hãy ăn ở như không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian này đang qua đi.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mc 1, 15
Alleluia, alleluia! - Nước Chúa đã gần đến, hãy tin tưởng vào Phúc Âm. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 1, 14-20
"Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, Người nói: "Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm". Ðang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển, vì các ông là những người đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người". Lập tức các ông bỏ lưới theo Người. Ði xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
ĐỨC KITÔ - LỜI RAO GIẢNG TIÊN KHỞI
Có thể nói, theo Thánh ký Marco, Chúa Giêsu bắt đầu chính thức thi hành thừa tác vụ Thiên Sai Cứu Thế của mình từ bài Phúc Âm hôm nay. Tức là, sau biến cố Người chịu Phép Rửa của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả và chay tịnh 40 ngày trong hoang địa, như phần đoạn đầu tiên bao gồm các câu Phúc Âm trước các câu của Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật Thứ III Mùa Thường Niên Năm B hôm nay.
Tuy nhiên, theo phụng vụ, sau biến cố Người lãnh nhận Phép Rửa, Người chưa vào hoang địa 40 ngay để chay tịnh và chịu cám dỗ. Trái lại, theo Thánh ký Gioan, Người còn ở gần Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả ít là 2 ngày nữa sau biến cố Phép Rửa (xem Gioan 1:29, 35, 43). Thậm chí, cũng theo Phúc Âm Thánh Gioan, có thể Chúa Giêsu còn về Galilêa để dự tiệc cưới Cana "vào ngày thứ ba" sau biến cố Phép Rửa nữa (xem Gioan 2:1). Đó là lý do Giáo Hội đã cố ý chọn đọc ba bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan về thời đoạn mấy ngày chuyển tiếp lưng chừng này cho Chúa Nhật II Thường Niên, trước khi tới bài Phúc Âm cho Chúa Nhật III Thường Niên Năm B hôm nay.
Ngay chi tiết đầu tiên của bài Phúc Âm hôm nay cũng cho thấy một sự kiện chuyển tiếp thật tuyệt vời, sự kiện chuyển tiếp từ một tận điểm sang một khởi điểm đã được ấn định cần phải khít khao xẩy ra, đó là: "Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa". Đúng thế, Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả dù sao cũng chỉ được sai đến để dọn đường cho "Đấng đến sau" (trước biến cố Phép Rửa, như các bài Phúc Âm Nhất Lãm trong Mùa Vọng cho thấy) và để làm chứng cho Người là "Chiên Thiên Chúa" (như các bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan cho thấy trong các ngày 2-5/1 trước Lễ Hiển Linh ngày 6/1), tự bản thân của ngài "không phải là ánh sáng" (Gioan 1:8), mà ngài chỉ "được sai đến... để làm chứng cho ánh sáng" (Gioan 1:6-7), cho tới khi "ánh sáng thực chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), thì "bị bắt" và bị nhốt ở trong ngục tối, như ánh sáng của "cây đèn" (xem Gioan 5:35) tự nhiên phải trở nên mờ khuất trước ánh sáng xuất hiện: "Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa".
Bài Phúc Âm hôm nay bao gồm 2 phần rõ ràng: Phần đầu liên quan đến Lời Rao Giảng Tiên Khởi của Chúa Kitô, và phần sau liên quan đến việc Người chọn 4 môn đệ đầu tiên là hai cặp anh em ở cùng quê và cùng làm một nghề đánh cá là cặp anh em Simon - Anrê và cặp anh em Giacobê - Gioan. Thế nhưng, căn cứ vào nội dung và chiều hướng chung của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, thì ý tưởng chính yếu ở ngay Lời Rao Giảng Tiên Khởi của Chúa Kitô: "Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm".
Thật vậy, trong Lời Rao Giảng Tiên Khởi này của mình, Chúa Kitô, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14), đã mạc khải cho thấy cả "những sự trên trời" lẫn "những sự dưới đất" (Gioan 3:12). Chúa Giêsu đã mạc khải cho thấy "những sự trên trời", đó là: "Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến", liên quan đến phần của Thiên Chúa; Chúa Giêsu đã mạc khải cho thấy "những sự dưới đất", đó là: "Các người hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm", liên quan đến phần của con người.
Chính vì "thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến", ở chỗ thời điểm Thiên Chúa có ý định hoàn tất lời hứa cứu độ của Ngài với nguyên tổ loài người ngay sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15) đã thực sự đến rồi, ngay từ Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh, mà nay bắt đầu được hiện lộ nơi việc chính thức tỏ mình ra của "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14), Đấng đến để thiết lập Vương Quốc của Thiên Chúa trên trần gian này bằng Cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc Vượt Qua từ sự chết đến sự sống, khiến cho vương quốc cùng với các công việc của ma quỉ hoàn toàn bị phá hủy (xem 1 Gioan 3:8). Đó là lý do khi Chúa Kitô bắt đầu công bố Lời Rao Giảng Tiên Khởi này thì quả thực là "nước Thiên Chúa đã gần đến", về thời gian chỉ còn khoảng 3 năm ngắn gọn, thế thôi.
Thế nhưng, muốn được hưởng Ơn Cứu Độ của Người, nghĩa là muốn được vào Nước Thiên Chúa do Người thiết lập, con người cần phải "ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm", một cặp điều kiện, hay đúng hơn, một điều kiện lưỡng diện bất khả thiếu và bất khả phân ly để con người được cứu độ, được vào Nước Thiên Chúa. Có nghĩa là phải chân nhận mình là con người tội lỗi đáng thương, ở chỗ "ăn năn sám hối", với tất cả lòng tin tưởng vào "Phúc Âm Sự Sống - Evangelium Vitae" là Lòng Thương Xót Chúa, Đấng duy nhất có thể chẳng những cứu mình khỏi tội lỗi và sự chết mà còn cho mình được thông hiệp sự sống thần linh vô cùng trọn hảo viên mãn của Ngài.
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay cho thấy cả Bài Đọc I lẫn Bài Đọc II đều đáp ứng Lời Rao Giảng Tiên Khởi khẩn trương có tính cách mời gọi này của Chúa Kitô: "hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm". Nếu trong Bài Đọc I, dân thành Ninivê thuộc dân ngoại đã làm gương "ăn năn sám hối" thật tuyệt vời: "Dân thành tin tưởng nơi Chúa: họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ", đến độ, "Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa bỏ ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó", thì ở Bài Đọc II, Vị Tông Đồ Dân Ngoại đã khuyên Kitô hữu thuộc giáo đoàn Corintô "hãy tin tưởng vào Phúc Âm", tức hãy sống đức tin như thế này:
Chính vì "Thời giờ vắn vỏi", một sự kiện "vắn vỏi" ở ngay đầu lời khuyên này của Thánh Phaolô như âm vang lời Chúa Kitô mạc khải "Nước Thiên Chúa đã gần đến" ở trong bài Phúc Âm, mà Kitô hữu chỉ "còn có cách là những ai có vợ, hãy ở như không có; những ai than khóc, hãy ăn ở như không than khóc; những kẻ hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những người mua sắm, hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời này, hãy ăn ở như không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian này đang qua đi". Có nghĩa là một khi sống bởi đức tin và sống theo đức tin thì chẳng khác gì Kitô hữu sống ở thế gian mà không thuộc về thế gian, coi mọi sự chỉ là phương tiện để đạt đến cùng đích, để phục vụ Nước Trời.
Trước hết là gương sám hối thật tuyệt vời của dân thành Ninive: ở chỗ họ là dân ngoại, hoàn toàn không biết gì một Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của dân Do Thái, một dân tộc lại tỏ ra khinh bỉ họ, thế mà họ vẫn chấp nhận vị tiên tri của dân Do Thái (chứ không phải tiên tri của họ). Đến độ, vị tiên tri này vừa đi rao giảng ngày đầu tiên trong 3 ngày thôi mà họ đã đồng loại bảo nhau, từ vua tới dân, từ người đến thú phải tỏ ra những hành động ăn năn sám hối. Trước lòng thành đầy tin tưởng của một thành dân ngoại này, Thiên Chúa là Đấng vô cùng nhân hậu làm sao có thể giáng phạt họ chứ! Nên "Người không thực hiện điều đó".
Trái lại, chính dân Do Thái là dân Chúa lại không chịu sám hối. Điển hình là chính tiên tri Giona. Khi thấy dân Ninive sám hối và được Chúa tha thì lại giận Chúa, như trình thuật sau biến cố của bài Đọc I hôm nay cho thấy. Thành phần trí thức và lãnh đạo của dân Do Thái cũng có sám hối gi đâu. Lý do chính yếu sở dĩ thành phần này của dân Do Thái không thể và lhó thể tin nhân vật Giêsu Nazarét là Đấng Thiên Sai, là Lời Chúa, là "Phúc Âm" của Thiên Chúa, là vì họ không sám hối, bởi họ cho mình là công chính, nghĩa là họ "không giống như tên thu thuế kia" (xem Luca 18:11), thành phần tội lỗi mới cần phải ăn năn sám hối.
Sau nữa, gương sống động nhất của thành phần "tin vào Phúc Âm" này chính là 4 người môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu kêu gọi trong bài Phúc Âm hôm nay, 4 chàng thanh niên có gia đình và nghề nghiệp đàng hoàng. Ở chỗ, vừa được nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, một nhân vật mới quen với anh em Anrê và Simon (xem Gioan 1:40-42), lên tiếng kêu gọi "'Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người'. Lập tức các ông bỏ lưới theo Người. Ði xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người".
Đúng thế, Chúa Giêsu Kitô chính là Phúc Âm của Thiên Chúa, là tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa (xem Gioan 14:9), mà nếu không tin tưởng vào Người, như "tin vào Phúc Âm", thì 4 chàng thanh niên chuyên nghiệp đánh cá này không thể nào có thể tác hành một cách vô cùng điên rồ dại dột trước mắt thế gian như vậy: "Lập tức các ông bỏ lưới theo Người", hay "bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người". Thế mới biết mãnh lực vô cùng hấp dẫn xuất phát từ "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" đã có tác dụng thần linh như thế nào nơi những ai "tin vào Phúc Âm" như hai cặp anh em trong Bài Phúc Âm hôm nay, những con người chân thành chất phác, đầy lòng khao khát thần linh và cởi mở trước tác động thần linh, như tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con.
2) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài.
3) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa.
Ngày 21: Thánh Anê, đồng trinh tử đạo
(290-304)
Căn
cứ vào sử liệu, chúng ta chỉ có thể phác họa được một vài nét chấm phá về thánh
nữ: Thuộc dòng dõi quý tộc, chịu chết vì đạo khi lên 13 tuổi, năm 304 dưới thời
hoàng đế Ðiôclêtianô. Cuộc sống đầy can đảm của thánh nữ được gói ghém qua hai
truyền thống sau đây:
Trong cuốn "Ðời sống các trinh nữ", thánh Ambrôsiô đã cho chúng ta biết: mặc dù
chỉ là một cô bé thuộc lứa tuổi thiên thần, thánh nữ không bao giờ run sợ mà
trái lại sẵn sàng lãnh chịu mọi cực hình dã man của bọn người khát máu. Với thân
hình mảnh mai, với vẻ mặt ngây thơ, thánh nữ tiến ra pháp trường, khiến cho
những kẻ ghét đạo cũng phải bùi ngùi thương cảm. Trước những lời dụ dỗ và ngăn
cấm của quan tòa, cô bé Anê lúc nào cũng lẩm bẩm: "Tôi chỉ tin một Ðức Kitô,
Ðấng tôi hằng yêu mến", để rồi một lưỡi gươm đã kết thúc cuộc đời thánh nữ, như
của lễ trong sạch dâng lên Chúa.
Qua
những văn kiện của Giáo Hội Ðông Phương, chúng ta còn biết thêm rằng thánh nữ
sinh quán tại La Mã. Mới mười hai tuổi đầu, cô bé đã mạnh dạn rao giảng Ðức Kitô
là Thiên Chúa, vì thế ông đô trưởng bắt cô bé bỏ vào lầu xanh cốt làm hoen ố tâm
hồn và thể xác. Tuy nhiên thánh nữ lúc nào cũng là một đóa sen, tỏa hương thơm
giữa bùn nhơ, không một chàng trai nào dám đụng chạm tới thánh nữ. Trước sự căm
phẫn của đám đông tàn bạo, ông đô trưởng đã ra lệnh thiêu sống thánh nữ.
Mặc
dù hai bản khác nhau về chi tiết, nhưng cũng đủ tạo nên một cái nhìn tổng quát.
Hài cốt thánh nữ được an táng tại biệt thự của gia đình. Năm 321, công chúa của
hoàng đế Constantin được thánh nữ chữa khỏi bệnh, đã xây trên phần mộ một thánh
đường nguy nga. Thánh Ambrôsiô đã viết về ngài: Hôm nay là ngày sinh của một
trinh nữ, chúng ta hãy noi gương khiết tịnh. Hôm nay là ngày sinh của một vị tử
đạo, chúng ta hãy dâng lên như lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa.
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (năm II) 2 Sm 5, 1-7. 10
"Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel dân Ta".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, toàn thể chi tộc Israel đến cùng Ðavít tại Hebron mà nói rằng: "Ðây chúng tôi là cốt nhục của ngài. Nhưng từ trước đến giờ, khi Saolê đang làm vua chúng tôi, thì chính ngài đã dẫn dắt Israel. Và Chúa đã nói với ngài rằng: "Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel dân Ta, và sẽ trở nên thủ lãnh Israel". Vậy tất cả các vị kỳ lão Israel đều đến tìm nhà vua tại Hebron, và tại đó, vua Ðavít ký kết với họ một giao ước trước mặt Chúa. Họ liền xức dầu phong Ðavít làm vua Israel. Khi Ðavít lên làm vua, ngài được ba mươi tuổi, và cai trị được bốn mươi năm. Tại Hebron, ngài cai trị Giuđa được bảy năm rưỡi. Còn tại Giêrusalem, ngài cai trị toàn cõi Israel và Giuđa được ba mươi ba năm.
Nhà vua và tất cả quân sĩ theo ngài kéo đến Giêrusalem, đánh đuổi dân cư Giêbusê. Người ta nói với Ðavít rằng: "Ông đừng vào đây, bằng không những người mù què sẽ đánh đuổi ông". Như thế có nghĩa là: "Ðavít sẽ không vào được nơi này". Nhưng Ðavít đã chiếm đóng đồn Sion làm kinh thành của Ðavít.
