SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XX Thường Niên

Năm B (Chúa nhật) và Năm Chẵn (Ngày thường)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Cn 9, 1-6

"Các ngươi hãy ăn bánh của ta, và hãy uống rượu ta đã pha cho các ngươi".

Trích sách Châm Ngôn.

Sự khôn ngoan đã xây nhà mình và dựng bảy cột trụ, đã giết các sinh vật, pha rượu, dọn bàn tiệc, và sai những nữ tỳ lên các nơi cao trong thành mà công bố rằng: "Ai ngây thơ, hãy đến cùng ta". Và bảo những kẻ mê muội rằng: "Các ngươi hãy đến ăn bánh của ta, và uống rượu ta đã pha cho các ngươi. Các ngươi hãy bỏ sự ngây dại đi, thì sẽ được sống, và hãy bước theo đường lối khôn ngoan".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 10-11. 12-13. 14-15

Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao (c. 9a).

Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.

2) Các thánh nhân của Chúa hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi; bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo. - Ðáp.

3) Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy cho các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc. - Ðáp.

4) Hãy giữ lưỡi đừng nói ra điều ác, và ngậm môi cho khỏi thốt ra lời gian ngoa. Hãy lo tránh ác và hành thiện, hãy tìm kiếm và theo đuổi bình an. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Ep 5, 15-20

"Anh em hãy ăn ở khôn ngoan theo thánh ý Chúa".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, anh em hãy xét coi phải ăn ở thế nào cho thận trọng, đừng như những kẻ dại dột, song như những người khôn ngoan: biết lợi dụng thời giờ, vì thời buổi này đen tối. Vì thế anh em chớ ăn ở bất cẩn, nhưng hãy hiểu biết thế nào là thánh ý Thiên Chúa. Anh em chớ say sưa rượu chè, vì rượu sinh ra dâm dục, nhưng hãy tiếp nhận dồi dào Chúa Thánh Thần, cùng nhau hát lên những thánh vịnh, những ca vãn và những bài ca đạo đức và hết lòng ca tụng Chúa. Hãy luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa là Cha trong mọi nơi mọi sự, nhân danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 6, 51-59

"Thịt Ta thật là của ăn, và Máu Ta thật là của uống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống".

Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?"

Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha, là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống. Không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết, ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".

Ðó là lời Chúa.

Image result for jn 6, 51-59

Suy Nghiệm Lời Chúa

Chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh vẫn tiếp tục với Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XX Thường Niên Năm B hôm nay, qua đoạn 6 Phúc Âm của Thánh ký Gioan về Bánh Hằng Sống.


Thật vậy, nếu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước, Chúa Giêsu đã khẳng định ở câu cuối cùng cũng là câu đầu của bài Phúc Âm hôm nay, rằng "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Và bánh Tôi sẽ ban, chính là thịt Tôi cho thế gian được sống", thì trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu còn khẳng định hơn nữa về tác dụng của Bánh Hằng Sống này, như sau:


"Thật, Tôi bảo thật quí vị: Nếu quí vị không ăn thịt Con Người và uống máu Người, quí vị sẽ không có sự sống trong quí vị. Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì có sự sống đời đời, và TôiTôi sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống. Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì ở trong Tôi và Tôi ở trong kẻ ấy".


Trong bài suy niệm cho Chúa Nhật tuần trước, chúng ta đã suy diễn câu khẳng định của Chúa Kitô "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Và bánh Tôi sẽ ban, chính là thịt Tôi cho thế gian được sống" như sau: 


1- "Bánh hằng sống từ trời xuống" đây trước hết và trên hết là chính bản thân Chúa Kitô; 2- "ai ăn bánh này sẽ sống đời đời" nghĩa là ai nhận biết và tin tưởng Chúa Kitô thì được sự sống đời đời (xem Gioan 17:3); 3- "bánh Tôi sẽ ban chính là thịt Tôi cho thế gian được sống" ám chỉ cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô và việc Người thiết lập Bí Tích Thánh Thể là hy tế hiện thực Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, một biến cố mang lại sự sống đời đời cho trần gian qua thừa tác vụ thánh của Giáo Hội. 


Nếu "bánh Tôi sẽ ban chính là thịt Tôi cho thế gian được sống", mà "bánh Tôi sẽ ban" đây ám chỉ cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, được hiện thực nơi Bí Tích Thánh Thể trong Phụng Vụ của Giáo Hội thì quả thực "thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống". Ở chỗ, "Này là mình Thày sẽ bị nộp vì các con" (Luca 22:19) và "Này là máu Thày sẽ đổ ra cho nhiều người(Mathêu 26:28; Marcô 14:24).


Đúng thế, Chúa Giêsu Kitô là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), như "Bánh hằng sống từ trời xuống" để "ai tin ("ăn") Người thì được sống đời đời" (xem Gioan 6:40 và 51 / Gioan 3:16), và "Lời đã hóa thành nhục thể" đây đã "ban sự sống" cho riêng các môn đệ cũng như qua trung gian Giáo Hội Nhiệm Thể Người cho chung thế gian, bằng cuộc Vượt Qua của Người, một biến cố nhờ đó các vị đã tin vào Người mà được sự sống đời đời (xem Gioan 17:19,3), một sự sống làm cho họ nên một với Chúa Kitô: "Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì ở trong Tôi và Tôi ở trong kẻ ấy".


Và chính vì được hiệp nhất nên một với Chúa Kitô mà họ cũng được nên một với Cha để thế gian cũng được thông phần vào sự sống thần linh hiệp nhất nên một này: "Con sống trong họ, Cha sống trong Con - để mối hiệp nhất của họ được nên trọn. Nhờ đó thế gian sẽ nhận biết rằng Cha đã sai Con, và Cha yêu thương họ như Cha đã yêu thương Con" (Gioan 17:23).  


Tuy nhiên, Cuộc Vượt Qua ban sự sống đời đời của Chúa Kitô là một mầu nhiệm siêu việt, trí khôn tự nhiên của loài người không thể nào nắm bắt được, thấu hiểu nổi, như phản ứng trong bài Phúc Âm cho thấy: "Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: 'Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?'".


Đó là lý do, trong Bài Đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô mới khuyên Kitô hữu Thành Êphêsô về cả 2 phương diện tiêu cực và tích cực như sau: "Anh em chớ ăn ở bất cẩn, nhưng hãy hiểu biết thế nào là thánh ý Thiên Chúa. Anh em chớ say sưa rượu chè, vì rượu sinh ra dâm dục, nhưng hãy tiếp nhận dồi dào Chúa Thánh Thần". Về tiêu cực: "chớ ăn ở bất cẩn" và "chớ say sưa rượu chè", về tích cực: "hãy hiểu biết thế nào là thánh ý Thiên Chúa" và "hãy tiếp nhận dồi dào Chúa Thánh Thần". Có thế họ mới có thể "ở trong Tôi và Tôi ở trong (họ)".


Theo chiều hướng của Bài Đọc 2, về việc sống khôn ngoan hơn là khờ dại, ở chỗ tìm kiếm những thứ lương thực ăn uống làm cho mình được sống trường sinh bất tử, Sách Cách Ngôn trong Bài Đọc 1 hôm nay cũng kêu gọi "những kẻ mê muội rằng: 'Các ngươi hãy đến ăn bánh của ta, và uống rượu ta đã pha cho các ngươi. Các ngươi hãy bỏ sự ngây dại đi, thì sẽ được sống, và hãy bước theo đường lối khôn ngoan'".


Chiều hướng sống khôn ngoan của Bài Đọc 1 và 2 để được sự sống chân thật còn phản ảnh nơi Bài Đáp Ca hôm nay, một Bài Đáp Ca chất chứa tâm tình chúc tụng ngợi khen Chúa (câu 1), cùng với lời kêu gọi tôn sợ Chúa (câu 2), nhờ đó mà được sống trường sinh phúc lộc (câu 3), và cũng nhờ đó mới có thể làm lành lánh dữ mà bình an vui sống (câu 4). 


1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. 

 

2) Các thánh nhân của Chúa hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi; bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo. 


3) Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy cho các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc. 


4) Hãy giữ lưỡi đừng nói ra điều ác, và ngậm môi cho khỏi thốt ra lời gian ngoa. Hãy lo tránh ác và hành thiện, hãy tìm kiếm và theo đuổi bình an. 

 

 

Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Ed 24, 15-24

"Êdêkiel sẽ là điềm báo trước cho các ngươi, các ngươi cũng sẽ làm đúng như người đã làm".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Có lời Chúa phán cùng tôi rằng: "Hỡi con người, này bằng cái chết bất ngờ, Ta cất khỏi ngươi điều mắt ngươi ưa thích: ngươi chớ than vãn, kêu khóc và rơi lệ. Ngươi hãy âm thầm than van, đừng để tang người chết: hãy vấn khăn trên đầu, xỏ giày vào chân, chớ lấy áo che miệng, chớ dùng bữa nơi nhà hiếu".

Vậy ban sáng tôi đã nói cùng dân chúng, và chiều thì vợ tôi chết. Sáng hôm sau, tôi thi hành đúng như Chúa đã truyền dạy tôi. Và dân chúng hỏi tôi rằng: "Tại sao ông không giải thích cho chúng tôi biết ý nghĩa việc ông làm?" Tôi bảo họ: "Lời Chúa phán cùng tôi rằng: Hãy nói với nhà Israel: Chúa là Thiên Chúa phán như thế này: Ðây Ta sẽ để đền thờ Ta ra ô uế, đền thờ đó là sự hãnh diện của vương quốc các ngươi, sự mắt các ngươi ưa thích, nơi lòng các ngươi kính sợ. Con trai con gái các ngươi để lại, sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm. Bấy giờ các ngươi sẽ hành động như tôi đã hành động: Các ngươi không lấy áo che miệng, không dùng bữa nơi nhà hiếu, cứ đội khăn trên đầu và mang giày dưới chân, sẽ không than vãn, không kêu khóc, nhưng sẽ hao mòn trong sự gian ác các ngươi, và ai nấy sẽ than thở với anh em mình. Êdêkiel sẽ nên điềm báo trước cho các ngươi: các ngươi cũng sẽ làm đúng như Êdêkiel đã làm, và khi mà sự việc xảy ra, các ngươi sẽ biết Ta là Thiên Chúa".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Ðnl 32, 18-19. 20. 21

Ðáp: Ngươi đã bỏ Chúa, Ðấng đã sinh ra ngươi (c. 8a).

Xướng: 1) Ngươi đã bỏ Chúa, Ðấng đã sinh ra ngươi; đã quên Chúa, Ðấng tạo thành ngươi. Chúa đã thấy, và Người đã nổi cơn thịnh nộ: vì con trai, con gái Người đã trêu chọc Người. - Ðáp.

2) Chúa phán: "Ta sẽ che giấu mặt Ta khỏi chúng, và nhìn xem tương lai chúng sẽ ra sao: vì là dòng giống ngỗ nghịch và là con bất hiếu. - Ðáp.

3) "Chúng đã trêu chọc Ta bằng thứ chẳng phải là Chúa, đã lấy sự dối trá mà chọc giận Ta; Ta sẽ trêu chúng bằng thứ không phải là dân tộc, và sẽ dùng dân tộc dại dột làm cho chúng tức giận".- Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 34

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 19, 16-22

"Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, có một người đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?" Người bảo kẻ ấy rằng: "Sao ngươi hỏi Ta về việc lành? Chỉ có một Ðấng nhân lành là Thiên Chúa. Nếu ngươi muốn vào nơi hằng sống, ngươi hãy tuân giữ các giới răn". Người ấy hỏi rằng: "Những giới răn nào?" Chúa Giêsu đáp: "Ngươi chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối. Hãy thảo kính cha mẹ, và yêu thương kẻ khác như chính mình". Người thanh niên thưa lại rằng: "Tất cả những điều đó tôi đã giữ từ khi còn niên thiếu, vậy tôi còn thiếu sót gì nữa chăng? Chúa Giêsu bảo anh: "Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Ta". Khi người thanh niên nghe lời đó thì buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều sản nghiệp.

Ðó là lời Chúa.

 

Yeshua = God: March 2014

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Tốt Lành vẫn chưa Thánh Đức

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XX Thường Niên hôm nay tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm của Thứ Bảy tuần trước, bài Phúc Âm về "Nước Trời thuộc về những người" sống tinh thần khiêm hạ như trẻ nhỏ.

Về nội dung, có thể nói bài Phúc Âm hôm nay tiếp nối bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước. Vì trong bài Phúc Âm hôm nay Nước Trời dường như không thuộc về thành phần giầu có như người giầu có trong bài Phúc Âm, cho dù người giầu có này sống đạo đàng hoàng chứ không vì giầu mà bê bối. 

Trước hết, người giầu trong bài Phúc Âm sống đạo đàng hoàng, đến độ dường như vẫn còn cảm thấy thiếu một cái gì đó cho dù về vật chất giầu sang phú quí, nên mới lên tiếng hỏi Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?" 

Sau nữa, "người thanh niên" này không vì giầu mà sống bê bối, như lời anh ta đã thưa cùng Chúa Giêsu, Đấng đã liệt kê các giới răn căn bản trong Thập Giới để được cứu rỗi hay "để được sống đời đời", những giới răn "chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối. Hãy thảo kính cha mẹ, và yêu thương kẻ khác như chính mình", những giới răn mà anh ta đã tự thú với Người rằng: "Tất cả những điều đó tôi đã giữ từ khi còn niên thiếu, vậy tôi còn thiếu sót gì nữa chăng?" 

Đúng thế, con người được dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Thiên Chúa nên lòng luôn khắc khoải cho tới khi được nghỉ yên trong Ngài mà cho dù giầu sang phú quí về vật chất họ vẫn cảm thấy xao xuyến bất an làm sao ấy. Thái độ của người thanh niên giầu sang trong bài Phúc Âm đã cho thấy rõ tâm trạng này, chẳng những ở vấn nạn được anh ta đặt ra hỏi Chúa Giêsu: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?", mà còn ở hành động cuối cùng của anh ta được Phúc Âm thuật lại rằng: "Khi người thanh niên nghe lời đó thì buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều sản nghiệp".

Tuy nhiên, tâm trạng vẫn còn "thiếu sót" này của chàng thanh niên giầu có trong bài Phúc Âm hôm nay cũng dễ hiểu thôi. Bởi vì, ơn gọi nên trọn lành không phải ai cũng có thể theo đuổi, hễ muốn là được, mà cần phải được kêu gọi và tuyển chọn như các vị tông đồ. Mà muốn nên trọn lành thì điều kiện tiên quyết đó là từ bỏ tất cả những gì con người sở hữu, nhờ đó họ mới có thể tiến đến chỗ bỏ mình và vác thập giá mà theo Chúa Kitô Vượt Qua được, như chính Người đã kêu gọi trong bài Phúc Âm hôm nay: "Nếu anh muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải anh có và bố thí cho người nghèo khó, thì anh sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Tôi".

Dấu hiệu còn cảm thấy "thiếu sót" và "buồn rầu" của người thanh niên giầu có trong bài Phúc Âm dầu sao cũng đáng mừng, vì chúng chứng tỏ người thanh niên giầu có này vẫn còn ý thức đức tin, vẫn còn khao khát nên trọn lành, tuy chưa thể thực hiện ngay được, hơn là những con người tham lam làm giầu đến độ bỏ Chúa, bỏ lễ Chúa Nhật, cho đến khi Chúa để cho thất bại, tan gia bại sản, tan nát gia đình, con cái hư thân mất nết, bố mẹ ly dị v.v., thì đâm ra trách Chúa, hận Chúa, tại sao Chúa để cho họ bị khốn khó như vậy v.v.!? Tại sao họ không tự trách mình bỏ Chúa mà lại trách Chúa bỏ họ nhỉ?! Thật là đáng thương...

Thực tế đã cho thấy, Thiên Chúa đã đối xử với thành phần dân được Ngài tuyển chọn và ưu đãi, trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, giòng lịch sử cứu độ cho thấy một thứ nghịch đảo nhưng cùng chiều với nhau, ở chỗ, một đàng dân Do Thái càng hư thân mất nết, bội phản Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, như chính Ngài đã tỏ mình ra cho họ, thì Thiên Chúa lại ra tay trừng phạt họ, đánh thẳng vào những gì họ coi là trọng đại nhất, lấy đi nơi họ những gì họ coi là quí giá nhất, nhưng họ lại sống vô cùng bất xứng với những thứ quí báu ấy của họ, để nhờ đó họ nhận biết sự thật về bản thân họ cũng như về chính Đấng bất đắc dĩ phải ra tay chữa lành đôi mắt mù lòa quáng gà của họ.