Và Ðavít vào thành, càng ngày càng trở nên cường thịnh, và Chúa là Thiên Chúa các đạo binh phù hộ nhà vua.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 88, 20. 21-22. 25-26
Ðáp: Thành tín và ân sủng của Ta hằng ở với người (c. 25a).
Xướng: 1) Xưa trong cuộc thị kiến, Chúa đã phán cùng bầy tôi Chúa: "Ta đội mão triều thiên cho vị anh hùng, Ta cất nhắc người được kén chọn tự trong dân. - Ðáp.
2) Ta đã gặp Ðavít là tôi tớ của Ta, Ta đã xức dầu thánh của Ta cho người, để tay Ta bang trợ người luôn mãi, và cánh tay Ta củng cố thân danh người. - Ðáp.
3) Thành tín và ân sủng của Ta hằng ở với người, và nhân danh Ta, sức mạnh người tăng thêm mãi. Ta đặt tay người trên mặt biển, và tay hữu người, Ta đặt lên sông ngòi. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 3, 22-30
"Satan phải diệt vong".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, những luật sĩ từ Giêrusalem xuống nói rằng: "Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám", và nói thêm rằng: "Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ". Khi đã gọi họ lại, Chúa Giêsu phán bằng dụ ngôn rằng: "Satan lại trừ Satan làm sao được? Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại làm sao được? Vậy nếu Satan dấy lên chống đối với chính mình và tự phân tán, thì nó không thể đứng vững được mà phải diệt vong. Chẳng ai có thể vào nhà một người khoẻ mạnh và cướp của y, nếu không trói được y trước đã, rồi sau mới cướp phá nhà y. Quả thật, Ta bảo các ông hay, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời". Ðó là vì họ nói "Người bị thần ô uế ám".
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Đức Kitô Quyền
Năng
Hôm nay, Thứ Hai, ngày thường đầu tiên trong Tuần 3 Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung thời điểm phụng vụ này vẫn tiếp tục phản ảnh nơi bài Phúc Âm hôm nay.
Bài Phúc Âm hôm nay Thánh ký Marco thuật lại sự kiện đụng độ giữa "những luật sĩ từ Giêrusalem đến" và Chúa Giêsu, một cuộc đụng độ càng cho thấy bản chất "đầy ân sủng và chân lý" của "Người Con duy nhất đến từ Cha" này. Ở chỗ, cho dù bị xuyên tạc chụp mũ Người vẫn "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29), vẫn nhẫn nhịn giúp cho đối phương nhận ra cái sai lầm của họ và cảnh giác họ để họ khỏi bị đời đời hư mất.
Thật vậy, khi thấy danh tiếng của Chúa Giêsu càng ngày càng nổi nang khắp nơi trong dân chúng, cho dù Người mới chỉ ở Galilêa thuộc miền bắc đất nước Do Thái, chứ chưa xuống tới Giuđêa thuộc miền nam là nơi toàn tòng dân Do Thái và có giáo đô Giêrusalem là trung tâm của Do Thái giáo, thành phần "những luật sĩ từ Giêrusalem đến nói rằng 'Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám', và nói thêm rằng: 'Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ'".
Không biết thành phần luật sĩ từ Giêrusalem đến này từ bao lâu rồi, đã tận mắt xem thấy Chúa Giêsu trừ quỉ hay chưa, hoặc chỉ nghe nói đến thôi, rồi suy diễn một cách méo mó như vậy để chống phá đối phương mới trở nên nổi tiếng, với chủ đích hạ bệ đối thủ của mình xuống càng sớm càng tốt?!
Tuy nhiên, nếu "miệng nói ra những gì đầy trong lòng", như chính Chúa Giêsu đã nói với những người Pharisiêu trong Phúc Âm của Thánh ký Mathêu (12:34) cũng có cùng chủ trương như những người luật sĩ trong bài Phúc Âm hôm nay, thì nội dung của lời phát biểu này dường như chất chứa tính cách cạnh tranh xuất phát từ lòng ghen ghét, chứ chưa nói đến tính cách hết sức phạm thượng của nó, của những ai phát ngôn như thế.
Thế nhưng, cho dù bị phạm thượng như vậy, Chúa Giêsu chẳng những đã không nổi giận, quát mắng họ hay thậm tệ quở trách họ, như Người sẽ làm sau này, được thấy ở nguyên đoạn 23 Phúc Âm Thánh Mathêu, mà còn hết sức nhân từ "gọi họ lại" và "dùng tỉ dụ" (như cha mẹ hay thày cô dạy cho đám học trò con nít của mình) cho dễ hiểu để nhờ đó vạch ra cho họ thấy những gì sơ hở đầy mẫu thuẫn nơi cái nhận định và lập luận vừa thiển cận nông nổi vừa mâu thuẫn mù tối của họ, bằng cách Người đã lấy gậy ông đập lưng ông, như sau:
"Satan lại trừ Satan làm sao được? Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại làm sao được? Vậy nếu Satan dấy lên chống đối với chính mình và tự phân tán, thì nó không thể đứng vững được mà phải diệt vong". Tức là Chúa Giêsu muốn nói với thành phần luật sĩ đầy thế lực từ giáo đô Giêrusalem rằng: quí vị thật là mâu thuẫn, chẳng hiểu gì cả, nếu tôi như quí vị nói "bị quỉ Belzebul ám" nhờ đó tôi mới có thể "nhờ chính tướng quỷ mà trừ quỷ" thì ma quỉ tự chúng chia rẽ nhau mà chết thôi - làm gì có cái chuyện hoang đường là ma quỉ quay ra tàn sát lẫn nhau để hủy diệt đi vương quốc tử thần của chúng chứ?
Chưa hết, Chúa Giêsu muốn lợi dụng dịp này để chẳng những sửa lỗi cho họ mà còn tỏ mình ra cho họ thấy rõ hơn một chút nữa, hy vọng họ thấy được quyền phép thần linh của mình là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", một quyền phép vô địch còn hơn cả quyền lực chết chóc của thần dữ, ở chỗ còn khống chế được cả ma quỉ là loài vẫn từng thống trị loài người từ sau nguyên tội: "Chẳng ai có thể vào nhà một người khoẻ mạnh và cướp của y, nếu không trói được y trước đã, rồi sau mới cướp phá nhà y".
Không biết các nhà luật sĩ khôn ngoan thông thái trong bài Phúc Âm hôm nay, nghe xong câu nói nhẹ nhàng xa xa bóng gió này của Chúa Giêsu có hiểu ý Người muốn nói hay chăng, nhưng thực tại đúng là như thế, đúng là Người có một quyền lực vô địch, một quyền lực sẽ đạt đến tột đỉnh của mình nơi cuộc Vượt Qua chiến thắng tội lỗi và sự chết của Người.
Tình thương của Chúa Giêsu tỏ ra với thành phần luật sĩ mù quáng trong bài Phúc Âm hôm nay không phải chỉ ở chỗ: 1- vạch ra cho họ thấy cái sai lầm của họ; và 2- tỏ cho họ thấy quyền lực thần linh trừ quỉ của Người, mà còn 3- cảnh báo về phần rỗi đời đời của họ nữa, như thể khuyên họ hãy cẩn thận và coi chừng thứ tội nguy hiểm được Người thẳng thắn cho họ biết rằng:
"'Quả thật, Ta bảo các ông hay, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời'. Ðó là vì họ nói 'Người bị thần ô uế ám'".
Căn cứ vào lời cảnh báo này của Chúa Giêsu thì ở đây Chúa Giêsu nói đến kẻ phạm tội "kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần... nó mắc tội muôn đời'", hơn là thứ tội "phạm đến Chúa Thánh Thần", và hình phạt muôn đời giành cho kẻ phạm một thứ tội phạm thượng khủng khiếp, dám cho "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" là Đấng có thể khống chế quyền lực của thần dữ "bị thần ô uế ám", có nghĩa là dám hoàn toàn phủ nhận Thánh Linh là "quyền phép Đấng Tối Cao" (Luca 1:35) ở trong Người và làm việc đó, và vì thế cũng có nghĩa là gián tiếp không chấp nhận Người là Đấng Thiên Sai, Đấng Được Xức Dầu Thánh Linh, một điều kiện tối yếu bất khả thiếu để được cứu độ (xem Marco 16:16).
Vấn đề được đặt ra ở đây là: tội "nói phạm đến Chúa Thánh Thần" là tội như thế nào mà khủng khiếp đến độ "sẽ muôn đời không bao giờ được tha" hay "không được tha cả ở đời này hay đời sau" (Mathêu 12:32), và tại sao thứ tội này lại gây ra một hậu quả kinh hoàng đến như thế? Bởi vì, căn cứ vào chi tiết được chính Thánh ký Marco dẫn giải thêm ngay sau Chúa Giêsu nói: "Người nói như vậy vì họ đã nói 'Người bị thần ô uế ám'". Có nghĩa là thành phần nói "Người bị thần ô uế ám" tỏ ra chẳng những không chấp nhận tác động của Thánh Linh nơi Chúa Kitô mà còn xuyên tạc và chụp mũ tác động toàn năng của Thánh Linh qua Chúa Kitô nữa, thay vì công nhận Chúa Kitô được Thánh Linh tác động thì lại cho Người bị thần ô uế ám, nghĩa là, ở một nghĩa nào đó, họ cho Thánh Linh nơi Chúa Kitô là một thứ thần ô uế. Quả là vô cùng lộng ngôn phạm thượng, tự lời nói đó, ý nghĩ đó, không thể nào được tha thứ.
Tuy nhiên, vấn đề tiếp theo được đặt ra ở đây nữa là: nếu Thiên Chúa là Tình Yêu Vô Cùng Nhân Hậu có thể tha thứ tất cả mọi tội lỗi của con người, đúng như Chúa Giêsu khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay: "mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết", nhưng vẫn có một tội không thể thứ tha, đó là tội "nói phạm đến Chúa Thánh Thần", vì nó là một thứ tội phạm đến chính Thần Tính của Chúa Kitô, hơn là phạm đến nhân tính của Người, như Người đã khẳng định: "Ai nói phạm đến Con Người sẽ được tha thứ" (Mathêu 12:32). Vì phạm đến nhân tính của Chúa Kitô thì còn có thể tha thứ, là vì con người trần gian dễ bị lầm lạc trước một Vị Thiên Chúa vô cùng uy nghi cao cả đã hóa thân làm người ngoài sức tưởng tượng của con người, như trường hợp các tông đồ nói chung và tông đồ Phêrô nói riêng đối với mầu nhiệm khổ nạn và tử giá của Người (xem Mathêu 16:23).
Vấn đề tội "nói phạm đến Chúa Thánh Thần" chưa hoàn toàn dừng lại ở 2 vấn đề trên. Bởi vì, nếu ai "nói phạm đến Chúa Thánh Thần" chỉ vì lầm, vào một lúc nào đó, thì sao, họ có được tha hay chăng khi họ nhận ra chân lý và tỏ lòng ăn năn thống hối? Thưa có, vì ở trong Bài Phúc Âm này Chúa Giêsu chỉ nói đến chính bản chất vô cùng xúc phạm của tội "nói phạm đến Chúa Thánh Thần" thôi, và tội này trầm trọng tới nỗi "sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời". Nếu tội lỗi tự bản chất của nó là những gì gian dối, sai phạm, lầm lạc, gây ra bởi chủ thể tác nhân con người hữu hạn, nên bất cứ tội nào cũng đã được Chúa Kitô cứu chuộc thứ tha hết rồi. Vậy có thể suy diễn rằng việc "nói phạm đến Chúa Thánh Thần" là tội không chấp nhận tác động của Chúa Thánh Thần ở vào giây phút cuối cùng, một tác động của một Vị Thiên Chúa là Tình Yêu vô cùng nhân hậu "yêu cho đến cùng" (Gioan 13:1) chỉ mong muốn tha thứ cho họ để họ được cứu rỗi! Nếu Thánh Linh là Thâm Cung Thương Xót thì tội "nói phạm đến Chúa Thánh Thần" là tội từ chối được Thiên Chúa thương xót.
Đúng vậy, nếu việc phạm tội của Kitô hữu cần phải hội đủ 3 yếu tố thiết yếu bất khả thiếu, ở chỗ: 1- điều mà Kitô hữu vấp phạm ấy thực sự là tội phản nghịch với lề luật của Thiên Chúa, 2- tác nhân chủ thể bởi lương tâm đã rõ ràng biết được điều ấy là tội, 3- nhưng họ vấn cố ý nhất định vị phạm điều thực sự tội lỗi ấy thế nào, thì tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội "muôn đời không bao giờ được tha", tức đời đời hư đi cũng có thể nói rằng cần phải hội đủ 3 yếu tố bất khả phân ly sau đây: 1- bất chấp tác động của Chúa Thánh Thần là tác động nhờ đó tâm hồn nhận ra chân lý hầu được sự sống thần linh, 2- nhưng tâm hồn vẫn cứ liên tục cố chấp cự tuyệt, thậm chí cho tới giây phút cuối cùng, 3- bởi tự công chính hóa bản thân cho mình không cần ăn năn sám hối để được ơn tha thứ, hay ngược lại đã mất khả năng ăn năn sám hối, hoặc cho mình không thể tha thứ được nữa. Nếu bất cứ một tội nào, dù nặng đến đâu chăng nữa, dù nhiều đến mấy chăng nữa, cũng không thể nào vượt trên hay vượt ra ngoài Lòng Thương Xót Chúa vô cùng bất tận, thì chỉ có tâm hồn nào ở trong tình trạng băng hoại đến độ không thể ra khỏi mồ như Lazarô đã xông mùi mới thật sự bị hư đi mà thôi, và đó mới là lý do khiến cho Lòng Thương Xót Chúa phải rơi lệ mà thôi (xem Gioan 11:35-44).
Trong Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay cũng thế, sau khi được phong vương để làm vua của toàn cõi đất nước Do Thái bấy giờ, (như Chúa Giêsu nổi tiếng khắp cả đất nước Do Thái sau này), "Nhà vua và tất cả quân sĩ theo ngài kéo đến Giêrusalem, đánh đuổi dân cư Giêbusê. Người ta nói với Ðavít rằng: 'Ông đừng vào đây, bằng không những người mù què sẽ đánh đuổi ông'. Nghĩa là: 'Ðavít sẽ không vào được nơi này'. Nhưng Ðavít đã chiếm đóng đồn Sion làm kinh thành của Ðavít. Và Ðavít vào thành, càng ngày càng trở nên cường thịnh, và Chúa là Thiên Chúa các đạo binh phù hộ nhà vua".
Qua câu Thánh Kinh được trích từ Sách Samuel quyển 2 trong Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy, cho dù bị dân cư Giêbusê chống cưỡng, (như thành phần luật sĩ ở Giêrusalem đến chống phá Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay), Vua Đavít vẫn có thể làm được những gì cần phải làm để thống nhất đất nước và lấy "Sion làm kinh thành", (như Chúa Giêsu trừ quỉ để thống nhất loài người lại bằng việc thiết lập vương quốc của Thiên Chúa), nhờ "Thiên Chúa các đạo binh phù hộ nhà vua" (như Chúa Giêsu đã trừ quỉ bằng quyền năng Thánh Linh vậy).
Bài Đáp Ca hôm nay gián tiếp liên quan đến Bài Phúc Âm hôm nay và trực tiếp liên hệ với Bài Đọc 1 hôm nay, vì cả hai đều liên quan đến quyền năng cứu độ của Thiên Chúa, cách riêng nơi Đavít, và Đavít lại là hình ảnh ám chỉ Đức Kitô Thiên Sai là Đấng sẽ đến để giải thoát và chăn dắt dân Chúa: "Vương quốc của Người sẽ vô tận" (Luca 1:33).
1) Xưa trong cuộc thị kiến, Chúa đã phán cùng bầy tôi Chúa: "Ta đội mão triều thiên cho vị anh hùng, Ta cất nhắc người được kén chọn tự trong dân.
2) Ta đã gặp Ðavít là tôi tớ của Ta, Ta đã xức dầu thánh của Ta cho người, để tay Ta bang trợ người luôn mãi, và cánh tay Ta củng cố thân danh người.
3) Thành tín và ân sủng của Ta hằng ở với người, và nhân danh Ta, sức mạnh người tăng thêm mãi. Ta đặt tay người trên mặt biển, và tay hữu người, Ta đặt lên sông ngòi.
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (năm
II) 2
Sm 6, 12b-15, 17-19
"Ðavít và toàn dân Israel hân hoan đi rước hòm bia Thiên Chúa".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Ðavít hân hoan đi mang hòm bia Thiên Chúa từ nhà Obêđê
về thành Ðavít. Vua dẫn theo bảy ca đoàn và đàn bò con làm của lễ. Khi những
người mang hòm bia Thiên Chúa đi được sáu bước, thì Ðavít hiến tế một con bò
và một con bê. Ngài tận lực nhảy múa trước Thiên Chúa. Ngài mang khăn vải
điều ngang lưng. Ngài và toàn thể nhà Israel mang hòm bia Thiên Chúa hân
hoan và trong tiếng kèn trống. Họ rước hòm bia Thiên Chúa vào đặt giữa nhà
tạm mà Ðavít đã dựng sẵn. Rồi ngài hiến dâng của lễ toàn thiêu và của lễ
bình an; ngài nhân danh Chúa các đạo binh mà chúc lành cho dân chúng, đoạn
ngài phân phát cho toàn dân Israel, nam cũng như nữ, mỗi người một ổ bánh
mì, một miếng thịt và một chiếc bánh chiên dầu. Và toàn dân giải tán, ai về
nhà nấy.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 23, 7. 8. 9. 10
Ðáp: Vua
hiển vinh là ai vậy? Chính Người là Thiên Chúa (c. 8a).
Xướng: 1) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để
vua hiển vinh Người ngự quá! - Ðáp.
2) Nhưng vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa dũng lực hùng anh, đó là Chúa
anh hùng của chiến chinh. - Ðáp.
3) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua
hiển vinh Người ngự quá. - Ðáp.
4) Nhưng vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa đạo thiên binh, chính Người là
Hoàng Ðế hiển vinh. - Ðáp.
Alleluia: Ga 15,15b
Alleluia, Alleluia. - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả
những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". -
Alleluia.
Phúc Âm: Mc 3,31-35
"Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời
Chúa ra.
Bấy giờ có đám đông ngồi chung quanh Người và họ trình với Người rằng: "Kìa
mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy".
Người trả lời rằng: "Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?"
Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: "Ðây là mẹ Ta và
anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ
Ta".
Ðó là Lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Đức Kitô Tình Nghĩa
Bài Phúc Âm cho ngày Thứ Ba trong Tuần 3 Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay vẫn tiếp chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung thời điểm phụng vụ này.
Thánh ký Marco thuật lại cho chúng ta biết sự kiện "mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra", cũng như phản ứng của Chúa Giêsu khi Người được "đám đông ngồi chung quanh Người trình với Người rằng: 'Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy'".
Phản ứng của Chúa Giêsu, qua cả lời nói lẫn cử chỉ tác hành của Người, như được thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay, như sau: "Người trả lời rằng: 'Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?' Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: 'Ðây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, người ấy là anh chị em và là mẹ Ta'".
Phải chăng Người tỏ ra như thể bị gia đình làm phiền Người đang khi Người thi hành sứ vụ Thiên Sai của Người, nên Người có thái độ như lạnh nhạt hơn là vồn vã với gia đình của Người, thậm chí Người còn có vẻ coi trọng thính giả của Người hơn cả gia đình của Người nữa.
Bề ngoài có thể là thế thật, nhưng tận sâu xa ở những lời nói và cử chỉ có vẻ tiêu cực này của mình, Người lại sử dụng đường lối phủ nhận cách liên quan đến mối liên hệ ruột thịt tự nhiên với gia đình của Người để khẳng định một chân lý hết sức quan trọng về mối liên hệ thiêng liêng với Người là những gì Người đang thiết lập và sẽ hoàn thành vào cuộc Vượt Qua của Người trong tương lai.
Thật vậy, là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", Người không đến chỉ cho Mẹ của Người hay gia đình của Người thôi, mà cho toàn thể nhân loại, được đại diện bởi thành phần thính giả của Người bấy giờ.
Nếu "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Gioan 1:14) như "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), để "ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12), thì Người quả thực, qua việc rao giảng và tỏ mình ra, "như ánh sáng chiếu soi mọi người", đang thiết lập mối liên hệ thiêng liêng với nhân loại, nghĩa là Người đang làm cho nhân loại tin vào Người, "chấp nhận Người", để họ "được quyền làm con Thiên Chúa" như Người và với Người.
Bởi thế, so với tình nghĩa thiêng liêng vô cùng chân thật, hoàn hảo và bền vững thì tình nghĩa xác thịt thấp hèn, hạn hữu và trần tục không thể nào sánh bằng, và vì thế tình nghĩa xác thịt tự nhiên cần phải được thăng hoa, cần được thánh hóa, cần phải được nâng cấp bằng lời Chúa.
Nếu tình nghĩa thiêng liêng với Chúa Kitô, như Người nói, ở chỗ "làm theo ý Thiên Chúa", như chính bản thân Người liên lỉ chú trọng và thực thi cho tới cùng, thì không còn ai hơn Mẹ của Người, một Trinh Nữ đã đáp ứng lời thiên sứ truyền tin Lời Nhập Thể bằng tất cả đức tin siêu vượt của mình qua tiếng "Xin Vâng" (Luca 1:38), cho đến khi "đứng chân Thánh Giá Chúa Giêsu" (Gioan 19:25).
Như vậy, lời nói và thái độ có vẻ dửng dưng lạnh lùng như phủ nhận gia đình mình của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay thực sự là những gì chẳng những phấn khích việc nâng cấp cho thành phần thính giả của Người bấy giờ mà nhất là còn cố ý chúc tụng Mẹ của Người, lấy Mẹ của Người như là một mô phạm cho thành phần thính giả ấy trong việc lắng nghe lời Chúa (xem Luca 2:19,51).
Đối với Kitô hữu chúng ta, căn cứ vào lời Chúa Giêsu khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay về thành phần là anh em và mẹ của Người, chúng ta chẳng những đã là anh em của Người khi lãnh nhận Phép Rửa, vì chúng ta đã trở nên con cái của Thiên Chúa, của Cha trên trời cũng là Cha của Người, mà còn, trong đời sống đức tin và tu đức của mình, cũng có thể trở thành mẹ của Chúa Kitô nữa. Ở chỗ, chúng ta có thể sinh Người ra cho các linh hồn, qua các chứng từ trung thực và sống động của chúng ta về Chúa Kitô, nhờ đó Chúa Kitô được nhận biết bởi những ai giao tiếp với chúng ta. Nghĩa là chúng ta đã được thụ thai Chúa Kitô khi chúng ta lắng nghe lời Người hay rước lấy Người trong Bí Tích Thánh Thể, và cưu mang Chúa Kitô bằng việc ở lại với Người, liên lỉ sống thân mật với Người, cho đến khi Người trở nên vẹn toàn nơi chúng ta (xem Epheso 4:13), để nhờ Người sống trong chúng ta (xem Galata 2:20) chúng ta trở thành chứng nhân của Người, giúp cho các tâm hồn nhận biết Người mà được tái sinh bởi Người.
Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay cũng cho thấy tính chất gia đình thiêng liêng hay mối liên hệ thiêng liêng hết sức cao quí nơi dân Do Thái, vượt lên trên tất cả các mối liên hệ tự nhiên trong mọi lãnh vực, như lãnh vực tam cươngcủa Khổng giáo là quân-sư-phụ: vua tôi, thày trò và cha con, ở sự kiện "Ðavít hân hoan đi mang hòm bia Thiên Chúa từ nhà Obêđê về thành Ðavít".
Trước hết, tính chất gia đình thiêng liêng nơi dân Do Thái dưới triều đại Vua Đavít là ở chỗ có Thiên Chúa ở giữa và ở cùng họ: "Họ rước hòm bia Thiên Chúa vào đặt giữa nhà tạm mà Ðavít đã dựng sẵn", một hành động, ở một nghĩa nào đó, theo đúng đường lối Chúa Giêsu đã khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay về mối liên hệ thiêng liêng với Người, ở chỗ "làm theo ý Thiên Chúa".
Sau nữa, tính chất gia đình thiêng liêng nơi dân Do Thái dưới triều đại Vua Đavít là ở chỗ vua tôi sống với nhau một cách bình dân thân tình, như Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại đặc biệt về hành động của vua: "Vua dẫn theo bảy ca đoàn và đàn bò con làm của lễ. Khi những người mang hòm bia Thiên Chúa đi được sáu bước, thì Ðavít hiến tế một con bò và một con bê. Ngài tận lực nhảy múa trước Thiên Chúa. Ngài mang khăn vải điều ngang lưng. Ngài và toàn thể nhà Israel mang hòm bia Thiên Chúa hân hoan và trong tiếng kèn trống".
Sau hết, tính chất gia đình thiêng liêng nơi dân Do Thái dưới triều đại Vua Đavít còn là ở chỗ vua đóng vai như cha mẹ của con dân, luôn quan tâm đến con dân của mình và chăm sóc cho con dân của mình: "Rồi ngài hiến dâng của lễ toàn thiêu và của lễ bình an; ngài nhân danh Chúa các đạo binh mà chúc lành cho dân chúng, đoạn ngài phân phát cho toàn dân Israel, nam cũng như nữ, mỗi người một ổ bánh mì, một miếng thịt và một chiếc bánh chiên dầu. Và toàn dân giải tán, ai về nhà nấy".
Nếu "đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa Trời - Ubi caritas et amor, Deus ibi est" thì ở đấy cũng là gia đình của Chúa, trong đó mọi người là anh em với nhau trong Chúa Kitô và với Chúa Kitô, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý". Cảm nhận này được bày tỏ trong Bài Đáp Ca hôm nay, một Bài Đáp Ca tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa là Vị Vua cần phải ngự đến ở giữa con dân của Ngài là dân Do Thái ngày xưa và Giáo Hội Nhiệm Thể Chúa Kitô ngày nay.
1) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh Người ngự quá!
2) Nhưng vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa dũng lực hùng anh, đó là Chúa anh hùng của chiến chinh.
3) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh Người ngự quá.
4) Nhưng vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa đạo thiên binh, chính Người là Hoàng Ðế hiển vinh.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (năm
II) 2
Sm 7, 4-17
"Ta sẽ cho con của ngươi kế vị, và bảo đảm triều đại ngươi".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Nathan lời này rằng: "Hãy đi và nói với
Ðavít tôi tớ Ta rằng: Chúa phán thế này: Có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta một
ngôi nhà để ở chăng? Vì từ ngày Ta dẫn dắt con cái Israel ra khỏi đất Ai-cập
cho đến ngày nay, Ta không ở trong nhà, nhưng Ta di chuyển trong nhà tạm và
trong trại. Khắp mọi nơi Ta đi qua với con cái Israel, có khi nào Ta nói
cùng một trong các chi họ Israel mà Ta truyền dạy chăn dắt Israel dân Ta
rằng: "Tại sao không xây cất cho Ta một ngôi nhà bằng cây hương nam?"
Giờ đây, ngươi hãy nói cùng Ðavít tôi tớ Ta rằng: "Chúa các đạo binh phán
thế này: Ta đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ lúc ngươi còn theo sau đoàn chiên,
để ngươi trở nên thủ lãnh Israel dân Ta và Ta đã ở cùng ngươi trong mọi nơi
ngươi đi. Ta sẽ tiêu diệt mọi quân thù trước mặt ngươi, và Ta sẽ làm cho
danh ngươi nên cao trọng như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ đặt để
một nơi cho Israel dân Ta, và Ta sẽ vun trồng nó tại đó. Nó sẽ ở đó và sẽ
không còn bị quấy rối nữa. Con cái sự dữ sẽ không còn đến đàn áp nó như xưa
nữa, như ngày Ta thiết lập các vị Thẩm phán trên Israel dân Ta. Ta sẽ cho
ngươi được bằng yên khỏi mọi quân thù. Và Chúa phán trước cho ngươi biết là
Chúa sẽ tạo lập cho ngươi một ngôi nhà. Ðến khi qua đời, ngươi sẽ được an
giấc cùng các tổ phụ ngươi. Kế đó Ta sẽ cho con của ngươi kế vị và làm cho
vương quốc ngươi vững mạnh. Chính người sẽ xây dựng cho danh Ta một ngôi
nhà, và Ta bảo đảm ngôi báu triều đại ngươi tồn tại đến muôn đời. Ta sẽ là
Cha người, và người sẽ là con Ta. Nếu người có phạm lỗi, Ta sẽ sửa trị người
bằng roi người lớn và bằng tai hoạ con cái loài người. Nhưng Ta sẽ không cất
khỏi người lòng từ bi của Ta, như Ta đã xử với Saolê, kẻ đã bị Ta khai trừ
khỏi mặt Ta. Và nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời
trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi!" Nathan đã thuật lại cho
Ðavít tất cả những lời và thị kiến này.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 88, 4-5. 27-28. 29-30
Ðáp: Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái (c.