Qua miệng Tiên Tri Êzêkiên ở Bài Đọc 1 hôm nay, vị tiên tri được Thiên Chúa sử dụng làm mô phạm cho dân chúng, bao gồm cả cái chết của vợ ông, để Ngài phán dạy dân của Ngài như thế này: "Ðây Ta sẽ để đền thờ Ta ra ô uế, đền thờ đó là sự hãnh diện của vương quốc các ngươi, sự mắt các ngươi ưa thích, nơi lòng các ngươi kính sợ. Con trai con gái các ngươi để lại, sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm....và khi mà sự việc xảy ra, các ngươi sẽ biết Ta là Thiên Chúa".

Người thanh niên trong bài Phúc Âm hôm nay cũng thế, thái độ tiếc nuối đến độ "buồn rầu bỏ đi" của anh ta, không thể hưởng ứng và đáp ứng lời mời gọi tiến bước cao hơn nữa theo lời của Người, chắc chắn sẽ là một yếu tố bất khả thiếu để anh ta có thể dễ dàng dứt khoát theo Chúa mà nên trọn lành, một khi những gì anh ta còn quyến luyến bấy giờ ấy, bất ngờ bị Ngài làm cho mất đi ngoài ý muốn của anh ta. Bài Đáp Ca hôm nay, được trích từ Sách Tiên Tri Đaniên, đã cho thấy vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của dân Do Thái không chấp nhận đời sống bất xứng của họ đối với Ngài, bằng cách Ngài làm sao để biến tình trạng bất xứng của họ xứng với lòng thương xót của Ngài, ở chỗ:

Vì "Ngươi đã bỏ Chúa, Ðấng đã sinh ra ngươi; đã quên Chúa, Ðấng tạo thành ngươi" (đầu câu 1), và "vì là dòng giống ngỗ nghịch và là con bất hiếu" (cuối câu 2), "Chúng đã trêu chọc Ta bằng thứ chẳng phải là Chúa, đã lấy sự dối trá mà chọc giận Ta" (đầu câu 3), "Ta sẽ che giấu mặt Ta khỏi chúng, và nhìn xem tương lai chúng sẽ ra sao" (đầu câu 2), ở chỗ "Ta sẽ trêu chúng bằng thứ không phải là dân tộc, và sẽ dùng dân tộc dại dột làm cho chúng tức giận" (cuối câu 3). Mục đích tối hậu của Ngài khi trả đũa dân của Ngài có vẻ ác ôn đầy nghiệt ngã như thế là để mang lại phần rỗi cho họ mà thôi, khi họ nhận biết sự thật về chính bản thân họ cũng như về vị Thiên Chúa chân thật duy nhất đáng tôn thờ của họ.

 

 

 

Thánh Gioan Eude (19/8)

 

Vietnamese Catholic Community Sydney | Cộng đồng Công Giáo Việt Nam | Tổng  Giáo Phận Sydney

Thánh Gioan Euđê là một trong số những người chấn hưng tôn giáo tại Pháp thời vua Luy XVI. Isaac Euđê, cha Ngài là nhà nông kiêm nghề giải phẫu tại thành Ri gần Argentan, đã có ý định trở thành linh mục, nhưng rồi lại bỏ ý định để lập gia đình. Mẹ Ngài là bà Mattha Corbin tưởng sẽ phải son sẻ. Nhưng rồi sau nhờ cầu nguyện, họ sinh được Gioan với bốn em gái và hai em trai nữa.

Gioan có tính nóng nảy, nhưng hiến mình cho Đức Trinh Nữ Maria, Ngài quyết sửa mình bằng cách ngày càng mến Mẹ hơn. Hồi 9 tuổi, có lần Ngài bị một thằng bạn vả mặt, nhớ lời Chúa Ngài đưa má kia ra: còn má này nữa, nếu muốn anh cứ vả tiếp đi. Thằng bạn ngượng ngùng và sau này đã kể lại sự kiện đó với niềm thán phục sâu xa.

15 tuổi Gioan theo học các cha dòng Tên tại Caen. Từ trong huyết quản Gioan đoan hứa dâng mình cho mẹ Thiên Chúa. Nhưng khi trở về nhà, cha mẹ nói với Ngài về việc hôn nhân. Ngài bày tỏ ước vọng với cha mẹ và phải khó khăn lắm mới được cha mẹ ưng thuận. Ngài nhập dòng giảng thuyết và năm 1625 thụ phong linh mục.

Sau ngày thụ phong, Gioan phục vụ giáo xứ ở Aubervilliers. Hai năm sau, một cơn dịch xảy tới tàn phá giáo phận Sees. Các bệnh nhân bị những người khác bỏ mặc và trốn chạy. Gioan chỉ muốn bay tới để giúp đỡ họ. Trong suốt hai tháng trời, Ngài hết mình phục vụ. Khi cơn dịch hạ giảm, Ngài thực hiện sứ vụ tại Caen. Nhưng cơn dịch chưa dứt mà chỉ dời chỗ. Lần này cơn dịch tràn tới Caen. Gioan lại tận tâm quên mình phục vụ. Không có gì làm cho Ngài sợ hãi cả. Nhưng dân chúng lại sợ Ngài truyền bệnh. Bởi đó Ngài bị giam mình trong một cái thùng để ở ngoài đồng ruộng, khiến lúc đó cánh đồng được gọi là “cánh đồng của thánh nhân”. Các nữ tu thương hại Ngài ngày ngày mang của ăn đến cho Ngài. Ngài trở về dòng hiến mình phục vụ hai tu sĩ và bề trên sắp chết vì bệnh dịch. Cuối cùng, cơn dịch tan biến, nhưng Gioan lên cơn sốt, dân chúng khẩn cầu tha thiết cho Ngài được chữa lành và niềm vui thật lớn lao khi người “Samaritanô nhân hậu” tái xuất hiện.

Bây giờ bắt đầu công trình rao giảng và truyền giáo của Ngài. Ngài chống lại lạc thuyết Calvinô, những kinh hoàng của cuộc nội chiến, sự dốt nát của hàng giáo sĩ, những tật xấu của các tín hữu. Chúng ta có thể đo lường hoạt động của một vị thánh như thế nào: 15 ngàn người chen lấn nghe thánh nhân giảng, các tội nhân sám hối và để được xưng tội, họ phải chờ 4 hay 5 ngày mới đến lượt. Trong khi để tiết kiệm thì giờ của họ. Ngài chỉ dùng vài miếng bánh để dưỡng sức. Các thói tục ngoại giáo biến dạng. Ở Autun, cuộc rước Trinh nữ thay thế cho những gương mù ngày Mi-Careme.Ở Meaux dân chúng mang các sách đồi trụy đến công trường để đốt bỏ.

Cha Gioan Euđê đã giảng thuyết khắp vùng Normandie Bretagne, tới tận Saint Etienne. Tại Paris, cha sở thánh thiện của Saint – Sulpice, M.Olier, đã tổ chức cho Ngài 5 kỳ giảng thuyết. Ngài danh tiếng đến nỗi có 10 giám mục hiện diện. Ở Saint Germain-Laye, vua và hoàng hậu đến ngồi vào ghế thính giả. Cha Gioan Euđê thuyết giảng lần cuối cùng tại Sain-Lô.

Suốt 40 năm, cha Gioan đi rao giảng đó đây. Nhưng việc rao giảng chỉ là một phần hoạt động của Ngài. Nhận thấy hàng giáo sĩ không được đào tạo đầy đủ, Ngài từ giã dòng giảng thuyết năm 1643, để lập hội dòng Chúa Giêsu và Đức Maria lo việc tổ chức các chủng viện. Theo lời đề nghị của Đức Hồng Y Richelieu, Ngài lập đại chủng viện ở Caen rồi sau này ở Lisieux, Rouen, Eureux và Renner. Đàng khác Ngài rất thương cảm các thiếu nữ bất hạnh hoàn lương, năm 641 Ngài đã lập dòng Chúa chiên lành để săn sóc họ.

Giữa bao nhiêu công chuyện, ước mơ lớn nhất của thánh Gioan Euđê là phổ biến lòng tôn sùng Thánh Tâm, Ngài là người khởi xướng, viết sách và các thánh thi ca tụng Thánh Tâm. Đây là nỗ lực chống lại chủ trương sai lầm của thuyết Giansêniô.

Ngày 19 tháng năm 1680, thánh Gioan Euđê từ trần, Ngài được phong chân phước năm 1925 được tôn phong hiển thánh.     

https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-19-8-thanh-gioan-eude-linh-muc-42318

 

Mỗi thánh đều có một nét đặc biệt. Ơn gọi của mỗi vị đều có những sắc thái khác nhau, không ai giống ai, không ai như ai cả. Tựu trung, tất cả các vị thánh đều có một mẫu số chung là muốn trở nên trọn lành và họa lại càng giống bao nhiêu càng tốt hình ảnh của Đức Giêsu Kitô.

THÁNH GIOAN ÊUĐÊ LÀ AI ?

Thánh Gioan Êuđê sinh tại miền Normandie nước Pháp, thuộc địa phận Sées ngày 14 tháng 11 năm 1601 ở làng Ri. Thoạt đầu, thánh nhân theo học với các cha Dòng Tên tại Caen và sau đó đi vào Đại Học. Được gần gũi các cha Dòng tên, được hun đúc về tình yêu Chúa và phục vụ tha nhân, thánh Gioan Eâuđê muốn đáp trả lại lời mời gọi của Chúa, nhưng gia đình Ngài ngăn cản Ngài trở thành linh mục. Ý Chúa thật nhiêm mầu, Ngài không bao giờ nản chán và quyết tâm theo đuổi lý tưởng trở thành linh mục của Chúa, Ngài gia nhập hội dòng giảng thuyết do Đức Hồng y Bérulle vào năm 1623 và rất hăng say với công việc loan báo Tin Mừng. Thánh nhân nhiệt thành với công việc, chuyên cần học triết học và thần học, Ngài được gọi lãnh sứ vụ linh mục và sau đó được chỉ định làm cha xứ ở Aubervillier, đồng thời kiêm nhiệm chức vụ giảng dậy ở nhiều nơi trong nước Pháp. Đời sống đạo đức, lối sống thánh thiện, gương mẫu đi đôi với lời giảng dậy có sức thu hút, lôi cuốn nhiều linh hồn. Thánh nhân có tinh thần truyền giáo cao độ, khi trong vùng có dịch bệnh hoành hành, lan rộng khắp nơi, thánh nhân đã tình nguyện đi săn sóc bệnh nhân và an táng những người qua đời.

NHỮNG CÔNG VIỆC NỔI BẬT CỦA THÁNH NHÂN:

Thánh nhân có đời nội tâm sâu sắc, chính Ngài đã chấn chỉnh lại đời sống đạo đức và uy thế của các giáo sĩ bị sa sút, và thánh Gioan Eâuđê đã thiết lập nhiều chủng viện để thực hiện dự tính tốt lành của Ngài trong việc chấn hưng đạo đức và đào tạo giáo sĩ. Năm 1662, thánh nhân đã lập Hội sùng kính trái tim Chúa Giêsu, sau này được  đổi tên là Dòng Đấng Chăn Chiên Lành để giáo dục các thiếu nữ trụy lạc, hư đốn, sa đọa.

CHÚA THƯỞNG CÔNG VÀ GIÁO HỘI TÔN VINH THÁNH NHÂN:

Với cố gắng tận lực, với lòng hy sinh, nhiệt thành cao độ, thánh Gioan Eâuđê đã được Chúa gọi về vào ngày 19 tháng 8 năm 1680. Đức thánh Cha Piô X đã cất nhắc Ngài lên bậc chân phước. Đức Giáo Hoàng Piô XII, vào dịp năm thánh 1925, đã tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh, và truyền cho Giáo Hội kính Ngài trên toàn thế giới vào năm 1928.

Lạy Chúa, Chúa đã chọn thánh Gioan linh mục làm người rao giảng sự phong phú khôn lường của Đức Kitô. Xin cho chúng con cũng biết theo gương sáng của thánh nhân và nghe lời Người dạy dỗ để ngày càng thêm hiểu biết Chúa và trung kiên sống theo Tin Mừng( Lời nguyện nhập lễ,lễ thánh Gioan Eâuđê).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

http://giaophanthaibinh.org/ngay-19-8-thanh-gioan-eude-st-john-eudes-linh-muc.html

 

Thật không thể nào biết được ơn Chúa sẽ đưa dẫn đến đâu. Thánh Gioan sinh ngày 14 tháng 11 năm 1601 tại Ri, Normandy, miền bắc nước Pháp. Ngài là một tu sĩ, một tông đồ tuần đại phúc, sáng lập hai tu hội và là người cực lực cổ võ lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria.

 

Ngài gia nhập dòng Ôratôriô và thụ phong linh mục năm 24 tuổi. Trong thời kỳ dịch hạch tấn công Normandy năm 1627 và 1631, ngài tình nguyện chăm sóc bệnh nhân trong giáo phận. Ðể khỏi lây bệnh cho các tu sĩ trong dòng, ngài phải sống trong một cái thùng thật lớn ở giữa cánh đồng.

 

Vào năm 32 tuổi, Cha Gioan trở thành vị tông đồ tuần đại phúc. Tài rao giảng và ơn khuyên bảo người hối nhân đã khiến ngài nổi tiếng. Ngài rao giảng tuần đại phúc trên 100 giáo xứ, có khi kéo dài từ vài tuần đến vài tháng.

 

Trong sự lưu tâm đến linh đạo của hàng giáo sĩ, ngài nhận thấy trước hết cần phải thăng tiến tâm linh các chủng sinh. Với sự cho phép của bề trên, là giám mục và Hồng Y Richelieu, ngài bắt đầu việc canh tân, nhưng vị bề trên kế tiếp lại không tán thành. Sau khi cầu nguyện và hội ý, Cha Gioan quyết định từ bỏ dòng và sáng lập một tổ chức mới, được gọi là Tu Hội Ðức Giêsu và Mẹ Maria (Dòng Thánh Gioan Eudes), chuyên đào tạo các giáo sĩ qua việc thiết lập và trông coi các chủng viện. Công việc táo bạo này, trong khi được sự tán thành của các giám mục địa phương, lại bị chống đối kịch liệt bởi phe Jansen và chính các linh mục dòng Ôratôriô. Cha Gioan thành lập được một vài chủng viện ở Normandy, nhưng không đạt được sự phê chuẩn của Rôma (người ta nói, một phần là vì ngài không biết khéo đối xử).

 

Trong việc tổ chức tuần đại phúc giáo xứ, Cha Gioan thật lo âu khi thấy các phụ nữ nghèo đói tìm cách thoát ra khỏi đời sống khó khăn qua nghề làm điếm. Lúc bấy giờ, bà Madeleine Lamy, đang chăm sóc một số phụ nữ hoàn lương, đến nói với Cha Gioan: “Ðầu óc cha đang ở đâu vậy? Có lẽ cha đang nghĩ đến nhà thờ là nơi cha chiêm ngắm các ảnh tượng và nghĩ mình đạo đức. Trong khi đó, những gì cần nơi cha là một căn nhà tử tế cho những người khốn cùng này.” Những lời lẽ ấy, và có lẽ những tiếng nhạo cười đã thức tỉnh ngài. Kết quả là một tu hội mới được thành lập, mang tên Nữ Tu Bác Ái của Nơi Nương Tựa để chăm sóc các phụ nữ bất hạnh hoàn lương.

 

Có lẽ Cha Gioan nổi tiếng nhất là vì các sáng tác của ngài về chủ đề: Ðức Giêsu là nguồn thánh thiện, Ðức Maria là gương mẫu đời sống Kitô Hữu.

 

Cha Gioan qua đời ngày 19 tháng 8 năm 1680 tại Caen, Normandy, Nước Pháp. Cha được Đức Thánh Giáo Hoàng Pius X tôn phong Chân Phước ngày 25/4/1909 và Đức CP Giáo Hoàng Pius XI đã nâng Cha Gioan lên hàng hiển thánh năm 1925 và tuyên xưng ngài là cha đẻ việc sùng kính Thánh Tâm Ðức Giêsu và Mẹ Maria.

Lời Bàn

Thánh thiện là mở lòng cho tình yêu của Thiên Chúa và được tỏ lộ qua nhiều hình thức, nhưng các hình thức ấy đều có một đặc điểm chung: lưu tâm đến nhu cầu của tha nhân. Trong trường hợp của Thánh Gioan Eudes, những người có nhu cầu là các bệnh nhân dịch hạch, các giáo dân trong xứ, những người chuẩn bị làm linh mục, các người gái điếm và mọi Kitô Hữu được mời gọi để bắt chước tình yêu của Chúa Giêsu và mẹ của Người.

Lời Trích

Sự khao khát của chúng ta, mục tiêu của chúng ta, sự bận tâm của chúng ta phải là việc uốn nắn chính mình để trở nên giống Chúa Giêsu, để thần khí của Người, sự tận tụy của Người, lòng thương mến của Người và ý định của Người sống động và ngự trị trong chúng ta. Mọi luyện tập nhân đức phải hướng đến cùng đích này. Ðó là công việc mà Thiên Chúa đã trao cho chúng ta để thi hành một cách không ngừng nghỉ” (Thánh Gioan Eudes, “Ðời Sống và Sự Ngự Trị của Ðức Giêsu trong Tâm Hồn Kitô Hữu”).

https://dongten.net/2019/08/18/hanh-cac-thanh-19-08-thanh-gioan-eudes/

 


Thứ Ba

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Ed 28, 1-10

"Ngươi chỉ là người phàm, chớ không phải Thiên Chúa, mà lòng ngươi dám tự cho mình là Chúa".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Có lời Chúa phán cùng tôi rằng: Hỡi con người, hãy bảo vua Tirô rằng: Chúa là Thiên Chúa phán như thế này: bởi vì ngươi tự kiêu mà rằng: "Ta là Thiên Chúa, ta ngồi trên toà Thiên Chúa giữa biển", vì ngươi chỉ là người phàm, chứ không phải là Chúa, mà lòng ngươi dám tự cho mình là Chúa! Phải rồi, ngươi khôn ngoan hơn Ðaniel! Không điều bí ẩn nào mà ngươi không biết: Nhờ tài trí và khôn ngoan mà ngươi nên hùng mạnh, và ngươi đã tích trữ vàng bạc trong kho tàng. Nhờ tài trí dồi dào trong việc buôn bán, ngươi đã gia tăng của cải, và tâm hồn ngươi tự cao tự đại về sự phú cường của ngươi.

Vì thế Chúa là Thiên Chúa phán như thế này: Bởi lòng ngươi dám tự cho mình là Chúa, thì đây Ta sẽ dẫn quân ngoại bang, là những kẻ hung bạo nhất trong các dân, đến giày xéo trên ngươi, họ sẽ tuốt gươm chống lại sự khôn ngoan tốt đẹp của ngươi, và làm ô danh ngươi. Họ sẽ giết và triệt hạ ngươi, ngươi sẽ chết như những kẻ chết chìm dưới lòng biển. Trước mặt những kẻ giết ngươi, nào ngươi còn dám nói: "Ta là Thiên Chúa" nữa sao? Vì ngươi là người chứ không phải là Chúa trong tay những kẻ hạ sát ngươi. Ngươi sẽ chết trong tay ngoại bang, như những kẻ không chịu cắt bì: vì Ta đã phán! Chúa là Thiên Chúa phán như vậy.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Ðnl 32, 26-27ab. 27cd-28a. 30. 35cd-36ab

Ðáp: Ta sẽ giết chết và sẽ làm cho sống lại (c. 39).

Xướng: 1) Ta đã phán: "Chúng đang ở đâu?" Ta sẽ làm cho người ta không còn nhớ đến chúng. Nhưng vì giận quân thù, Ta đã giãn ra, kẻo quân thù chúng sẽ nhạo cười. - Ðáp.

2) Chúng sẽ nói rằng: "Tay chúng ta cao cả, chẳng phải Chúa đã làm những sự này". Dân này chẳng có lo lắng, và không có khôn ngoan chút nào. - Ðáp.

3) Bởi đâu một người lại đuổi theo nghìn người, hai người lại đuổi theo một vạn? Vậy chẳng phải vì Chúa đã bán chúng, và Chúa đã chẳng bỏ mặc chúng sao? - Ðáp.

4) Ngày tiêu diệt đã gần, và thời hẹn chóng đến. Chúa sẽ xét xử dân Người, và xót thương kẻ làm tôi Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 36a và 29b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin nghiêng lòng con theo lời Chúa răn bảo, và xin rộng tay ban luật pháp của Chúa cho con. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 19, 23-30

"Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo thật các con: Người giàu có thật khó mà vào Nước Trời. Thầy còn bảo các con rằng: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời". Các môn đệ nghe vậy thì bỡ ngỡ quá mà thưa rằng: "Vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu nhìn các ông mà phán rằng: "Ðối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được". Bấy giờ Phêrô thưa Người rằng: "Này đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?" Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Thầy bảo thật các con: Các con đã theo Thầy, thì trong ngày tái sinh, khi Con Người ngự trên toà vinh hiển, các con cũng sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và tất cả những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nhưng có nhiều kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết".

Ðó là lời Chúa.

Anne Scottlin on Twitter: "❦Imagination's eye is your window to ...

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Một tí ti bất khả lọt nhưng cũng bất khả thiếu



Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XX Thường Niên tiếp tục bài Phúc Âm hôm qua là bài phúc âm về người thanh niên giầu có chưa thể nên trọn lành được vì còn ham của cải trần gian tuy vẫn sống đạo đàng hoàng.
Bài Phúc Âm hôm nay, trước hết, liên quan đến tình trạng người giầu có khó vào Nước Trời, ngoại trừ có ơn đặc biệt của Thiên Chúa, như chính Chúa Giêsu khẳng định:
"'Thầy bảo thật các con: Người giàu có thật khó mà vào Nước Trời. Thầy còn bảo các con rằng: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời'. Các môn đệ nghe vậy thì bỡ ngỡ quá mà thưa rằng: 'Vậy thì ai có thể được cứu độ?' Chúa Giêsu nhìn các ông mà phán rằng: 'Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được'". 

Ở đây, hình ảnh con lạc đà to lớn so với lỗ kim tí ti có thể ám chỉ hay tiêu biểu cho 2 điều: con người vào qua cửa Thiên Đàng và cõi lòng của con người trước tác động thần linh của Thiên Chúa. Trước hết, con người muốn vào Nước Trời "phải vào qua cửa hẹp" (Mathêu 8:13), nghĩa là phải "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" (Mathêu 18:3), bằng không, không thể nào vào Nước Trời được, khi lòng của con người to lớn kềnh càng như con lạc đà, lưng còn cong lên lại càng khó chui lọt, ám chỉ lòng của họ còn đầy những tham lam, tham vọng, tự cao, tự đại, kiêu căng, tự ái v.v.

Tuy nhiên, cho dù con người có hư đốn đến đâu, có tội lỗi đến mấy, miễn là đừng cứng lòng và tuyệt vọng, thì vẫn được rỗi, nghĩa là vẫn còn một khe hở cho dù tí ti như lỗ kim, quyền năng vĩ đại của Chúa lớn lao hơn con lạc đà vẫn có thể lọt vào lòng họ để biến đổi họ thành những vị đại thánh một cách đốt giai đoạn (short cut) như người trộm lành cuối cùng đã đánh cắp được cả Nước Trời, như người thu thuế sấp mình đấm ngực ăn năn ra khỏi đền thờ đã nên công chính, trong khi con lạc đà biệt phái lại không, vì vươn mình lên tự cao tự đại tự đắc.

Bài Phúc Âm hôm nay c
òn liên quan đến thành phần đã bỏ mọi sự mà theo Chúa, thành phần đã được bù đắp bằng những thứ về cả đời này lẫn đời sau như thế này:

 

"Bấy giờ Phêrô thưa Người rằng: 'Này đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?' Chúa Giêsu bảo các ông rằng: 'Thầy bảo thật các con: Các con đã theo Thầy, thì trong ngày tái sinh, khi Con Người ngự trên toà vinh hiển, các con cũng sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và tất cả những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nhưng có nhiều kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết'". 


Trước hết, thành phần "bỏ mọi sự mà theo Thày" - "sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel": Nghĩa là nhân loại sẽ được xét xử căn cứ vào chứng từ của thành phần theo Chúa, một chứng từ cho thấy "đức tin hoạt động qua đức ái" (Galata 5:6), một chứng từ nhờ đó họ có thể nhận biết Thiên Chúa mà được sống

Đó là lý do trong cuộc chung thẩm, Vị Thẩm Phán Tối Cao đã phân loại chiên dê theo tiêu chuẩn "đức tin hoạt động qua đức ái" này, khi Người phán xét cả hai về đức bác ái theo bề ngoài nhưng thật ra phán xét đức tin của họ, ở chỗ dê không thấy Người nơi thành phần anh chị em hèn mọn nhất của Người nên không thương giúp bởi đó bị loại trừ, còn chiên dù không thấy vẫn ra tay bác ái cứu trợ nên được cứu độ (xem Mathêu 25:31-46). 

 

Sau nữathành phần "bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy" - "sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời": Theo Phúc Âm Thánh Marco đoạn 10 câu 30 thì câu nói của Chúa Kitô đây còn được xác định rõ ràng "đời này" và "đời sau" nữa: "sẽ được gấp trăm" ngay "ở đời này" và "được sự sống trường sinh" "ở đời sau". Mà nếu thành phần môn đệ theo Chúa Kitô mà quả thực "được gấp trăm" ngay "ở đời này" thì chắc chắn họ sẽ "được sự sống trường sinh" "ở đời sau". 

 

Đúng thế, ngay "ở đời này" thành phần môn đệ theo Chúa Kitô không phải là thành phần "có tinh thần nghèo khó" nên đã được "Nước Đức Chúa Trời làm của mình vậy" (Mathêu 5:3) hay sao, và họ cũng không phải là thành phần "hiền lành" nên đã "được đất làm của mình vậy" (Mathêu 5:5) hay sao, một thứ "đất" biểu hiệu cho thế gian hay nhân loại. Nghĩa là họ dám đánh đổi tất cả mọi sự họ có để tậu cho bằng được thửa ruộng thế gian là nơi kho tàng Chúa Kitô được chôn giấu (xem Mathêu 13:44). Như thế không phải là họ đã thực sự được "gấp trăm" ngay "ở đời này" hay sao, là được cả Chúa Kitô lẫn ơn cứu chuộc thế gian của Người?

 

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thiên Chúa đã cho biết rằng "Ngài hạ kẻ quyền hành xuống khỏi vị cao... Ngài để người giầu có trở về tay không" (Luca 1:52-53), thành phần giầu có về cả tài sản lẫn quyền bính không thể tự cứu mình được, bởi lòng tham vô đáy và sở thích sống hiện sinh hưởng thụ tối đa của họ, nếu không có Chúa nhúng tay vào, bằng những ngăn chặn và phá đổ như thế.


"Hỡi con người, hãy bảo vua Tirô rằng: ... Bởi lòng ngươi dám tự cho mình là Chúa, thì đây Ta sẽ dẫn quân ngoại bang, là những kẻ hung bạo nhất trong các dân, đến giày xéo trên ngươi, họ sẽ tuốt gươm chống lại sự khôn ngoan tốt đẹp của ngươi, và làm ô danh ngươi. Họ sẽ giết và triệt hạ ngươi, ngươi sẽ chết như những kẻ chết chìm dưới lòng biển. Trước mặt những kẻ giết ngươi, nào ngươi còn dám nói: 'Ta là Thiên Chúa' nữa sao? Vì ngươi là người chứ không phải là Chúa trong tay những kẻ hạ sát ngươi. Ngươi sẽ chết trong tay ngoại bang, như những kẻ không chịu cắt bì: vì Ta đã phán!"

 

Thật thế, chính vì Thiên Chúa ra tay là để cứu độ, hơn là hủy diệt, cho dù tự bản chất, những việc Ngài làm có vẻ hung ác tàn bạo, đúng như Câu Họa của Bài Đáp Ca được trích từ Sách Tiên Tri Đaniên hôm nay: "Ta sẽ giết chết và sẽ làm cho sống lại". Nội dung của toàn Bài Đáp Ca bao gồm cả 4 câu xướng đều như thế, nhất là câu thưa, câu cuối cùng "Ngày tiêu diệt đã gần, và thời hẹn chóng đến. Chúa sẽ xét xử dân Người, và xót thương kẻ làm tôi Chúa".

 

1) Ta đã phán: "Chúng đang ở đâu?" Ta sẽ làm cho người ta không còn nhớ đến chúng. Nhưng vì giận quân thù, Ta đã giãn ra, kẻo quân thù chúng sẽ nhạo cười.

2) Chúng sẽ nói rằng: "Tay chúng ta cao cả, chẳng phải Chúa đã làm những sự này". Dân này chẳng có lo lắng, và không có khôn ngoan chút nào.

3) Bởi đâu một người lại đuổi theo nghìn người, hai người lại đuổi theo một vạn? Vậy chẳng phải vì Chúa đã bán chúng, và Chúa đã chẳng bỏ mặc chúng sao?

4) Ngày tiêu diệt đã gần, và thời hẹn chóng đến. Chúa sẽ xét xử dân Người, và xót thương kẻ làm tôi Chúa.

 

 

 

 

Ngày 20 tháng 8

Thánh Bê-na-đô, viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử 
Thánh nhân sinh năm 1090 gần Đi-giông, nước Pháp. Được giáo dục theo nếp sống đạo đức, năm 1111 người nhập dòng các đan sĩ Xi-tô. Ít lâu sau, người được chọn làm viện phụ. Người đã dùng hoạt động và gương sáng để hướng dẫn các đan sĩ tập luyện các nhân đức. Vì có sự phân ly trong Hội Thánh, người đã đi khắp châu Âu để lo vãn hồi sự hoà bình và hợp nhất. Người đã biên soạn nhiều tác phẩm thần học và tu đức. Người qua đời năm 1153.

Bài đọc 2 phụng vụ giờ kinh sách

Tôi yêu vì tôi yêu, tôi yêu để tôi yêu

Trích bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ, về sách Diễm ca.

Tình yêu tự mình đủ cho mình, tự mình và vì mình đem lại niềm vui. Chính tình yêu là công trạng, nhưng cũng chính tình yêu là phần thưởng cho mình. Tình yêu không tìm lý do, không tìm hiệu quả ngoài mình : hiệu quả của tình yêu là chính tình yêu. Tôi yêu vì tôi yêu, tôi yêu để tôi yêu. Tình yêu là một điều cao cả, miễn là luôn trở về với nguyên lý của mình, miễn là luôn trở lại với nguồn gốc của mình, miễn là ngược trở lại nguồn mạch của mình để luôn luôn được tuôn trào. Trong mọi hoạt động, cảm xúc và tâm tình của linh hồn, chỉ có tình yêu có thể giúp thụ tạo đáp lại Đấng Tạo Hoá, dầu không tương xứng, thì ít ra cũng giống nhau được phần nào. Vì khi Thiên Chúa yêu, thì Người không muốn điều gì khác hơn là được yêu : Thật vậy, Thiên Chúa yêu, thì Người không nhằm điều gì khác ngoài được yêu lại, vì Người biết ai yêu mến Người thì sẽ được hạnh phúc nhờ chính tình yêu đó.

Tình yêu của hôn phu, đúng hơn tình yêu là hôn phu, không đòi hỏi gì khác hơn là được yêu lại và giữ lòng chung thuỷ. Do đó người được yêu có quyền yêu lại. Sao hôn thê có thể không yêu, khi chính nàng là hôn thê của tình yêu ? Sao tình yêu lại không được yêu ?

Thế nên hôn thê có lý khi từ bỏ mọi tình cảm khác để hoàn toàn hiến mình cho một tình yêu duy nhất, vì hôn thê phải đáp lại chính tình yêu bằng cách yêu lại. Nhưng khi hôn thê hoà nhập hoàn toàn với tình yêu, thì tình yêu sẽ là gì so với dòng chảy bất tận của nguồn mạch tình yêu ? Người yêu và tình yêu, linh hồn và Ngôi Lời, hôn thê và hôn phu, tạo hoá và thụ tạo không tuôn đổ dòng yêu thương phong phú như nhau, chẳng khác gì người khát với nguồn nước.

Vậy thì sao ? Không lẽ vì thế mà làm mai một và tan biến hoàn toàn lời ước nguyện của vị hôn thê, niềm khát khao của kẻ mong chờ, lòng rạo rực của kẻ đang yêu, lòng tin tưởng của người hãnh diện, vì vị hôn thê đâu có thể chạy sóng đôi với người khổng lồ, tranh đua vị ngọt với mật ong, tính hiền lành với con chiên, màu trắng với hoa huệ, vẻ sáng chói với mặt trời, tình yêu với Đấng là chính tình yêu ? Không phải thế. Vì thụ tạo nhỏ bé hơn, nên vẫn yêu mến ít hơn. Dầu vậy, nếu thụ tạo yêu trọn tình, thì nơi đâu đã trọn vẹn, nơi ấy chẳng thiếu chi. Vậy yêu như thế là đã thành hôn rồi, bởi không thể yêu đến vậy mà chỉ được yêu lại ít, nên khi hai bên đã thuận tình, thì hôn phối trọn vẹn và hoàn hảo đã được kết ước. Nếu không, lại có kẻ nghi ngờ sự thật này : linh hồn vẫn được Ngôi Lời yêu thương trước và yêu thương nhiều hơn.

Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh viện phụ Bê-na-đô đầy nhiệt tâm lo việc nhà Chúa để trở nên ngọn đèn cháy sáng trong Giáo Hội. Nhờ lời người nguyện giúp cầu thay, xin cho chúng con cũng được lòng hăng hái như người, để sống thế nào cho xứng danh là con cái ánh sáng. Chúng con cầu xin

 

Ngày 20/08: Thánh Bênađô, viện phụ, tiến sĩ Hội thánh

 

1. Đôi hàng tiểu sử

Thánh Bernađô sinh năm 1090 tại lâu đài Fontaine-les-Dijon, nước Pháp. Nhờ sinh trưởng trong một gia đình thượng lưu và gia giáo, Bernađô sau này đã trở thành người bặt thiệp biết xử sự khôn ngoan với mọi người. Trong số 7 anh em, Bernađô là người con thứ ba. Cậu được gia đình cưng chiều hơn cả vì có tư cách nết na và đạo hạnh hơn các anh em.

Đàng khác Bênadô còn được bà thân mẫu A-let quý mến cách riêng vì một câu chuyện chiêm bao có liên quan tới con bà. Câu chuyện mộng mị đó như sau:

Một tối kia bà Alét mơ thấy trẻ Bênadô đang nô đùa, bỗng hoá thành một con chó cất tiếng sủa vang. Bà đem hiện tượng chiêm bao đó kể lại cho mọi người nghe và ai nấy đều nghĩ đó là điềm báo sau này sẽ trở thành một nhà giảng thuyết đại tài.

Tới tuổi khôn, Bernađô được cha mẹ cho theo học tại trường các thầy kinh sĩ ở Chatillon-sur-Seine. Nhờ sư rèn cặp của các thầy, Bernađô đã dần dần bỏ được tính rụt rè và câu nệ thái quá. Tính nhút nhát đó đã khiến cậu rất sợ hãi khi phải ra trước công chúng; vì thế mà có lần Bênadô đã phải bực mình kêu lên: “Thà rằng tôi chết đi còn hơn nói trước công chúng hay đến trước mặt một người ngoại quốc”.

Năm 16 tuổi giữa lúc cuộc đời đang lên với nhiều hứa hẹn thì bà thân mẫu của Bernađô từ trần khiến cậu phải trải qua một cơn khủng hoảng tinh thần nặng nề, và khiến cậu trở nên trầm lặng và suy tư. Nhưng rồi bỗng người ta thấy cuộc đời của chàng thanh niên ấy xoay hẳn một góc 180o. Chàng đứng lên, cương quyết chống lại mọi thử thách và quyến dũ của gia đình và bạn bè để dâng mình phụng sự Chúa trong dòng Xi-tô. Không những thế Bernađô còn lần lượt lôi cuốn được các anh em và cả ông thân sinh cùng nhiều người khác theo gương mình vào dòng.

Người ta kể lại rằng: Ngày kia người em út của Bênadô là Nivard đang chơi đùa với các trẻ em thì người anh cả bảo cậu rằng: “Các anh đi đây và nhường lại cho các em cả gia nghiệp, em có bằng lòng không?” Người em đáp lại: “Em không muốn thế, sao các anh chiếm nước trời còn để đất đai lại cho em”. Ít lâu sau người em cũng vào dòng.

Bênadô từ ngày dấn thân vào đời sống mới, luôn luôn tự hỏi mình: “Hỡi Bênadô, người vào đây để làm gì?”. Để nhắc nhở mình sống đúng với lý tưởng đã chọn, câu hỏi vắn tắt làm như phương châm cho đời sống, đã giúp thầy Bênadô siêng năng làm việc và làm một cách chu đáo. Một hôm các thầy xin Bênadô nghỉ ngơi để cho các thầy khác gặt lúa bởi vì thấy thầy yếu và không quen. Nhưng thầy khóc lóc xin Chúa cho mình có thể gặt lúa với anh em.

Năm 1115 thầy được cử làm tu viện trưởng Clairvaux một chi nhánh của dòng Xi-tô. Đây là một dịp để thầy hy sinh hãm mình nhiều hơn, dù yếu đuối và sức khỏe rất mỏng manh thầy cũng không chịu thua kém ai trong sự ăn uống kham khổ. Ngài còn mắc chứng đau bụng kinh niên. Tuy nhiên Ngài vẫn cố gắng tham dự các buổi phụng vụ như mọi người khác. Chỉ khi nào không chịu nổi cơn đau Ngài mới bỏ cộng đồng.

Nhận thấy tu viện trưởng Bernađô là người có đầy nhân đức và uy tín nên đức Giám mục Guillaume de Champeaux cho ngài được nhận chức linh mục và sai ngài đi giảng thuyết ở nhiều nơi. Ngài đã vâng lời vui vẻ ra đi. Nhờ đức khiêm nhường sâu thẳm, Chúa đã ban cho Ngài nhiều ơn lạ như nói tiên tri, làm nhiều phép lạ. Hết nhiệm vụ Ngài lại trở về nhà dòng phục vụ. Trong 38 năm làm bề trên, Ngài lập thêm được 68 tu viện chi nhánh của Clervaux. Ngài viết nhiều tác phẩm để bênh vực đức tin, truyền bá lòng yêu mến Chúa và đức bác ái.

Từ bé, Ngài vốn có lòng tôn sùng mầu nhiệm Chúa xuống thế làm người thì bây giờ Ngài cũng năng suy niệm mầu nhiệm ấy. Nhận thấy thánh nhân là người có trí thông minh và tài giảng thuyết cũng như giảng hòa nội bộ. Năm 1145 - Ngài kịch liệt phản đối vua ở miền nam nước Pháp. Lúc còn thanh niên, Ngài rất sợ ra trước công chúng nhưng nhờ ơn Chúa, nay Ngài cảm thấy cương quyết và can đảm nhiều.

Một hôm Ngài tới miền Sens để gặp A-bê-la người mê trí thức và khoa học đời, trước mặt cả cộng đồng giáo sĩ, Ngài phản đối A-bê-la: “Một người công giáo lầm lạc còn nguy hiểm hơn là người theo tà giáo”. Bênadô không phản đối việc trau dồi tri thức nhưng cha nhận đó là phương tiện truyền giáo, Ngài nói: “Người ta không khuất phục tà giáo bằng khí giới nhưng bằng biện luận”. Sau cùng cha Bênadô đã góp phần vào việc tranh đấu bảo vệ mồ thánh Chúa khỏi tay người Hồi giáo. Tuy thành công và danh tiếng nhiều nhưng thánh nhân vẫn khiêm tốn. Đôi khi không làm phép lạ và người ta hỏi thì Ngài chỉ trả lời: trông cậy ở Chúa và Chúa làm còn tôi không có gì đâu.

Sau khi tận tụy và nỗ lực làm việc cho sáng danh Chúa, thánh nhân đã qua đời tại Clairvaux ngày 20 tháng 8 năm 1153 lúc ba giờ chiều ngày thứ năm, thọ 63 tuổi.

Mười năm sau, các tu viện trưởng họp lại lập án xin phong thánh cho cha Bernađô. Ngày 18 tháng 1 năm 1174, án được Đức Alexandro III châu phê. Và năm 1830 Đức Piô VIII tôn phong Ngài lên hàng tiến sĩ Giáo hội.

2. Cuộc sống chứng nhân

Như đã nói ở trên, Bernađô là một người rất khiêm nhường và thánh thiện cho nên Chúa đã thưởng công cho Ngài. Chúa đã ban cho Ngài nhiều ơn lạ như nói tiên tri, làm nhiều phép lạ.

Đây là một giai thoại nổi tiếng khi Ngài ở Clairvaux. Hôm ấy nhà dòng hết muối. Cha Bernađô liền gọi một thầy tên là Guibert đến và bảo:

- Con hãy lấy con lừa (vì đây là con vật duy nhất mà tu viện sở hữu) và đi ra phố mua muối.

- Xin Cha con tiền để trả - thấy Guiber nói.

- Con ơi thánh - Bernađô trả lời -, đã khá lâu Cha không còn tiền cũng không còn vàng. Nhưng trên cao kia có Đấng giữ túi tiền và kho tàng của Cha!

Nghe nói thế thầy Guiber suýt nữa phì cười, nhưng thầy không thể không lưu ý Cha thánh điều này:

- Thưa Cha, nếu con đi với hai bàn tay không thì con cũng trở về chắc chắn với hai bàn tay không.

- Đừng sợ con ạ, hãy tin tưởng. Đấng giữ kho báu của Cha sẽ ở với con và người sẽ tìm cách giúp con có những gì cần thiết để làm xong công tác.

Guiber cúi đầu nhận phúc lành từ tay vị tu viện trưởng và dẫn con lừa ra đi. Các mối nghi ngờ của thầy không hoàn toàn tan biến. Nhưng khi thấy sắp băng qua cửa thành thì có một vị Linh mục đến gần và hỏi:

- Thầy từ đâu đến và đi đâu vậy?

Guiber không do dự thú nhận sự túng thiếu tột độ của tu viện và sự bối rối hiện nay của thầy. Rất cảm động, vị Linh mục dẫn thầy về nhà và cho thầy nửa thùng muối và một số tiền là 30 xu (tương đương với 300 quan Pháp thời nay).

Hãy tưởng tượng xem niềm vui của thầy Guiber lớn như thế nào. Thầy trở về lại tu viện và chỉ còn việc phải làm là ngay lập tức kể lại câu chuyện cho bề trên của thầy nghe.

- Cha đã nói rõ với con, cha Bernađô đáp, và cha lập lại với con điều đó: Đối với người Kitô hữu không có cái gì khác ngoài đức tin!

Lịch sử cũng còn ghi, Ngài lòng sùng kính Mẹ Maria rất lạ lùng. Truyền thuyết cho hay: Mỗi khi đi ngang qua ảnh tượng Đức Mẹ, thánh nhân thường hay chào Mẹ bằng câu: “Kính chào Mẹ Maria!” và một ngày kia, Đức Mẹ đã đáp lại lời chào của ngài: “Chào con, Bernađô!” Bằng cách này, Đức Mẹ cho biết tình yêu và lòng sùng kính thánh Bernađô đã dành cho Đức Mẹ thật lớn lao chừng nào; và Đức Mẹ cũng hài lòng biết bao!

Xin được kết thúc bằng chính lời của thánh Bernađô trích trong bài giảng về sách Diễm Ca Của Ngài: "Khi Thiên Chúa yêu, thì Người không muốn điều gì khác hơn là được yêu: Thật vậy, Thiên Chúa yêu, thì Người không nhằm điều gì khác ngoài việc được yêu lại, vì Người biết ai yêu mến Người thì sẽ được hạnh phúc nhờ chính tình yêu đó."

aminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp lại theo tài liệu của website TGP Sài Gòn)

 

Thánh Bênađô ở Clairvaux

(ĐTC Biển Đức XVI ngày 21/10/2009 Bài Giáo Lý Giáo Hội Tông Truyền thứ 92/138)

 



Thứ Tư 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Ed 34, 1-11

"Ta sẽ giải thoát đoàn chiên Ta khỏi tay chúng, và đoàn chiên sẽ không làm mồi ngon cho chúng nữa".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Có lời Chúa phán cùng tôi rằng: Hỡi con người, hãy nói tiên tri về các chủ chăn Israel, hãy nói tiên tri và bảo các chủ chăn rằng: Chúa là Thiên Chúa phán thế này: Khốn cho các chủ chăn Israel, họ chỉ lo nuôi chính bản thân: chớ thì các chủ chăn không phải lo chăn nuôi đoàn chiên sao? Các ngươi đã uống sữa chiên, đã mặc áo lông chiên, hễ con nào béo tốt, các ngươi làm thịt: nhưng các ngươi không chăn nuôi đoàn chiên của Ta. Con nào yếu đuối, các ngươi không bổ dưỡng; con nào đau ốm, các ngươi không chạy chữa; con nào bị thương, các ngươi không băng bó; con nào đi lạc, các ngươi không đem về; con nào đi mất, các ngươi không tìm kiếm; nhưng các ngươi chăn dắt chúng bằng bạo lực và nghiêm khắc. Các chiên Ta tản mác vì thiếu chủ chăn: chúng làm mồi cho thú dữ ngoài đồng. Các chiên Ta lang thang khắp núi, trên mọi đồi cao, các chiên Ta tản mác khắp mặt đất, và chẳng có ai tìm kiếm. Ta nói, chẳng có ai tìm kiếm.

Vì thế, hỡi các chủ chăn, hãy nghe lời Thiên Chúa phán: Nhân danh mạng sống của Ta, các chiên Ta đã bị cướp mất, các chiên Ta làm mồi cho thú dữ ngoài đồng, vì không có chủ chăn: các chủ chăn của Ta không lo lắng cho đoàn chiên Ta, nhưng chúng chỉ nuôi chính bản thân, mà không chăn nuôi các chiên Ta, vì thế, hỡi các chủ chăn, hãy nghe lời Chúa: Chúa là Thiên Chúa phán như thế này: Ðây chính Ta sẽ đến với các chủ chăn, đòi lại đoàn chiên khỏi tay chúng, và sẽ không cho chúng chăn nuôi đoàn chiên nữa, các chủ chăn không còn nuôi chính bản thân nữa. Ta sẽ giải thoát đoàn chiên Ta khỏi miệng chúng, và đoàn chiên sẽ không còn làm mồi ngon cho chúng nữa.

Vì Chúa là Thiên Chúa phán như thế này: Ðây chính Ta sẽ tìm kiếm các chiên Ta, và Ta sẽ thăm viếng chúng.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).

Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, người lo bồi dưỡng. - Ðáp.

2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư, cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 135

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 20, 1-16a

"Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông.

"Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng". Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.

"Ðến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: "Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Họ thưa rằng: "Vì không có ai thuê chúng tôi". Ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta".

"Ðến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: "Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết". Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Ðang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?" Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: "Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?"

"Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết".

Ðó là lời Chúa.

Người thợ giờ thứ mười một - Suy Niệm Chúa Nhật XXV Thường Niên A

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Ân Sủng - Một đảo lộn Thần Linh

 

Lời Chúa cho Thứ Tư Tuần XX Thường Niên hôm nay được tiếp tục trước hết với Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu với 16 câu đầu ở đoạn 20 về dụ ngôn thuê thợ làm vườn nho và trả công đồng đều cho họ bao gồm cả người làm nhiều giờ nhất, từ "giờ thứ ba" trong ngày đến người ít giờ nhất, từ "giờ thứ 11" trong ngày, tức cách nhau 8 tiếng đồng hồ.


Sự kiện chủ trả lương đồng đều cho cả nhóm 
thợ được thuê sớm nhất lẫn nhóm thợ thuê muộn nhất bề ngoài có vẻ bất công, như chính cảm nhận của nhóm thợ đến làm sớm nhất: 

"Đến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: 'Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết'. Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Đang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: 'Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?'" 

Thật ra, theo lý thì 
người chủ này chẳng những không bất công một chút nào với nhóm thợ được ông thuê làm vườn nho cho ông sớm nhất, mà còn, theo tình, tỏ ra hết sức rộng lượng nữa là đằng khác với nhóm thợ được ông thuê làm vườn nho cho ông muộn nhất và ít vất vả nhất nữa, như chính câu trả lời của ông với nhóm thợ than phiền hành động của ông cho thấy:

"Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?"
 

Đúng thế, ông chủ vườn nho không bất công với nhóm thợ đầu tiên và 2 nhóm thợ sau đó. Bởi vì 3 nhóm thợ đến sớm này và ông đã thỏa thuận với nhau về tiền công đâu vào đấy rồi: 

"Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông. Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: 'Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng'. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy'". 


Còn việc ông chủ này 
trả cho nhóm thợ sau cùng bằng nhóm thợ đầu tiên là do lòng quảng đại của ông, bởi nhóm thợ sau cùng này không hề mặc cả và đòi hỏi gì, có việc làm là tốt rồi, bằng không sẽ bị ế lao công và thiện chí của họ, trong khi đó ông chủ cũng chẳng hứa trả cho họ bao nhiêu và họ phải làm như thế nào: "Đến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: 'Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?' Họ thưa rằng: 'Vì không có ai thuê chúng tôi'. Ông bảo họ rằng: 'Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta'".