29).
Xướng: 1) Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa. Ta đã thề cùng Ðavít là
tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta
thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ". - Ðáp.
2) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Ðá Tảng
cứu độ của con". Và Ta sẽ đặt người làm trưởng tử, cao sang hơn các vua chúa
ở trần gian. - Ðáp.
3) Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ
được mãi mãi duy trì. Ta sẽ gìn giữ miêu duệ người tới muôn đời, và ngai báu
người như những ngày của cõi cao xanh. - Ðáp.
Alleluia: 1Sam 3,9
Alleluia, Alleluia. - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai
nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 4,1-20
"Người gieo hạt đi gieo hạt giống"
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa
Giêsu bắt đầu giảng dạy ở bờ biển và có đám đông dân chúng tụ lại gần Người,
nên Người xuống ngồi trong một chiếc thuyền trên mặt biển, tất cả đám đông
thì ở trên đất theo dọc bờ biển.
Người dùng dụ
ngôn mà dạy họ nhiều điều, và khi giảng, Người nói với họ rằng:
"Các ngươi hãy
nghe! Nầy người gieo hạt đi gieo hạt giống.
Khi gieo, một
phần hạt rơi xuống vệ đường và chim trời đến ăn hết.
Phần khác rơi
trên đất sỏi, nơi không có nhiều đất.
Hạt giống đã
mọc lên ngay, vì lớp đất không sâu.
Nhưng khi mặt
trời mọc lên, hạt giống bị nắng đốt và vì không rễ, nên bị chết khô.
Một phần khác
rơi vào bụi gai và gai mọc lên làm hạt giống chết mà không sinh hoa trái
được.
Phần hạt khác
rơi vào đất tốt, mọc lên, nẩy nở và sinh quả, hạt thì sinh được ba mươi, hạt
được sáu mươi, hạt được một trăm".
Và Người phán
rằng: "Ai có tai nghe thì hãy nghe".
Khi Người còn
lại một mình, thì mười hai ông là những kẻ luôn ở với Người, hỏi Người về ý
nghĩa dụ ngôn, Người liền bảo các ông:
"Các con được
ơn biết mầu nhiệm về nước Thiên Chúa, còn những người khác ở ngoài thì mọi
sự được giảng dạy bằng dụ ngôn, vì chúng nhìn mà không thấy, nghe mà không
hiểu, kẻo chúng trở lại mà được tha tội".
Người nói với
các ông:
"Các con không
hiểu dụ ngôn đó sao? Vậy thì hiểu sao được tất cả những dụ ngôn khác?
Người gieo hạt
là gieo lời Chúa.
Vệ đường mà lời
Chúa được gieo vào, là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời
Chúa gieo trong tâm hồn họ.
Và cũng thế,
những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận
vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi:
sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền.
Lại có những
hạt giống rơi trong bụi gai.
Ðây là những kẻ
nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không
thể sinh hoa trái được.
Còn những hạt
giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và
làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm".
Ðó là Lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Đức Kitô Mạc Khải
Tiếp tục "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, bài Phúc Âm Thứ Tư hôm nay trong Tuần 3 của thời điểm phụng vụ này liên quan đến dụ ngôn "người gieo hạt đi gieo hạt giống".
Theo bài Phúc Âm thuật lại ở phần đầu thì nội dung của dụ ngôn này như sau: "Khi gieo, một phần hạt rơi xuống vệ đường và chim trời đến ăn hết. Phần khác rơi trên đất sỏi, nơi không có nhiều đất. Hạt giống đã mọc lên ngay, vì lớp đất không sâu. Nhưng khi mặt trời mọc lên, hạt giống bị nắng đốt và vì không rễ, nên bị chết khô. Một phần khác rơi vào bụi gai và gai mọc lên làm hạt giống chết mà không sinh hoa trái được. Phần hạt khác rơi vào đất tốt, mọc lên, nẩy nở và sinh quả, hạt thì sinh được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm".
Cũng theo bài Phúc Âm hôm nay, ở phần cuối Chúa Giêsu đã giải thích ý nghĩa của từng hình ảnh được ám chỉ trong dụ ngôn cho các môn đệ nghe, như lời yêu cầu của các vị:
"Người gieo hạt là gieo lời Chúa. Vệ đường mà lời Chúa được gieo vào, là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ. Và cũng thế, những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền. Lại có những hạt giống rơi trong bụi gai. Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được. Còn những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm".
Trong phần dẫn giải của mình, Chúa Giêsu không cho biết "người gieo hạt" là ai. Tuy nhiên, vì "gieo hạt là gieo lời Chúa" như Chúa Giêsu dẫn giải, thì "người gieo hạt" đây còn ai khác ngoài chính bản thân Người, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý".
Nếu "hạt đây là lời Chúa" và lời Chúa đây chất chứa "ân sủng và chân lý", vì chính bản thân Người là "Lời", bởi thế "người gieo hạt" đây tức là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" tỏ mình ra để thông ban cho "những ai chấp nhận Người" (Gioan 1:12) "ân sủng và chân lý" của Người và từ Người: "ân sủng" là "được quyền làm con Thiên Chúa" và "chân lý" là "được sinh ra bởi Thiên Chúa, chứ không phải bởi huyết nhục, bởi nhục dục hay bởi ý muốn của con người" (Gioan 1:13).
Đúng thế, theo dẫn giải của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay thì hạt khi chưa gieo vẫn còn là hạt, nhưng một khi đã gieo xuống rồi thì hạt được gieo xuống ấy trở thành người nghe, người đón nhận. Có tất cả 4 loại người chính yếu tiêu biểu đáp ứng lời Chúa, đáp ứng mạc khải thần linh là chính Chúa Kitô, hay "chấp nhận" Chúa Kitô cũng thế.
Nếu "ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12) và là người "sinh bởi Thiên Chúa" thì họ quả thực là "những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm".
Vậy
thì 3 thành phần còn lại sẽ có thể được
suy diễn và áp dụng như sau:
"Những hạt ở trên vệ đường là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ" ở đây có thể hiểu về thành phần "sinh bởi huyết nhục", nghĩa là hoàn toàn sống theo tự nhiên nông nổi bề ngoài một cách hờ hững lãnh đạm với những gì siêu nhiên, thuộc lãnh vực đức tin, thuộc đời sống thiêng liêng.
"Những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền" ở đây có thể hiểu về thành phần "sinh bởi nhục dục", sống theo cảm giác cảm tình nên rất thay đổi bất nhất.
"Những hạt giống rơi trong bụi gai. Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được" ở đây có thể hiểu về thành phần "sinh bởi ý muốn của con người", sống tìm kiếm và theo đuổi ưu tiên lợi lộc trần gian, coi trọng giá trị trần gian hơn những gì là chân thực bất biến.
Có thể tóm gọn 4 loại hạt giống hay bốn thái độ hoặc bốn loại người đón nhận Lời Chúa như sau: 1- loại hạt giống ở vệ đường là thành phần khô khan nguội lạnh tỏ ra dửng dưng lãnh đạm với Lời Chúa nên dễ bị ma quỉ đánh lừa hay dễ sa ngã phạm tội; 2- loại hạt giống trên sỏi đá là thành phần hời hợt nông cạn, cho dù là đạo đức, cũng đi tĩnh tâm nghe giảng, nhưng không sâu nên dễ bị sụp đổ trước gian nan thử thách; 3- loại hạt giống trong bụi gai là thành phần bất an trong tâm hồn, lo lắng đủ thứ chuyện, ưu tiên những cái phụ, coi nhẹ điều quan trọng nhất là Lời Chúa, nên Lời Chúa như bị để dưới đáy thùng, chẳng chiếu sáng gì, khiến họ càng sống càng vô nghĩa; 4- hạt giống nơi đất tốt là thành phần kháo khát Lời Chúa, cởi mở lắng nghe Lời Chúa, nghiền gẫm thưởng thức Lời Chúa và đáp ứng Lời Chúa nên Lời Chúa làm "cho họ được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn" (Gioan 10:10).
Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay cho thấy Thánh Vương Đavít là một "hạt giống gieo trong đất tốt", ở chỗ, vua luôn nghĩ đến Thiên Chúa và coi trọng Thiên Chúa trong suốt cả cuộc đời của mình, (tất nhiên cũng có một lúc vua đã sa ngã phạm tội trầm trọng nhưng vua đã hết lòng ăn năn thống hối), cũng như trong triều đại của vua. Chẳng hạn vua có ý định "xây cất cho (Chúa) một ngôi nhà để ở" khi vua thấy vua ở trong đền đại nguy nga lộng lẫy mà Hòm Bia Chúa lại ở "nhà tạm", một nơi không xứng với Thiên Chúa vô cùng uy nghi cao cả chí tôn.
Bởi thế, vì vua "là người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi" nên vua là "hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm".
Vua là "hạt ba mươi", ở chỗ: "Ta sẽ tiêu diệt mọi quân thù trước mặt ngươi, và Ta sẽ làm cho danh ngươi nên cao trọng như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất... Ta sẽ cho ngươi được bằng yên khỏi mọi quân thù. Và Chúa phán trước cho ngươi biết là Chúa sẽ tạo lập cho ngươi một ngôi nhà. Ðến khi qua đời, ngươi sẽ được an giấc cùng các tổ phụ ngươi".
Vua là
"hạt sáu mươi", ở
chỗ:
"Kế đó Ta sẽ cho con của ngươi kế vị và làm cho vương quốc ngươi vững mạnh.
Chính người sẽ xây dựng cho danh Ta một ngôi nhà, và Ta bảo đảm ngôi báu
triều đại ngươi tồn tại đến muôn đời. Ta sẽ là Cha người, và người sẽ là con
Ta...".
Vua là
"hạt một
trăm", ở
chỗ:
"Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta;
ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi!"
Bài Đáp Ca hôm nay liên quan trực tiếp với bản thân vua Đavít, vương tổ của Chúa Kitô và là tiền thân cho vương quyền của Người, một mảnh đất tốt cũng chính là hạt sinh gấp trăm trong dụ ngôn người gieo hạt của Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay:
1) Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa. Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ
của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết
lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ".
2) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Ðá Tảng cứu độ của con". Và Ta sẽ đặt người làm trưởng tử, cao sang hơn các vua chúa ở trần gian.
3) Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. Ta sẽ gìn giữ miêu duệ người tới muôn đời, và ngai báu người như những ngày của cõi cao xanh.
Ngày 24: Thánh Phanxicô Salê, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
2/3/2011 – Bài 134 về Thánh Francis de Sales
(ĐTC Biển Đức XVI - 138 Bài Giáo Lý chủ đề Giáo Hội Tông Truyền)
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Ngày 25 tháng 1
Lễ Thánh Phaolô, Tông Đồ trở lại
(Lễ kính)
Bài Ðọc I: Cv 22, 3-16
"Kêu danh thánh Chúa, tôi chỗi dậy".
Bài trích sách Tông đồ Công vụ.
Ngày ấy, Phaolô nói với dân chúng: "Tôi là người Do-thái, sinh tại Tarsê xứ Cilicia, đã được nuôi nấng trong thành này, đã được đào tạo theo chân lý lề luật cha ông dưới chân ông Gamaliêl. Tôi nhiệt thành với lề luật cũng như hết thảy quý vị hôm nay. Tôi đã bắt bớ giết chóc đạo này, xiềng xích và bỏ tù cả đàn ông lẫn đàn bà. Như thầy thượng tế và toàn thể hội đồng kỳ lão đã làm chứng điều đó. Các ngài đã trao cho tôi chứng minh thư để tôi đến kiếm anh em ở Ðamas, bắt trói họ và điệu về Giêrusalem để trừng phạt.
Xảy đến lúc đó khoảng trưa, tôi đang trên đường gần đến Ðamas, thình lình một luồng ánh sáng chan hoà từ trời chói rạng quanh tôi. Tôi ngã xuống đất và nghe tiếng phán bảo tôi: "Saolô, Saolô, sao ngươi bắt bớ Ta?" Tôi đáp: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Người trả lời: "Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ". Và những người cùng ở đó với tôi lúc ấy, cũng thấy ánh sáng, nhưng không nghe tiếng Ðấng nói với tôi. Tôi hỏi: "Lạy Chúa, con phải làm gì?" Chúa liền nói với tôi: "Hãy chỗi dậy, vào thành Ðamas, ở đó sẽ nói cho ngươi tất cả những gì ngươi phải làm". Nhưng vì ánh sáng chói loà kia, tôi không còn thấy được, nên các bạn tôi cầm tay dẫn tôi vào thành Ðamas. Có một người kia tên là Anania, người đạo đức, sống theo Lề luật, và được mọi người Do-thái ở đó kính phục, đến tìm tôi và đứng gần tôi mà nói: "Hỡi anh Saolô, anh hãy nhìn!" Ngay lúc đó tôi nhìn thấy ông.
Và ông nói: "Thiên Chúa cha ông chúng ta đã tiền định cho anh biết thánh ý Người, thấy Ðấng Công Chính và nghe tiếng Người nói. Vậy anh phải làm chứng cho Người trước mặt mọi người về điều anh đã thấy và đã nghe. Và bây giờ, anh còn chần chừ gì nữa? Hãy chỗi dậy và cầu khẩn danh Người mà chịu thanh tẩy và gột rửa mình cho sạch tội lỗi".
Ðó là lời Chúa.
2. Hoặc: Cv 9, 1-22
"Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?"
Bài trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Saolô còn mải say mê hăm doạ giết các môn đồ Chúa. Ông đến thượng tế, xin chứng minh thư gởi đến hội đường ở Ðamas, để nếu gặp ai theo đạo ấy, bất luận nam nữ, ông bắt trói đem về Giêrusalem.