Riêng với nhóm thợ cuối cùng này, theo lý họ chẳng những đáng được hưởng 1 đồng như nhóm thợ đầu tiên mà còn gấp 3 nữa, nghĩa là đáng 3 đồng.  Đồng thứ nhất - bởi vì họ cũng đã sẵn sàng đi làm từ ban đầu, đến độ họ cứ đợi mãi mà chẳng có ai thuê mướn. Đồng thứ hai - họ chẳng những đã sẵn sàng làm việc từ sáng sớm, mà còn tỏ ra nhẫn nại chờ đợi được thuê mướn nữa, nhất là khi được thuê mướn không mặc cả gì như ba nhóm thợ đầu tiên, có việc là vui rồi, làm gì cũng được, lương bao nhiêu cũng OK, đủ cho họ xứng đáng lãnh nhận bằng đồng lương của nhóm đầu tiên. Đồng thứ ba - vì trong thời gian chờ đợi được thuê mướn, họ có thể cảm thấy chán nản và cảm thấy bị bỏ rơi khi thấy 3 nhóm thợ trước được thuê mướn, như thể họ chỉ là đồ bỏ, là những gì vô dụng, không đáng được thuê mướn như 3 đám trước, nhưng họ vẫn nhẫn nại đợi chờ, vẫn chấp nhận thân phận cuối rốt của mình, nhất là khi chiều về, gần hết ngày mà chẳng có việc làm thì không biết lấy gì cho vợ con ăn uống đang hết lòng trông đợi mình ở nhà. Như thế có nghĩa là họ thật là xứng đáng được lương nhiều hơn các đám thợ trước.

Chưa hết, vấn đề còn được đặt ra với nhóm thợ cuối cùng đặc biệt này là tại sao chủ vườn nho đã ra thuê thợ làm vườn nho cho mình cả 3 lần trước đó mà lại không thấy họ là những người mà chính ông chủ cũng phải công nhận "sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Phải chăng vì họ đứng ở chỗ khác với 3 nhóm trước, và ông chủ mỗi lần đi một chỗ khác để tìm thuê thêm thợ, để rồi cuối cùng ông mới tới chỗ của họ đứng chờ, biểu hiệu cho vị thế và thân phận của mỗi người ở trong sự quan phòng thần linh của Thiên Chúa, Đấng kêu gọi họ vào lúc nào Ngài muốn.

C
ăn cứ vào dụ ngôn trong bài Phúc Âm này, vào nguyên tắc đối xử của ông chủ vườn nho với các nhóm thợ được ông thuê vào làm vườn nho cho ông, thì chúng ta thấy rằng chúng ta được quyền yêu thương người này hơn người kia, chẳng hạn Chúa Giêsu yêu Tông Đồ Gioan một cách đặc biệt trong số các tông đồ của Người, nhưng đừng vì thế, vì người được mình yêu hơn bởi một lý do chính đáng nào đó mà đối xử bất công với những người khác. Có nghĩa là, theo nguyên tắc, theo lý, phải yêu thương hết mọi người như nhau, như bản thân mình, nhưng, theo tình, chúng ta vẫn có thể yêu một người nào đó hơn, vì hoàn cảnh đáng thương cần cứu giúp của họ, hay vì khả năng phục vụ đắc lực cho công ích của họ v.v.

Trong l
ịch sử Giáo Hội cũng xẩy ra những trường hợp được Chúa Giêsu cảnh giác ở câu cuối của bài Phúc Âm hôm nay: "kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết". Chẳng hạn một Tông Đồ của Các Tông Đồ Mai-Đệ-Liên, hay Một Đại Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, hoặc một Giáo Phụ Tiến Sĩ Âu Quốc Tinh v.v. Trường hợp của người thu thuế và người Pharisiêu trong dụ ngôn cả hai cầu nguyện trong đền thờ cũng cho thấy rõ đường lối "kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết" ngược đời này vậy (xem Luca 18:9-14). Hay trường hợp của người con cả tính toán với cha như là một người làm công cho cha và của người con thứ chỉ muốn làm tôi tớ của cha vì cảm thấy bất xứng làm con của cha (xem Luca 15:11-32) cũng vậy: "kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết". 

Trong Bài Phúc Âm hôm nay, trong các đợt thợ được chủ nhân thuê mướn làm vườn nho cho ông hôm ấy, nổi bật nhất là nhóm thợ cuối cùng mà lại được ưu đãi nhất, chứng tỏ lòng thương xót của chủ nhân luôn chú trọng tới thành phần thấp hèn, nhưng đầy thiện chí, cần được nâng đỡ. Thái độ này của chủ nhân vườn nho hoàn toàn ngược lại với thành phần được chọn chăn dắt đoàn chiên Israel của Chúa, thành phần chỉ biết hưởng thụ hơn là phục vụ đoàn chiên, tác hại đoàn chiên của Chúa, nên Chúa đã phải đích thân chăn dắt đoàn chiên của Người, như Người đã tuyên bố qua miệng Tiên Tri Êzêkiên trong Bài Đọc 1 hôm nay:

"Vì thế, hỡi các chủ chăn, hãy nghe lời Thiên Chúa phán: Nhân danh mạng sống của Ta, các chiên Ta đã bị cướp mất, các chiên Ta làm mồi cho thú dữ ngoài đồng, vì không có chủ chăn: các chủ chăn của Ta không lo lắng cho đoàn chiên Ta, nhưng chúng chỉ nuôi chính bản thân, mà không chăn nuôi các chiên Ta, vì thế, hỡi các chủ chăn, hãy nghe lời Chúa: Chúa là Thiên Chúa phán như thế này: Ðây chính Ta sẽ đến với các chủ chăn, đòi lại đoàn chiên khỏi tay chúng, và sẽ không cho chúng chăn nuôi đoàn chiên nữa, các chủ chăn không còn nuôi chính bản thân nữa. Ta sẽ giải thoát đoàn chiên Ta khỏi miệng chúng, và đoàn chiên sẽ không còn làm mồi ngon cho chúng nữa. Vì Chúa là Thiên Chúa phán như thế này: Ðây chính Ta sẽ tìm kiếm các chiên Ta, và Ta sẽ thăm viếng chúng".

 

Trước  lòng thương xót của vị chủ chiên, chẳng những không lạm dụng chiên, mà còn dám thí mạng sống cho chiên, thì đàn chiên của vị chủ chiên nhân lành này không thể nào không cảm thấy an toàn và no thỏa như bài Thánh Vịnh 22 ở Bài Đáp Ca hôm nay bày tỏ:

 

1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, người lo bồi dưỡng.

2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư, cho tới thời gian rất ư lâu dài.

 

 

Ngày 21/8: Thánh Piô X – Giáo hoàng | Tổng Giáo Phận Hà Nội

ThanhGiaoHoangPioX.mp3 (21/8)

 

 

Thứ Năm

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Ed 36, 23-28

"Ta sẽ ban cho các ngươi quả tim mới, và đặt giữa các ngươi một thần trí mới".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Ðây Chúa phán: Ta sẽ thánh hoá danh cao cả Ta đã bị xúc phạm giữa các dân tộc, nơi mà các ngươi đã xúc phạm danh thánh Ta, để các dân tộc biết Ta là Chúa, Thiên Chúa các đạo binh phán, khi Ta tự thánh hoá nơi các ngươi trước mặt họ. Ta sẽ kéo các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi từ các nước, và dẫn dắt các ngươi trên đất các ngươi. Ta sẽ dùng nước trong sạch mà rảy trên các ngươi, và các ngươi sẽ được rửa sạch mọi vết nhơ. Ta sẽ thanh tẩy các ngươi sạch mọi vết nhơ các bụt thần. Ta sẽ ban cho các ngươi quả tim mới, đặt giữa các ngươi một thần trí mới, cất khỏi xác các ngươi quả tim bằng đá và ban cho các ngươi quả tim bằng thịt. Ta đặt thần trí Ta giữa các ngươi, làm cho các ngươi thực thi các huấn lệnh Ta, làm cho các ngươi tuân giữ và thực hành các lề luật Ta. Các ngươi sẽ cư ngụ trong xứ Ta đã ban cho tổ phụ các ngươi; các ngươi sẽ là dân Ta, còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 50, 12-13. 14-15. 18-19

Ðáp: Ta sẽ dùng nước trong sạch mà rảy trên các ngươi, và các ngươi sẽ được rửa sạch mọi vết nhơ (Ed 36, 25).

Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.

2) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ; với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài. - Ðáp.

3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm cung. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 147, 12a và 15a

Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai Lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 22, 1-14

"Các ngươi gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới". Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: "Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới". Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.

Ðoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!" Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".

 

Ðó là lời Chúa.

The Wedding Feast - a parable – Historical articles and ...

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

 

Ân Sủng - Một thông ban nhưng không... cần đáp ứng tương xứng

 

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm Tuần XX Thường Niên, không còn liên tục với các bài Phúc Âm trong tuần như các ngày trước, mà là một bài Phúc Âm bắt đầu từ đầu Đoạn 22, hoàn toàn bỏ Đoạn 21 và 17 câu của Đoạn 20. Tất nhiên, việc Giáo Hội cố ý chọn đọc các bài Phúc Âm hằng ngày trong tuần hay Chúa Nhật này phải liên tục với nhau về nội dung, cho dù có những đoạn và những câu Phúc Âm bị cắt bỏ như vậy, vì có thể những chỗ ấy chỉ là những biến cố không hợp vào thời điểm phụng vụ này. 

 

Chẳng hạn như biến cố Chúa Giêsu vào Thành Giêrusalem và thanh tẩy đền thờ rồi nguyền rủa cây vả và vấn đề thẩm quyền của Chúa Giêsu (xem Mathêu 21:1-27), những gì mà hầu hết đã được Giáo Hội cho đọc theo Phúc Âm của Thánh ký Marco ở các ngày Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần VIII Thường Niên rồi, không cần đọc lại hay lập lại nữa.

 

Nếu bài Phúc Âm hôm qua về dụ ngôn người chủ vườn nho thuê thợ làm vườn nho và trả công cho họ bằng nhau liên quan cả đến ân sủng của Thiên Chúa thì bài Phúc Âm hôm nay về dụ ngôn một "vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử" lại càng liên quan đến ân sủng của Thiên Chúa

 

Thật vậy, nếu 4 nhóm thợ được chủ vườn nho thuê làm vườn nho cho ông để được trả công tương xứng, một khoản tiền công chẳng những công bằng về lý đối với 3 nhóm thợ đầu mà còn về tình với nhóm thợ cuối cùng, thì thành phần được mời đến dự tiệc cưới trong bài Phúc Âm hôm nay đây hoàn toàn liên quan đến tình nghĩa của Thiên Chúa, tức là họ chỉ việc đến hoan hưởng mà chẳng phải vất vả làm gì hết, một đặc ân bao gồm chẳng những thành phần được ấn định ám chỉ dân Do Thái mà còn tất cả mọi người không trừ ai, ám chỉ chung nhân loại hay dân ngoại nữa:

 

Thành phần đã được ấn định: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: 'Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới'. Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi".

 

Thành phần không được mời trước cũng được tham dự: "Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: 'Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới'. Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc".

 

Căn cứ vào dụ ngôn về việc mở tiệc cưới và mời khách đến dự hôm nay, chúng ta thấy nếu tiệc cưới đây ám chỉ mầu nhiệm nhập thể của Chúa Kitô, Đấng là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), Đấng đã kết hiệp thiên tính và nhân tính lại với nhau nơi ngôi vị thần linh của mình, thì thành phần được mời đến tham dự tiệc cưới này, tức thành phần được tham phần vào chính mầu nhiệm nhập thể này tất nhiên phải bao gồm cả dân Do Thái là giòng dõi Chúa Giêsu được sinh ra về thể lý, lẫn dân ngoại vì Người mặc lấy nhân tính của cả loài người của họ và như họ.

Chính vì dân Do Thái đã được mời trước, ở chỗ đã được Thiên Chúa tuyển chọn và lập giao ước với qua các tổ phụ của họ, mà họ không chấp nhận Chúa Kitô đã đến trong xác thịt, lại còn giết Người nữa, nên họ đúng là thành phần đã từ chối không đến dự tiệc cưới vậy. 

 

Tuy nhiên, để xứng đáng với đặc ân tự nhiên được tham dự tiệc cưới cứu độ này, một ân sủng được ban cho chẳng những dân Do Thái mà còn cả dân ngoại, chẳng những ban cho những người tốt lành mà còn cả những người không tốt lành: "bất cứ ai", "bất luận tốt xấu", thành phần tham dự một khi đã được mời và đã đến tham dự thì cần phải tỏ ra xứng đáng nữa, bằng không sẽ bị loại trừ:

 

"Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: 'Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?' Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: 'Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!' Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".

 

Như bài Phúc Âm về việc trả lương cho thợ làm vườn nho, mới nghe qua thì có vẻ bất công thế nào thì việc ông vua đối xử với thành phần được ông lùa vào dự tiệc cưới của con ông đã bị ông trừng phạt vì không mặc áo cưới cũng thế. Ở chỗ, nếu những người này biết trước là cần phải mặc áo cưới thì có lẽ họ đã không vào, bởi bấy giờ họ không kịp sửa soạn áo cưới hay không có tiền mua áo cưới v.v.

 

Thế nhưng, áo cưới đây là gì, nếu không phải, trước hết là chính việc chấp nhận Lời Nhập Thể, Đấng Thiên Sai, Đấng "đã đến trong xác thịt" (xem 2Gioan 7), "đã mặc lấy thân phận tôi đòi, được sinh ra như loài người" (Philiphê 2:7), "bởi một người nữ" (Galata 4:4): "Người đã ở trong thế gian, và nhờ Người mà thế gian đã được tạo thành, nhưng thế gian đã không nhận biết Người là ai. Người đã đến với những ai thuộc về Người nhưng họ đã không chấp nhận Người. Bất cứ ai chấp nhận Người thì Người đã ban cho họ được quyền trở nên con cái của Thiên Chúa" (Gioan 1:10-12). 

 

Chưa hết, áo cưới đây, nếu áp dụng vào thành phần dân ngoại Kitô hữu thì có thể còn được hiểu là lòng biết ơn, do đó không thể tỏ ra thờ ơ lãnh đạm với ơn cứu độ được ban cho mình và chính mình đã lãnh nhận khi chịu Phép Rửa, thờ ơ lãnh đạm đến độ khi được chất vấn tại sao không mặc áo cưới cũng không lên tiếng trả lời. Và một khi thờ ơ lãnh đạm với ơn cứu chuộc thì Kitô hữu sẽ khinh thường và không sống xứng đáng với ơn cứu độ, như thể không mặc áo cưới vậy. 

 

Sau hết, và bởi thế, áo cưới đây còn được hiểu là chính phẩm vị làm con Thiên Chúa của Kitô hữu - không mặc áo cưới nghĩa là không sống với phẩm vị con Thiên Chúa của mình. Nhất là bằng những tội trọng, như thể họ đã cố tình lột bỏ chiếc áo rửa tội của mình đi. Đó là lý do khi người con hoang đàng phung phá trở về, nó đã được cha của nó phục hồi lại cho nó tất cả những gì của một người con, chẳng những thân phận làm con (qua hình ảnh mang giầy, chứ không phải đi chân không như thân phận của một tên nô lệ) và quyền làm con (qua hình ảnh đeo nhẫn), mà còn chính phẩm vị làm con (qua hình ảnh mặc lại cho nó áo đẹp nhất).

 

Bài Phúc Âm cho thấy một bữa tiệc cưới thịnh soạn và hoàn toàn free, bao gồm toàn là những kẻ xa lạ và bần cùng ở đầu đường xó chợ, bất xứng tham dự theo lời mời nhưng không của chủ tiệc. Cái xa lạ, bất xứng và bần cùng của khách được mời đã được bù đắp bởi chính vị chủ tiệc, vì ông đã chấp nhận họ như thế, ngoài ra, ông còn có sẵn áo cưới cho họ mặc vào để xứng đáng với tiệc cưới trang trọng và quí báu của ông nữa. Tuy nhiên, nếu một khi họ nhận lời mời của vị chủ tiệc mà vào tiệc cưới, mà lại không chịu mặc áo cưới cần thiết cho bữa tiệc cưới ấy, mà cứ theo ý riêng, ý thích lăng loàn bất xứng của mình, thì chính họ đã chọn bị loại trừ.

 

Chiếc áo cưới của vị chủ tiệc cung cấp cho khách dự tiệc của ông đây, đã được ám chỉ chẳng những nơi thứ nước thanh tẩy, mà còn là chính quả tim bằng thịt, chính thần trí của Ngài được ban cho những ai được mời nữa, như dân Do Thái xưa, hay như Kitô hữu qua Phép Rửa, trong Bài Đọc 1 hôm nay, như Thiên Chúa phán qua miệng Tiên Tri Êzêkiên như sau:

 

"Ta sẽ thánh hoá danh cao cả Ta đã bị xúc phạm giữa các dân tộc, nơi mà các ngươi đã xúc phạm danh thánh Ta, để các dân tộc biết Ta là Chúa, Thiên Chúa các đạo binh phán, khi Ta tự thánh hoá nơi các ngươi trước mặt họ. Ta sẽ kéo các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi từ các nước, và dẫn dắt các ngươi trên đất các ngươi. Ta sẽ dùng nước trong sạch mà rảy trên các ngươi, và các ngươi sẽ được rửa sạch mọi vết nhơ. Ta sẽ thanh tẩy các ngươi sạch mọi vết nhơ các bụt thần. Ta sẽ ban cho các ngươi quả tim mới, đặt giữa các ngươi một thần trí mới, cất khỏi xác các ngươi quả tim bằng đá và ban cho các ngươi quả tim bằng thịt. Ta đặt thần trí Ta giữa các ngươi, làm cho các ngươi thực thi các huấn lệnh Ta, làm cho các ngươi tuân giữ và thực hành các lề luật Ta. Các ngươi sẽ cư ngụ trong xứ Ta đã ban cho tổ phụ các ngươi; các ngươi sẽ là dân Ta, còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi".

 

Bởi thế, một khi ý thức được ơn gọi cao quí của mình, ơn gọi được Thiên Chúa thương xót "dùng nước trong sạch mà rảy trên các ngươi, và các ngươi sẽ được rửa sạch mọi vết nhơ", như Ngài khẳng định ở Câu Họa của Bài Đáp Ca hôm nay, một ơn gọi Ngài cho tạo vật thấp hèn tội lỗi chúng ta tham dự vào mối hiệp thông sự sống thần linh của Ngài và với Ngài, nhờ công nghiệp vô giá Con của Ngài và bởi quyền lực của Thánh Thần, Kitô hữu chúng ta cần phải luôn có một tâm tình của Thánh Vịnh 50 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.

2) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ; với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài.

3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm cung.

 

 

Ngày 22 tháng 8

Đức Ma-ri-a Nữ Vương

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử 
Vì cả thân xác cũng đã được biến đổi, Đức Ma-ri-a trong vinh quang mông triệu đã trở nên thành công tối hậu của công trình cứu chuộc. Nhưng Đức Ma-ri-a vô cùng diễm lệ đồng thời cũng rất quyền thế, bởi vì Người là Thánh Mẫu của Đấng mà “triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Chính vì thế, từ bao thế kỷ, các tín hữu đã kính chào Mẹ là Đức Nữ Vương, Đấng Trung Gian tối cao của ân sủng.

 

Nữ Vương thế giới và Nữ Vương hoà bình

Bài đọc 2 phụng vụ giờ kinh sách

Trích bài giảng của thánh A-mê-đê, giám mục Lô-dan.

Trước khi được cất lên trời, danh tuyệt diệu của Đức Ma-ri-a đã toả sáng trên toàn cõi đất và danh thơm lừng lẫy của Mẹ đã lan toả khắp nơi, trước cả khi vẻ huy hoàng lộng lẫy của Mẹ được nâng cao vượt các tầng trời. Bạn xem : điều đó thật là phải lẽ. Thật vậy, vì Mẹ đồng trinh và vì danh dự của người Con do Mẹ sinh ra, trước hết Mẹ phải cai trị ở dưới đất, rồi sau cùng đón nhận cõi trời vinh quang. Mẹ phải được đầy tràn ở dưới đất này, để rồi tiến vào trong sung mãn thánh thiện chốn trời cao. Và vì Mẹ đã được Thần Khí của Chúa đưa từ nhân đức này tới nhân đức khác, thì Mẹ cũng được đưa từ chốn rạng ngời dưới đất đến chốn rạng ngời trên trời.

Vậy tuy đang sống trong thân xác, Mẹ đã được thưởng thức trước những hoa quả đầu mùa của vương quốc mai sau : khi thì vươn lên tới Thiên Chúa nhờ sự hoàn thiện khôn thấu, lúc lại hạ cố đến với tha nhân nhờ đức bác ái khôn tả. Ở trên trời, Mẹ được các thiên sứ tới lui phục vụ, ở dưới đất, Mẹ được loài người hầu hạ kính tôn. Tổng lãnh Gáp-ri-en cùng với các thiên sứ đã cung phụng Mẹ. Còn ông Gio-an trinh khiết thì vui mừng vì Mẹ đồng trinh đã được trao phó cho mình dưới chân thập giá, ông cùng với các Tông Đồ chăm sóc Mẹ. Các thiên sứ hân hoan nhìn nhận Mẹ là nữ vương của mình, các Tông Đồ vui mừng nhìn nhận Mẹ là bà chúa của mình. Và tất cả đều đem lòng đạo đức và yêu mến mà vâng phục Mẹ.

Phần Mẹ, Mẹ đang ngự trên lâu đài cao chót vót của các nhân đức và được các ân huệ của Thiên Chúa bao la như biển cả. Mẹ trổi vượt hơn mọi người nhờ ân sủng dồi dào như vực thẳm, nhưng Mẹ lại tuôn đổ thật rộng rãi xuống trên đoàn dân đang tin tưởng và khao khát. Thật vậy, Mẹ ban sức khoẻ cho thân xác và thần dược cho linh hồn, Mẹ có khả năng giúp thân xác và linh hồn được trỗi dậy từ cõi chết. Có ai từ biệt Mẹ ra về mà vẫn còn đau yếu, buồn phiền và dốt nát không hiểu các mầu nhiệm thiên quốc bao giờ ? Có ai về tới nhà mà lại không hân hoan vui mừng, vì đã nhờ Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Chúa, mà được như lòng mong muốn ?

Mẹ là hiền thê đầy dẫy bao ân phúc cao cả, là Mẹ của Vị Hôn Phu độc nhất, Mẹ dịu dàng và rất đáng mến, vì đầy niềm hân hoan vui sướng. Mẹ như nguồn suối cho các thửa vườn thiêng liêng, như giếng đầy nước hằng sống và đem lại sức sống. Nước ấy xuất phát từ núi Li-băng của Thiên Chúa, chảy như thác lũ. Vì thế, Mẹ làm tuôn chảy những dòng sông hoà bình và những con suối ân sủng thiên quốc, từ núi Xi-on cho đến mọi nước chung quanh. Vì vậy, khi Đức Trinh Nữ trên mọi trinh nữ được Thiên Chúa và được Con của Người là Vua trên các vua dẫn vào thiên cung, trước các thiên sứ đang hân hoan, các tổng lãnh đang vui mừng và thiên cung đang reo hò ca ngợi, thì bấy giờ ứng nghiệm lời sấm đã được tác giả thánh vịnh thưa với Chúa : Bên hữu Ngài hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ô-phia lộng lẫy.

Lạy Chúa, Chúa đã đặt Thánh Mẫu của Đức Ki-tô Con Chúa làm Thánh Mẫu và Nữ Vương chúng con. Xin nhậm lời Đức Nữ Vương chuyển cầu mà cho chúng con đạt tới phúc vinh quang Chúa dành sẵn trên trời cho con cái Chúa. Chúng con cầu xin

 

Kitô Hữu Nhìn Lên Nữ Vương Maria

(Giáo lý Thánh Mẫu của ĐTC Gioan Phaolô II)


1.- Lòng tôn sùng thịnh hành vốn kêu cầu Mẹ Maria như là một Vị Nữ Vương. Công Đồng Chung Vaticanô II, sau khi nhắc lại Việc Đức Trinh Nữ Mông Triệu “cả xác lẫn hồn vào vinh quang thiên quốc”, đã giải thích rằng Mẹ “được Chúa tôn làm Nữ Vương trên tất cả mọi sự, để Mẹ có thể hoàn toàn nên giống hơn Con Mẹ là Chúa các chúa (x Rev 19:16) và là Đấng chiến thắng tội lỗi cùng sự chết” (Lumen Gentium, 59).

Thật vậy, bắt đầu từ thế kỷ thứ năm, hầu như trong cùng một giai đoạn Công Đồng Chung Êphêsô công bố Mẹ là “Mẹ Thiên Chúa”, thì tước hiệu Nữ Vương cũng đã được bắt đầu được gán cho Mẹ. Nhận biết hơn về vai trò cao cả của Mẹ như thế, dân Kitô giáo muốn đặt Mẹ lên trên tất cả mọi thụ tạo, vinh thăng vai trò và tầm quan trọng của Mẹ nơi đời sống của hết mọi người cũng như của cả thế giới.

Thế nhưng, trong một khúc bài giảng được cho rằng của giáo phụ Origen, cũng đã chất chứa lời dẫn giải này về những lời bà Elizabét thốt lên trong biến cố Thăm Viếng: “Đáng lẽ chị phải đến thăm em, vì em có phúc hơn mọi người nữ, em là Người Mẹ của Chúa chị, em là Vị Tôn Nữ của chị” (Fragment, PG 13, 1902 D).

Bản văn chuyển một cách tự nhiên từ lời diễn tả “Người Mẹ của Chúa chị” sang tước hiệu “Vị Tôn Nữ”, trước cả những gì Thánh Gioan Đamascênô sau này nói khi thánh nhân gán cho Mẹ tước hiệu “Vương Chủ”: “Khi Mẹ trở nên Mẹ của Đấng Hóa Công, Mẹ thực sự trở nên nữ vương của tất cả mọi tạo vật” (De fide orthodaxa, 4, 14, PG 94, 1157).

2.- Vị Tiền Nhiệm đáng kính Piô XII của Tôi, trong bức Thông Điệp Ad coeli Reginam, một văn kiện được bản văn của Hiến Chế Lumen Gentium qui chiếu, xác định việc Mẹ cộng tác vào công cuộc Cứu Chuộc đã là nền tảng cho vai trò nữ vương của Mẹ Maria, thêm vào vai trò mẫu thân của Mẹ. Bức Thông Điệp đã lập lại bản văn phụng vụ: “Có Thánh Maria, Nữ Vương thiên đàng và là Vị Vương Chủ thế giới, đau thương đứng kề bên cây Thập Giá của Chúa Giêsu Kitô” (AAS 46 [1954] 634). Như thế, bức Thông Điệp này đã nêu lên tính cách tương tự giữa Mẹ Maria và Chúa Kitô, một tính cách tương tự giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng nơi trạng thái trung thành của Đức Trinh Nữ. Chúa Kitô là Vua không phải chỉ vì Người là Con Thiên Chúa, mà còn vì Người là Đấng Cứu Chuộc; Mẹ Maria là Nữ Vương không phải chỉ vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, mà còn vì Mẹ đã cộng tác vào công cuộc cứu chuộc loài người, với tư cách là tân Evà cùng với tân Adong.

Trong Phúc Âm Thánh Marcô, chúng ta đọc thấy rằng, vào ngày Thăng Thiên, Chúa Giêsu “được đưa lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (16:19). Theo ngôn ngữ Thánh Kinh, “ngồi bên hữu Thiên Chúa” nghĩa là chia sẻ quyền bính tối cao. Ngồi “bên hữu Cha”, Người thiết lập vương quốc của Người, vương quốc của Thiên Chúa. Được đưa lên trời, Mẹ Maria được liên kết với quyền năng của Con Mẹ, và được giành vào việc phát triển Vương Quốc này, ở chỗ thông phần vào việc ban phát ân sủng thần linh trên thế giới.

Nhìn vào tính cách tương tự giữa việc Chúa Giêsu Thăng Thiên và việc Mẹ Maria Mông Triệu, chúng ta có thể kết luận rằng, Mẹ Maria, dựa vào Chúa Kitô, là một Vị Nữ Vương nắm thượng quyền và thực hiện thượng quyền do Con Mẹ ban Mẹ trên vũ trụ.

3.- Tước hiệu Nữ Vương dĩ nhiên không thay thế cho tước hiệu Làm Mẹ, ở chỗ, vai trò làm nữ vương của Mẹ vốn là hệ quả của sứ vụ đặc biệt làm mẹ, và chỉ để thể hiện quyền năng được ban cho Mẹ để Mẹ thi hành sứ vụ ấy mà thôi.

Trích lại Trọng Sắc Ineffabilis Deus của Đức Piô IX, Đức Piô XII nhấn mạnh đến chiều kích làm mẹ nơi vai trò nữ vương của Đức Trinh Nữ: “Cảm thương chúng ta với lòng từ mẫu và quan tâm đến phần rỗi của chúng ta, Mẹ vươn vòng tay săn sóc của Mẹ ra ôm ấp tất cả loài người. Được Chúa cắt đặt làm Nữ Vương trời đất, được nâng lên trên tất cả mọi ca đoàn thiên thần cũng như tất cả mọi hàng ngũ các thánh trên trời, ngự bên hữu Người Con duy nhất của mình là Chúa Giêsu Kitô, Mẹ chắc chắn chiếm được những gì Mẹ muốn dùng lời nguyện cầu từ mẫu của Mẹ mà kêu xin; Mẹ chiếm được những gì Mẹ tìm kiếm và không bị khước từ” (xem AAS 46 [1954] 636-637).

4.- Bởi thế, Kitô hữu hãy tin tưởng nhìn lên Nữ Vương Maria, và điều này chẳng những không làm suy giảm mà thực sự làm tăng thêm việc trao phó bản thân mình với tình con thảo của họ cho Mẹ, Đấng làm mẹ theo cấp trật ân sủng.

Thật vậy, nỗi quan tâm của Nữ Vương Maria đối với loài người có thể hoàn toàn tác hiệu chính là vì trạng thái vinh hiển của Người xuất phát từ việc Mẹ Mông Triệu. Thánh Germanus I ở Contantinôpôli đã cho thấy sự kiện này rất hay. Thánh nhân chủ trương rằng trạng thái này bảo toàn mối liên hệ thân mật giữa Mẹ Maria với Con của Mẹ, và cho phép Mẹ thực hiện việc Mẹ can thiệp hộ giúp chúng ta. Ngỏ lời cùng Mẹ Maria, thánh nhân viết, Chúa Kitô muốn “có một kết nối giữa môi miệng của Mẹ với lòng trí của Mẹ; bởi thế Người đồng ý với tất cả mọi ước muốn Mẹ bày tỏ cùng Người, khi Mẹ chịu đựng vì con cái của Mẹ, Người làm tất cả mọi sự Mẹ kêu xin Người bằng quyền năng thần linh của Người” (Hom. 1 PG 98, 348).

5.- Người ta có thẻ kết luận rằng Việc Mông Triệu làm cho Mẹ Maria chẳng những hoàn toàn hiệp thông với Chúa Kitô, mà còn với mỗi một người trong chúng ta nữa, ở chỗ, Mẹ ở bên chúng ta, vì tình trạng vinh hiển của Mẹ khiến cho Mẹ có thể theo chúng ta trong cuộc hành trình trần thế hằng ngày của chúng ta. Như chúng ta cũng đọc thấy ở Thánh Germanus: “Mẹ ở với chúng con một cách thiêng liêng, và việc Mẹ hết lòng coi sóc chúng con cho thấy Mẹ hiệp thông đời sống với chúng con” (Hom. 1, PG 98, 344).

Bởi vậy, thay vì tạo nên khoảng cách giữa Mẹ và chúng ta, tình trạng vinh hiển của Mẹ Maria lại tạo nên một tình trạng liên tục gần gũi và chăm sóc. Mẹ biết hết mọi sự xẩy ra trong đời sống của chúng ta, và nâng đỡ chúng ta bằng tình yêu từ mẫu của Mẹ trong những cơn thử thách cuộc đời của chúng ta.

Được đưa về trời vinh hiển, Mẹ Maria hoàn toàn hiến mình cho công cuộc cứu độ, để thông truyền cho hết mọi con người sống động thứ hạnh phúc Mẹ lãnh nhận. Mẹ là một Vị Nữ Vương ban phát tất cả những gì Mẹ chiếm hưởng, trước hết, ở chỗ Mẹ tham dự vào cuộc sống và tình yêu của Chúa Kitô.