Ðang khi đi đường, lúc đến gần Ðamas, bỗng nhiên một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông, ông ngã xuống đất và nghe tiếng phán rằng: "Saolô, Saolô, sao ngươi bắt bớ Ta?" Ông thưa: "Lạy Ngài, Ngài là ai?" Chúa đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ; giơ chân đạp mũi nhọn thì khổ cho ngươi". Saolô run sợ và kinh hoàng hỏi rằng: "Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?" Chúa phán: "Hãy chỗi dậy, vào thành, và ở đó người ta sẽ nói cho ngươi phải làm gì". Những kẻ đồng hành với ông đứng lại, hoảng hốt; họ nghe rõ tiếng mà không thấy ai. Saolô chỗi dậy khỏi đất, mắt ông vẫn mở mà không trông thấy gì. Người ta cầm tay dẫn ông vào thành Ðamas; ông ở lại đấy ba ngày mà không thấy, không ăn, cũng không uống.
Bấy giờ ở Ðamas, có một môn đồ tên là Anania; trong một thị kiến, Chúa gọi ông rằng: "Anania". Ông thưa: "Lạy Chúa, này con đây". Chúa phán: "Hãy chỗi dậy và đến phố kia gọi là phố "Thẳng", và tìm tại nhà Giuđa một người tên Saolô, quê ở Tarsê; nó đang cầu nguyện". (Saolô cũng thấy một người tên Anania bước vào, và đặt tay trên ông để ông được sáng mắt). Anania thưa: "Lạy Chúa, con đã nghe nhiều người nói về người này rằng: ông đã gây nhiều tai ác cho các thánh của Chúa tại Giêrusalem; tại đây, ông đã được các thượng tế cho phép bắt trói tất cả những ai kêu cầu danh Chúa". Nhưng Chúa phán: "Cứ đi, vì người này là lợi khí Ta đã chọn, để mang danh Ta đến trước dân ngoại, vua quan và con cái Israel. Ta sẽ tỏ cho nó biết phải chịu nhiều đau khổ vì danh Ta".
Anania ra đi, bước vào nhà, và đặt tay trên Saolô mà nói: "Anh Saolô, Chúa Giêsu, Ðấng hiện ra với anh trên đường đi đến đây, sai tôi đến cùng anh, để anh được thấy và được tràn đầy Thánh Thần. Tức thì có thứ gì như những cái vảy rơi khỏi mắt ông, và ông được sáng mắt.
Ông chỗi dậy chịu phép rửa, và sau khi ăn uống, ông được lại sức, ông ở lại ít ngày cùng với các môn đồ thành Ðamas. Và lập tức ông rao giảng trong các hội đường rằng Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Mọi người nghe rao giảng đều kinh ngạc và nói rằng: "Há chẳng phải ông này đã bách hại những người đã cầu khẩn danh ấy tại Giêrusalem, và cũng đã tới đây mà truy nã họ để điệu họ về cho các thượng tế sao?"
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 116, 1. 2
Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).
Xướng: 1) Toàn thể chư dân, hãy ngợi khen Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người! - Ðáp.
2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng ta thực là mãnh liệt. và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Ga 15, 16
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta đã chọn các con giữa thế gian, hầu để các con đi và mang lại hoa trái, để hoa trái các con tồn tại". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 16, 15-18
"Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu (hiện ra với mười một môn đệ và) nói: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những dấu lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân được lành mạnh".
Ðó là lời Chúa.
ĐTC Biển Đức XVI Thứ Tư 3/9/2008 trong Năm Thánh Phaolô
Thánh Phaolô - Trở Lại
B |
uổi Giáo Lý hôm nay nhắm đến cái cảm nghiệm của Thánh Phaolô trên đường ngài đến Damascus, cũng là những gì thường được cho là cuộc trở lại của ngài. Chính trên con đường đi Damascus này mà vào đầu thập niên 30 ở thế kỷ thứ nhất và sau giai đoạn bắt bớ Hội Thánh giây phút định đoạt nơi đời sống của Thánh Phaolô đã xẩy ra. Cuộc trở lại này đã được viết về rất nhiều, và tất nhiên là theo các quan điểm khác nhau. Chắc chắn một điều là ngài đã đạt tới khíc quanh này ở đó, thật sự là một thứ đảo ngược về quan niệm. Đùng một cái ngài đã bắt đầu coi như ‘thua bại’ và ‘phế thải’ tất cả những gì là lý tưởng nhất của ngài, như thực sự là căn nguyên - raison d’être cho đời sống của ngài (cf. Phil 3:7-8). Thế thì những gì đã xẩy ra?
Về vấn đề này chúng ta có 2 loại nguồn tài liệu. Nguồn thứ nhất, được biết đến nhất, bao gồm những trình thuật chúng ta có được từ ngòi bút của Thánh Luca, vị kể cho chúng ta biết về biến cố này ít là 3 lần trong cuốn Tông Vụ (cf. 9:1-19; 22:3-21; 26:4-23). Độc giả trung bình bị thu hút lâu dài vào những chi tiết như ánh sáng từ trời, việc ngã xuống đất, tiếng nói gọi ngài, tình trạng ngài bị mù lòaa, việc ngài được chữa lành như vẩy rơi khỏi mắt của ngài và việc ngài chay tịnh. Thế n hưng tất cả mọi chi tiết ấy đều qui về tâm điểm của biến cố ấy, đó là Chúa Kitô Phục Sinh xuất hiện như một luồng ánh sáng chói lọi và nói với Saul, biến đổi ý nghĩ của ngài và tất cả đời sống của ngài. Ánh sáng rạng ngời của Chúa Kitô Phục Sinh đã làm cho ngài trở nên mù lòa; nhờ đó, những gì là thực tại nội tâm của ngài cũng được tỏ hiện ra bên ngoài, tình trạng mù lòa của ngài trước chân lý, trước ánh sáng là Chúa Kitô. Để rồi tiếng ‘xin vâng’ đáp ứng Chúa Kitô của ngài nơi Phép Rửa đã phục quang cho ngài và làm cho ngài được thực sự thấy.
Trong Giáo Hội xưa, Phép Rửa cũng được gọi là ‘sáng soi - illumination’, vì Bí Tích này là bí tích ban ánh sáng; nó thực sự làm cho con người được thấy. Nơi Thánh Phaolô, những gì ám chỉ một cách thần học cũng được thể hiện một cách thể lý, ở chỗ, ngài thấy rõ ràng khi được chữa lành tình trạng mù quáng nội tâm. Như thế, Thánh Phaolô không được biến đổi bởi một tư tưởng mà là bởi một biến cố, bởi sự hiện diện bất khả cưỡng của Đấng Phục Sinh, Đấng sau đó ngài không bao giờ cảm thấy ngờ vực, một chứng cớ rất mãnh liệt về biến cố này, cho cuộc gặp gỡ ấy, Nó đã biến đổi cuộc đời của Thánh Phaolô một cách sâu xa; bởi thế người ta có thể và phải nói về một cuộc hoán cải. Cuộc gặp gỡ này là tâm điểm cho trình thuật của Thánh Luca, một trình thuật rất có thể là vị thánh này đã sử dụng một trình thuật xuất phát từ cộng đồng Damascus. Điều này được cho thấy bởi những chi tiết liên quan tới địa phương, với sự hiện diện của Ananias cũng như nơi những tên gọi, về cả đường phố lẫn gia chủ là người chất chứa Thánh Phaolô (Acts 9:11).
Nguồn tài liệu thứ hai liên quan tới cuộc trở lại của Thánh Phaolô là ở nơi chính các Bức Thư của ngài. Ngài không bao giờ nói về biến cố này với đầy đủ các chi tiết, theo tôi là vì ngài cho rằng ai cũng đều biết đến những gì là chính yếu trong câu chuyện của ngài rồi: hết mọi người đều biết rằng ngài đã được biến đổi từ một tên bắt đạo thành một vị tông đồ nhiệt thành của Chúa Kitô. Và biến cố atrở lại này đã không xẩy ra theo sự tự phản tỉnh của ngài, mà là sau một biến cố mãnh liệt, một cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh. Cho dù không nói đến những chi tiết, ở một số trường hợp, ngài cũng nói tới biến cố rất quan trọng này, tức là ngài cũng là chứng nhân của việc Chúa Giêsu Phục Sinh, một mạc khải ngài đã trực tiếp lãnh nhận từ Chúa Giêsu, cùng với sứ vụ tông đồ của ngài. Bản văn rõ ràng nhất về vấn đề này là ở đoạn ngài kể về những gì cấu tạo nên tâm điểm của lịch sử cứu độ, đó là cái chết và cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu cùng với những lần Người hiện ra với thành phần chứng nhân (cf. 1Cor 15). Theo kiểu nói của truyền thống xưa, một truyền thống cả ngài nữa cũng đã lãnh nhận từ Giáo Hội ở Giêrusalem, ngài nói rằng Chúa Giêsu đã chết trên Thập Giá, đã được mai táng và sau khi Phục Sinh đã hiện ra với trước hết là Cephas, tức là Phêrô, tồi tới 12 Vị, đoạn tới 500 aanh em hầu hết trong những người này vẫn còn sống vào thời Thánh Phaolô, xong tới Giacôbê rồi tới tất cả mọi Tông Đồ. Để thêm vào trình thuật được truyền thống lưu lại này, ngài đã thêm là ‘sau cùng… Người đã hiện ra với cả tôi nữa’ (1Cor 15:8). Như thế là ngài đã làm sáng tỏ về nền tảng của sứ vụ tông đồ và đời sống mới của ngài. Cũng có những bản văn khác lập lại chi tiết này: ‘Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người chúng tôi đã lãnh nhận ân sủng và vai trò tông đồ’ (cf. Rm 1:4-5); chưa hết: ‘Chẳng lẽ tôi chưa được thấy Chúa Giêsu là Chúa của chúng ta hay sao?’ (1Cor 9:1), những lời ngài đã bóng gió nói tới một điều gì đó mà mọi người đã biết tới. Sau cùng, bản văn được nhiều người biết đến nhất là trong Thư gửi tín hữu Galata: ‘Thế nhưng, khi Ngài là Đấng đã tuyển chọn tôi trước khi tôi được sinh ra, và đã kêu gọi tôi bằng ân sủng của Ngài, đã muốn tỏ Con của Ngài cho tôi, để tôi có thể rao giảng Người cho Dân Ngoại, tôi đã không bàn hỏi với huyết nhục, cũng chẳng lên Giêrusalem với những Vị Tông Đồ trước tôi, nhưng tôi đã đến Arabia, và rồi trở lại Damascus’ (1:15-17). Trong ‘lời tự biện bạch’ này, ngài đã dứt khoát nhấn mạnh là ngài thực sự là một nhân chứng của Đấng Phục Sinh, aaaaangài đã lãnh nhận sứ vụ của ngài trực tiếp từ Đấng Phục Sinh.
Như thế chúng ta có thể thấy rằng hai nguồn tài liệu này. cuốn Tông Vụ và Các Thư Thánh Phaolô, cùng đồng qui và đồng thuận về điểm chính yếu đó là Đấng Phục Sinh đã nói với Thánh Phaolô, đã kêu gọi ngài thi hành sứ vụ tông đồ và đã làm cho ngài trở thành một Tông Đồ thực sự, một chứng nhân của Cuộc Phục Sinh, với công việc chuyên biệt là rao giảng Phúc Âm cho Chư Dân Ngoại, cho thế giới Hy La. Và đồng thời Thánh Phaolô mặc dù ngài có một mối liên hệ trực tiếp với Đấng Phục Sinh, ngài cũng cần phải tham dự vào mối hiệp thông với Giáo Hội, chính ngài cũng được lãnh nhận phép rửa, ngài cũng phải sống hòa hợp với các vị Tông Đồ khác. Chỉ ở trong mối hiệp thông này với mọi người thì ngài mới là một tông đồ thực sự, như ngài minh nhiên viết trong Thư Nhất gửi giáo đoàn Côrintô: ‘Bởi thế cho dù là tôi hay các vị ấy, chúng tôi là những người rao giảng và anh em là những người tin tưởng’ (15:11). Chỉ có một lời loan báo duy nhất về Đấng Phục Sinh, vì Chúa Kitô chỉ là một.
Như đã thấy, trong tất cả mọi đoạn văn ấy, Thánh Phaolô không bao giờ cho giây phút ấy như là một biến cố hoán cải. Tại sao? Có nhiều giả thuyết, thế nhưng, đối với tôi thì lý do rất là rõ ràng. Khúc quanh này trong đời sống của ngài, việc biến đổi toàn thể con người của ngài không phải là thành quả của một tiến trình về tâm lý, của một thứ chín mùi hay của một thứ phát triển về tri thức và về luân lý. Trái lại, nó xuất phát từ bên ngoài: nó không phải là hoa trái của những gì ngài nghĩ tưởng mà là của việc ngài gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô. Theo ý nghĩa ấy thì nó không dơn thuần là một cuộc trở lại, một phát triển về ‘cái tôi’ của ngài, mà là một cái chết và phục sinh đối với chính Thánh Phaolô. Một cuộc sống chết đi và một cuộc sống khác, một cuộc sống mới được hạ sinh với Chúa Kitô Phục Sinh. Không còn cách nào khác để cắt nghĩa về cuộc canh tân này của Thánh Phaolô. Không một cuộc phân tâm nào có thể làm sáng tỏ hay giải được vấn đề này. Chỉ nguyên biến cố ấy, chỉ duy cuộc gặp gỡ mãnh liệt với Chúa Kitô này, là cái then chốt để hiểu được những gì đã xẩy ra, đó là cái chết và phục sinh, là việc canh tân về phần của Đấng đã tự tỏ mình ra và nói với ngài. Theo ý nghĩa sâu xa này, chúng ta có thể và phải nói về vấn đề hoán cải. Cuộc gặp gỡ này là một cộc canh ân thực sự đã làm biến đổi tất cả những gì là giới hạn của ngài. Bấy giờ ngài có thể nói rằng những gì là thiết yếu và nồng cốt đối với ngài trước kia đã trở thành ‘đồ phế thải’ đối với ngài; nó không còn là những gì ‘đạt được’ mà là mất mát, vì từ đó đối với ngài chỉ có một điều duy nhất đáng kể là sự sống Chúa Kitô.
Tuy nhiên, chúng ta không nghĩ rằng Thánh Phaolô như thế đã bị đóng khung vào một biến cố mù quáng. Ngược lại thì đúng hơn, vì Chúa Kitô Phục Sinh là ánh sáng chân lý, là ánh sáng của cính Thiên Chúa. Điều này đã nới rộng cõi lòng của ngài và làm cho nó hướng về tất cả mọi người. Vào lúc bấy giờ ngài đã không mất đi tất cả mọi sự vốn tốt lành và chân thực nơi đời sống của ngài, nơi gia sản của ngài, thế nhưng ngài đã hiểu được sự khôn ngoan, được chân lý, được chiều sâu của lề luật và của những vị tiên tri một cách mới mẻ và một cách mới mẻ của ngài. Đồng thời, việc luận lý của ngài cũng cởi mở với sự khôn ngoan của dân ngoại nữa. Cởi mở với Chúa Kitô bằng tất cả tâm can của mình, ngài đã có thể thực hiện nhiều cuộc đối thoại với hết mọi người, ngài đã có thể làm cho ngài trở thành mọi sự cho mọi người. Như thế ngài mới có thể thực sự là vị Tông Đồ cho Dân Ngoại.
Quay về với bản thân mình, chúng ta hãy hỏi điều này có nghĩa gì đối với chúng ta. Đối với cả chúng ta là Kitô hữu nữa, nó không phải là một thứ triết lý mới hay một thứ luân lý mới. Chúng ta chỉ là Kitô hữu khi nào chúng ta được gặp gỡ Chúa Kitô. Dĩ nhiên là Người không tỏ mình cho chúng ta một cách choáng ngợp, chói lòa này, như ngài đã thực hiện với Thánh Phaolô để làm cho ngài trở thành Vị Tông Đồ cho muôn dân. Thế nhưng, cả chúng ta nữa cũng có thể gặp gỡ Chúa Kitô nơi việc dọc Thánh Kinh, nơi nguyện cầu, nơi đời sống phụng vụ của Giáo Hội. Chúng ta có thể chạm được Trái Tim của Chúa Kitô và cảm thấy Người chạm đến tâm can của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta ở trong mối liên hệ riêng tư này với Chúa Kitô, chỉ khi nào chúng ta ở trong cuộc gặp gỡ Đấng Phục Sinh này, chúng ta mới thực sự trở thành Kitô hữu. Nhờ đó lý trí của chúng ta mới mở ra, tất cả những gì khôn ngoan của Chúa Kitô mở ra như là tất cả những gì là phong phú của sự thật mở ra vậy.
Bởi thế chúng ta hãy nguyện xin Chúa soi sáng chúng ta, ban cho chúng ta được gặp gỡ sự hiện diện của Người trên thế giới này, nhờ đó ban cho chúng ta một đức tin sống động, một tâm hồn cởi mở và một tình yêu cao cả với tất cả mọi người, những gì có thể canh tân thế giới.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
http://w2.vatican.va/content/benedict-xvi/en/audiences/2008/documents/hf_ben-xvi_aud_20080903.html
Phụng Vụ Lời Chúa theo ngày trong tuần cho nhũng năm không trùng với Lễ Thánh Phaolô trở lại
Bài Ðọc I: (năm
II) 2
Sm 7, 18-19. 24-29
"Lạy Chúa là Thiên Chúa, tôi là ai và gia đình tôi là chi?"
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Sau khi Nathan nói với Ðavít xong, vua Ðavít đến ngồi trước Thiên Chúa mà
nói rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, con là ai và gia đình con là chi mà Chúa
dẫn con đến đây? Nhưng lạy Chúa là Thiên Chúa, như thế Chúa còn cho là ít,
nên Chúa còn nói đến nhà tôi tớ Chúa trong tương lai lâu dài, vì lạy Chúa,
đó là thường tình của loài người.
"Chúa đã thiết lập dân Israel làm dân Chúa đến muôn đời, và lạy Chúa, chính
Chúa trở thành Thiên Chúa của họ. Vậy giờ đây, lạy Chúa là Thiên Chúa, xin
hãy thực hiện mãi mãi lời Chúa đã nói về tôi tớ và về nhà của nó, và hãy làm
như Chúa đã phán, để danh Chúa được ca khen đến muôn đời, và được truyền
tụng rằng: 'Chúa các đạo binh là Thiên Chúa của Israel'. Xin cho nhà tôi tớ
Chúa được vững chắc trước nhan thánh Chúa. Lạy Chúa các đạo binh, Thiên Chúa
của Israel, vì Chúa đã mạc khải cho tôi tớ Chúa biết những lời này: 'Ta sẽ
xây dựng cho ngươi một ngôi nhà', vì thế, tôi tớ Chúa vững tâm thốt lên lời
khẩn nguyện trên đây. Vậy giờ đây, lạy Chúa là Thiên Chúa, và lời Chúa thì
chân thật, vì Chúa đã tỏ ra cho tôi tớ Chúa những điều hạnh phúc ấy. Giờ
đây, xin hãy khởi sự chúc phúc cho nhà tôi tớ Chúa, để nhà tôi tớ Chúa tồn
tại trước mặt Chúa đến muôn đời, vì lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa đã phán và
xin giáng phúc cho nhà tôi tớ Chúa đến muôn đời".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 131, 1-2. 3-5. 11. 12. 13-14
Ðáp: Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu
Ðavít tổ phụ Người (Lc 1, 32a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, để thương Ðavít, xin Chúa nhớ đến mọi nỗi ưu tư của
người: người đã thề như thế nào với Chúa, người đã khấn hứa cùng Ðấng toàn
năng nhà Giacóp rằng: - Ðáp.
2) "Tôi sẽ không vào lều trại nhà tôi, tôi sẽ không bước lên giường nằm, tôi
sẽ không nhắm mắt ngủ, không để cho mi mắt tôi được nghỉ an, cho tới khi tôi
gặp được nơi ngự điện cho Chúa, gặp được cung lâu cho Ðấng Toàn năng nhà
Giacóp". - Ðáp.
3) Chúa đã thề hứa cùng Ðavít một lời hứa quả quyết mà Người sẽ chẳng rút
lời, rằng: "Ta sẽ đặt lên ngai báu của ngươi một người con cháu thuộc dòng
giống của ngươi". - Ðáp.
4) "Nếu các con ngươi tuân giữ điều ước của Ta và những luật lệ mà Ta ban ra
dạy chúng, thì cả con cháu chúng cũng được muôn đời ngồi cai trị trên ngai
báu của ngươi". - Ðáp.
5) Bởi chưng Chúa đã kén chọn Sion, đã thích lựa Sion làm nơi cư ngụ cho
mình. Ngài phán: "Ðây là nơi nghỉ ngơi của Ta tới muôn đời, Ta sẽ cư ngụ nơi
đây, vì Ta ưa thích". - Ðáp.
Alleluia: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa, và xin
hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 4, 21-25
"Ðèn đốt lên là để đặt trên giá đèn. Các ngươi đong đấu nào, thì người ta sẽ
đong đấu ấy cho các ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Có ai đem đèn sáng đặt trong
thùng hay dưới gầm giường chăng? Chẳng phải là để đặt trên giá đèn sao? Vì
chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị
đưa ra ánh sáng. Ai có tai để nghe, thì hãy nghe". Và Người bảo họ rằng:
"Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì
người ta sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy, và người ta còn thêm nữa. Vì
ai có, sẽ được cho thêm; và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất".
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Đức Kitô tỏa sáng
Hôm nay, Thứ Năm Tuần 3 Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung thời điểm phụng vụ này liên quan đến những lời Chúa dạy trong bài Phúc Âm sau đây:
"Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: 'Có ai đem đèn sáng đặt trong thùng hay dưới gầm giường chăng? Chẳng phải là để đặt trên giá đèn sao? Vì chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng. Ai có tai để nghe, thì hãy nghe'. Và Người bảo họ rằng: 'Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy, và người ta còn thêm nữa. Vì ai có, sẽ được cho thêm; và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất'".
Đối tượng của những lời Chúa Giêsu phán dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, như Thánh ký Marco cho biết, đó là "dân chúng", chứ không phải là các môn đệ của Người, cho dù các môn đệ của Người là thành phần đã được Người ví như "là ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:14).
"Có ai đem đèn sáng đặt trong thùng hay dưới gầm giường chăng? Chẳng phải là để đặt trên giá đèn sao?": Chúa Giêsu muốn nói gì đây hay ám chỉ ai đây? Phải chăng Người muốn ám chỉ Lời giảng dạy của Người? Vì "Lời Ngài là đèn soi chân con bước, là ánh sáng soi đường con đi" (Thánh Vịnh 119:105).
Thật vậy, bài Phúc Âm hôm nay tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, mà bài Phúc Âm hôm qua về dụ ngôn "người đi gieo hạt" và "hạt là Lời Chúa", thì bài Phúc Âm hôm nay Người muốn tiếp tục đề tài Lời Chúa hay mạc khải thần linh, nhưng bằng một hình ảnh khác hay đúng hơn bằng một tác động khác, thay vì "đi gieo hạt" như trong bài Phúc Âm hôm qua thì lại "đặt trên giá đèn" trong bài Phúc Âm hôm nay.
Nếu ánh sáng là hình ảnh hay tiêu biểu cho sự thật cũng như cho bản chất của ánh sáng hay của sự thật là chiếu soi, là giải phóng thì quả thực, đúng như lời Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, "chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng".
Câu "chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng" này cũng có thể hiểu là không gì có thể ẩn khuất, cho dù là thâm tâm của con người, là âm mưu tinh quái nhất của con người, cũng không thể nào qua mặt được Lời Chúa, không thể nào che giấu được Lời Chúa là Chúa Kitô, che giấu được ánh mắt thần linh của Người: "Người tự mình biết được những gì nơi con người ta" (Gioan 2:25).
Trong bài Phúc Âm hôm qua, khi nói về dụ ngôn "người đi gieo hạt", Chúa Giêsu còn nói cả về phía thành phần lãnh nhận và đáp ứng thế nào: hạt vệ đường, hạt đá sỏi, hạt bụi gai, hạt đất tốt bao gồm hạt 30, hạt 60 và hạt 100, thì trong bài Phúc Âm hôm nay cũng thế, Người cũng bao gồm cả vế thành phần lãnh nhận nữa: "Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy" (chính động từ "nghe" ở đây cũng cho thấy "đèn soi" là Lời Chúa, đối tượng của tác động "nghe").
"'Ai có tai để nghe, thì hãy nghe'. Và Người bảo họ rằng: 'Hãy coi chừng
điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong
lại cho các ngươi bằng đấu ấy, và người ta còn thêm nữa. Vì ai có, sẽ được
cho thêm; và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất'".
Đúng thế, càng cởi mở và khao khát lời Chúa, nhất là càng nhiệt thành và mau mắn đón nhận Lời Chúa, tức là càng tìm kiếm chân lý là Chúa Kitô, càng đáp ứng Chúa Kitô là mạc khải thần linh, thì tùy theo tầm vóc của mình, một tầm vóc được ví như cái "đấu", cũng như tùy theo cường độ khát vọng thần linh của mình, tùy theo khoảng rộng cởi mở của mình, một thứ cường độ và khoảng rộng được ví như tác động "đong" của con người lãnh nhận, Lời Chúa ở nơi họ, một là "có, sẽ được cho thêm", hai là "không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất".
Thật ra, cho dù tác dụng của "đèn soi" hay của "hạt gieo" có vẻ bị lệ thuộc vào môi trường là người nhận, ở chỗ nếu họ không mở cửa thì ánh sáng của "đèn soi" không lọt vào được, hay nếu không gặp "đất tốt" thì "hạt gieo" sẽ không thể nẩy mầm và phát triển, nhưng tự mình, "đèn soi" vẫn không thể nào không tỏa sáng để làm cho môi trường biến khuất tối tăm, và "hạt gieo" vẫn chất chứa mầm sống để làm cho môi trường phát triển tốt tươi.
Những môi trường nhân bản nào khép kín không tiếp nhận ánh sáng của "đèn soi", hay khô cằn không thể thích hợp với mầm sống của "hạt gieo" là những môi trường nhân bản hay những con người tự tác hại bản thân mình, chứ không thể nào tác hại đến chính "đèn soi" tự bản chất vẫn soi chiếu, hay đến chính "hạt gieo" tự bản chất vẫn làm cho cây cối phát triển.
Nếu Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm qua cho thấy một Đavít "đất tốt" thế nào thì Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay cũng tiếp tục cho thấy một Đavít "đong đấu" như vậy, đến độ vua ở vào trường hợp "ai đã có, sẽ được cho thêm", như chính vua đã cảm nhận ở đầu Bài Đọc 1 hôm nay:
"Lạy Chúa là Thiên Chúa, con là ai và gia đình con là chi mà Chúa dẫn con đến đây? Nhưng lạy Chúa là Thiên Chúa, như thế Chúa còn cho là ít, nên Chúa còn nói đến nhà tôi tớ Chúa trong tương lai lâu dài, vì lạy Chúa, đó là thường tình của loài người".
Vua Đavít "đã có" ở chỗ: "Chúa đã thiết lập dân Israel làm dân Chúa đến muôn đời, và lạy Chúa, chính Chúa trở thành Thiên Chúa của họ. Vậy giờ đây, lạy Chúa là Thiên Chúa, xin hãy thực hiện mãi mãi lời Chúa đã nói về tôi tớ và về nhà của nó, và hãy làm như Chúa đã phán, để danh Chúa được ca khen đến muôn đời, và được truyền tụng rằng: 'Chúa các đạo binh là Thiên Chúa của Israel'".
Vua Đavít "sẽ được cho thêm" ở chỗ: "Xin cho nhà tôi tớ Chúa được vững chắc trước nhan thánh Chúa. Lạy Chúa các đạo binh, Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã mạc khải cho tôi tớ Chúa biết những lời này: 'Ta sẽ xây dựng cho ngươi một ngôi nhà', vì thế, tôi tớ Chúa vững tâm thốt lên lời khẩn nguyện trên đây. Vậy giờ đây, ... xin hãy khởi sự chúc phúc cho nhà tôi tớ Chúa, để nhà tôi tớ Chúa tồn tại trước mặt Chúa đến muôn đời, vì lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa đã phán và xin giáng phúc cho nhà tôi tớ Chúa đến muôn đời".
Bài Đáp Ca hôm nay được trích từ Thánh Vịnh 131, một Bài Thánh Vịnh nói về Vua Đavít chứ không phải Bài Thánh Vịnh của Vua Đavít, nhưng lại chất chứa những gì từ vua hướng về Chúa Kitô là giòng dõi của vua, như câu đáp chính của bài Đáp Ca hôm nay nói rõ: "Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người":
1) Lạy Chúa, để thương Ðavít, xin Chúa nhớ đến mọi nỗi ưu tư của người:
người đã thề như thế nào với Chúa, người đã khấn hứa cùng Ðấng toàn năng nhà
Giacóp rằng:
2) "Tôi sẽ không vào lều trại nhà tôi, tôi sẽ không bước lên giường nằm, tôi sẽ không nhắm mắt ngủ, không để cho mi mắt tôi được nghỉ an, cho tới khi tôi gặp được nơi ngự điện cho Chúa, gặp được cung lâu cho Ðấng Toàn năng nhà Giacóp".
3) Chúa đã thề hứa cùng Ðavít một lời hứa quả quyết mà Người sẽ chẳng rút lời, rằng: "Ta sẽ đặt lên ngai báu của ngươi một người con cháu thuộc dòng giống của ngươi".
4) "Nếu các con ngươi tuân giữ điều ước của Ta và những luật lệ mà Ta ban ra dạy chúng, thì cả con cháu chúng cũng được muôn đời ngồi cai trị trên ngai báu của ngươi".
5) Bởi chưng Chúa đã kén chọn Sion, đã thích lựa Sion làm nơi cư ngụ cho mình. Ngài phán: "Ðây là nơi nghỉ ngơi của Ta tới muôn đời, Ta sẽ cư ngụ nơi đây, vì Ta ưa thích".
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (năm
II) 2
Sm 11, 1-4a. 5-10b. 13-17
"Ngươi đã khinh dể Ta và đã cướp vợ Uria làm vợ mình".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Khi ấy, sang năm mới, là lúc các vua thường ra trận, thì Ðavít sai Gioáp,
các tôi tớ của vua và toàn dân Israel đi tiêu diệt dân Ammon và bao vây
Rabba. Còn Ðavít thì ở lại Giêrusalem. Khi chiến tranh đang diễn tiến, thì
một bữa trưa nọ, Ðavít ra khỏi giường ngủ, đi bách bộ trên sân thượng nhà
vua, liền nhìn thấy một phụ nữ đang tắm trên sân thượng nhà bà. Bà rất xinh
đẹp. Vậy vua sai dò hỏi người phụ nữ đó là ai. Người ta thưa đó là bà
Bethsabê, con ông Êliam, vợ Uria người Hêthê. Ðavít sai cận vệ đi tìm bà.
Khi trở về nhà, bà mang thai, nên sai người báo tin cho Ðavít mà rằng: "Tôi
đã có thai".
Vậy Ðavít sai người đến nói với Gioáp rằng: "Hãy sai tướng Uria người Hêthê
về đây cho trẫm". Gioáp sai Uria về gặp Ðavít, và Uria đến gặp Ðavít. Ðavít
hỏi thăm tin tức về Gioáp, quân sĩ, và trận chiến diễn tiến thế nào. Rồi
Ðavít nói cùng Uria: "Ngươi hãy về nhà rửa chân đi". Uria rời khỏi hoàng
cung, và người ta mang cho ông một phần ăn của nhà vua, nhưng Uria cùng các
cận vệ nằm ngủ ngay trước cửa nhà vua chứ không về nhà. Người ta đi báo tin
cho Ðavít hay "Uria không đi về nhà". Ðavít mời ông ăn uống trước mặt mình
và ép uống rượu cho say. Ðến chiều Uria đi ra cùng với các cận vệ ngủ trên
chõng, chớ không về nhà. Sáng hôm sau, Ðavít viết một lá thư gởi cho Gioáp
và sai Uria mang đi. Trong thư, ngài viết như sau: "Hãy đặt Uria vào nơi
giao tranh gay cấn nhất, rồi bỏ mặc hắn, để hắn bị đánh cho chết". Vậy khi
Gioáp bao vây thành, liền cử Uria đến địa điểm mà ông biết có những quân
địch mạnh nhất. Quân trong thành kéo ra nghinh chiến với Gioáp, nhiều quân
sĩ của Ðavít ngã gục, và cả Uria người Hêthê cũng tử trận.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 5-6a. 6bc-7. 10-11
Ðáp: Lạy Chúa, xin thương xót chúng con, vì chúng con
đã phạm tội (c. 3a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con
theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng
tội ác. - Ðáp.
2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con
phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. - Ðáp.
3) Con thi hành điều ác trước thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình khi phê
phán. Này coi, con đã chào đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã hoài thai
con. - Ðáp.
4) Xin cho con cảm thấy vui mừng hoan hỉ, cho xương bị Chúa đập hớn hở reo
lên. Xin ngoảnh mặt đi, đừng nhìn tội lỗi, và tẩy xoá mọi điều gian ác của
con. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng
lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 4, 26-34
"Người kia đã gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế nào
người đó cũng không hay biết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước Thiên Chúa giống như
người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt
giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Ðất tự
nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và
khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".
Người còn phán: "Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung nước Thiên Chúa? hay dùng
dụ ngôn nào mà so sánh nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo
xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo
rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim
trời có thể tới núp bóng được". Người dùng nhiều dụ ngôn như thế mà rao
giảng lời Chúa cho họ, tuỳ sức họ có thể hiểu được, và Người chỉ nói với họ
bằng dụ ngôn, nhưng khi ở riêng với các môn đệ, Người giải thích tất cả cho
các ông.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Đức Kitô Nước Trời
Thứ Sáu Tuần 3 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay, Bài Phúc Âm nói riêng và phụng vụ Lời Chúa nói chung vẫn phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của thời điểm phụng vụ này.
Trước hết, ở bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã sử dụng 2 dụ ngôn để nói về mầu nhiệm hay thực tại "Nước Thiên Chúa", dụ ngôn đầu về "người kia đã gieo hạt xuống đất" và dụ ngôn sau về "hạt cải", thứ tự như sau:
Dụ ngôn về
"người
kia đã gieo hạt xuống đất": "Nước
Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức,
đêm hay ngày, hạt giống
cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Ðất tự nó
làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi
lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".
Dụ ngôn về "hạt
cải":
"Nước
đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các
hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và
đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được".
Về dụ ngôn "người kia đã gieo hạt xuống đất", Chúa Giêsu có bao gồm 2 đặc điểm liên hệ với nhau giữa người gieo hạt giống và chính hạt giống, đó là "người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa".
"Người đó cũng không hay biết nữa" ở đây có thể hiểu là: 1- không cần để ý, vì theo kinh nghiệm nhà nông người này đã thừa biết rằng: "đất tự nó làm cây lúa mọc lên"; 2- hoàn toàn tin tưởng vào khả năng của hạt giống được mình gieo xuống: "hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên... trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt"; và 3- sống trong chờ đợi công lao gieo vãi chuyên nghiệp của mình: "Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".
Theo nghĩa thiêng liêng thì Lời Chúa không bao giờ trở thành áp lực, và Chúa Giêsu được ám chỉ là "người kia đã gieo hạt xuống đất" cũng hoàn toàn khách quan, ở chỗ một khi Chúa Kitô đã rao giảng rồi thì để tùy mỗi người toàn quyền quyết định về hạt giống đó, như một trong 4 môi trường đón nhận hạt giống trong Bài Phúc Âm Thứ Tư tuần này, như thể "hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa". Thế nhưng Vị này lại biết được "khi (nào) lúa chín" thì "người ấy liền gặt vì đã đến mùa".
Đúng thế, nếu áp dụng vào đời sống thiêng liêng thì dụ ngôn này cho thấy rõ tiến trình của linh đạo Kitô giáo. Ở chỗ, ban đầu, Kitô hữu làm chủ tình hình, đối với hạt giống đức tin được gieo trong tâm hồn của họ, từ khi họ lãnh nhận Phép Rửa. Nếu họ biết chăm bón cho hạt giống đức tin ấy lớn lên trong bản tính nhân loại của mình, bằng ân sủng của các bí tích thánh cũng như bằng đời sống nội tâm, thì họ càng trưởng thành như "lúa chín" trong đời sống thiêng liêng của mình, nhưng trưởng thành ở đây không phải ở chỗ lớn lên, ở chỗ chủ động như ban đầu, cho bằng nhỏ lại, tin tưởng phó thác "như trẻ nhỏ" (Mathêu 18:3), nhờ đó Chúa Kitô mới có thể "gặt vì đã đến mùa". Nghĩa là Lời Chúa hoàn toàn làm chủ họ, điều khiển họ, chi phối họ, đến độ "tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Chúa Kitô sống trong tôi" (Galata 2:20).
Dụ ngôn thứ hai trong Bài Phúc Âm hôm nay có liên hệ mật thiết đến dụ ngôn thứ nhất. "Hạt cải" đây có thể nói ám chỉ đến chính bản thân Chúa Kitô là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), nghĩa là đã được "gieo xuống đất" nơi mầu nhiệm nhập thể và giáng sinh, một mầu nhiệm mà "Người tuy thân phận là Thiên Chúa ... đã hóa ra như không, mặc lấy thân phận tôi đòi..." (Philiphê 2:6). Nghĩa là Người đã trở nên "nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất". "Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được". Ở chỗ, qua mầu nhiệm và biến cố khổ nạn và tử giá, một cây Thánh Giá quả thực đã "mọc lên thành cây rau lớn nhất", một cây Thánh Giá "đâm những cành to" là vươn rộng như đôi cánh tay thương xót ôm lấy cả nhân loại tội nhân, nhất là các tâm hồn biết "ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm" (Bài Phúc Âm Chúa Nhật III Thường Niên Năm B), tiêu biểu nhất là người trộm lành, điển hình cho "chim trời có thể tới núp bóng được".
Dụ ngôn thứ nhất của Bài Phúc Âm hôm nay rất thích hợp với trường hợp của Vua Đavít trong Bài Đọc 1 hôm nay. Ở chỗ, thật sự là "người gieo hạt xuống đất..." như đã "ngủ" say đến độ "không hay biết" những giây phút gian ác thầm kín ngoại tình và sát nhân của một vị vua đưoọc gọi là Thánh Vương Đavít này.
Vua đã ngoại tình ở chỗ: "Khi chiến tranh đang diễn tiến, thì một bữa trưa nọ, Ðavít ra khỏi giường ngủ, đi bách bộ trên sân thượng nhà vua, liền nhìn thấy một phụ nữ đang tắm trên sân thượng nhà bà. Bà rất xinh đẹp. Vậy vua sai dò hỏi người phụ nữ đó là ai. Người ta thưa đó là bà Bethsabê, con ông Êliam, vợ Uria người Hêthê. Ðavít sai cận vệ đi tìm bà. Khi trở về nhà, bà mang thai, nên sai người báo tin cho Ðavít mà rằng: 'Tôi đã có thai'".
Vua đã sát nhân ở chỗ: "Ðavít mời ông ăn uống trước mặt mình và ép uống rượu cho say. Ðến chiều Uria đi ra cùng với các cận vệ ngủ trên chõng, chớ không về nhà. Sáng hôm sau, Ðavít viết một lá thư gởi cho Gioáp và sai Uria mang đi. Trong thư, ngài viết như sau: 'Hãy đặt Uria vào nơi giao tranh gay cấn nhất, rồi bỏ mặc hắn, để hắn bị đánh cho chết'. Vậy khi Gioáp bao vây thành, liền cử Uria đến địa điểm mà ông biết có những quân địch mạnh nhất. Quân trong thành kéo ra nghinh chiến với Gioáp, nhiều quân sĩ của Ðavít ngã gục, và cả Uria người Hêthê cũng tử trận".
Tội ngoại tình và sát nhân của Thánh Vương Đavít này dường như đã thích hợp với dụ ngôn thứ hai về "hạt cải": Ở chỗ, "khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất", một tính chất có thể áp dụng vào trường hợp của Vua Đavít là những gì vua làm trong Bài Đọc 1 hôm nay: hèn hạ, xấu xa, "nhỏ bé nhất" so với tất cả những gì cao cả vua đã từng làm suốt đời của vua, từ hồi niên thiếu. "Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được", ở chỗ, vua đã nhận biết mình và ăn năn thống hối cùng chấp nhận đền tội lỗi của mình, lại càng làm cho Chúa được vinh danh hơn.
Trong bài giảng lễ ngày thường ở Nhà Trọ Matta hôm Thứ Hai ngày 18/1/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bày tỏ cảm nhận của mình về trường hợp vua Đavít như sau:
1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo
lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội
ác.
2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa.
3) Con thi hành điều ác trước thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình khi phê phán. Này coi, con đã chào đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã hoài thai con.
4) Xin cho con cảm thấy vui mừng hoan hỉ, cho xương bị Chúa đập hớn hở reo lên. Xin ngoảnh mặt đi, đừng nhìn tội lỗi, và tẩy xoá mọi điều gian ác của con.
"Đời sống của con người này đã đánh động tôi. Nó khiến chúng ta nghĩ về cuộc đời của mình. Tất cả chúng ta đều đã được Chúa chọn lãnh nhận Phép Rửa, đều thuộc về dân của Ngài, đều trở thành các vị thánh; chúng ta đã được Chúa thánh hóa trên đường nên thánh. Khi đọc về cuộc đời này, cuộc đời của một đứa nhỏ - không... không phải là một đứa nhỏ, mà là một nam thiếu niên - từ thiếu thời tới già đời, khoảng thời gian con người này đã làm nhiều điều tốt lành cũng như những điều không tốt khác. Nó làm cho tôi nghĩ rằng trong cuộc hành trình Kitô hữu, cuộc hành trình Chúa đã mời gọi chúng ta thực hiện, không có một vị thánh nào mà không có quá khứ và cũng không có một tội nhân nào mà lại không có tương lai".
Phải, chính vì "cuộc hành trình Chúa đã mời gọi chúng ta thực hiện, không có một vị thánh nào mà không có quá khứ và cũng không có một tội nhân nào mà lại không có tương lai", như Đức Giáo Hoàng Phanxicô cảm nhận, mà "Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Ðất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".
ĐTC Biển Đức XVI: Hai trong loạt 138 Giáo Lý chủ đề Giáo Hội Tông Truyền
Thứ Tư 13/12/2006 - Bài 27: Thánh Timôthêu và Titô
Thánh Timôthêô sinh tại Lystres, miền Lycaonia Thổ Nhĩ Kỳ. Cha ngài là người
ngoại giáo, còn mẹ ngài theo Do Thái Giáo, nhưng sau đã trở lại. Theo lời
truyền tụng thì thánh nhân đã tin theo Tin Mừng nhờ lời giảng dạy của thánh
Phaolô tông đồ trong cuộc du hành duy nhất của ngài. Khi đến lần thứ hai,
thánh Phaolô đã chọn ngài làm phụ tá, và ngài theo thánh tông đồ đi giảng
khắp miền Tiểu Á, Macedoine và Hy Lạp. Ngài được đặt làm Giám Mục coi sóc
giáo đoàn Êphêsô. Thánh Phaolô đã đặc biệt nâng đỡ chỉ dạy và khích lệ ngài
trong nhiệm vụ coi sóc đàn chiên Chúa qua những bức thư gửi cho ngài.
Nhân một buổi lễ tế dâng kính thần Ðiana của dân thành Êphêsô, ngài đã công
khai chỉ trích và chính ngài bị dân chúng bắt và ném đá (24/01/97). Thi hài
được giáo dân đem chôn ở đỉnh núi gần đấy.
Thánh Titô cũng trở lại đạo nhờ lời thánh Phaolô và được chọn làm cộng sự
viên của ngài, chia sẻ mọi công việc tại Corintô và tại Crêta. Vì lòng nhiệt
thành và trung tín trong việc rao giảng Tin Mừng, ngài đã trở nên bạn nghĩa
thiết của thánh Phaolô. Chính trong thư (2 Cor 4, 6) thánh Phaolô viết khi
còn ở Troas, đã thú nhận điều này: "Nhưng Thiên Chúa, Ðấng an ủi những người
cùng khốn, đã đến viếng thăm chúng tôi qua sự đến thăm của Titô". Ngài được
thánh tông đồ sai đến Corintô với xứ mạng đặc biệt là quyên góp tiền để an
ủi và giúp đỡ giáo dân Do Thái. Ngài đã hoàn tất sứ mạng cách hết sức khôn
ngoan. Ngài cũng đã hướng dẫn vị tông đồ đến Crêta, và sau cùng ngài được
thánh Phaolô đặt làm Giám Mục tại đây. Vì thập giá Ðức Kitô, ngài đã phải
chịu khổ sở cùng cực đối với dân Dalmatas. Sau cùng, ngài đã kết thúc cuộc
đời trong tay Chúa, hưởng thọ 94 tuổi.
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (năm
II) 2
Sm 12, 1-7a, 10-17
"Tôi đã phạm tội đến Chúa".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Chúa sai Nathan đến cùng Ðavít. Ông đến và nói với
Ðavít rằng: "Trong thành kia có hai người, một người giàu và một người
nghèo. Người giàu có rất nhiều chiên bò, còn người nghèo thì không có gì,
ngoài một con chiên con mà ông đã mua và nuôi dưỡng, nó lớn lên trong nhà
ông cùng với con cái ông, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén và cùng ngủ
một giường với ông; ông kể nó như con gái mình. Có một người khách đến thăm
người giàu ấy, ông ta không muốn bắt chiên bò của mình để dọn tiệc đãi
khách, nhưng lại bắt con chiên của người nghèo mà dọn tiệc đãi khách". Ðavít
tức giận người đó lắm, và nói cùng Nathan rằng: "Nhân danh Thiên Chúa hằng
sống! Người làm như thế là đáng chết. Nó phải bồi thường gấp bốn lần vì đã
hành động bất nhân như thế!"
Nathan liền nói với Ðavít: "Ngài chính là người đó. Chúa là Thiên Chúa
Israel phán rằng: Lưỡi gươm sẽ không bao giờ rời khỏi dòng dõi ngươi cho đến
muôn đời, vì ngươi đã khinh dể Ta, đã cướp vợ của Uria người Hêthê làm vợ
mình. Vì thế Chúa phán rằng: Từ gia đình ngươi, Ta sẽ gây nên tai hoạ đổ
trên đầu ngươi. Ngay trước mặt ngươi, Ta sẽ đem thê thiếp của ngươi trao cho
người khác, nó sẽ ăn ở với chúng ngay dưới ánh sáng mặt trời. Ngươi đã hành
động thầm lén, còn Ta, Ta sẽ làm việc đó trước mặt toàn dân Israel và giữa
thanh thiên bạch nhật".
Ðavít nói cùng Nathan rằng: "Tôi đã phạm tội đến Chúa". Và Nathan nói cùng
Ðavít rằng: "Chúa cũng đã tha tội cho ngài rồi, ngài sẽ không phải chết.
Nhưng vì việc này, ngài làm dịp cho quân thù của Chúa nói phạm thượng, nên
đứa con của ngài sẽ chết". Rồi Nathan ra về.
Và Chúa giáng hoạ trên đứa con của Ðavít do vợ của Uria sinh ra, nên nó lâm
trọng bệnh. Ðavít khẩn cầu Chúa cho đứa trẻ, ông ăn chay và lui về phòng nằm
dưới đất. Các kỳ lão đến nhà vua và nài xin vua chỗi dậy, nhưng vua không
chịu và không dùng bữa với họ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 50, 12-13. 14-15. 16-17.
Ðáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch
(c. 12a).
Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh
thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ
thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.
2) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ
nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về
với Ngài. - Ðáp.
3) Xin cứu gỡ con khỏi đền nợ máu, ôi lạy Chúa là Chúa cứu độ con, lưỡi con
sẽ ca ngợi đức công minh Chúa. Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan
truyền lời ca khen. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của
Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 4, 35-41
"Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy
sang bên kia biển hồ". Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới
thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người. Chợt
có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và
Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa
Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?" Chỗi dậy, Người đe
gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi". Tức thì gió ngừng biển
lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con
không có đức tin ư?" Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người
là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Đức Kitô chỗi dậy
Hôm nay Thứ Bảy, ngày cuối cùng của Tuần 3 Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của thời điểm phụng vụ này vẫn được tiếp tục ở chung phụng vụ Lời Chúa hôm nay, cách riêng là bài Phúc Âm, qua sự kiện Người dẹp yên bão tố.
Thật vậy, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này đã tỏ mình ra qua sự kiện dẹp yên bão tố để cứu các môn đệ của Người, thành phần yếu đức tin cần phải mạnh tin hơn nhờ chứng kiến thấy quyền năng của Người: "Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: 'Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?'"
Căn cứ vào sự kiện xẩy ra được Phúc Âm hôm nay thuật lại là "chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: 'Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?'" chúng ta thấy quả thực các môn đệ đáng bị Thày của các vị quở trách: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"
Lời quở trách này của Người như thể Người muốn nói cùng các vị rằng: Tại sao các con lại cuống lên và quá hoảng loạn như thế. Chính Thày đang ở bên các con và ở cùng các con mà các con còn sợ và vẫn sợ hay sao. Các con không nhớ rằng Thày đã từng tỏ quyền năng thần linh của Thày ra bằng cách chữa lành đủ thứ bệnh nạn tật nguyền, thậm chí trừ được cả quyền lực của ngụy thần ma quỉ.
Phải, chắc chắn các môn đệ của Người không chối cãi được quyền năng của Thày trong việc Người chữa lành và trừ quỉ, nhưng còn bão tố dữ dội khủng khiếp trong thiên nhiên như lần này thì các vị mới gặp lần đầu tiên, nên không biết quyền năng của Thày các vị ra sao và tới đâu, liệu có thể làm chủ nổi sức mạnh cuồng phong kinh hoàng bấy giờ hay chăng thì chưa thấy, do đó để chắc ăn các vị cần phải "đánh thức Người đậy mà nói: 'Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?'"
Đúng là cơn bão tố quá dữ dội đến độ đã làm cho các môn đệ trở nên hoảng loạn, thậm chí các vị không còn bình tĩnh để nghĩ được rằng tại sao Thày của các vị, Đấng luôn thức dậy từ sáng sớm để đi cầu nguyện (xem Marco 1:35), làm sao lại có thể ngủ say đến thế, đến độ "những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước" mà Thày lại cứ "dựa gối mà ngủ ở đằng lái" được nhỉ? Các vị đang hết sức chống chọi với bão tố mà còn có thể bị chết thì chẳng lẽ Thày ngủ như vậy mà chỉ có mình Người thoát chết được hay sao, trong khi các vị bị chết chìm?? Nếu Chúa hay chơi trò "giả vờ" (Luca 24:28), như đối với 2 môn đệ về làng Emmau hay như trong trường hợp của Bài Phúc Âm hôm nay, thì những ai bị Người thử thách chỉ cần "tỉnh bơ" (cứ giữ tâm hồn bình an hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Người), thế là xong: Chúa mà "giả vờ" thì con cứ "tỉnh bơ"!
Tuy nhiên, dầu sao cũng nhờ tình trạng quá yếu kém đức tin của các vị mà Chúa Kitô được dịp tỏ quyền năng của Người nơi cả thiên nhiên tạo vật nữa, chứ không phải chỉ nơi loài người hay nơi ma quỉ mà thôi. Thiên nhiên tạo vật sở dĩ xẩy ra những thiên tai cũng do bởi tội lỗi của loài người, như bệnh hoạn tật nguyền cũng bởi nguyên tội, bị quỉ ám cũng bởi nguyên tội. Là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", Người cứu độ con người chẳng những phần hồn mà còn phần xác của họ nữa.
Chỉ vào lúc con người cảm thấy hoàn toàn bất lực, cảm thấy bất khả cứu vãn, Thiên Chúa thường mới lợi dụng để tỏ mình ra, nhờ đó đức tin của họ được gia tăng trong đời sống trần gian này và Người được họ nhận biết. Bởi thế, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: "Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: 'Hãy im đi, hãy lặng đi'. Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ".
Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay cũng cho thấy trường hợp sóng gió bão bùng nổi lên trong cuộc đời của Vua Đavít, gây ra bởi tội lỗi của vua, như được thuật lại trong Bài Đọc 1 hôm qua. Bão tố nổi lên như hậu quả của tội vua phạm, như lời tiên tri Nathan tiên báo trong Bài Đọc 1 hôm nay, đó là:
"Lưỡi gươm sẽ không bao giờ rời khỏi dòng dõi ngươi cho đến muôn đời, vì ngươi đã khinh dể Ta, đã cướp vợ của Uria người Hêthê làm vợ mình. Vì thế Chúa phán rằng: Từ gia đình ngươi, Ta sẽ gây nên tai hoạ đổ trên đầu ngươi. Ngay trước mặt ngươi, Ta sẽ đem thê thiếp của ngươi trao cho người khác, nó sẽ ăn ở với chúng ngay dưới ánh sáng mặt trời. Ngươi đã hành động thầm lén, còn Ta, Ta sẽ làm việc đó trước mặt toàn dân Israel và giữa thanh thiên bạch nhật".
Chưa hết, cho dù vua Đavít có tỏ lòng ăn năn thống hối chăng nữa thì tội được tha nhưng hậu quả của tội vua phạm thì vua vẫn phải đền tội của mình một cách cân xứng. Đó là lý do đoạn kết của Bài Đọc 1 hôm nay mới tiếp tục cho biết thêm như sau:
"Ðavít nói cùng Nathan rằng: 'Tôi đã phạm tội đến Chúa'. Và Nathan nói cùng Ðavít rằng: 'Chúa cũng đã tha tội cho ngài rồi, ngài sẽ không phải chết. Nhưng vì việc này, ngài làm dịp cho quân thù của Chúa nói phạm thượng, nên đứa con của ngài sẽ chết'. Rồi Nathan ra về. Và Chúa giáng hoạ trên đứa con của Ðavít do vợ của Uria sinh ra, nên nó lâm trọng bệnh. Ðavít khẩn cầu Chúa cho đứa trẻ, ông ăn chay và lui về phòng nằm dưới đất. Các kỳ lão đến nhà vua và nài xin vua chỗi dậy, nhưng vua không chịu và không dùng bữa với họ".
Bài Đáp Ca hôm nay, cũng được trích từ Thánh Vịnh 50 là Thánh Vịnh thống hối của Vua Đavít, tiếp ngay sau Bài Phúc Âm hôm qua, bài thánh vịnh trong Bài Đáp Ca hôm nay, sau phần thống hối ăn năn (trong Bài Đáp Ca hôm qua), sang tới phần xin những ơn cần thiết để có thể sống đẹp lòng Chúa, chẳng hạn những ơn tiêu biểu sau đây:
1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh
tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan
Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.
2) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài.
3) Xin cứu gỡ con khỏi đền nợ máu, ôi lạy Chúa là Chúa cứu độ con, lưỡi con sẽ ca ngợi đức công minh Chúa. Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen.
Ngày 27 tháng 1 -
Thánh Angiêla Mêrici, trinh nữ
Angêla Mêrici chào đời ngày 21/3/1474 trong một gia đình trung lưu và đạo
hạnh bên Ý. Khi lên 9 tuổi, Angêla làm một tuần tĩnh tâm và khấn nguyện giữ
mình đồng trinh trọn đời. Từ đó ngài từ khước mọi xa hoa phù phiếm, chuyên
tâm cầu nguyện và hăng hái làm việc lành. Năm 12 tuổi, Angêla mồ côi cha mẹ
nên phải sống chật vật, nhưng càng cực khổ, ngài càng sống kết hiệp với Chúa
hơn và tăng thêm lòng yêu mến Ðức Mẹ. Ðể đáp lại tấm lòng của người con hiếu
thảo, Ðức Mẹ đã báo trước cho ngài được biết ngày hưởng hạnh phúc Thiên
Ðàng. Từ đó thánh nữ càng cố gắng hơn trên con đường tu đức, với cuộc sống
hy sinh và cầu nguyện. Ngài thường nhủ mình: "Cầu nguyện hãm mình đi trước
rồi việc làm và lời nói đến sau thì công việc tông đồ mới có kết quả". Do
đó, ngài tỏ ra tận tụy giúp đỡ người nghèo khó, săn sóc và an ủi kẻ yếu đau.
Khi thi hành công việc bác ái, ngài được Chúa cho biết nên tổ chức và phổ
biến công việc đó rộng rãi hơn. Với sự soi sáng và mục đích đó, Hội Phụ Nữ
Bác Ái do ngài sáng lập, đã phát triển mau lẹ. Năm 1529, sau chuyến đi hành
hương thánh địa, ngài được Chúa cho biết phải lập một tu viện. Dòng được mở
mang nhiều nơi và chính ngài đích thân huấn luyện các chị em.
Ngày 28/01/1540, sau một cơn bạo bệnh, ngài qua đời hưởng thọ 66 tuổi.
Năm 1807, ngài được Ðức Giáo Hoàng Piô VII phong lên bậc Hiển Thánh.