 

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ
Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ ngày 30/7/1997)

 

Vinh Quang Trên Thiên Đàng

 

(Trích Thần Đô Huyền Nhiệm, phần truyện hợp với đời sống thầm lặng của Mẹ, một đời sống làm mẫu gương của Dòng Carmêlô)

 

 

Linh hồn rất thánh của Me. Maria đã hưởng phúc thiên đàng được ba ngày, Thiên Chúa tỏ cho thần thánh biết quyết định hằng hữu của Ngài là phục sinh cho Xác Thể đáng kính của Mẹ. Tới lúc đó, Chúa Giêsu từ trời, đem theo Linh Hồn Mẹ chí ái Ngài xuống mồ Thánh của Mẹ với vô số sư đoàn các thiên thần, các vị tổ phụ và các tiên tri. Đến mồ Mẹ, Chúa phán với đoàn tháp tùng rằng: "Mẹ của Cha đã được đầu thai Vô Nhiễm, đê? Cha mặc lấy Nhân Tính Cha từ nơi bản thể vô nhiễm của Mẹ. Thể xác Cha là thể xác Mẹ hơn nữa, Mẹ còn đồng công vào hết mọi công trình việc cứu chuộc của Cha. Cho nên Cha phải phục sinh cho Me. Cha, như Cha đã sống lại, và phải phục sinh cho Mẹ vào cùng lúc Cha đã sống lại, vì Cha muốn Mẹ nên tương tư. Cha trong mọi sự". Toàn thể các Thánh đều ca tụng Chúa vì sự quyết định ấy, nhất là Adong Eva, thánh ca? Giuse và hai thánh song thân của Me.
 

Tức thì Linh Hồn Hiển Vinh của Mẹ vào lại Thân Xác Đồng Trinh của Mẹ trả lại sự sống cho Thân Xác ấy, mà không hề động chạm gì đến tảng đá che mồ hay đảo lộn những nếp áo và khăn phủ mặt. Không thể nào tả lại được vẻ mỹ lệ và ánh sáng chói ngời trang sức cho Mẹ lúc ấy. Ta chỉ cần nói rằng Chúa Giêsu muốn trả lại cho Mẹ tất cả những gì Ngài đã tiếp nhận từ Mẹ lúc Nhập Thể đã đủ. Hôm đó là ngày Chúa Nhật, mười lăm tháng tám, liền ngay sau nửa đêm. Xác Thánh Me. Maria ở trong mồ 30 giờ y như Xác Thánh Chúa Giêsu.
 

Lúc đó diễn ra từ phần mộ của Mẹ về thiên đàng một cung nghinh trang trọng không thể tả hết giữa thanh âm của một điệu nhạc say lòng. Các vị thánh và các thiên thần vào thiên đàng vị nào theo địa vị ấy. Sau cùng là Chúa Giêsu Kitô với Mẹ rất thánh Ngài ở bên hữu. Toàn thể thần thánh đều quay về phía Mẹ để nhìn ngắm và chúc tụng Mẹ trong một nguồn hoan lạc mới lạ, những khúc thánh ca mới và những lời ở trong chương ba sách Diễm Ca. Khi Mẹ tới bê. Ngai Chúa Ba Ngôi, Chúa đã tiếp đón Mẹ với một tiếp đón thỏa tình nhất. Chúa Cha phán với Mẹ: "Con rất yêu dấu của Cha, Con hãy lên cao hơn trên tất cả mọi thụ tạo". - Và Chúa Con thêm: "Me. Ạ, xin Mẹ nhận từ tay con phần thưởng Mẹ đáng được". - Đến lượt Thánh Linh nói: "Bạn dấu yêu, hãy vào hưởng nguồn vui vĩnh cửu xứng với tình trạng trinh trong của Bạn".
 

Me. Maria chìm ngập trong đại dương vô cùng của Thần Tính Thiên Chúa. Khi Mẹ đã được tôn lên Ngai Thần Linh, Chúa tuyên dương cho cả triều đình thiên đàng đang tràn ngập tán thưởng, biết những đặc ân đã thông ban cho Mẹ qua sư. Mẹ thông phần vào Uy Linh của Ngài. Chúa Cha phán: "Maria là đức nữ tỳ của chúng ta, từng làm nên những khoái lạc đầu tiên của chúng ta, và đã không bao giờ bỏ mất tước hiệu ấy. Người có toàn quyền trên cả vương quốc chúng ta. Người được nhìn nhận và tôn phong là chủ mẫu chính thức, vừa là Nữ Vương độc nhật". - Chúa Con phán: "Hết mọi thụ tạo Cha đã sáng tạo và cứu chuộc đều thuộc quyền Mẹ chân thực của Cha: Mẹ là Nữ Vương chính thức cai trị tất cả những gì Cha là vua cai trị". - Sau cùng Chúa Thánh Linh phán: "Hỡi bạn, với danh nghĩ là Hiền Thê của Ta, danh nghĩa mà bạn đã tận trung ứng đáp, bạn được lĩnh vương miện Nữ Vương cho đến muốn đời.
 

Ba Ngôi Thiên Chúa đặt trên đầu Mẹ một vương miện vinh quang cực kỳ lộng lẫy, rạng chiếu luồng sáng tuyệt kỳ, sẽ không bao giờ có nữa. Cũng lúc ấy, từ ngai Chúa phán ra lời này: "Hỡi người chí ái của chúng ta, Vương Quốc Của Chúng Ta là Vương Quốc Của Người. Người là Chu? Mẫu là Nữ Vương hết mọi thụ tạo. Từng được ân sủng nâng cao lên trên mọi loài, những người đã tự nhận mình hèn kém, hạ mình xuống dưới hết mọi loài. Giờ đây, người hãy lên chiê"m địa vị tuyệt cao xứng với người. Từ Ngai cao cả này, Người hãy thống trị toàn thể thụ tạo: hỏa ngục, trần gian và thiên đàng. Ma qủy, loài người, và thiên thần đều phải tùng phục Người. Chúng Ta trao ủy cho người quyền bính Thần Linh của Chúng Ta. Người sẽ nâng đỡ, ủi an, bảo trợ và làm Mẹ của hết mọi người công chính cũng như là Mẹ của cả giáo hội chiến đấụ để thi hành sứ mệnh đó, một lần nữa chúng ta tôn nhiệm Người làm đấng bảo quản, đấng phân phát mọi kho tàng của Chúng Ta. Những gì thuộc quyền Chúng Ta cũng thuộc quyền Người, như Người đã luôn luôn là của Chúng Ta.
 

 

Để thể hiện những đặc ân trao ban cho Đức Nữ Vương vũ trụ, Thiên Chúa ra lệnh cho toàn thể thần thánh trên trời phải tùng phục Mẹ, nhìn nhận Mẹ là chủ mẫu mình. Toàn thể thần thánh đều tôn phục Mẹ: những vị được ở thiên đàng cả hồn xác đều phủ phục trước mặt Mẹ và đều suy phục Mẹ bằng những việc tôn kính bề ngoài. Đấy chính là phần thưởng cho đức khiêm nhượng Mẹ đã tỏ ra để tôn kính các thánh khi Mẹ còn tại thế. Việc tôn phong Mẹ là Nữ Vương Thiên Đàng này đã trào đổ một nguôn vui phụ trội cho toàn thể thần thánh. Những vị được hoan hỉ thêm nhiều hơn cả là thánh ca? Giuse, thánh Gioan Kim, Thánh Nữ Anna rồi những thánh thân nhân và các thiên thần hầu cận Me.

 

 

Thứ Sáu

Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm II) Ed 37, 1-14

"Hỡi các bộ xương khô, hãy nghe lời Chúa. Ta sẽ dẫn các ngươi ra khỏi mồ, và dẫn dắt các ngươi vào nhà Israel".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Trong những ngày ấy, tay Chúa đặt trên tôi, và dẫn tôi đi trong thần trí của Chúa: Người để tôi giữa cánh đồng đầy hài cốt; Người đem tôi đi vòng quanh những hài cốt ấy, có rất nhiều bộ xương khô nằm la liệt trên cánh đồng. Và Chúa phán cùng tôi rằng: "Hỡi con người, ngươi nghĩ các xương này sẽ có thể được sống chăng?" Tôi thưa: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa đã biết". Người liền phán cùng tôi: "Ngươi hãy nói tiên tri về các bộ xương này, và bảo chúng rằng: 'Hỡi các bộ xương khô, hãy nghe lời Chúa. Chúa là Thiên Chúa phán cùng các bộ xương như thế này: Ðây Ta sẽ khiến hồn nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ đặt gân trên các ngươi, sẽ khiến thịt mọc ra trên các ngươi, và cho da bọc các ngươi: Ta sẽ ban hồn cho các ngươi, các ngươi sẽ được sống và biết rằng Ta là Chúa' ". Tôi đã nói tiên tri như Chúa đã truyền cho tôi.

Ðang lúc tôi nói tiên tri, thì có tiếng ồn ào, và tôi thấy chuyển động: các bộ xương họp lại với nhau, xương ăn khớp với nhau. Tôi quan sát, và này đây, gân và thịt mọc trên các bộ xương: có da bọc lại, nhưng chưa có hồn. Và Chúa phán cùng tôi rằng: "Ngươi hãy nói tiên tri về hồn, hỡi con người, hãy nói tiên tri và bảo hồn rằng: 'Chúa là Thiên Chúa phán như thế này: Hỡi hồn, hãy từ bốn phương tiến đến', và thổi hơi trên những kẻ bị giết này, để chúng sống lại". Tôi đã nói tiên tri như Chúa đã truyền cho tôi. Hồn liền nhập vào chúng và chúng được sống. Chúng đứng thẳng lên làm thành một đạo quân cực kỳ đông đảo.

Và Chúa phán cùng tôi rằng: "Hỡi con người, các bộ xương này là toàn thể nhà Israel. Chúng nói rằng: 'Xương chúng tôi đã khô đét, chúng tôi mất hết hy vọng, chúng tôi đã bị tiêu diệt'. Bởi đó, ngươi hãy nói tiên tri cho chúng rằng: 'Chúa là Thiên Chúa phán như thế này: Hỡi dân Ta, này Ta sẽ mở các cửa mồ các ngươi, Ta sẽ kéo các ngươi ra khỏi mồ, và dẫn dắt các ngươi vào đất Israel. Hỡi dân Ta, các ngươi sẽ biết Ta là Chúa, lúc Ta mở cửa mồ các ngươi, và kéo các ngươi ra khỏi mồ, Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta, và các ngươi sẽ được sống; Ta sẽ cho các ngươi an cư trên đất các ngươi, các ngươi biết rằng: Ta là Chúa, chính Ta đã phán và sẽ thi hành' ".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 106, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9

Ðáp: Hãy chúc tụng Chúa, vì đức từ bi Người còn muôn thuở (c. 1).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy xướng lên, hỡi những người được Chúa thục mạng cho, những người Chúa đã thục mạng khỏi tay quân thù: những người Chúa đã họp lại từ muôn đất nước; từ đông sang tây và từ bắc chí nam. - Ðáp.

2) Xưa họ lạc lõng trong chốn cô liêu hoang địa, không biết đường đi tới thành trì có thể định cư. Lúc bấy giờ họ đói khát, và sinh lực trong người họ hao mòn. - Ðáp.

3) Họ kêu cầu cùng Chúa trong lúc khốn cùng, Người đã cứu họ thoát cảnh gian truân. Người dẫn họ đi trên con đường thẳng, để họ tới được thành trì có thể định cư. - Ðáp.

4) Những người đó hãy cảm ơn Chúa vì lòng nhân hậu, và những điều kỳ diệu của Người đối với con người ta. Bởi Người đã cho người đói khát được no đủ, người cơ hàn được tràn trề thiện hảo. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 11, 25

Alleluia, alleluia! - Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 22, 34-40

"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại. Ðoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?" Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó".

Ðó là lời Chúa.

 

Mateo 22, 34-40 Evangelio Agosto 19 2016 - YouTube

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Tình Yêu Bất Diệt - Vinh Hiển Phục Sinh

 

 

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XX Thường Niên, cũng không liên tục với bài Phúc Âm hôm qua, cách bài Phúc Âm hôm qua 16 câu, trong đó có hai vấn đề được đặt ra cho Chúa Giêsu, trước hết là vấn đề được nhóm biệt phái cố tình gài bẫy Chúa Giêsu về việc nộp thuế cho Cesar (xem Mathêu 22:22:15-22), và sau đó là vấn đề được nhóm Saducê đặt ra về niềm tin phục sinh (xem Mathêu 22:23-33), cả hai vấn đề đã được Phúc Âm Thánh ký Marcô thuật lại ở Thứ Ba và Thứ Tư Tuần IX Thường Niên trước đây.

 

Tuy nhiên, bài Phúc Âm hôm nay, bài Phúc Âm trước hết về điều răn trọng nhất, dù đã được Giáo Hội chọn đọc theo Thánh ký Marcô cho Thứ Năm Tuần IX Thường Niên, Giáo Hội vẫn chọn đọc lại một lần nữa, vì giới răn trọng nhất trong bài Phúc Âm hôm nay cũng liên hệ với 2 bài Phúc Âm hôm qua và hôm kia trong tuần này. 

 

Ở chỗ, nếu con người sống trọn giới răn trọng nhất là mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi", thì các nhóm thợ làm vườn nho lâu giờ đã không tỏ thái độ bất mãn với chủ và ghen tị với nhóm thợ cuối giờ, và thành phần bất ngờ được mời đến dự tiệc cưới trong hoàng cung sẽ mặc áo cưới xứng đáng với đặc ân diễm phúc khôn lường của mình. 

 

Và vấn đề giới răn trọng nhất này còn liên quan cả đến mầu nhiệm phục sinh nữa. Ở chỗ, tất cả mọi sự trên trần gian này sẽ qua đi, kể cả đức tin, ngoại trừ duy có đức mến. Vì "Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16). Bởi vậy, nếu hai yếu tố làm nên bản tính của con người là linh hồn và thân xác, nhưng linh hồn chi phối thân xác và thân xác lệ thuộc linh hồn thế nào, thì một khi thân xác của con người trở thành khí cụ của lòng mến, tác hành theo lòng mến, theo tình yêu Thiên Chúa, theo đức ái trọn hảo, thì thân xác đó đã chứng tỏ nó mang sẵn mầm sống vĩnh cửu, bất diệt, và trọn hảo nhờ linh hồn thiêng liêng bất tử và trọn lành của nó, và nhờ quyền năng của Thánh Thần, nó sẽ trở nên như thân xác phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô (xem Philiphê 3:21). 

 

Một thanh sắt cho dù có bị rỉ xét đến đâu chăng nữa, một khi được nung bằng lửa thì nó cũng trở nên sáng rực như lửa thế nào thì thân xác của con người cũng thế. Cho dù thân xác đó khi còn sống có dâm ô nhục dục đàng điếm chăng nữa, nhưng một khi tâm hồn của thân xác đó biết ăn năn thống hối với tất cả lòng mến, thì thân xác đó sẽ trở nên tinh tuyền. Bởi xác của con người ngày sau sống lại thì trở nên thiêng liêng như thiên thần, như Chúa Giêsu khẳng định (xem Mathêu 22:30). 

 

Trong các thánh nữ đồng trinh, ngoài Mẹ Maria là đệ nhất trinh nữ và là trinh nữ trên hết, một trinh nữ sinh con duy nhất trên trần gian này, thì vị thánh nữ đồng trinh thứ nhất trong hàng ngũ các thánh trinh nữ là Thánh Catarina Tử Đạo, sau đó đến Thánh Nữ Mai Đệ Liên đàng điếm và Thánh Nữ Magarita Cortone cũng thuộc về loại ưu hạng trong số các thánh trinh nữ, như chính Chúa Giêsu đã tỏ cho chị Magarita Cortone biết, và dấu chứng thực đó là thân xác sống dâm dục 9 năm trời với một người tình và có một đứa con hoang (ngoại hôn) với chàng của chị chẳng những không bị hư hoại mà vẫn còn nguyên. 

 

Thật vậy, vào ngày lễ của Thánh Catherine thành Alexandria Tử Đạo (25/11 theo lịch phụng vụ cũ), khi Thánh Nữ Margarita Cortone đang ở bàn thờ để rước lễ thì nghe thấy Chúa Giêsu nói cùng mình rằng: (theo cuốn A Tuscan Petinent: The Life and Legend of Saint Margaret of Cortona, by Father Cuthbert, Burns Oates and Washbourne, Ltd, 1900, pages 160-161).

 

Con Cha ơi, chỗ của con sẽ ở giữa thần Seraphim cùng với các trinh nữ bừng cháy tình yêu thần linh”.

Nghe thấy thế Thánh nữ sửng sốt đáp lại rằng:

 

Lạy Chúa, làm sao điều ấy có thể xẩy ra được với một con người nhớp nhúa tội lỗi chứ?

 

Chị đã nghe thấy câu giải đáp của Chúa như sau:

 

Những đau khổ vô vàn của con sẽ thanh tẩy tâm hồn con khỏi tất cả mọi thứ thu hút phạm tội, và trong nỗi đớn đau cùng ăn năn thống hối của mình, con sẽ phục hồi sự tinh tuyền đồng trinh của con”.

 

Thánh nữ lại càng cảm thấy sợ hãi trước câu trả lời của Chúa và đã than lên rằng:

 

Ôi Chúa Kitô là Sư Phụ của con, phải chăng Thánh Mai Đệ Liên thuộc về thành phần các trinh nữ trong vinh quang thiên đình?” Chúa liền tiết lộ cho chị biết rằng: “Ngoại trừ Mẹ Maria và Catherine Tử Đạo, không ai hơn Mai Đệ Liên trong hàng ngũ trinh nữ”.

 

Bài Phúc Âm hôm nay, được chuyển từ vấn đề kẻ chết sống lại, sang vấn đề giới răn trọng đại nhất là mến Chúa và yêu người, hai giới răn chứng tỏ một sự sống thần linh viên mãn nơi con người, như thể con người vượt qua từ sự chết sang sự sống, hoàn toàn nhờ bởi lòng thương xót Chúa, bởi quyền năng của Vị Thiên Chúa yêu thương nhân hậu. Bài Đọc 1 hôm nay chất chứa những lời Thiên Chúa phán qua miệng Tiên Tri Êzêkiên về cuộc vượt qua của dân Do Thái, không phải cuộc vượt qua ở Ai Cập vào đêm các con đầu lòng, từ người đến vật, bị sát hại, mà là cuộc vượt qua từ tình trạng chết chóc về tâm linh của họ, luôn xa lìa cùng thất trung lẫn phản bội Thiên Chúa của họ, sang tình trạng nhận biết Thiên Chúa như thế này:

 

"Hỡi dân Ta, này Ta sẽ mở các cửa mồ các ngươi, Ta sẽ kéo các ngươi ra khỏi mồ, và dẫn dắt các ngươi vào đất Israel. Hỡi dân Ta, các ngươi sẽ biết Ta là Chúa, lúc Ta mở cửa mồ các ngươi, và kéo các ngươi ra khỏi mồ, Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta, và các ngươi sẽ được sống; Ta sẽ cho các ngươi an cư trên đất các ngươi, các ngươi biết rằng: Ta là Chúa, chính Ta đã phán và sẽ thi hành' ".

 

Một khi những ai được Thiên Chúa nhận biết lòng thương xót Chúa thì không thể nào không đáp ứng lời kêu gọi của thánh vịnh gia trong bài Thánh Vịnh 106 ở Bài Đáp Ca hôm nay  "Hãy chúc tụng Chúa, vì đức từ bi Người còn muôn thuở", một đức từ bi được Thánh Vịnh này diễn tả như sau:

 

1) Hãy xướng lên, hỡi những người được Chúa thục mạng cho, những người Chúa đã thục mạng khỏi tay quân thù: những người Chúa đã họp lại từ muôn đất nước; từ đông sang tây và từ bắc chí nam.

2) Xưa họ lạc lõng trong chốn cô liêu hoang địa, không biết đường đi tới thành trì có thể định cư. Lúc bấy giờ họ đói khát, và sinh lực trong người họ hao mòn.

3) Họ kêu cầu cùng Chúa trong lúc khốn cùng, Người đã cứu họ thoát cảnh gian truân. Người dẫn họ đi trên con đường thẳng, để họ tới được thành trì có thể định cư.

4) Những người đó hãy cảm ơn Chúa vì lòng nhân hậu, và những điều kỳ diệu của Người đối với con người ta. Bởi Người đã cho người đói khát được no đủ, người cơ hàn được tràn trề thiện hảo.

 

ThanhRosaLima.mp3 (23/8)

 

Santa Rosa de Lima: Peru's Most Iconic Female Saint | How to Peru

 

 

 

 

 

Ngày 24 tháng 8

THÁNH BA-TÔ-LÔ-MÊ-Ô, TÔNG ĐỒ

lễ kính

Saint Bartholomew, Apostle - My Catholic Life!

Tiểu sử 
Thánh nhân còn được gọi là Na-tha-na-en, quê ở Ca-na. Chính tông đồ Phi-líp-phê là người đã giới thiệu thánh nhân với Chúa Giê-su ở bờ sông Gio-đan. Người nhập nhóm các môn đệ đầu tiên được Chúa kêu gọi. Người ta không biết đích xác về hoạt động tông đồ của người sau lễ Hiện Xuống. Tương truyền rằng người đã loan báo Tin Mừng ở Ấn-độ và đã chịu tử đạo ở đó.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một lòng tin vững mạnh, để chúng con thật tình gắn bó với Đức Ki-tô, Con Một Chúa, như thánh Ba-tô-lô-mê-ô tông đồ. Xin Chúa cũng nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con sống thế nào, để muôn dân nhận biết Hội Thánh chính là bí tích cứu độ. Chúng con cầu xin

 

 

 

Thứ Bảy

 

(Nếu ngày Thứ Bảy này không bị trùng với và bị át đi bởi Lễ Kính Thánh Tông Đồ Bartholomeo)

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Ed 43, 1-7a

"Uy nghi Chúa tiến vào đền thờ".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Thiên Thần dẫn tôi đến cửa phía đông. Và đây vinh quang Thiên Chúa Israel từ con đường phía đông tiến vào: tiếng của Người như tiếng nước lũ, và địa cầu sáng rực uy nghi của Người. Thị kiến mà tôi đã thấy giống như thị kiến trước kia tôi đã xem thấy khi Người đến huỷ diệt thành phố, và như thị kiến tôi đã xem thấy gần sông Côbar, nên tôi sấp mặt xuống đất. Uy nghi Chúa tiến vào đền thờ theo lối của hướng đông. Thần Trí đỡ tôi lên, và dẫn tôi vào hành lang phía trong. Ðây ánh vinh quang của Chúa tràn ngập đền thờ. Tôi đã nghe có người nói với tôi từ trong đền thờ và người đứng gần bên tôi, bảo tôi rằng: "Hỡi con người, đây là nơi đặt bệ ngai Ta, nơi Ta để chân, nơi Ta ngự giữa con cái Israel đến muôn đời".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 84, 9ab-10. 11-12. 13-14

Ðáp: Vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi (x. c. 10b).

Xướng: 1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi. - Ðáp.

2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. - Ðáp.

3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: x. Cv 16, 14b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 23, 1-12

"Họ nói mà không làm".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta: còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "Thầy". Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là "Thầy", vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là "cha", vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là "người chỉ đạo": vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".

Ðó là lời Chúa.

 

Mt 23,1-12 - Catholic For Life

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

"thày", "cha" và "xếp- không hưởng thụ nhưng phục vụ

 

 

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XX Thường Niên hôm nay cách bài Phúc Âm hôm qua 5 câu, 41-46, những câu cuối của Đoạn 22, những câu Phúc Âm về vấn đề Chúa Giêsu đặt ra cho thành phần biệt phái khiến "không ai dám hỏi Người một điều gì nữa từ đó trở đi" (Mathêu 22:46), đó là vấn đề nếu Đấng Kitô Thiên Sai là con của Vua Đavít thì tại sao chính vua lại gọi Người là Chúa

Phải, Giáo Hội đã không chọn đọc bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu về vấn đề ấy, vì vấn đề này đã được Giáo Hội chọn đọc cho ngày Thứ Sáu Tuần IX Thường Niên theo Phúc Âm của Thánh ký Marcô rồi. Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc hôm nay liên quan đến thành phần luật sĩ và biệt phái, thành phần bị Người thậm tệ quở trách và vạch trần bộ mặt giả hình của họ, như chúng ta đã thấy 1 chút trong bài Phúc Âm của Thánh ký Marcô ở Thứ Bảy Tuần IX Thường Niên, và sẽ thấy tt cả ở trong các bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho 3 ngày đầu của tuần tới, tuần cuối cùng theo Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Phụng Vụ Lời Chúa ngày thường trong tuần từ Tuần X Thường Niên.

 

Đúng thế, ngay từ bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã nghiêm thẳng vạch trần chân tướng của hai thành phần luật sĩ và biệt phái đầy kiêu hãnh và ham danh trong dân này:

 

"Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là 'rabbi'".

 

Tuy hai thành phần luật sĩ và biệt phái vốn được coi là thày dạy trong dân này có những cử chỉ và hành động đầy gương mù gương xấu phản tác dụng bất khả chấp như vậy, nhưng "Đức Giêsu (vẫn) nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: 'Các kinh sư và các người Pharisiêu ngồi trên toà ông Moisen mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm'". 

 

Thế nhưng, trên thực tế rất khó thực hành theo bản tính tự nhiên của loài người. Chúng ta hay có khuynh hướng đồng hóa tội nhân với tội lỗi hay với gương mù gương xấu của họ. Ở chỗ, chúng ta chẳng những tỏ ra ghê tởm việc làm xấu xa hay tội lỗi của họ mà còn ghê tởm và khinh bỉ chính con người của họ nữa. Có những lúc hay nhiều lúc chúng ta thường tấn công họ bằng những lời nói nhục mạ họ, (thậm chí công khai qua phương tiện truyền thông: báo chí, email, internet, truyền thanh, truyền hình, thơ nặc danh, hay ngay cả trên tòa giảng v.v.), hơn là tế nhị và nhẹ nhàng khôn khéo sửa lỗi cho họ để họ dễ cảm nhận bản thân hèn yếu lỗi lầm của mình mà hoán cải trở về cùng Chúa theo tinh thần và đường lối được Chúa Giêsu huấn dạy trong bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước. 

 

Chúng ta thường đối xử với anh chị em lầm lỗi của chúng ta như thể chúng ta là con người toàn hảo, không bao giờ sai lỗi, động một tí là ném đá nhau, thậm chí như thể là quan án của họ, có quyền tối thượng trong việc thưởng pht nhau, trong khi chúng ta chưa thấu suốt được thâm tâm của nhau như Thiên Chúa là Đấng duy nhất có quyền phán quyết mọi người. Quả thực Chúa Giêsu nói về chúng ta quá đúng khi Người vừa khiển trách vừa nghiêm trọng cảnh giác chúng ta rằng: "Đồ giả hình! trước hết ngươi hãy lấy khỏi mắt của mình cái xà đi đã rồi ngươi mới thấy được một cách rõ ràng mà lấy đi cái rằm trong con mắt của anh chị em của ngươi" (Mathêu 7:5). 

 

Tuy nhiên, không phải đối xử một cách cảm thông với những người anh chị em lỗi lầm của mình đến độ không còn biết phân biệt đâu là phải là trái nữa. Ở chỗ, thương tội nhân nhưng không chấp nhận tội lỗi của họ. Bởi thế, cho dù ở ngay đầu bài Phúc Âm Chúa Giêsu khuyên hãy tôn trọng quyền giáo huấn của thành phần luật sĩ và biệt phái, cuối bài Phúc Âm Người vẫn khuyên dạy dân chúng và các môn đệ của Người "đừng có làm theo những việc của họ", mà hãy sống ngược lại như sau:


"Phần anh em, đừng để ai gọi mình là 'rabbi', vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên".


Trong huấn dụ của Chúa Kitô trên đây, về hình thức thì nên tránh ba danh xưng "thày", "cha" và "xếp
đối với bản thân mình, ở chỗ, về tinh thần, cho dù mình có thực sự đóng vai là "sư phụ", là "thân phụ", là "lãnh tụ" chăng nữa, mình cũng phải dấn thân phục vụ hơn là hưởng thụ, hãy lợi dụng chức vụ là "thày", là "cha", là "xếp" của mình để mang lại lợi ích cho thành phần được trao phó cho mình, theo đúng dự định thần linh của Đấng đã tuyển chọn mình, theo gương của chính Đấng Kitô Thiên Sai, Đấng đã "đến không phải để được hầu hạ mà là hầu hạ và hiến mạng sống mình cho nhiều người" (Mathêu 20:28). 

Nếu để ý kỹ thứ tự về ba chức vụ được Chúa Giêsu nêu lên trong bài Phúc Âm hôm nay: 1. sự phụ - thày, 2. thân phụ - cha và 3. lãnh tụ - xếp, chúng ta mới thấy được rằng Chúa Giêsu ám chỉ huấn dụ của Người cho thành phần môn đệ tông đồ của Người hơn là dân chúng. Bởi vì chỉ có các tông đồ mới bao gồm cả 3 nhiệm vụ hay vai trò này, những nhiệm vụ và vai trò được thừa kế bởi hàng giáo phẩm sau các vị, bao gồm cả giáo hoàng lẫn các vị giám mục. Ba nhiệm vụ và vai trò của các tông đồ cũng như của hàng giáo phẩm thừa kế các ngài là gì, nếu không phái là 1- giảng dạy (với tư cách là thày), 2- thánh hóa (với tư cách là cha - điển hình nhất là ban Bí Tích rửa tội tái sinh và Bí Tích Thánh Thể dưỡng nuôi và Bí Tích Hòa Giải tha thứ hồi sinh v.v.), và quản trị (với tư cách là xếp, là mục tử v.v.)

Tóm lại, nội dung của bài Phúc Âm hôm nay chính yếu về thành phần luật sĩ và biệt phái nhưng đối tượng mà Chúa Giêsu nhắm tới để giáo huấn lại là thành phần dân chúng và môn đệ. Sở dĩ bao gồm cả hai thành phần này cần phải nghe những gì Người nói về thành phần có thẩm quyền giảng dạy trong dân là vì hai loại người này dễ bị ảnh hưởng bởi gương mù gương xấu của họ, nhất là khi họ lại đóng vai trò làm thày dạy nữa. Gương mù gương xấu dễ gây ảnh hưởng nên cả dân chúng lẫn các môn đệ của Người cần phải tránh vì những gương mù gương xấu của họ rất hợp với bản tính tự nhiên và khuynh hướng phô trương tự cao tự đại của con người.

Tuy nhiên, không phải vì thế mà Chúa Kitô phủ nhận danh xưng hay vai trò thực sự của những người làm thày (sư phụ - người có quyền về tinh thần của con người), của những người làm cha (thân phụ - người có quyền theo huyết nhục tự nhiên), và của những người làm đầu (lãnh tụ - người có quyền lãnh đạo về hành chính). Chúa chỉ có ý dạy dân chúng và các môn đệ của Người rằng dù họ có thực sự làm cha mẹ trong gia đình theo huyết nhục, có là giám mục hay linh mục trong Giáo Hội, có tài năng thế giá và chức quyền về bất cứ phương diện nào (nhất là về chính trị) trong xã hội đi nữa v.v. họ hãy phục vụ hơn là hưởng thụ, đó mới đúng ý nghĩa kẻ làm đầu là làm đầy tớ như Người làm gương (xem Mathêu 20:26-28).

Bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến vấn đề Chúa Kitô giáo huấn môn đệ của Người, được chọn là để phục vụ chứ không phải để hưởng thụ, như chính Người đã làm gương cho họ. Có phục vụ mới cho thấy việc của Chúa chứ không phải việc của mình muốn làm gì thì làm. Thiên Chúa chỉ có thể ngự trị và tỏ mình ra nơi những con người được sai đi làm theo ý của Ngài thôi, như Chúa Kitô Thiên sai của Ngài. Lời Thiên Chúa phán qua miệng Tiên Tri Êzêkiên trong Bài Đọc 1 hôm nay, về thành phần tôi tớ chỉ biết làm theo ý muốn cũng là ý hướng của Ngài, như họ hướng về phía đông, hướng Thiên Chúa tỏ mình ra như trong Bài Đọc 1 hôm nay:

"Thiên Thần dẫn tôi đến cửa phía đông. Và đây vinh quang Thiên Chúa Israel từ con đường phía đông tiến vào... Uy nghi Chúa tiến vào đền thờ theo lối của hướng đông. Thần Trí đỡ tôi lên, và dẫn tôi vào hành lang phía trong. Ðây ánh vinh quang của Chúa tràn ngập đền thờ. Tôi đã nghe có người nói với tôi từ trong đền thờ và người đứng gần bên tôi, bảo tôi rằng: 'Hỡi con người, đây là nơi đặt bệ ngai Ta, nơi Ta để chân, nơi Ta ngự giữa con cái Israel đến muôn đời'".

 

Đúng thế, "Vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi", đúng như Câu Họa của Bài Đáp Ca hôm nay, một khi chúng ta có được những nhận thức như thánh vịnh gia trong bài Thánh Vịnh 84 ở Bài Đáp Ca hôm nay như sau:

 

1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi.

2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống.

3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài.