SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014
Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: St 2, 18-24
"Cả hai nên một thân thể".
Trích sách Sáng Thế.
Chúa là Thiên Chúa phán: "Ðàn ông ở một mình không tốt. Ta hãy tạo dựng cho nó một nội trợ giống như nó". Sau khi lấy bùn đất dựng nên mọi thú vật dưới đất và toàn thể chim chóc trên trời, Thiên Chúa dẫn đến trước mặt Ađam để coi ông gọi chúng thế nào, và sinh vật nào Ađam gọi, thì chính đó là tên nó. Ađam liền đặt tên cho mọi súc vật, chim trời và muông thú. Nhưng Ađam không gặp một người nội trợ giống như mình.
Vậy Thiên Chúa khiến cho Ađam ngủ say, và khi ông đang ngủ, Người lấy một xương sườn của ông, và đắp thịt lại. Thiên Chúa làm cho chiếc xương sườn đã lấy từ Ađam trở thành người đàn bà, rồi dẫn đến Ađam. Ađam liền nói: "Bây giờ đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi người nam mà ra". Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 127, 1-2. 3. 4-5. 6
Ðáp: Nguyện Chúa chúc phúc cho chúng con hết mọi ngày trong đời sống chúng con! (x. c. 5).
Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn được an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Ðáp.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn như chồi non của khóm ô-liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. - Ðáp.
3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết kính sợ Chúa. Nguyện Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn. - Ðáp.
4) Và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con. Nguyện xin bình an đến trên đất Israel. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 2, 9-11
"Ðấng thánh hoá và những người được thánh hoá, tất cả đều do một nguồn gốc".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, Ðấng trong một thời gian bị hạ xuống kém các Thiên Thần, là Ðức Giêsu, chúng ta thấy Người được triều thiên vinh quang và danh dự vì cuộc tử nạn của Người, để nhờ ơn Thiên Chúa, Người chịu chết thay cho mọi người. Quả vậy, thật là thích hợp việc Chúa là nguyên nhân và cùng đích mọi vật, đã dẫn đưa nhiều con cái đến vinh quang và đã lấy cuộc khổ nạn mà làm cho Ðấng đem lại ơn cứu rỗi được hoàn hảo. Vì chưng, Ðấng thánh hoá và những người được thánh hoá, tất cả đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người không hổ thẹn gọi họ là anh em.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 17, 17
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 10, 2-12
"Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, những người biệt phái đến gần và hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?" Người đáp: "Môsê đã truyền cho các ông thế nào?" Họ thưa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị". Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: "Chính vì sự cứng lòng của các ông, mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Như thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".
Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: "Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng và lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình".
{Bấy giờ người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó". Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.}
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Chủ đề "sự sống" của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh vẫn được tiếp tục phản ảnh qua Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XXVII tuần này, một "sự sống" được thể hiện qua tình trạng hiệp nhất nên một nơi đời sống vợ chồng.
Bài Phúc Âm của Thánh ký Marcô hôm nay chất chứa câu trả lời dứt khoát của Chúa Giêsu về bản chất bất khả phân ly của đời sống hôn nhân gia đình, của ơn gọi vợ chồng, một khẳng định cho vấn đề được "những người biệt phái đến gần và hỏi thử Chúa Giêsu rằng: 'Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?'".
Vì là vấn đề được đặt ra để "hỏi thử Chúa Giêsu" mà "những người biệt phái" giữ luật (dù theo hình thức) đã có thể thấy được cái hóc búa của vấn đề nơi chính bản thân của họ nên mang ra như vừa để thử thách Chúa vừa để gỡ rối cho chính họ là thành phần vốn thông luật. Ở chỗ, nếu Chúa Giêsu trả lời là "được phép ly dị" thì họ bảo Người chủ trương ngược lại với dự án thần linh của Thiên Chúa ngay từ ban đầu về hôn nhân, nếu Người nói "không được phép ly dị" thì Người bị cho là chống lại luật của Moisen.
Bởi thế, theo sự khôn ngoan của mình và để thuyết phục thành phần đối phương nham hiểm, Chúa Giêsu đã hỏi ngược lại họ như sau: "'Môsê đã truyền cho các ông thế nào?' Họ thưa: 'Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị'". Căn cứ vào câu trả lời này của họ, Chúa Giêsu đã vạch ra cho họ thấy lý do tại sao Moisen lại cho phép ly dị là một thứ phép ngay từ ban đầu chẳng hề có:
"Chính vì sự cứng lòng của các ông, mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Như thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".
Lời Chúa Giêsu khẳng định không có vấn đề ly dị ngay từ ban đầu nơi dự án thần linh của Thiên Chúa đối với đời sống hôn nhân đã được Bài Đọc 1 xác nhận ở đoạn 2 của Sách Khởi Nguyên, trong đó bao gồm cả lý do tại sao có nam có nữ và nguồn gốc của người nữ cùng ơn gọi hôn nhân:
Trước hết, vì con người được dựng nên không phải chỉ là hình ảnh thần linh của Thiên Chúa ở chỗ duy nhất trên trần gian này, như Ngài là Thiên Chúa duy nhất vậy, mà còn tương tự như Ngài ở chỗ hiệp thông nữa. Bởi thế, con người duy nhất cũng là con người đầu tiên này vẫn chưa trọn vẹn: "ở một mình không tốt", cho dù chung quanh con người có hết mọi sự thuộc về con người mà vẫn không xứng hợp với con người nên không thể hiệp thông với con người:
"Chúa là Thiên Chúa phán: 'Con người ở một mình không tốt. Ta hãy tạo dựng cho nó một nội trợ giống như nó'. Sau khi lấy bùn đất dựng nên mọi thú vật dưới đất và toàn thể chim chóc trên trời, Thiên Chúa dẫn đến trước mặt con người để coi con người gọi chúng thế nào, và sinh vật nào con người gọi, thì chính đó là tên nó. Con người liền đặt tên cho mọi súc vật, chim trời và muông thú. Nhưng con người không gặp một người nội trợ giống như mình.
Cho đến khi con người nhận thấy được chính bản thân của mình là những gì xuất phát từ bản thân họ chứ không phải từ bất cứ sự gì bên ngoài:
"Vậy Thiên Chúa khiến cho con người ngủ say, và khi con người đang ngủ, Người lấy một xương sườn của con người, và đắp thịt lại. Thiên Chúa làm cho chiếc xương sườn đã lấy từ con người trở thành người đàn bà, rồi dẫn đến con người. Con người liền nói: 'Đây mới là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi con người mà ra'. Vì thế, người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể".
Cảm nghiệm bản thân mình này nơi con người cũng rất đúng với tâm lý tự nhiên. Ở chỗ, khi con người đang ở vào tuổi dậy thì, thời điểm con người đang muốn biết mình là ai, như thể thiếp đi trong một giấc ngủ say, thì đồng thời lại là thời điểm con người bắt đầu biết yêu thương, cho đến khi họ gặp được đối tượng yêu thương thì gắn bó với đối tượng ấy, như thể chính bản thân của con người, như thể tìm thấy được chính bản thân mình nơi đối tượng yêu, đến độ họ không thể sống mà không có đối tượng yêu là bản thân của họ ấy: "Vì thế, người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể".
Vấn đề được đặt ra là: thứ nhất, "người nam" ở đây ngay từ ban đầu đâu có cha mẹ mà bỏ, và thứ hai, làm sao "cả hai nên một thân thể" được, cho dù là giao hợp vợ chồng với nhau?
Thật ra, về vấn đề "cả hai nên một thân thể" thì theo tâm sinh lý tự nhiên, người chồng bao giờ cũng yêu thương vợ như là chính thân thể của mình (xem Epheso 5:28), bởi thế khi chồng yêu thương vợ qua tác động giao hợp với vợ chính là tác động nên một thân thể vậy.
Tuy nhiên, ở đây, đoạn Thánh Kinh trong Sách Khởi Nguyên này còn ám chỉ Giáo Hội là Nhiệm Thể Chúa Kitô, một thân thể duy nhất có Chúa Kitô là Đầu, một Chúa Kitô là chính "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), đã bỏ Cha trên trời mà xuống ở với loài người để có thể nhờ đó hiệp nhất nên một với loài người như là một ngôi vị duy nhất có hai bản tính, một Giáo Hội xuất thân từ cạnh sườn của Chúa Kitô như đã được tiên báo nơi hình ảnh người nữ xuất thân từ xương sườn của con người đầu tiên vậy.
Đúng thế, nếu hôn nhân là một mầu nhiệm cao cả liên quan đến Chúa Kitô và Giáo Hội (xem Epheso 5:32), bằng không, hôn nhân sẽ mất hết ý nghĩa, thì như cảm nhận của vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô trong Bài Đọc 2 hôm nay, việc hạ giáng của Chúa Kitô nơi mầu nhiệm nhập thể là để làm cho con người có thể nhờ đó được hiệp thông thần linh với Người và trở nên ruột thịt với Người:
"Anh em thân mến, Ðấng trong một thời gian bị hạ xuống kém các Thiên Thần, là Ðức Giêsu, chúng ta thấy Người được triều thiên vinh quang và danh dự vì cuộc tử nạn của Người, để nhờ ơn Thiên Chúa, Người chịu chết thay cho mọi người. Quả vậy, thật là thích hợp việc Chúa là nguyên nhân và cùng đích mọi vật, đã dẫn đưa nhiều con cái đến vinh quang và đã lấy cuộc khổ nạn mà làm cho Ðấng đem lại ơn cứu rỗi được hoàn hảo. Vì chưng, Ðấng thánh hoá và những người được thánh hoá, tất cả đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người không hổ thẹn gọi họ là anh em".
Bài Đáp Ca hôm nay bề ngoài như thể nói về đời sống và hạnh phúc hôn nhân gia đình, nhưng thật ra nói về con người tôn sợ Chúa, sống theo đường lối Chúa thì sinh hoa kết trái phong phú. Nghĩa là nói đến con người ta ở vị thế của một con người, với tư cách làm vợ, cần phải nhận biết tình yêu thương sủng ái của Thiên Chúa Hóa Công và Cứu Chuộc của mình để có thể đáp ứng xứng với tình yêu thương vô cùng nhân hậu của Ngài, nhờ đó có thể sinh hoa kết trái cho Ngài.
1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn được an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn như chồi non của khóm ô-liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn.
3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết kính sợ Chúa. Nguyện Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn.
4) Và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con. Nguyện xin bình an đến trên đất Israel.
Thứ Hai
Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 1, 6-12
"Tin Mừng do tôi rao giảng không phải thuộc về loài người, nhưng là do Ðức Giêsu Kitô mạc khải".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, tôi ngạc nhiên thấy anh em thay lòng đổi dạ chóng như thế đối với Ðấng đã kêu gọi anh em thông phần vào ân sủng của Ðức Kitô, để anh em quay sang một tin mừng khác: Tin mừng khác làm gì có, chỉ có những kẻ phá rối anh em và muốn anh em đảo lộn Tin Mừng của Ðức Kitô. Nhưng cho dù chúng tôi, hay một thiên thần nào từ trời đến giảng tin mừng khác với Tin Mừng chúng tôi đã rao giảng cho anh em, thì người đó bị chúc dữ. Như chúng tôi đã nói trước, và giờ đây tôi xin nói lại rằng: Nếu ai trong anh em rao giảng cho anh em Tin Mừng khác hơn điều anh em đã lãnh nhận, thì người đó bị chúc dữ.
Giờ đây, tôi phải làm vừa lòng người ta hay là Thiên Chúa? Nào có phải tôi tìm cách làm vừa lòng người ta sao? Nếu tôi còn làm vừa lòng thiên hạ, thì tôi không phải là đầy tớ của Ðức Kitô.
Anh em thân mến, tôi cho anh em biết rằng Tin Mừng do tôi rao giảng không phải thuộc về loài người, vì tôi không nhận cũng không học với loài người, nhưng là do Ðức Giêsu Kitô mạc khải.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 110, 1-2. 7-8. 9 và 10c
Ðáp: Cho tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 5b).
Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi. - Ðáp.
2) Công cuộc tay Chúa làm ra đều chân thật và công chính, mọi giới răn của Người đều đáng cậy tin. Những giới răn đó được lập ra cho đến muôn ngàn đời, được ban hành một cách chân thành và đoan chính. - Ðáp.
3) Chúa đã gửi tặng ơn giải phóng cho dân Người, để thiết lập lời minh ước tới muôn đời. Danh Người thực là thánh thiện và khả úy. Lời khen ngợi Chúa còn tồn tại tới muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9; Ga 6, 69
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 10, 25-37
"Ai là anh em của tôi?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có một người thông luật đúng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?" Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?" Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?"
Chúa Giêsu nói tiếp: "Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: "Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông".
"Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy".
Ðó là lời Chúa.
"Ai là anh em của tôi"? - Một thứ bác ái pro-choice!
Phụng Vụ Lời Chúa cho Thứ Hai Tuần XXVII Thường Niên hôm nay liên quan đến sự sống đời đời là những gì bất khả phân ly với tính chất đại đồng của tình yêu thương nhau.
Thật vậy, vấn đề được đặt ra trong bài Phúc Âm hôm nay từ "một người thông luật đứng dạy hỏi Chúa Giêsu rằng: 'Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?'", đã được Người trực tiếp khẳng định "Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống", ở chỗ, đúng như câu trả lời của chính nhân vật ấy: "Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình".
Nghĩa là muốn được sống đời đời thì phải mến Chúa hết mình và yêu người như chính bản thân mình. "Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: 'Nhưng ai là anh em của tôi?'". Tại sao "người đó muốn bào chữa mình" bằng câu hỏi tiếp theo "ai là anh em của tôi?" Phải chăng vì nhân vật này khó có thể yêu thương bất cứ ai, cùng lắm chỉ yêu thương những ai là ruột thịt của mình, những ai mình thích và những ai thích mình, về phe mình, tức là còn đầy khuynh hướng kỳ thị, còn đầy những thành kiến trong đầu, còn đầy ác cảm với tha nhân v.v.?
Có thể là thế. Bởi vậy, Chúa Giêsu đã phải sử dụng một dụ ngôn để cho nhân vật ấy biết "ai là anh em của tôi?", nhờ đó mà noi gương bắt chước: "đi và làm như vậy", sau khi nhân vật này đã nhận xét rất đúng theo câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra để kết thúc dụ ngôn của Người: "'Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?' Người thông luật trả lời: 'Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy'".
Vậy "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy" là ai và "người ấy" là người nào? Nếu không phải "người ấy" là "Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết".
Và "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy" là ai - theo nhân vật thông luật trả lời thì không phải là "một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua", mà là "một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: 'Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông'".
Vấn nạn của nhân vật thông luật "ai là anh em của tôi", theo dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, không được Chúa Giêsu trả lời đó chính là nạn nhân bị rơi vào tay bọn cướp, mà vấn đề hoàn toàn ngược hẳn lại "ai là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp".
Có nghĩa là, theo kinh nghiệm sống đạo và giao tiếp, bao lâu chúng ta còn đặt vấn đề "ai là anh em của tôi?" là chúng ta còn khuynh hướng pro-choice yêu thương chủ quan tự nhiên như những người "dân ngoại" và "thu thuế" (xem Mathêu 5:46-47) hay "tội lỗi" (Luca 6:33 & 34), nghĩa là yêu thương kiểu kỳ thị, còn kẻ thù, thậm chí là chính những người ruột thịt của chúng ta, bởi chúng ta còn muốn chọn lựa anh em theo ý nghĩ, ý thích và ý muốn tự nhiên thiên lệch đầy vị kỷ của mình, và vì thế chúng ta vẫn còn gặp rất nhiều kẻ thù, rất nhiều đối phương, bất kể người ấy là ai, là thân nhân, ân nhân, thân hữu của mình một thời v.v.
Ngược lại, nếu chúng ta coi mình là anh em của mọi người thì sẽ chẳng bao giờ còn kẻ thù, còn đối phương, còn tranh giành, còn ghen ghét, còn đố kỵ v.v. Chúng ta sẽ như Chúa Kitô đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ (xem Mathêu 20:28), sống hòa đồng với mọi người, tiến đến với mọi người, bất kỳ ai, nhất là những con người thấp hèn bé mọn bần cùng khốn khổ trong xã hội, hơn là chờ mọi người đến với mình, hơn là quen thân gắn bó với thành phần giầu sang quyền quí thế lực v.v.
Đó là Phúc Âm của Chúa Kitô, là mạc khải thần linh, là những gì Thiên Chúa muốn chúng ta làm để được rỗi, được nên con cái "Cha trên trời là Đấng Trọn Lành" (Mathêu 5:48) đồng thời cũng là "Đấng xót thương" (Luca 6:36). Đó là lý do, trong Bài Đọc 1 hôm nay, vị tông đồ dân ngoại Phaolô đã căn dặn rất kỹ lưỡng giáo đoàn Galata rằng tất cả những gì ngài đã rao giảng cho họ đều chân thật, từ chính Chúa Kitô:
"Tin Mừng do tôi rao giảng không phải thuộc về loài người, vì tôi không nhận cũng không học với loài người, nhưng là do Ðức Giêsu Kitô mạc khải", họ cần phải nắm vững, bằng không, sẽ bị sai lạc theo "những kẻ phá rối anh em và muốn anh em đảo lộn Tin Mừng của Ðức Kitô", những con người sống theo thế gian và tự nhiên, muốn yêu thương kiểu pro-choice như nhân vật đặt vấn đề "ai là anh em tôi?" trong Bài Phúc Âm hôm nay. Vị tông đồ dân ngoại này còn nghiêm trọng cảnh giác họ rằng:
"Cho dù chúng tôi, hay một thiên thần nào từ trời đến giảng tin mừng khác với Tin Mừng chúng tôi đã rao giảng cho anh em, thì người đó bị chúc dữ. Như chúng tôi đã nói trước, và giờ đây tôi xin nói lại rằng: Nếu ai trong anh em rao giảng cho anh em Tin Mừng khác hơn điều anh em đã lãnh nhận, thì người đó bị chúc dữ".
Bởi đó Bài Đáp Ca hôm nay mới có câu mà thành phần Kitô hữu môn đệ trung thực của Chúa Kitô cần phải lưu tâm và thâm tín về tất cả mạc khải thần linh, về những giáo huấn vô cùng chân thật và trọn hảo để con người có thể được muôn đời hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, như thế này: "Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi".
Ngày 07 tháng 10
Đức Mẹ Mân Côi
lễ nhớ bắt buộc
Phải suy gẫm các mầu nhiệm Cứu Độ
Trích bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ.
Vì Đấng Thánh từ lòng bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Ôi nguồn mạch của sự khôn ngoan ! Ôi Ngôi Lời của Chúa Cha trên chốn cửu trùng ! Lạy Trinh Nữ thánh thiện, nhờ Mẹ làm trung gian, Ngôi Lời nay sẽ thành xác phàm, để Đấng nói : Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy, cũng nói : Thầy bởi Thiên Chúa mà ra và Thầy đã đến. Kinh Thánh viết : Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Suối đã vọt ra rồi nhưng mới chỉ ở nơi mình thôi. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa ngự trong ánh sáng siêu phàm.
Từ đầu, Chúa đã nói : Ta chỉ nghĩ đến chuyện mang lại bình an, chứ không nghĩ đến chuyện gây ra phiền muộn. Nhưng tư tưởng của Chúa thì ở trong Chúa, và Chúa nghĩ gì, chúng con đâu có biết. Quả thật, nào ai biết được tâm tư của Chúa hay ai làm cố vấn cho Người ?
Vì thế, Đấng nghĩ đến bình an đã xuống thế để thực hiện bình an : Ngôi Lời đã thành xác phàm và ở giữa chúng ta rồi. Nhờ đức tin, Người hoàn toàn ở trong tâm hồn chúng ta, Người ở trong trí nhớ của chúng ta, Người ở trong tư tưởng và thậm chí Người còn đi vào tận trí tưởng tượng của chúng ta nữa. Trước kia, con người có thể nghĩ gì về Thiên Chúa, có chăng là một hình ảnh do lòng con người tạo ra ? Khi đó, Thiên Chúa là Đấng không thể hiểu được, không thể tới gần được, không thể nhìn thấy hay suy tưởng được ; nhưng bây giờ Người đã muốn cho người ta hiểu, muốn cho người ta thấy, muốn cho người ta suy tưởng.
Bạn hỏi : Bằng cách nào vậy ? Thưa qua việc Người nằm trong máng cỏ, ngủ yên trong lòng Đức Trinh Nữ, rao giảng trên núi, thức thâu đêm cầu nguyện ; qua việc Người bị treo và chết rũ trên thập giá, thoát khỏi tử thần và nắm quyền trong âm phủ ; qua việc ngày thứ ba Người sống lại, tỏ cho các Tông Đồ thấy các dấu đinh là biểu hiệu chiến thắng, và cuối cùng lên trời cao thẳm trước mắt các ông.
Trong các mầu nhiệm nói trên, có mầu nhiệm nào lại không gợi cho chúng ta những ý tưởng chân thật, đạo đức và thánh thiện chăng ? Khi tôi suy tưởng bất cứ mầu nhiệm nào trên đây là tôi suy tưởng về Thiên Chúa và qua tất cả những mầu nhiệm đó, chính Người là Thiên Chúa của tôi. Suy gẫm những mầu nhiệm ấy, tôi cho là khôn ngoan. Nhớ lại những mầu nhiệm ấy, tôi cho là sáng suốt. Những mầu nhiệm ấy ngọt như những trái hạnh đào trổ sinh từ cây gậy của tư tế A-ha-ron. Sự ngọt ngào đó, Đức Ma-ri-a đã kín múc từ trời cao và đổ xuống tràn trề trên chúng ta.
Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời thiên sứ truyền tin mà cho chúng con biết thật Đức Ki-tô, Con Chúa, đã xuống thế làm người. Xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con, để nhờ công ơn Con Chúa chịu khổ hình thập giá, và nhờ lời Thánh Mẫu Ma-ri-a chuyển cầu, Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh. Chúng con cầu xin
Trong cuốn Thánh Mẫu Học do Brice xuất bản năm 1961, tập thứ 3, có một đoạn trình bày về Đức Bà Mân Côi của cha Juniper B. Carol, OFM, một vị linh mục quá cố đã từng nổi tiếng trên thế giới về Thánh Mẫu Học và là vị sáng lập Hội Thánh Mẫu Học Hoa Kỳ. Sau đây là đoạn về Đức Bà Mân Côi liên quan đến nguồn gốc việc thành hình Lễ Đức Mẹ Mân Côi được vị linh mục thánh mẫu này nghiên cứu biên soạn.
Những diễn tiền về lịch sử đáng ghi nhớ của ngày mùng 7 tháng 10 năm
1571, Ngày Chúa Nhật đầu tháng này, đã là những gì đưa đến việc xuất
hiện lễ Đức Bà Mân Côi. Thế giới Tây phương đã phải đối diện với
cuộc thảm họa và tàn phá toàn diện gây ra bởi những người Thổ Nhĩ Kỳ
có một hạm đội dũng mãnh đã làm chủ hầu hết Địa Trung Hải và thực sự
đang đe dọa Ý quốc. Thánh Giáo Hoàng Piô V và các vị lãnh đạo Kitô
giáo khác, vì tin rằng chỉ có ơn trợ giúp siêu nhiên bấy giờ mới có
thể chặn đứng cuộc xâm chiếm sắp sửa xẩy ra, đã hướng mắt về trời
nài van Người Mẹ thiên đình chuyển cầu cho họ. Vị Thánh Giáo Hoàng
cũng xin các Hiệp Hội Mân Côi hãy gia tăng việc họ tôn sùng này vào
ngày 7/10 và cử hành việc tôn sùng này một cách trọng thể hơn.
Thật thế, chính vào ngày này, lực lượng hải quân của liên minh Kitô giáo đụng độ hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ vững chắc của Thổ Nhĩ Kỳ ở Vịnh Lêpantô. Truyện kể rằng trong khi trận chiến hết sức quan trọng này đang gay go thì Đức Piô V, được linh cảm thiên đình, đã kêu lên “Chiến thắng! Chiến thắng!” Thật thế, hạm đội của bên địch đã hoàn toàn thảm bại làm tan rã lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ. Vị Giáo Hoàng này không được đặc ân cử hành cuộc mừng kỷ niệm ân huệ lớn lao này của Thiên Chúa. Ngày cùng tháng tận của ngài đã đến, nhưng không xẩy ra trước khi ngài tuyên bố hiệu thành vào ngày 17/3/1572 về việc công khai tạ ơn Mẹ Maria và sâu xa tri ân Mẹ về việc Mẹ bảo vệ chở che, một cuộc tưởng niệm đặc biệt được giành cho Mẹ vào ngày 7/10 dưới tước hiệu Đức Bà Thắng Trận.
Đức Grêgôriô XIII, vị thừa nhiệm của ngài, đã thay đổi tước hiệu này thành Đức Bà Mân Côi, và vào ngày 1/4/1573, đã ban sắc chỉ truyền cử hành một thánh lễ mới vào ngày Chúa Nhật đầu Tháng Mười, ban phép cử hành ở những nhà thờ có bàn thờ mang tước hiệu ấy. Một trăm năm sau, theo lời yêu cầu của Nữ Hoàng Tây Ban Nha là Mary Anne, lễ này được lan rộng khắp Tây Ban Nha, và sau đó ít lâu, đến nhiều giáo phận ở Ý và các quốc gia khác. Vào ngày 3/10/1716, như một cách công nhận cuộc chiến thắng của Hoàng Tử Eugene của Savoy đối với quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Hung Gia Lợi vào ngày 5/8 dưới sự bảo hộ của Đức Mẹ Xuống Tuyết, Đức Clêmentê XI đã ban hành một văn kiện, một văn kiện được soạn thảo bởi vị tiền nhiệm của ngài là Đức Innocentê XI, nới rộng lễ Đức Mẹ Mân Côi ra khắp Giáo Hội hoàn vũ. Đức Lêô XIII đã nâng lễ này lên bậc lễ cao hơn. Sau cùng Đức Piô X, trong tự sắc Motu Proprio ngày 23/10/1913, đã chỉ định lễ này vào ngày 7/10 hằng năm (Cf. E. Campana, Maria nel culto cattolico, Torino, 1933, Vol. I, pp. 407-413).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
Công Hiệu của Kinh Mân Côi trong Lịch Sử
(Đức Lêô XIII: Thông Điệp Supremi Apostolatus ban
hành ngày 1/9/1883;
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, chuyển dịch)
Tông Tòa Tối Cao
mà Ta đang phải gánh vác, cùng với tình trạng khó khăn càng ngày càng
tăng thêm vào những thời buổi này, lưu ý và thôi thúc Ta hằng ngày phải
cẩn trọng canh phòng sự an toàn cũng như an sinh của Giáo Hội, để rồi,
càng quan tâm mới càng thấy các tai ương Giáo Hội phải chịu càng nhiều.
Bởi thế, trong khi nỗ lực bằng mọi cách để bảo trì các quyền lợi của
Giáo Hội, cũng như để vô hiệu hóa hoặc đẩy lui những nguy hại hiện nay
đang lan tràn, Ta không ngừng tìm cầu sự trợ giúp bởi trời - một phương
cách duy nhất có đủ mọi tác dụng - ngỏ hầu những công khó và việc coi
sóc của Ta đạt được như lòng mong ước.
Để được như vậy, Ta cho rằng không thể có một phương cách nào vững chắc
hơn và hiệu nghiệm hơn là, nhờ việc tôn sùng và thảo hiếu, chiếm được
lòng của Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Đấng Canh Giữ bình an của chúng
ta và là Vị Thừa Tác ban phát ơn trời cho chúng ta, Đấng được ban cho
tối thượng quyền và hiển vinh ở trên trời, để Người có thể ban ơn trợ
giúp xuống cho con người, thành phần đang trải qua bao khó nhọc và hiểm
nguy trên con đường tiến về kinh đô vĩnh cửu.
Giờ đây, đã gần đến dịp tưởng nhớ đến biết bao hồng ân cao cả khôn lường
mà Kitô hữu nhận được nhờ lòng sùng kính kinh Mân Côi, Ta ước mong cho
lòng sùng kính này được toàn thể Giáo Hội hoàn vũ thực thi bằng cả nhiệt
tình thắm thiết nhất đối với Đức Trinh Nữ, để, nhờ sự cầu bầu của Người,
Người Con Thần Linh của Người nguôi giận và thương đến chúng ta đang ở
trong cơn khốn khổ đọa đầy. Bởi đó, qúi huynh thân kính, Ta quyết định
phổ biến đến qúi huynh bức thư này, theo như lòng mong ước của Ta, là
qúi huynh hãy dùng quyền bính và lòng nhiệt thành của mình mà khơi lên
tấm lòng sùng mộ nơi thành phần dân Chúa của qúi huynh, trong việc thực
hiện những ước vọng của chúng ta.
Người Công Giáo vốn có thói quen là luôn luôn chạy đến náu ẩn nơi Mẹ
Maria trong những lúc gian nguy khốn khó, để tìm bình an nơi lòng từ mẫu
nhân ái của Người, một thói quen chứng tỏ Giáo Hội Công Giáo luôn luôn
đặt tất cả tin tưởng và hy vọng một cách chính đáng của mình nơi Mẹ
Thiên Chúa. Người là Đấng đã liên kết với Chúa trong công cuộc cứu rỗi
loài người, được đặc quyền và năng quyền hơn mọi phàm nhân và thần trời
từng được hay có thể được. Và, vì nguyện vọng tha thiết nhất của Mẹ là
ban ơn trợ giúp và ủi an cho những ai tìm kiếm Mẹ, thì còn hồ nghi gì
nữa khi bảo rằng, Mẹ hân hoan, nếu không muốn nói là nao nức, nhận lấy
những khát vọng của Giáo Hội hoàn vũ.
Việc tôn sùng rất cao cả và đáng tin cậy đối với Nữ Vương uy linh Thiên
Đình này chưa bao giờ chiếu giải ánh quang như những lúc Giáo Hội chiến
đấu của Thiên Chúa gặp gian nguy bởi những tấn công của lạc thuyết lan
tràn, bởi thương luân bại lý không thể chấp nhận được, hay bởi những tấn
công của các địch thủ dũng mãnh. Lịch sử trong quá khứ cũng như mới đây,
nhất là Giáo sử biên niên, còn ghi chứng về những lời cầu chung riêng
dâng lên Mẹ Thiên Chúa xin ơn trợ giúp đã được Mẹ ban cho, và xin ơn an
bình trật tự cũng đã được Thiên Chúa ban cho qua Mẹ. Bởi thế, Mẹ xứng
danh là “Đấng Phù Hộ Các Giáo Hữu”, “Đấng An Ủi Kẻ Âu Lo”, “Quyền Năng
Chiến Đấu của chúng ta”, “Nữ Vương Vinh Thắng”, “Nữ Thần Hòa Bình.”
Trong số những tước hiệu này, một tước hiệu quen thuộc đáng chú ý nhất
là tước hiệu Mân Côi, một tước hiệu mà những ơn ích tỏ tường Người đã
xin cho toàn thể thế giới Kitô giáo vẫn được tưởng nhớ một cách long
trọng.
Qúi Huynh thân kính, không một ai trong qúi huynh lại không nhớ đến việc
Hội Thánh Chúa, vào cuối thế kỷ 12, đã chịu đựng một cơn hoạn nạn hết
sức đau buồn gây ra do bè rối Albigensê, miêu duệ của các Hậu Nhị Nguyên
Thuyết, một bè rối lan tràn ở miền Nam nước Pháp và các phần đất khác
thuộc thế giới Latinh, đầy những sai lầm hiểm hại cùng với những lực
lượng tàn sát và tàn phá khủng khiếp khắp nơi khắp chốn.
Thiên Chúa nhân lành của chúng ta, như qúi huynh biết, đã dùng một vị
rất thánh thiện để chống lại các kẻ địch thù lợi hại này, đó là vị tổ
phụ lừng danh sáng lập dòng Đaminh. Cao cả ở giáo thuyết thuần tín, ở
gương sáng các nhân đức và ở các công cuộc tông đồ của mình, thánh nhân
đã dũng liệt tấn công các đối thủ của Giáo Hội Công Giáo, không phải cậy
dựa vào khí giới, song bằng việc tôn sùng mà ngài là người đầu tiên khởi
xướng lên, việc tôn sùng dưới tước hiệu Rất Thánh Mân Côi, việc tôn sùng
mà ngài cũng như các môn đệ của ngài đã truyền bá khắp nơi trên thế
giới.
Thật vậy, được thần hứng và ân sủng hướng dẫn, thánh nhân đã thấy trước
được rằng việc tôn sùng này như là một khí giới chiến đấu vô địch sẽ đẩy
lui địch thủ, khống chế được lòng vô đạo điên cuồng và ngang tàng của
họ. Thành quả đúng là như vậy. Nhờ phương thức cầu nguyện mới mẻ này -
khi được chấp nhận và thi hành như thánh Đaminh sáng lập dòng thiết lập
- lòng đạo đức, đức tin và sự hiệp nhất bắt đầu vãn hồi; những dự tính
và sách lược của các kẻ lạc đạo tan như mây khói. Nhiều kẻ lạc bước quay
về con đường cứu rỗi, và cơn phẫn nộ của những kẻ vô đạo bị kiềm tỏa bởi
khí giới của những người Công Giáo cương quyết chống lại cuộc tấn công
của họ.
Công hiệu và quyền lực của việc tôn sùng này còn được thể hiện trong thế
kỷ 16, khi mà lực lượng hùng hậu của người Thổ Nhĩ Kỳ đang đe dọa chụp
cái gông hoang đường và man rợ lên gần hết cả Âu Châu. Đức Giáo Hoàng
lúc ấy là Thánh Piô V, sau khi khơi động lòng nhiệt thành của các vua
chúa trong việc cùng nhau tự vệ, đã hăng hái nỗ lực, hơn hết mọi sư, để
xin Mẹ Thiên Chúa hết sức quyền năng thương đến thế giới Kitô giáo. Tấm
gương hết sức cao qúi này được dâng lên thiên đình, và tất cả hợp một
lòng một ý với ngài lúc bấy giờ. Thế là, sẵn lòng hy sinh mạng sống và
máu đào để bảo toàn Đức Tin và quê hương của mình, các chiến sĩ tín hữu
Chúa Kitô hiên ngang đối đầu với địch quân ở gần vịnh Côrintô; trong khi
đó, những người không thể đi chiến đấu như họ thì hợp lại thành đạo quân
sốt sắng nguyện cầu, hiệp nhất trong lời kinh Mân Côi liên tục chúc tụng
Mẹ Maria, kêu xin Người ban chiến thắng cho thành phần đang chiến đấu
của mình. Đức Mẹ cao sang quả thật đã ban ơn trợ giúp. Trong trận thủy
chiến gần quần đảo Echinades, hạm đội Kitô hữu đã đại thắng mà không bị
thiệt hại nặng và địch quân hoàn toàn thảm bại.
Để tưởng nhớ đặc ân này và để kỷ niệm một cuộc chiến đáng ghi nhớ như
thế, vị Thánh Giáo Hoàng này đã muốn lập một lễ tôn kính Đức Mẹ Thắng
Trận, một lễ mà Đức Giáo Hoàng Gregôriô XIII đã đặt cho danh xưng là
“Rất Thánh Mân Côi”.
Trong thế kỷ qua còn có những thành quả quan trọng khác tương tự như thế
đối với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Temesvar nước Hung Gia Lợi và ở Corfu. Trong
cả hai trường hợp này đều dính dáng trùng hợp với các ngày lễ của Đức Mẹ
và với các cuộc tổ chức đọc kinh Mân Côi chung. Kết quả đã làm cho vị
tiền nhiệm của Ta là Đức Clementê XI, để tỏ lòng tri ân, đã truyền cho
cả Giáo Hội hằng năm phải đặc biệt tôn kính Đức Mẹ Thiên Chúa bằng kinh
Mân Côi của Người.
Từ đó, thể thức cầu nguyện này rõ ràng là một cách cầu nguyện đẹp lòng
Đức Trinh Nữ, và cũng là một phương tiện hiệu nghiệm trong việc bảo vệ
Giáo Hội và mọi Kitô hữu. Bởi thế, không lạ gì đã có một số vị tiền
nhiệm của Ta tỏ ra mộ mến và thúc giục truyền bá ra cho sâu rộng.
- Đức Urbanô IV chứng nhận là: “mỗi ngày kinh Mân Côi mang lại những ơn
phúc mới mẻ cho Kitô giáo.”
- Đức Sixtô IV tuyên ngôn rằng phương pháp cầu nguyện này “làm tăng thêm
việc tôn vinh Thiên Chúa và Đức Trinh Nữ, cũng như rất thích hợp trong
việc phòng ngừa những hiểm nguy đang đe dọa”.
- Đức Lêô X: “Kinh Mân Côi được thiết lập để chống lại các kẻ gieo rắc
lầm lạc và các lạc thuyết.”
- Đức Juliô III lại gọi kinh Mân Côi là “vinh quang của Giáo Hội.”
- Thánh Piô V nói rằng “nhờ việc truyền bá lòng tôn sùng này mà tín hữu
trở nên nhiệt tình hơn trong việc suy niệm và sốt sắng hơn trong việc
cầu nguyện; họ biến đổi một cách nhanh chóng; bóng tối lạc thuyết biến
tan và ánh sáng Đức Tin Công Giáo bừng rạng trong vinh quang đổi mới.”
- Sau hết, đến lượt Đức Grêgôry XIII, ngài công bố rằng: “Kinh Mân Côi
được thánh Đaminh thiết lập để ngăn cản cơn thịnh nộ của Thiên Chúa và
để kêu cầu sự can thiệp của Đức Trinh Nữ Maria.”
(Vì muốn cho Lời của các vị Giáo
Hoàng nói về Kinh Mân Côi nổi bật hơn, Người dịch tự phân đoạn Lời của
các vị, mà theo nguyên bản được viết liền với nhau, và làm cho những Lời
đó đậm lên)
Cảm kích trước những lời và gương sáng này của các vị tiền nhiệm, Ta tin
rằng, với cùng một lý lẽ như các ngài, đây là lúc thuận tiện nhất cho
việc thiết lập những kinh nguyện chung và cho việc cố gắng lợi dụng
những lời kinh nguyện của chuỗi kinh Mân Côi dâng lên Đức Trinh Nữ, để
xin Chúa Giêsu Kitô, Con Mẹ, một sự trợ giúp tương tự đối với những hiểm
nguy hiện nay. Qúi Huynh thân kính, qúi huynh đã thấy rõ những thử thách
mà Giáo Hội hằng ngày phải đương đầu: lòng đạo đức Kitô hữu, nền luân lý
chung, không những thế, ngay cả chính Đức Tin, sự thiện tối cao và đầu
mối của mọi nhân đức, hằng ngày bị đe dọa tàn lụi đi một cách thảm khốc
nhất.
Trước tình thế khốn khó hiện nay, không phải là những người bàng quan,
với đức ái của mình cũng như của Ta, quí huynh cảm thấy bị xâu xé đớn
đau. Còn gì buồn thảm và đau đớn cho bằng, khi thấy rất nhiều linh hồn
được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Kitô, bị những cơn gió lốc lầm lạc
đương thời, cuốn mất ơn cứu độ, mà nhào xuống vực thẳm của sự chết đời
đời. Nhu cầu của chúng ta hôm nay cũng khẩn thiết như thời mà Đại Thánh
Đaminh khởi xướng sử dụng Kinh Mân Côi của Mẹ Maria để băng bó những vết
thương thời đại của Ngài. Vị thánh danh tiếng này thực sự, với ơn soi
sáng thần linh, đã thấy rằng không có một phương cách nào hiệu nghiệm
hơn để chống lại với những sự dữ của thời đại bấy giờ, làm cho người ta
trở về với Chúa Kitô “là đường, là sự thật và là sự sống”, bằng việc
thường xuyên suy niệm ơn cứu độ mà Người lập được cho chúng ta, khi tìm
cầu sự can thiệp của Thiên Chúa qua Đức Trinh Nữ, Đấng có thể phá tan
tất cả mọi lạc thuyết.
Thế nên, thánh nhân đã sáng tác Kinh Mân Côi để tưởng nhớ theo thứ tự
các mầu nhiệm cứu độ của chúng ta, mà chủ điểm để suy niệm được tóm gọn
và kết cầu, đúng như vậy, giữa Lời Thiên Thần Chào và các lời nguyện xin
Thiên Chúa cũng là Cha của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Bởi thế, là
những người tìm kiếm phương cách chữa trị những sự dữ như thế, chúng ta
không được hồ nghi kinh nguyện đã được khởi xướng lên bởi một con người
hết sức thánh thiện này đã mang lại rất nhiều thắng lợi cho thế giới
Công Giáo, cũng sẽ mang lại những công hiệu cả thể trong việc khử trừ
những tai ương của thời đại chúng ta. Ta chẳng những hết lòng khuyên
giục tất cả mọi Kitô hữu không ngừng hăng say lần hạt Mân Côi chung, hay
riêng tại tư gia trong gia đình, mà còn ước mong trọn Tháng Mười năm nay
được hiến dâng cho Trinh Nữ Vương Mân Côi.
Quí Huynh thân kính, với tấm lòng tôn kính Đức Maria và an sinh xã hội
loài người, Quí Huynh chắc hẳn càng hết sức thực hiện việc nuôi dưỡng
lòng đạo đức của các tín hữu đối với Vị Đại Trinh Nữ và tăng tiến lòng
tin tưởng của họ nơi Người. Ta tin rằng, đây là những gì Thiên Chúa Quan
Phòng muốn, trong những thời điểm Giáo Hội bị thử thac1h như thế này,
việc tôn sùng cổ kính đối với Trinh Nữ Cao Cả phải được sống động và
triển nở một cách rộng rãi hơn trong thế giới Kitô giáo. Chớ gì các quốc
gia Kitô giáo ngày nay, nhờ lời khuyên dụ của Ta gợi hứng và lời kêu gọi
của Quí Huynh nung nấu, tìm kiếm sự phù hộ của Đức Maria mỗi ngày một
nhiệt liệt hơn. Chớ gì họ càng gắn bó hơn với việc lần hạt Mân Côi, một
việc tôn sùng mà các vị tiền bối của Ta vẫn có thói quen thực hành,
chẳng những như một phương thế bao giờ cũng hiệu nghiệm đối với những
lầm than của mình, mà còn như nhãn hiệu thực sự cho lòng đạo đức của
người Kitô hữu. Vị Nữ Thánh Sư trên trời của loài người sẽ vui mừng nhận
lãnh những lời nguyện cầu và nguyện xin này, và sẽ mau mắn làm cho kẻ
lành được tấn tới trên đường nhân đức, kẻ lầm lạc thống hối trở về với
ơn cứu rỗi, và Thiên Chúa, Đấng báo oán tội lỗi, cảm thương sẽ giải cứu
vương quốc Kitô giáo cũng như xã hội loài người khỏi mọi hiểm nguy,
trong một nền hòa bình hằng mong đợi.
An lòng với niềm cậy trông này, bằng tất cả sức mạnh linh hồn của chúng
ta, Ta dâng lên Chúa những lời nguyện nhiệt thành nhất, để, nhờ sự cầu
bầu của Đấng mà Ngài đã ban cho đầy mọi thiện hảo, Ngài tràn đổ xuống
trên Quí Huynh thân kính, tràn đầy hết mọi ân phúc.
Đức Mẹ Mân Côi Thắng Trận với Cuộc Hải Chiến Lepanto Ngày 7/10/1571
Thánh Đaminh đã lãnh nhận kinh mân côi từ Đức Trinh Nữ Maria trong một thị kiến đang khi ngài cố gắng để hoán cải thành phần bè rối Albigensê năm 1208. Mẹ Maria đã nói với vị đại thánh này rằng kinh mân côi là “một thứ vũ khí được Thiên Chúa Ba Ngôi có ý sử dụng để canh tân thế giới”. Trong Trận Chiến ở Muret ngày 12/9/1213, kinh nguyện Thánh Mẫu này đã đánh bại bè rối Albegensê và sau đó một đền thờ đầu tiên được xây cất kính Đức Mẹ Thắng Trận.
Qua các thế kỷ, kinh mân côi đã được lần đặc biệt trong những lúc nguy hiểm để van nài việc trợ giúp của Đức Nữ Trinh này. Ngày 7/10/2006 này là năm thứ 435 kỷ niệm Trận Hải Chiến Lepantô, một biến cố đã mang lại cho thế giới một thánh lễ mân côi.
Khắp thế kỷ 16, những cuộc đụng độ về hải quân với hạm đội của Thổ Nhĩ Kỳ càng ngày càng gia tăng. Sauk hi chiếm được thành Constantinople của đế quốc Byzantine năm 1453, Quân D8ến Quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ thiết lập một hạm đội với mục đích chiến thắng toàn thể Âu Châu,, trước hết bằng đường biển sau bằng đường bộ.
Hạm đội của Thổ Nhĩ Kỳ là một hạm đội hầu như bất khả thắng. Họ đã chiếm Cyprus, Rhodes và chỉ gần như bị đẩy lui ở Malta mà thôi.
Thánh Giáo Hoàng Piô V, một nhà cải cách dòng Đaminh và là bạn của Thánh Charles Borromeo, đã hy vọng ngăn chặn được một cuộc tấn công không thể tránh sắp tới trước khi nó xẩy ra, và tìm cách qui tụ vua của nước Tây Ban Nha cùng các nước cộng hòa Venice và Genoa hợp với hạm đội của đức giáo hoàng trong việc chặn đứng hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ rời vùng biển riêng của nó.
Lực lượng liên minh quan đáng kể này bao gồm nhiều kẻ thù truyền kiếp, thành phần đã quyết định gạt bỏ những khác biệt của mình ra ngoài để hỗ trợ việc chung. Họ đã hạ thủy 200 chiếc tầu hùng mạnh để giao chiến với 220 tầu của hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ.
Thánh Giáo Hoàng Piô V, ngoài việc thống hối cá nhân, đã kêu gọi toàn thế giới Kitô hữu hãy cầu kinh mân côi và tổ chức những cuộc cung nghinh Đức Mẹ khắp thành phố để cầu cùng Mẹ Maria. Vào ngày 7/10/1571, trong khi đang làm việc với các vị hồng y của mình, vị giáo hoàng này đã ngước mắt lên mà nói: “Cuộc ngừng bắn đã xẩy ra, công việc lớn lao của chúng ta vào lúc này là tạ ơn Thiên Chúa về chiến thắng Ngài vừa ban cho quân đội Kitô Giáo”.
Thật vậy, một ít giờ đồng hồ sau đó, Don John của Áo quốc, vị tổng chỉ huy của Liên Minh Thánh, đã chiến thắng vào ngày hôm ấy, chẳng những đánh bại hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ mà còn giải phóng cho gần 20 ngàn nô lệ Kitô hữu khỏi các tầu bè của người Thổ.
Bởi thế ban đầu đã có Lễ Đức Bà Thắng Trận, sau được Giáo Hoàng Grêgôriô XIII đổi thành lễ Đức Mẹ Mân Côi, và đã phổ biến cho toàn thế giới bởi Đức Clêmentê vào năm 1716.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đáng kính nhớ đã nhắc nhở người Công Giáo rằng, trong thời đại tân tiến của chúng ta đây, chúng ta hơn bao giờ hết cần đến kinh mân côi. Sau biến cố 11/9/2001, ngài đã tuyên bố rằng: “trong bối cảnh quốc tế hiện nay, tôi kêu mời tất cả mọi người – cá nhân, gia đình, cộng đồng – hãy cầu kinh nguyện Thánh Mẫu này, hằng ngày có thể, cho hòa bình, nhờ đó, thế giới được giữ cho khỏi nạn khủng bố gian ác”. Năm sau đó, ngài đã mở Năm Mân Côi (2003-1004) và thêm 5 Mầu Nhiệm Ánh Sáng vào tràng kinh mân côi 150.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 5/10/2006
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 1, 13-24
"Người đã mạc khải cho tôi biết Con của Người, để tôi rao giảng Người cho dân ngoại".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, anh em nghe nói về đời sống của tôi trước kia, khi theo đạo Do-thái: tôi đã bắt bớ và phá hoại Hội Thánh của Thiên Chúa thái quá. Trong đạo Do-thái, tôi đã vượt hẳn nhiều bạn đồng giống nòi, đồng tuổi với tôi, và tôi nhiệt thành hơn bất cứ ai đối với truyền thống của cha ông tôi.
Nhưng khi Ðấng tách riêng tôi ra từ lòng mẹ, và dùng ơn Người mà kêu gọi tôi, để tôi rao giảng Người trong các dân ngoại, thì không lúc nào tôi bàn hỏi người xác thịt máu huyết, và tôi không lên Giêrusalem để gặp các vị làm tông đồ trước tôi, nhưng tôi đi ngay đến Arabia, rồi lại trở về Ðamas. Ðoạn ba năm sau, tôi mới lên Giêrusalem để gặp Phêrô, và lưu lại với ông mười lăm ngày. Tôi không gặp một tông đồ nào khác, ngoài Giacôbê, anh em của Chúa. Những điều này tôi viết cho anh em, đây trước mặt Thiên Chúa, tôi không nói dối.
Thế rồi tôi đã đi về miền Syria và Cilicia. Nhưng các giáo đoàn của Ðức Kitô ở xứ Giuđêa chưa biết mặt tôi, họ chỉ nghe đồn rằng: "Người xưa kia bắt bớ chúng ta, giờ đây lại rao giảng đức tin mà thuở trước ông muốn bài trừ", và vì tôi, họ ngợi khen Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 138, 1-3. 13-14ab. 14c-15
Ðáp: Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời (c. 24b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con, Ngài biết con lúc con ngồi hay con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con tự đàng xa, khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết, Ngài để ý tới mọi đường lối của con. - Ðáp.
2) Chính Ngài đã nặn ra thận tạng con, đã dệt ra con trong lòng thân mẫu. Con ngợi khen Ngài đã tạo nên con lạ lùng như thế, vì công cuộc của Ngài thực diệu huyền. - Ðáp.
3) Linh hồn con, Chúa hoàn toàn biết rõ, thể chất con không giấu nổi mắt Ngài, lúc con được cấu tạo hình hài trong nơi kín đáo, lúc con được dệt thân ở chỗ đất sâu. - Ðáp.
Alleluia: Tv 144, 14cd
Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 10, 38-42
"Martha rước Người vào nhà mình. Maria đã chọn phần tốt nhất".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy Chúa Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với".
Nhưng Chúa đáp: "Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện (quá). Chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Vấn đề là ở chỗ "lo lắng bối rối về nhiều chuyện" chứ không phải ở chỗ "bận rộn với việc thiết đãi khách"
Hôm nay, Thứ Ba Tuần XXVII Thường Niên, Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca thuật lại sự kiện về việc Chúa Giêsu ghé vào thăm gia đình 3 chị em Matta, Maria và Lazarô, và được người chị cả tiếp đón nồng hậu, nhưng rất tiếc bà chị lại đã tỏ ra ghen tị với người em gái của mình trước mặt Chúa Giêsu:
"Khi ấy Chúa Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thiết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: 'Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với'. Nhưng Chúa đáp: 'Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện (quá). Chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất'".
Thật ra Chúa Giêsu không trách Matta về việc phục vụ cần thiết của chị, cho bằng trách chị "lo lắng bối rối về nhiều chuyện", đến độ trở thành bất an, được bộc lộ qua thái độ và ngôn ngữ có tính cách ghen tị với em của chị: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với".
Nếu chị cứ âm thầm làm tất cả những gì cần thiết như chị cảm thấy để ân cần tiếp đãi vị đại khách của gia đình chị là Chúa Giêsu, với một tâm hồn hoàn toàn yêu mến Thày và yêu thương các em trong nhà, sẵn sàng chịu thiệt để cho chúng thay mình đang bận làm việc gần gũi tiếp chuyện với Thày, thì chị đâu có bị khiển trách như thế.
Tuy nhiên, qua lời chị ghen tị với em của chị như thế mới thấy được rằng chính chị cũng muốn được gần gũi với Chúa Giêsu như em của chị. Đó là lý do có những lúc hoạt động không còn giờ cầu nguyện, tâm hồn vẫn có thể khao khát Chúa, vẫn có thể cầu nguyện bằng chính lòng khao khát của mình, miễn là đừng coi thường cầu nguyện khi có giờ và chỉ vì thích hoạt động mà bỏ cầu nguyện khi có thể.
Phải, sống nội tâm và bằng an, sống vì Chúa và cho tha nhân là "sự cần duy nhất mà thôi", bằng không tất cả mọi hoạt động của chúng ta, cho dù lành thánh mấy chăng nữa, cho dụ thiện ích mấy chăng nữa, cũng có thể trở thành dịp tội cho con người hoạt động, cuối cùng họ chỉ mất công vô ích mà thậm chí hoạt động còn trở thành nguy hiểm cho tâm hồn của họ nữa.
Như thế, có thể nói Matta là biểu hiệu cho đời sống hoạt động, còn Maria biểu hiệu cho đời sống cầu nguyện: "Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất". Căn cứ vào giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay qua sự kiện Matta-Maria này, chúng ta thấy: 1- đời sống nội tâm cầu nguyện là chính yếu và cần trước hết và trên hết; 2- có biết lắng nghe tiếng Chúa bằng đời cầu nguyện mới có thể làm theo ý Ngài khi hoạt động, bằng không lúc đầu làm vì Chúa cuối cùng làm cho mình.
Thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại, trong Bài Đọc 1 hôm nay, đã cho giáo đoàn Galata biết về con người bản thân hai đoạn đời của ngài, một con người nhiệt tình với đạo giáo của cha ông là Do Thái giáo ở đoạn đời đầu: "Trong đạo Do-thái, tôi đã vượt hẳn nhiều bạn đồng giống nòi, đồng tuổi với tôi, và tôi nhiệt thành hơn bất cứ ai đối với truyền thống của cha ông tôi", như một Matta hăng say phục vụ Chúa Kitô thượng khách hôm ấy ở nhà chị, nhưng vẫn làm phật lòng vị thượng khách này, bởi thế vị thượng khách này đã thương tình chỉ bảo cho chàng ý Người muốn nơi hành động của Maria em của chị, đứa em bị chị trách khéo, một lời trách khéo liên quan cả đến vị thượng khách của chị nữa.
Không biết nhân vật Matta trong bài Phúc Âm có nhận biết mình và có nghe theo lời Chúa sau này hay chăng, nhưng chàng Saolê thuở xa xưa thuộc đoạn đời Do Thái giáo ấy trong Bài Đọc 1 hôm nay, nhờ ơn Chúa, đã thực sự trở thành một vị tông đồ dân ngoại Phaolô, ngay sau "khi Ðấng tách riêng tôi ra từ lòng mẹ, và dùng ơn Người mà kêu gọi tôi, để tôi rao giảng Người trong các dân ngoại", đến độ "các giáo đoàn của Ðức Kitô ở xứ Giuđêa chưa biết mặt tôi, họ chỉ nghe đồn rằng: 'Người xưa kia bắt bớ chúng ta, giờ đây lại rao giảng đức tin mà thuở trước ông muốn bài trừ', và vì tôi, họ ngợi khen Thiên Chúa".
Đó là lý do, chúng ta cần phải "theo đạo", theo Chúa, chứ không phải hay hơn là "đạo theo", đạo theo chúng ta, Chúa theo chúng ta. Nhưng muốn được thế, chúng ta cần phải liên lỉ tâm nguyện như câu họa trong Bài Đáp Ca hôm nay: "Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời", với tất cả thâm tín về bản thân mình, nhờ đó hoàn toàn tin tưởng vào Chúa:
1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con, Ngài biết con lúc con ngồi hay con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con tự đàng xa, khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết, Ngài để ý tới mọi đường lối của con.
2) Chính Ngài đã nặn ra thận tạng con, đã dệt ra con trong lòng thân mẫu. Con ngợi khen Ngài đã tạo nên con lạ lùng như thế, vì công cuộc của Ngài thực diệu huyền.
3) Linh hồn con, Chúa hoàn toàn biết rõ, thể chất con không giấu nổi mắt Ngài, lúc con được cấu tạo hình hài trong nơi kín đáo, lúc con được dệt thân ở chỗ đất sâu.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 2, 1-2. 7-14
"Các đấng đã nhận biết ơn đã ban cho tôi".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, mười bốn năm sau, tôi lại lên Giêrusalem cùng với Barnaba và có đem Titô theo. Tôi đã theo ơn mạc khải mà lên đó, và tôi đã trình bày với các đấng đó về Tin Mừng mà tôi rao giảng nơi các dân ngoại, tôi bàn hỏi riêng với những bậc vị vọng, vì e rằng mình đang bôn tẩu hoặc đã bôn tẩu luống công chăng.
Trái lại, khi các đấng ấy thấy rằng tôi được uỷ nhiệm rao giảng Tin Mừng cho người không chịu cắt bì, cũng như đã uỷ nhiệm cho Phêrô rao giảng cho những người đã chịu cắt bì, (vì Ðấng đã ban cho Phêrô làm Tông đồ cho những người đã chịu cắt bì, cũng đã ban cho tôi làm Tông đồ lo cho các dân ngoại), và khi đã nhận biết ơn đã ban cho tôi, thì Giacôbê, Kêpha và Gioan, là những vị được kể như cột trụ, đã bắt tay tôi và Barnaba, tỏ tình thông hảo. Thế là chúng tôi đi sang các dân ngoại, còn các đấng thì đi đến với những người đã chịu cắt bì. Bấy giờ chúng tôi chỉ còn phải nhớ đến những người nghèo khổ, và đó là chính điều tôi đã định tâm thi hành.
Nhưng khi Kêpha đến Antiôkia, tôi đã phản đối ông ngay trước mặt, vì ông làm điều không phải. Vì chưng trước khi mấy người bên Giacôbê đến, thì ông vẫn dùng bữa với những người dân ngoại, nhưng khi những người ấy đến, thì ông lẩn lút và tự lánh mặt đi, bởi sợ những người thuộc giới cắt bì. Những người Do-thái khác đều giả hình như ông, thậm chí cả Barnaba cũng bị lôi cuốn theo sự giả hình của họ. Nhưng khi thấy họ không thẳng thắn sống theo chân lý Tin Mừng, tôi đã nói với Kêpha trước mặt mọi người rằng: "Nếu ông là Do-thái, mà còn sống theo thói người dân ngoại, chứ không theo thói người Do-thái, thì lẽ nào ông bắt ép người dân ngoại phải theo thói người Do-thái sao?
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 116, 1. 2
Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).
Xướng: 1) Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người! - Ðáp.
2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng ta thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 11, 1-4
"Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông". Người nói với các ông: "Khi các con cầu nguyện, hãy nói:
"Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Bóng tối không thể át được ánh sáng
Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, Thứ Tư Tuần XXVII Thường Niên, tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, chẳng những liên tục về bố cục theo đoạn và câu mà còn liên tục về cả nội dung của hai bài Phúc Âm này nữa. Ở chỗ, nếu bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến đời sống nội tâm thì bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến tinh thần cầu nguyện.
Đúng thế, Phúc Âm của Thánh ký
Luca hôm nay thuật lại rằng: "Ngày
kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi. Khi Người cầu nguyện xong, có
một môn đệ thưa Người rằng: 'Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện
như Gioan đã dạy môn đệ ông'".
Thánh ký Luca không cho chúng ta biết rõ tên của người "môn đệ" nào trong 12 tông đồ hay trong 72 môn đệ đã xin Người dạy cho chung các vị cầu nguyện, mà là cầu nguyện theo kiểu của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả dạy cho các môn đệ của ngài. Chúng ta có thể suy đoán, người "môn đệ" ấy một là Tông Đồ Anrê hai là Tông Đồ Philiphê, hai môn đệ của vị tiền hô này đã đến xem chỗ Người ở, ba là Nathanael / Bartholomeo và bốn là Simon / Phêrô là 2 người được hai vị đến trước và về rủ đến sau (xem Gioan 1:35-51).
Chúng ta ở đây không biết Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã dạy các môn đệ cầu nguyện của ngài như thế nào mà môn đệ này đã cảm thấy hay đến độ xin Chúa Giêsu dạy cho họ như thế hay hơn thế. Chỉ biết rằng, đích thân Chúa Giêsu đã đáp ứng lời yêu cầu chính đáng của người môn đệ đại diện ấy bằng cách cống hiến cho môn đệ của mình công thức cầu nguyện cùng Cha của Người như sau:
"Khi các con cầu nguyện, hãy nói: 'Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ'".
Chúng ta cũng không biết kinh nguyện trên đây của Chúa Giêsu có phải là chính tâm nguyện chính yếu và liên lỉ của Người đối với Cha của Người, những tâm nguyện được Người bộc phát và bày tỏ ra cùng Cha của Người mỗi lần Người cầu nguyện cùng Cha của Người hay chăng? Nhưng chúng ta chắc chắn một điều rằng nếu những lời cầu nguyện ấy không phải là những gì hay nhất, tuyệt vời nhất và đẹp lòng Cha của Người nhất, vì không ai biết Cha Người bằng Người, thì Người đã không dạy cho các môn đệ của Người, không dạy cho chúng ta.
Thế nhưng, nếu cho rằng những lời cầu ấy là chính tâm nguyện của Chúa Giêsu ấp ủ đối với Cha của Người thì phần "nguyện" đầu của lời cầu mà chúng ta vẫn gọi là Kinh Chúa Dạy hay Kinh Lạy Cha này là những gì có thể khả chấp: "Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến", nhưng còn phần "xin" sau đó dường như không hợp với Người, không xứng với Người, Đấng không cần những vấn đề thuộc hạ giới này của loài thuần nhân như chúng ta: "Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".
Tuy nhiên, ở đây, Chúa Kitô cầu nguyện với tư cách là một Con Người, (chứ không phải với tư cách là một Vị Thiên Chúa), một Con Người cầu nguyện thay con người, cầu nguyện với con người và cầu nguyện cho con người. Vì là Con Người, Người cũng cần "xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày" là biết làm theo và chu toàn ý muốn Cha là Đấng đã sai Người (xem Gioan 4:34). Vì Người là Đấng gánh tội trần gian và đền tội cho trần gian mà Người cũng xin Cha "tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con", ở chỗ tha nợ cho Người cũng là tha nợ cho đồng loại tội nhân của Người, như Người đã tha nợ cho những kẻ lầm lẫn không biết việc mình làm khi ra tay sát hại Người (xem Luca 23:34). Vì là Đấng đã hóa thân làm người, cũng có ý muốn riêng theo bản tính loài người mà Người cũng "xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ" là khuynh hướng luôn tìm theo ý riêng mình hơn là ý muốn của Thiên Chúa, một ý muốn tối cao nhưng vô cùng oan khiên khắc nghiệt của Thiên Chúa đối với ý riêng của con người.
Nếu cầu nguyện là ở cõi lòng hơn là môi miệng (xem Mathêu 15:8), thì Kinh Lạy Cha hay Kinh Chúa Dạy các môn đệ như các vị xin Người trong bài Phúc Âm hôm nay thực sự bao gồm tất cả tấm lòng của người cầu nguyện, được bày tỏ ra bằng các ước nguyện, và trong các ước nguyện ấy thì trên hết và trước hết là ước nguyện cho "danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến". Bài Đọc thứ 1 hôm nay cho chúng ta thấy xẩy ra một sự kiện đáng tiếc trong thời Giáo Hội sơ khai, liên quan đến vị tông đồ lãnh đạo đoàn chiên Chúa là Phêrô, vị đã được tông đồ Phaolô, như Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy, công khai chỉnh sửa vì khuynh hướng của vị trưởng tông đồ đoàn này đã "sa chước cám dỗ" sợ hãi , nên đã tỏ ra những tác hành cùng phản ứng có tính cách "phản kitô", không còn nguyên ước nguyện tinh tuyền mong muốn cho "danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến".
"Khi Kêpha đến Antiôkia, tôi đã phản đối ông ngay trước mặt, vì ông làm điều không phải. Vì chưng trước khi mấy người bên Giacôbê đến, thì ông vẫn dùng bữa với những người dân ngoại, nhưng khi những người ấy đến, thì ông lẩn lút và tự lánh mặt đi, bởi sợ những người thuộc giới cắt bì. Những người Do-thái khác đều giả hình như ông, thậm chí cả Barnaba cũng bị lôi cuốn theo sự giả hình của họ. Nhưng khi thấy họ không thẳng thắn sống theo chân lý Tin Mừng, tôi đã nói với Kêpha trước mặt mọi người rằng: 'Nếu ông là Do-thái, mà còn sống theo thói người dân ngoại, chứ không theo thói người Do-thái, thì lẽ nào ông bắt ép người dân ngoại phải theo thói người Do-thái sao?'"
Thánh Phaolô đã phải cấp thời lên tiếng
hành động như thế, không nể nang, không chần chờ, là để tránh cho
dân ngoại, thành phần ngài được ủy thác cho sứ vụ đặc biệt rao
giảng, cũng có mặt bấy giờ, khỏi bị tác hành và phản ứng của vị lãnh
đạo giáo hội Chúa Kitô tác hại
trầm trọng. Nhờ đó, chư dân mới có thể thấy được đâu là chân lý, đâu
là vị Thiên Chúa của Kitô giáo, vị Thiên Chúa có tính cách "công
giáo", tính cách phổ quát toàn cầu, và cũng nhờ đó, họ mới có thể
vang lên những lời ở 2 cầu đầu của Thánh Vịnh 116 trong Bài Đáp Ca
hôm nay:
1) Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người!
2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng ta thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời.
Thánh Điônysiô / Dennis, Giám mục và các bạn tử đạo
9/10
Điều đầu tiên chúng ta được biết về ba vị này là họ được tử đạo khoảng năm 258, theo như văn bản của Thánh Grêgôriô ở Tours thuộc thế kỷ thứ sáu. "Thánh Điônysiô, Giám mục Paris, đã chịu nhiều đau khổ vì danh Chúa Kitô và kết thúc cuộc đời dưới lưỡi gươm."
Câu nói trên đây của thánh Grêgoriô thành Tours là tất cả những gì chúng ta biết được về thánh Điônysiô. Người ta kể lại truyền thuyết rất hấp dẫn về Ngài như sau:
Dựa theo tường thuật của thánh Ghê-gô-ri-ô thành Tua, năm 200, thì vào năm 251, Đức Giáo Hoàng Fabianô đã sai bảy Giám mục đi truyền giáo tại xứ Gaules (Tên gọi nước Pháp ngày xưa). Các vị tông đồ này đã vượt qua mọi gian nguy và thiết lập nên các giáo đoàn Arles, Toulouse, Narbonne, Clermont, Limoges, Tours và Lutèce. Trước hết, các Ngài dừng lại ở Arles, rồi phân tán đi các tỉnh xứ Gaules. Lutèce là tỉnh xa nhất. Nhiệt tâm với đức tin, Điônysiô đã muốn tới đó. Ngài đến tận kinh đô Pa-ri lúc đó gọi là Lu-téc, và đi khắp nơi giảng đạo Chúa. Đi đến đâu, người ta cũng ùn ùn kéo đến nghe ngài giảng, và rất nhiều người trở lại đạo. Ngài cho cất nhiều nhà thờ để tập họ đọc kinh cầu nguyện, tham dự Thánh lễ và ban các Bí tích cho họ. Với các giáo dân ngày càng đông, thánh nhân thành lập giáo đoàn tại Pa-ri và làm Giám mục tiên khởi giáo phận nầy.
Điônysiô đã thực hiện được nhiều cuộc trở lại rất ngoạn mục. Chỉ kêu cầu đến danh Chúa, Ngài đã làm lật nhào pho tượng thần Hỏa (Mars) khổng lồ. Chứng kiến cảnh tượng này, nhiều người đã phục dưới chân Ngài xin theo đạo. Cùng với linh mục Eleutheeiô và phó tế Rusticô, Điônysiô tiến xa về hướng Bắc và dừng lại tại Lutèce. Ngài thiết lập giáo đoàn Paris và làm Giám mục tiên khởi của giáo đoàn này. Ngài luận bác sự điên dại của các ngẫu thần và rao giảng một Thiên Chúa duy nhất và Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc.
Phần đông thính giả tin theo ánh sáng Kitô giáo. Một trong số những người trở lại là lãnh chúa miền Montmorency. Tên ông là Lisiniue. Ông đã cho thánh Điônysiô trú ngụ và biến gia thất thành nơi hội họp của các Kitô hữu. Dân chúng đổ xô đến nghe rao giảng, từ bỏ tà thần và lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Thánh Điônysiô phong chức cho nhiều thừa tác viên mới. Dùng của cải dân Gaules dâng hiến, Ngài dựng nên bốn nhà nguyện: một dâng hiến Chúa Ba Ngôi (nơi này sẽ thánh thánh đường kính thánh Bênêđictô). Năm 1685, người ta đọc được ở đó những dòng chữ này: “Trong nguyện đường này, thánh Điônysiô đã khởi sự yêu cầu Chúa Ba Ngôi”, một nguyện đường dâng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô (thánh Ghenevière thích đến cầu nguyện và được mai táng tại đây), nguyện đường thứ ba dâng kính thánh STêphanô và nguyện đường thứ tư dâng kính Đức Bà (nay gọi là đền thờ Notre-dame-des-champs).
Thánh Điônysiô vui mừng vì thành quả gặt hái được. Nhưng các người
ngoại, nhất là các tư tế dân ngoại bực tức. Họ than phiền với quan
chức của vương quốc. Khi hoàng đế Maximilianô mang quân qua xứ
Gaules, lệnh bách hại Kitô giáo được ban hành nghiêm nhặt. Vị tông
đồ cùng với hai vị bị điệu ra tòa. Ngài trả lời rằng:
-
Chúng tôi là tôi tớ Chúa Kitô.
Thánh Denis đặt địa bàn truyền giáo ở một hòn đảo trong vùng Seine gần thành phố Lutetia Parisorium -- sau này trở thành thủ đô Balê. Vì lý do đó ngài được coi là vị giám mục đầu tiên của Balê và là Tông Đồ nước Pháp. Ở đây ngài bị bắt cùng với Rusticus và Eleutherius. Các học giả sau này đề cập đến Rusticus và Eleutherius như linh mục và thầy sáu của Đức Giám Mục Denis, ngoài ra chúng ta không còn biết gì thêm.
Thánh Điônysiô cùng hai bạn bị tống ngục, nơi sẽ trở thành thánh
đường thánh Điônysiô thành Chartres. Bị đánh đòn, bị hành hạ đến
chảy máu, thánh nhân không hề than trách kêu la. Thay tiếng rên
xiết, Ngài nói lên niềm tin và lời ca tụng. Bọn lý hình giương búa,
múa roi trước mặt Ngài, nhưng lão già 110 tuổi đầu bạc vẫn đầy tin
tưởng và êm dịu trả lời:
-
Chớ gì tôi phải chịu tất cả mọi cực hình này cùng một lúc để tôi sớm
được hạnh phúc với Chúa Kitô.
Ngài bị ném cho thú vật xâu xé. Nhưng những thú dữ chỉ liếm chân Ngài. Bị treo lên Thập Giá, nhưng từ trên cao, Ngài giảng về cuộc khổ nạn của Chúa khiến cho nhiều người trở lại. Vừa sợ vừa giận, quan tòa ra lệnh xử trảm con người đầy dũng cảm này. Nơi hành hình là một ngọn đồi dâng kính Thủy thần (Nercure), nhưng sau này được coi là núi các thánh tử đạo (Montmartre). Xác các thánh tử đạo không được chôn cất, nhưng phải để làm mồi cho súc vật. Nhưng có huyền thoại kể rằng: thánh Điônysiô sau khi bị chặt đầu, đã chỗi dậy cầm lấy đầu mình, đi xa khoảng hai dặm về hướng đông. Một sử gia nói rằng: Ngài dừng lại ở nơi Ngài muốn chôn cất và là tu viện của Ngài.
Có một phụ nữ tên là Catulla đã chôn xác Ngài ở một ngôi làng (làng này sẽ mang tên Điônysiô) bà dựng một nguyện đường bằng gỗ. Vào thế kỷ V, tại Catulliacus (nay là thành phố Saint-Denis), thánh nữ Geneviève đã cho xây một ngôi thánh đường tu viện trên phần mộ vị thánh bổn mạng của Paris này. Và vào thế kỷ VII, vua Dagobert cho trùng tu lại; ngôi thánh đường này đã trở thành khu nghĩa trang của các vua nước Pháp.
Đến thế kỷ thứ chín, tiểu sử của Thánh Denis bị lẫn lộn với Thánh Dionysius người Areopagite, nhưng sau này các học giả xác định ngài là một vị thánh riêng biệt.
Thánh Denis thường được vẽ khi ngài tử đạo -- không có đầu (với một cành nho vươn lên từ cổ) và tay ngài cầm chính đầu của ngài với nón giám mục.
Được coi là vị thánh đặc biệt của Balê, Thánh Denis là quan thầy của nước Pháp.
Lời Nguyện của ngày nhắc chúng ta nhớ đến cuộc tử đạo của “thánh giám mục Denis và các bạn tử đạo”. Cuộc hy sinh của các ngài đã xây dựng nên Hội Thánh ở Paris cách nay mười bảy thế kỷ. Khi nhớ lại cuộc tử đạo của các ngài, chúng ta cũng nhớ đến nguồn gốc đức tin của chúng ta và tôn vinh Đức Kitô, Đấng Sáng Lập duy nhất của Hội Thánh. Chính Người đã làm cho máu các thánh tử đạo sinh hoa kết quả và làm cho các môn đệ của Người trở thành muối đất và ánh sáng thế gian (xem Tin mừng của ngày). Trong Phụng vụ Giờ Kinh Sách, thánh Ambrôsiô chú giải Thánh vịnh 118 như sau: “Mỗi ngày, bạn đều làm chứng nhân cho Chúa Kitô... Vì thế bạn hãy trung thành và can đảm trong những thử thách bên trong, để cũng chiến thắng trong những thử thách bên ngoài. Trong các cuộc thử thách bên trong, cũng có những vua chúa, những quan án có quyền lực kinh khủng. Việc Chúa Giêsu chịu ma quỉ cám dỗ là một ví dụ cho bạn về điều này.”
Thánh Đi-ô-ni-xi-ô là một vị thánh rất nổi tiếng, nhất là ở Pháp, nơi có nhiều làng mang tên ngài. Thành phố Paris chọn ngài làm thánh bổn mạng, và được ca tụng là một thành phố “có phước” trong một bài tán dương của vị cố vấn giám mục Giêrusalem ngày 3 tháng 10 năm 833: “Phước thay thành phố đang gìn giữ cái đầu thánh thiện và vinh quang và hài cốt quí báu của ngài – ngài vừa là một vị tử đạo, vừa là một nhà giảng thuyết và giám mục đáng ca ngợi –, cũng như hài cốt của các bạn ngài mà ngài đã giới thiệu với Thiên Chúa như những hiến tế tinh tuyền và toả ngát hương thơm ca tụng. Từ mảnh đất thấm đượm máu đào, vọt trào giòng nước sống để làm giải khát những ai được niềm tin thúc đẩy đến kêu cầu ngài chữa lành các bệnh nhân của họ. Thực vậy, phước thay thành phố Paris! Biết bao thành phố khác của nước Gaule rộng lớn hơn Paris, nhưng nó có thể hãnh diện vì có ngài, vị tiến sĩ đáng kính, một kho báu vinh quang hơn mọi của cải vật chất, một vị thánh quan thầy và bảo trợ. Thiên Chúa đã ban ngài cho Paris để ngài thánh hóa đoàn dân Kitô hữu và các khách hành hương, để ngài trở thành động lực thiêng liêng và nguồn mạch niềm vui sướng, không phải thứ vui sướng làm thoả mãn thể xác, tạo kiêu hãnh cho cung điện, là những thứ mau qua chóng tàn. Ngài là một thành lũy kiên cố cho Paris...một pháo đài được bảo vệ bởi các đồn bót, các tháp canh, các ổ trọng pháo, tựa một bức chắn bằng sắt. Không, cái mang lại sức mạnh cho thành phố là sự thánh thiện của ngài và các bạn tử đạo của ngài.”
Khi mừng kính một trong những vị truyền đạo vĩ đại nhất của đất Gaule, chúng ta nhớ lại nguồn gốc đức tin của chúng ta, và chúng ta tôn vinh chính Thiên Chúa, Đấng kỳ diệu nơi các thánh của Người.
Thánh Gioan Lêônarđô, linh mục
cùng ngày 9/10
Thánh Gioan Lêônarđô sinh năm 1541 tại Luca miền Tuscia. Từ nhỏ thánh nhân đã theo học ngành thuốc, nhưng rồi bỏ nghề, Ngài muốn làm linh mục. Năm 25 tuổi, Ngài mới bắt đầu học tiếng Latinh, triết học và thần học. Năm 1571, Ngài được thụ phong linh mục. Sau khi chịu chức, người rất tích cực hoạt động tông đồ, nhất là ở bệnh viện và nhà tù. Sự tận tụy và gương mẫu đời sống của người đã thu hút vài người trẻ, và họ bắt đầu tiếp tay với người. Sau này chính họ cũng trở thành linh mục.
Hồi đó tại Tuscia, tinh thần đạo đức của dân chúng bị hoang mang vì lạc thuyết mà Bêrnađinô thành Sienna gieo vãi. Là linh mục trẻ đầy nhiệt huyết, cha Gioan đã tìn cách chấn hưng bằng việc chăm lo giảng dạy và ngồi tòa. Hơn nữa, cha còn lập “hội giáo lý” qui tụ những người có thiện chí lo việc dạy giáo lý cho các trẻ em.
Phấn khởi với luồng gió cải cách mà Công Ðồng Triđentinô đề ra, Cha Gioan và các linh mục bạn đề nghị một tổ chức cho các linh mục địa phận. Năm 1574, thánh Gioan Lêônarđô thành lập một hội dòng, đặt trụ sở tại nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi. Ðề nghị này bị chống đối dữ dội, nhưng vào năm 1583, tổ chức của người được đức giám mục của Lucca công nhận với sự phê chuẩn của Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô XIII vào năm 1621, tổ chức này được chính thức đặt tên là Các Tu Sĩ Chuyên Nghiệp của Mẹ Thiên Chúa. Đức Giáo Hoàng Grêgoriô XV đặt tu hội ngang hàng với các dòng tu kỳ cựu khác. Cha Gioan được sự trợ giúp của Cha Philíp Nêri và ChaGiuse Calasanctius, và vào năm 1595, tổ chức này được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê VIII công nhận, và đức giáo hoàng đã giao cho Cha Gioan công việc chấn chỉnh các tu sĩ ở Vallombrosa và Monte Vergine.
Nhiệt tình của thánh Gioan Lêônarđô và của dòng do Ngài sáng lập, đã mang lại nhiều thành quả tốt đẹp. Nhưng cũng vì thành công này, mà Ngài phải chịu rất nhiều thử thách. Cuối cùng, Ngài đành phải chịu rời Tuscia để về Rôma. Tại đây, Ngài được Đức Giáo Hoàng Grêgoriô XIII tiếp đón ân cần. Ngài cũng có dịp làm quen với thánh Philpphê Nêri, là một người hiền hoà tận tụy, thánh Gioan Lêônarđô được nhiều người tín nhiệm, Ngài còn giải quyết được nhiều cuộc tranh chấp khó khăn.
Tại Rôma, thánh Gioan Lêônarđô vẫn nuôi mộng truyền giáo. Cùng với Đức Hồng Y Baotixita Vivès, năm 1603, Ngài góp phần đào tạo nhiều giáo sĩ các xứ truyền giáo. Năm 1627, Đức Giáo Hoàng Urbanô VIII chính thức thiết lập ngôi trường mà thánh Gioan Lêônarđô đặt nền móng thành “trường truyền giáo”, quy tụ các chủng sinh từ các nước xa xăm.
Ngày 09 tháng 10 năm 1609, Gioan Lêônarđô từ trần, khi mới 68 tuổi vì bị lây bệnh dịch khi chăm sóc các bệnh nhân ở Rôma. Người được sùng kính vì những phép lạ và lòng đạo đức nhiệt thành của người, và được coi là một trong những sáng lập viên của Thánh Bộ Truyền Bá Ðức Tin. Người được Ðức Giáo Hoàng Piô XI tuyên thánh năm 1938. Năm 1706, Giáo Hội lập hồ sơ phong thánh cho Ngài. Năm 1861, Ngài được nâng lên hàng Á thánh và năm 1938 Người được Ðức Giáo Hoàng Piô XI tuyên thánh.
Trong buổi tiếp kiến chung hằng tuần tại quảng trường thánh Pherô sáng thứ Tư 7 tháng 10 năm 2009, Ðức thánh cha Beneđitô XVI ôn lại gương sáng của thánh Gioan Leonardi, quan thầy của các dược sĩ. Ðức thánh cha nói rằng, vị thánh người Ý này có thể chỉ cho chúng ta thấy rằng "phương dược của Thiên Chúa, tức Chúa Giêsu, là thước đo của mọi sự".
Cùng với đức ông Juan Vives và cha Martin de Funes, một linh mục Dòng Tên, thánh Gioan Leonardi đã giúp thành lập Trường Truyền Giáo chuyên đào tạo các linh mục.
Mặc dù hiến thân phục vụ Chúa và Giáo hội bằng cuộc sống thánh hiến, thánh nhân không bao giờ quên ngành dược. Ngài xác tín rằng "phương dược của Thiên Chúa, tức Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã chịu đóng đinh và sống lại, là thước đo mọi sự".
Thánh nhân cũng làm cố vấn cho một nhóm bạn trẻ mà năm 1574 được qui tụ thành Dòng các linh mục Ðức Trinh Nữ Canh Tân, về sau được biết đến dưới danh hiệu "Các giáo sĩ dòng Mẹ Thiên Chúa".
Ôn lại cuộc đời của thánh Gioan Leonardi, Ðức thánh cha nói: "Gương sáng của vị thánh này mời gọi tất cả mọi tín hữu Kitô, cách riêng các linh mục, hãy cố gắng không ngừng để tiến đến "thước đo cao nhứt của đời sống Kitô là sự thánh thiện". Theo Ðức thánh cha, "chỉ xuyên qua sự trung thành với Chúa Kitô mà sự canh tân Giáo hội đích thực mới có thể phát sinh".
Ðức thánh cha nhắc lại rằng vào thời thánh Gioan Leonardi, người ta đã bắt đầu thấy có sự rạn nứt giữa đức tin và lý trí. Trào lưu này tạo ra những hậu qua tiêu cực, đẩy Thiên Chúa ra bên lề cuộc sống và tạo ra ảo tưởng về sự tự trị hoàn toàn của con người, sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu.
Ðức thánh cha nói rằng đây cũng chính là cuộc khủng hoảng trong tư tưởng hiện đại mà ngài đã nhiều lần nói đến khi đề cập đến những hình thức của chủ nghĩa duy tương đối.
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp TGP Sài Gòn, TGP Hà Nội, Người Tín Hữu, GP Vĩnh Long, Giáo Xứ Tân Việt, VNTaiwan
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 3, 1-5
"Anh em đã lãnh nhận Thánh Thần bởi giữ luật hay bởi vâng phục đức tin?"
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Ôi những người Galata vô tâm trí, ai đã mê hoặc anh em bất phục chân lý tỏ bày Ðức Giêsu Kitô trước mặt anh em, Ðấng chịu đóng đinh vào thập giá trong anh em? Tôi chỉ muốn anh em cho biết một điều này: là anh em đã lãnh nhận Thánh Thần bởi giữ luật hay bởi vâng phục đức tin? Chớ thì anh em vô tâm trí đến nỗi anh em đã khởi công theo tinh thần, để rồi giờ đây kết thúc theo xác thịt sao? Anh em đã chịu đựng bao nhiêu chuyện như thế luống công sao, nếu có thể nói là luống công? Vậy Ðấng ban Thánh Thần cho anh em và làm những việc lạ lùng nơi anh em, có phải Người hành động bởi anh em giữ luật hay bởi anh em vâng phục đức tin?
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Lc 1, 69-70. 71-72. 73-75
Ðáp: Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài (c. 68).
Xướng: 1) Chúa đã gầy dựng cho chúng ta một uy quyền cứu độ, trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa. Như Ngài đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa. - Ðáp.
2) Ðể giải phóng chúng ta khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng ta. Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta, và nhớ lại lời thánh ước của Ngài. - Ðáp.
3) Lời minh ước mà Ngài tuyên thệ với Abraham tổ phụ chúng ta rằng: Ngài cho chúng ta được không sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù; phục vụ Ngài trong thánh thiện và công chính, trước tôn nhan Ngài, trọn đời sống chúng ta. - Ðáp.
Alleluia: Lc 4, 18-19
Alleluia, alleluia! - Chúa đã sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 11, 5-13
"Các con hãy xin thì sẽ được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: "Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi anh ấy". Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: "Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được". Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần.
"Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Sống đạo có thiệt thòi ... mới là sống đạo, mới được như ý
Bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XXVII Thường Niên hôm nay tiếp tục tinh thần cầu nguyện của bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến lòng tin tưởng vào Đấng ban ân sủng cho những ai chân thành thỉnh nguyện. Nguyên văn toàn bài Phúc Âm hôm nay là:
"Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thiết đãi anh ấy. Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được. Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần. Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người".
Trong bài Phúc Âm hôm nay chúng ta cảm thấy như thể xin gì được nấy, xin gì cũng được, căn cứ vào lời Chúa vừa thúc giục: "Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho", vừa hứa quyết: "Vì hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho".
Có hai lý do để xin gì được nấy, như chiều hướng của bài Phúc Âm cho thấy: trước hết là chỉ cần nhẫn nại kêu xin bằng cách liên tục quấy rầy Chúa: "Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần".
Lý do chính yếu để được những gì mình xin là tin tưởng vào tấm lòng yêu thương vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng là Cha trên trời bao giờ cũng yêu thương con cái và muốn ban cho con cái những gì tốt nhất và lợi nhất:
"Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người".
Tất nhiên, một khi đã sâu xa và đích thực nhận biết Thiên Chúa là Cha nhân lành và hoàn toàn tin tưởng vào Ngài thì con người có thể biết được những gì đẹp lòng Ngài nhất, và chỉ xin những gì đáng xin, cần xin và phải xin mà thôi, nhất là xin cho tha nhân, xin vì đức bác ái yêu thương v.v. như trường hợp được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thiết đãi anh ấy".
Trong Bài Đọc 1 hôm nay Thánh Phaolô nhắc nhở với giáo đoàn Galata và nhấn mạnh đến vấn đề, có thể nói là then chốt cho ngài cũng như cho chung dân Do thái và cho riêng thành phần trí thức của dân này, thành phần thông luật, giữ luật và dạy luật biệt phái như chàng Saolê ngày xưa, đó là "anh em đã lãnh nhận Thánh Thần bởi giữ luật hay bởi vâng phục đức tin?", và ngài đồng thời cũng trả lời cho họ bằng một nghi vấn khẳng định khác rằng: "Vậy Ðấng ban Thánh Thần cho anh em và làm những việc lạ lùng nơi anh em, có phải Người hành động bởi anh em giữ luật hay bởi anh em vâng phục đức tin?"
Ở đây, Thánh Phaolô nhấn mạnh đến yếu tố bất khả thiếu nơi Kitô hữu để được nên công chính và thánh hóa, đó là "vâng phục đức tin" hay "đức tin tuân phục" (Roma 1:5) cũng vậy, chứ không phải là "giữ luật" theo chủ trương và khuynh hướng duy luật của thành phần trí thức Do Thái giáo. Bởi vì, chỉ sống đức tin tuân phục, Kitô hữu mới tiến đến chỗ từ đức tin đến đức ái: "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6), một đức ái đã khiến "người bạn" tốt lành, được dụ ngôn Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại liên quan đến việc cầu nguyện bằng tất cả tấm lòng, một tấm lòng yêu thương bác ái tận tình đối với khách đến thăm nhà của anh ta, mà anh ta lại không có gì để thiết đãi, đến độ, dù đêm khuya, anh ta cũng cố gắng đi kiếm lấy một cái gì đó cho khách, dù bản thân anh có vất vả và có bị người khác la rầy trách móc chăng nữa.
Hành động của "người bạn" trong Bài Phúc Âm hôm nay hết sức bác ái yêu thương trọn lành như thế không thể nào xẩy ra nếu "người bạn" này không có "đức tin tuân phục", một "đức tin thể hiện qua đức ái" bất chấp mọi sự, không biết sợ hãi, vì họ đã được Chúa Kitô cứu độ, đã được Người "giải phóng khỏi tay quân thù" (Đáp Ca đầu câu xướng 2), nên đã thật sự cho thấy lời ý nghĩa sâu xa trong lời của tư tế Giacaria ở Ca Vịnh Chúc Tụng Benedictus của ông nơi Bài Đáp Ca hôm nay, cuối câu xướng thứ 3: "Ngài cho chúng ta được không sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù; phục vụ Ngài trong thánh thiện và công chính, trước tôn nhan Ngài, trọn đời sống chúng ta".
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 3, 7-14
"Những ai cậy dựa vào đức tin, sẽ được chúc phúc với Abraham, con người tin tưởng".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, anh em hãy nhận biết rằng: những ai cậy dựa vào đức tin, thì họ là con cái của Abraham. Thực Kinh Thánh thấy trước rằng Thiên Chúa sẽ dùng đức tin làm cho các dân ngoại được công chính, nên đã tiên báo cho Abraham rằng: "Nơi ngươi tất cả dân ngoại sẽ được chúc phúc". Vậy những ai cậy dựa vào đức tin sẽ được chúc phúc với Abraham, con người tin tưởng.
Thực ra, những người cậy dựa vào lề luật, họ mắc phải điều vô phúc, vì có lời chép rằng: "Vô phúc những ai không trung thành với những điều ghi trong Sách Luật, để thi hành những điều đó". Ðàng khác, không ai được công chính hoá trước mặt Chúa bởi lề luật, đó là điều hiển nhiên, vì lẽ rằng: "Người công chính sẽ sống bởi đức tin". Lề luật không căn cứ ở đức tin, nhưng là "Ai thực hành những khoản ấy, sẽ nhờ đó mà được sống".
Ðức Kitô đã cứu chuộc chúng ta khỏi điều vô phúc của lề luật, bởi Người đã vì chúng ta, biến thành điều vô phúc, như lời chép rằng: "Hễ ai bị treo trên cây gỗ, đều là vô phúc", để phúc lành của Abraham được chuyển tới các dân ngoại trong Ðức Giêsu Kitô, hầu chúng ta nhờ đức tin mà lãnh nhận Thánh Thần Chúa đã hứa".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 110, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Cho tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 5b).
Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi! - Ðáp.
2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Người muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi. - Ðáp.
3) Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Người, cho tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước. Chúa tỏ cho dân Người thấy công cuộc quyền năng của Người, hầu ban cho họ được phần sản nghiệp của chư dân. - Ðáp.
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời, và vinh quang trên các tầng trời! - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 11, 15-26
"Nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, (lúc Chúa Giêsu trừ quỷ), thì có mấy người trong dân chúng nói rằng: "Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ". Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống.
Nhưng Người biết ý của họ, liền phán: "Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.
"Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tán hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán.
"Khi thần ô uế ra khỏi người nào, thì nó đi dông dài những nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng không tìm được, nên nó nói rằng: "Ta sẽ trở lại nhà ta, nơi ta đã ra đi". Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được quét sạch và sắp đặt ngăn nắp. Bấy giờ nó đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và tình trạng sau cùng của người ấy trở nên tệ hại hơn trước".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Khi thần ô uế trở về...
Bài Phúc Âm cho Thứ Sáu Tuần XXVII Thường Niên hôm nay cách bài Phúc Âm hôm qua chỉ có một câu duy nhất, đó là câu "Chúa Giêsu trừ một quỉ câm, và khi tên quỉ này bị khu trừ thì người câm nói được. Thấy thế đám đông tỏ ra bàng hoàng kinh ngạc" (Luca 11:14).
Tuy nhiên, giữa lúc hầu hết dân chúng chứng kiến thấy thế thì đều tỏ ra bàng hoàng kinh ngạc như vậy, cũng còn có một số người vẫn nhất định không tin bằng những dẫn giải lệch lạc hay tiếp tục đòi hỏi hơn thế nữa theo ý của họ rồi mới chịu tin, như bài Phúc Âm hôm nay kể tiếp: "thì có mấy người trong dân chúng nói rằng: 'Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ'. Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống".
Trước thái độ thách thức của một thiểu số con người cứng lòng tin này, Chúa Giêsu đã nhẫn nại cho họ thấy những dẫn giải của họ là sai lầm, hoàn toàn mâu thuẫn, khi Người lấy gậy ông đập lưng ông, lấy chính lập luận của họ để bẻ gẫy họ, khiến họ cứng họng, ở chỗ:
"Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
Phải, Chúa Giêsu đã chẳng những vạch ra cho những con người cứng lòng tin này thấy cái mâu thuẫn đầy thành kiến của họ mà còn từ đó cho họ thấy dấu chỉ thời đại về Nước Thiên Chúa ở ngay sự kiện Người trừ quỉ câm bấy giờ nữa: "Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
Nếu theo nguyên tắc "Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán", như Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, thì những kẻ dẫn giải sai lầm về sự kiện trừ quỉ câm của Người trong bài Phúc Âm là thành phần nghịch với Người, đồng thời cũng vì thế mà trở thành những kẻ "phân tán" hay cũng gọi là thành phần thọc gậy bánh xe hay thành phần phá đám.
Đoạn cuối cùng của Bài Phúc Âm hôm nay cũng rất đáng chú ý, bởi vì nó hình như liên quan đến chính bản thân của con người được Chúa Giêsu trừ quỉ cho:
"Khi thần ô uế ra khỏi người nào, thì nó đi dông dài những nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng không tìm được, nên nó nói rằng: 'Ta sẽ trở lại nhà ta, nơi ta đã ra đi'. Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được quét sạch và sắp đặt ngăn nắp. Bấy giờ nó đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và tình trạng sau cùng của người ấy trở nên tệ hại hơn trước".
Ở đây chúng ta có thể áp dụng vào trường hợp của thành phần tân tòng được trừ quỉ nhờ Phép Rửa lúc họ được thanh tẩy khỏi nguyên tội, hay trường hợp của thành phần được trừ quỉ nhờ quyền năng tha tội của Thiên Chúa trong tòa giải tội, hoặc trường hợp của những tâm hồn được trừ quỉ bởi ân sủng dồi dào nhờ một cuộc tĩnh tâm tuyệt vời nào đó v.v.
Thế nhưng, trong tiến trình tiến đức và hành trình đức tin, nhất là gặp những giai đoạn khô khan nguội lạnh, các đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu, (là những gì không bao giờ bị tiêu diệt hoàn toàn trong con người dù họ đã được lãnh nhận Phép Rửa, đã được thánh hóa), bấy giờ chúng như bừng tỉnh sau một thời gian thiếp ngủ trước tác dụng của ân sủng thần linh nơi tâm hồn tân tòng hay mới hòa giải hoặc mới tĩnh tâm sốt sắng về, như nằm chờ thời cơ, lại bắt đầu được dịp tái hoành hành và tung hoành còn dữ dội hơn trước nữa, khiến tình trạng tâm hồn ấy trở nên khốn đốn hơn bao giờ hết.
Trong Bài Đọc 1 hôm nay, vị tông đồ dân ngoại đã nhắc nhở thành phần Kitô hữu thuộc giáo đoàn dân ngoại Galata về việc họ cần phải sống bằng đức tin, vì nhờ yếu tố đức tin này, mà họ đã "lãnh nhận Thánh Thần Chúa đã hứa" qua Phép Rửa Tái Sinh, vì "Ðức Kitô đã cứu chuộc chúng ta khỏi điều vô phúc của lề luật, bởi Người đã vì chúng ta, biến thành điều vô phúc". Và chỉ khi nào họ tiếp tục sống bằng đức tin và sống theo đức tin, dưới tác động của Thánh Thần như "gió muốn thổi đâu thì thổi" (Gioan 3:9) nơi họ, nghĩa là họ không sống tự nhiên theo khuynh hướng thế gian trần tục, thì tình trạng ngôi nhà nội tâm của họ sẽ không sợ bị "trở nên khốn nạn hơn trước", như Chúa Giêsu cảnh báo trong Bài Phúc Âm hôm nay.
Chính vì sống đức tin, nghĩa là nhờ ân sủng của Chúa, mà con người được thánh hóa và sống công chính, con người mới chẳng những tránh được thái độ tự phụ tự mãn của thành phần tự cho mình là công chính do bởi việc tuân giữ lề luật, hay việc họ sống đạo đức, mà còn thật lòng hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, cùng mau mắn đáp ứng từng tác động của Thánh Linh nơi họ, nhờ đó họ mới có thể bày tỏ tất cả tâm tình và xác tín của mình như trong Thánh Vịnh 110 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi!
2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Người muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi.
3) Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Người, cho tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước. Chúa tỏ cho dân Người thấy công cuộc quyền năng của Người, hầu ban cho họ được phần sản nghiệp của chư dân.
Ngày 11/10
Đức Thánh Cha Gioan XXIII là người đã triệu tập Công Đồng Vatican II, mở cánh cửa Giáo Hội ra với thế giới bên ngoài, và đem một sinh khí mới vào đời sống của Giáo Hội.
Triệu tập Công đồng là một công việc vĩ đại, phát xuất từ nhiều lo lắng cho tương lai Giáo Hội với quá nhiều vấn đề khó khăn, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lại vẫn thường cầu nguyện rất đơn sơ nhẹ nhàng trước giờ đi ngủ: “Lạy Chúa, Giáo Hội là của Chúa, con chỉ là tôi tớ. Giáo Hội mạnh yếu thành đạt là trách nhiệm của Chúa. Con đã làm bổn phận của con, giờ này đến giờ con đi ngủ, xin Chúa ban phúc lành cho con.” Nói thế rồi, Ngài đi vào giấc ngủ ngon. Như vậy, dù thường xuyên suy tư trăn trở cho Giáo Hội, ngài lại rất thực tế sống tinh thần phó thác - giống như chỉ chuyên chăm hoàn tất bổn phận hằng ngày của mình với "Mười Điều Tâm Niệm" mà ngài đã đề ra cho mình.
Đức Gioan XXIII cũng thường được gọi là "Giáo hoàng Gioan nhân hậu". Ngài coi mình là "con cái của Thánh Phanxicô" khi gia nhập Dòng Ba Phanxicô lúc còn là một chủng sinh. Vị Giáo hoàng khiêm tốn này thường bắt chước lời của ông Giuse ở Ai Cập (Cựu Ước) chào hỏi các thành viên của Dòng Ba Phanxicô: "Tôi là Giuse, người anh em của quý vị."
Vị Giáo hoàng thứ 261 này có tên khai sinh là Angelo Giuseppe Roncalli, sinh tại làng Sotto il Monte, thuộc tỉnh Bergamo, vào ngày 25.11.1881, con trai đầu của ông Giovanni Battista Roncalli và bà Marianna Mazzola. Ngay buổi chiều hôm đó, trẻ sơ sinh Angelo được rửa tội. Người đỡ đầu là ông Zaverio Roncalli, một trong những người bác của ông bố Battista, rất đạo đức, ở độc thân, tự nhận lấy bổn phận dạy giáo lý cho nhiều đứa cháu. Sau này, Đức Gioan XXIII đã cảm động nhớ lại nhiều kỷ niệm và biết ơn về những lo lắng chăm sóc của ông.
Ngay từ thời thơ ấu, đã có một khuynh hướng nghiêm chỉnh về đời sống Giáo hội, nên sau khi học học bậc tiểu học, cậu chuẩn bị vào chủng viện giáo phận nhờ sự trợ giúp học thêm tiếng Ý và tiếng Latinh của một số linh mục trong khi theo học tại một trường có uy tín của Celana. Ngày 07-11-1892, cậu gia nhập chủng viện Bergamo. Sau khi hoàn tất tốt đẹp năm thứ hai của thần học vào tháng Bảy năm 1900, thầy được gửi về Roma vào tháng Giêng năm sau để vào chủng viện Apollinare, nơi có một số học bổng cho hàng giáo sĩ thuộc giáo phận Bergamo.
Ngày 13 tháng 7 năm 1904, mới hai mươi tuổi rưỡi, thầy đậu tiến sĩ thần học. Ngày 10 tháng 8 năm 1904, thầy được thụ phong linh mục trong nhà thờ Đức Maria di Monte Santo; ngài cử hành Thánh Lễ đầu tiên vào ngày hôm sau trong Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô. Dịp này, ngài quyết tâm tận hiến hoàn toàn cho Chúa Kitô và hết lòng trung thành với Giáo hội.
Sau một thời gian ngắn về nghỉ tại quê nhà, vào tháng Mười, ngài bắt đầu theo học giáo luật tại Rôma, và rồi phải nghỉ học vào tháng Hai năm 1905, khi ngài được chọn làm thư ký của Giám mục mới của giáo phận Bergamo, Đức cha Giacomo Radini Tedeschi.
Ngoài nhiệm vụ thư ký, ngài còn kiêm nhiệm nhiều công việc khác. Từ năm 1906, ngài đảm nhiệm giảng dạy nhiều môn học trong chủng viện: Lịch sử giáo hội, Giáo phụ và Hộ giáo. Từ năm 1910, ngài cũng phụ trách môn Thần học cơ bản. Ngài nghiên cứu lịch sử địa phương, xuất bản tác phẩm viết về những chuyến viếng thăm mục vụ của thánh Carlo Bergamo (1575), một nỗ lực trong nhiều thập kỷ dài và tiếp tục cho đến những ngày trước cuộc bầu cử Giáo hoàng. Ngài cũng là chủ nhiệm tờ báo định kỳ của giáo phận “La Vita Diocesana" và kể từ năm 1910, ngài làm trợ úy cho Liên hiệp những Phụ nữ Công giáo.
Khi Thế chiến thứ I bùng nổ, vào năm 1915 ngài làm tuyên úy hơn ba năm với cấp bậc trung sĩ, chăm sóc thương binh trong các bệnh viện ở Bergamo. Vào tháng Bảy năm 1918, ngài dấn thân phục vụ cho những người lính bị bệnh lao.
Tiếp theo, ngài được giao phụ trách công việc của Bộ Truyền giáo tại Ý, đồng thời cũng làm linh hướng trong chủng viện. Ngài đã thực hiện một chuyến đi lâu dài ra ngoại quốc để thi hành kế hoạch của Tòa Thánh nhằm mang về Roma những tổ chức khác nhau để hỗ trợ cho công cuộc truyền giáo và viếng thăm một số giáo phận Ý để quyên góp nguồn tài trợ và giải thích về công việc mà ngài đang phụ trách.
Vào năm 1925, với sự bổ nhiệm làm Visitatore Apostolico tại Bulgaria, ngài đã bắt đầu giai đoạn phục vụ cho ngành ngoại giao của Tòa Thánh cho đến năm 1952. Sau lễ phong chức giám mục diễn ra tại Roma vào ngày 19 tháng 3 năm 1925, ngài khởi hành đi Bulgaria để giúp đỡ cho cộng đoàn Công giáo nhỏ bé và đang gặp nhiều khó khăn tại đó. Trong hàng chục năm, Đức cha Roncalli đã đặt nền móng cho việc thiết lập một Tông tòa mà ngài đã được bổ nhiệm làm vị đại diện đầu tiên vào năm 1931. Ngài phục hồi được mối quan hệ thân thiện với Chính phủ và Hoàng gia Bulgaria, mặc dù có đôi chút trở ngại vì đám cưới theo nghi lễ chính thống của vua Boris với công chúa Giovanna của hoàng gia Savoia, và đó cũng là dịp để khởi động những mối quan hệ đại kết đầu tiên với Giáo hội Chính thống Bulgaria.
Vào ngày 27-11-1934, ngài được bổ nhiệm làm Khâm sứ Tòa Thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp. Các nước này chưa có quan hệ ngoại giao với Vatican. Với tính nhạy bén và năng động của mình, ngài đã tổ chức được một số lần gặp gỡ chính thức với Đức Thượng phụ Constantinople sau nhiều thế kỷ tách biệt với Giáo hội Công giáo.
Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, ngài đã thận trọng giữ được tính trung lập, giúp cho cả hàng ngàn người Do Thái khỏi thành nạn nhân diệt chủng, và giúp cho người Hy Lạp thoát khỏi nạn đói.
Ngài được bổ nhiệm về làm Khâm sứ tại Paris vào ngày 30 tháng 12 năm 1944. Một hoàn cảnh khá phức tạp đang chờ đợi. Chính phủ lâm thời buộc tội Giáo hội hợp tác với chính phủ Vichy và đòi Giáo hội phải thoái vị ba mươi giám mục. Nhờ sự bình tĩnh và linh động của vị tân sứ thần, chỉ có ba vị bị bãi nhiệm. Phẩm chất con người của ngài đã mang lại sự kính nể trong bối cảnh ngoại giao và chính trị tại Paris.
Sau khi lãnh tước vị hồng y, ngài được chuyển về Venice vào ngày 5 tháng 3 năm 1953 và hoàn thành nhiệm vụ giám mục tại đây cách tốt đẹp với những chuyến thăm viếng mục vụ, cử hành Công nghị giáo phận, thực hiện kế hoạch làm cho các tín hữu gần gũi với Kinh Thánh...
Ngày 28 tháng 10 năm1958, ngài được bầu chọn làm giáo hoàng. Một vị Giáo hoàng nhận chức khi đã bảy mươi bảy tuổi khiến nhiều người nghĩ rằng đây chỉ là một triều đại chuyển tiếp. Nhưng ngay từ đầu, Đức Gioan XXIII đã tỏ ra là một giáo hoàng của thời đại: khôi phục lại các hoạt động đúng đắn trong các cơ quan của giáo triều, viếng thăm các giáo xứ, bệnh viện và nhà tù của giáo phận Rôma, triệu tập Công nghị giáo phận...
Sự đóng góp lớn nhất của Đức Gioan XXIII là việc triệu tập Công đồng Vatican II, được loan báo trong Vương cung Thánh đường Thánh Phaolô vào ngày 25 tháng 01 năm 1959. Các mục tiêu ban đầu của Công đồng được nêu rõ trong bài phát biểu vào lễ khai mạc ngày 11 tháng 10 năm 1962: không phải là để đưa ra những chân lý mới, nhưng để xác định lại các học thuyết truyền thống phù hợp hơn với sự nhạy cảm đương đại. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII mời gọi Giáo hội, thay vì lên án và công kích, hãy hướng về lòng thương xót và ủng hộ việc đối thoại với thế giới, trong một nhận thức mới về sứ mệnh của Giáo Hội là đón nhận tất cả mọi người. Trong tinh thần cởi mở phổ quát ấy, các giáo hội Kitô khác cũng được mời tham dự vào Công đồng để khởi đầu một tiến trình xích lại gần nhau hơn.
Vào mùa xuân năm 1963, Đức Gioan XXIII được trao giải thưởng Balzan về hòa bình, xác nhận những nỗ lực của ngài đối với hòa bình qua việc ban hành Thông điệp Mater et Magistra (1961) và Pacem in Terris (1963), cũng như vai trò của ngài trong cuộc khủng hoảng tại Cuba vào mùa thu năm 1962.
Ngài qua đời vào tối ngày 3 tháng 6 năm 1963 và được phong thánh vào ngày 27-4-2014 lúc 10g tại Vatican.
Gioan XXIII: Giáo Hội cởi mở đại đồng đại kết
Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tiếp tục truyền thống của các giáo hoàng tiền nhiệm, muốn giáo triều chứng tỏ sức mạnh và quyền lực của mình trên cả thế giới. Các Kitô Hữu Tin Lành và các người khác thường cho rằng đức giáo hoàng, và người Công Giáo nói chung, hay đắc thắng, kiêu ngạo đề cao sự vinh hiển và quyền lực thần thánh của Giáo Hội Công Giáo mà không nhận ra sự yếu đuối và khuyết điểm của con người. Vì lý do này, Giáo Hội Công Giáo không được sự tin tưởng của những người bên ngoài giáo hội khi họ thấy các giáo hoàng và Giáo Hội Công Giáo cũng chỉ là một tổ chức con người và cũng phạm tội.
Vị giáo hoàng thay đổi toàn thể hình ảnh của Giáo Hội Công Giáo trong cái nhìn của thế giới là Ðức Gioan XXIII. Trong khi các giáo hoàng trước đây mang hình ảnh của một đấng vị vọng và ngay cả xa cách với người dân, Ðức Gioan XXIII là một người vui tính, thật tự nhiên, yêu quý đời sống cũng như dân chúng và ngài không ngần ngại bộc lộ điều ấy. Ðó là một ông cụ bảy mươi sáu tuổi thường mời bạn hữu đến dùng cơm, hay lang thang trên đường phố Rôma để chuyện trò với dân chúng, luôn đến thăm các bệnh viện và nhà tù, và thường kể chuyện vui làm mọi người đều thích thú. Người Công Giáo và Kitô Hữu nói chung đều hân hoan khi thấy đức giáo hoàng cũng là một con người bình thường, và ngài đã chinh phục được nhiều tâm hồn cũng như sự trung kiên của nhiều người.
Tuy nhiên, thật sai lầm khi nghĩ rằng Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII là một người hiểu biết tầm thường. Ðiều nổi bật trong triều đại ngắn ngủi của ngài là sự tin cậy vào Thiên Chúa và cái nhìn sáng suốt của ngài. Thay vì công khai chống đối cộng sản, hoặc bất cứ chính thể nào, Ðức Gioan XXIII tìm cách hòa giải và chuyển trao thông điệp của ngài đến với mọi người: Pacem in Terris (Hoà Bình Trên Thế Giới) và Mater et Magister về trật tự xã hội. Ngài kêu gọi mọi người hãy cùng nhau làm việc để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, phù hợp với các nguyên tắc về công bằng và ích lợi chung mà đã được mọi người công nhận.
Ðức Gioan XXIII còn là người mở đường cho phong trào đại kết, tái hợp nhất mọi Kitô Hữu. Vào đầu thế kỷ mười chín, sự lưu tâm mạnh mẽ đến vấn đề đại kết được phát sinh trong công cuộc truyền giáo của Tin Lành. Họ thấy thật dại dột và hổ thẹn khi các giáo phái Kitô Giáo khác nhau lại tranh dành các lãnh thổ truyền giáo. Các tổ chức nổi tiếng như "Faith and Order" (1925) và "Life and Work" (1927) cố gắng đem người Tin Lành lại với nhau trên phương diện học thuyết và phục vụ. Vào năm 1948, các tổ chức này kết hợp thành tổ chức duy nhất "World Council of Churches". Giáo Hội Công Giáo vẫn đứng tách biệt không dính dáng gì đến sinh hoạt đại kết này, vì cho rằng các người Tin Lành phải giải quyết các mâu thuẫn của họ trước khi thảo luận về sự tương giao với Giáo Hội Công Giáo. Các giáo hoàng tiền nhiệm cho rằng Ðức Giêsu chỉ thiết lập một đức tin và một giáo hội thực, là Giáo Hội Công Giáo. Trong khi không từ chối tính cách độc đáo của Giáo Hội Công Giáo, Ðức Gioan XXIII nhận thức rằng người Công Giáo phải đến với các Kitô Hữu khác và cộng tác với họ để tìm kiếm sự hiệp nhất mà Ðức Giêsu đã mong muốn cho dân của Ngài. Ðức Gioan XXIII đặc biệt yêu quý Giáo Hội Chính Thống Giáo, vì ngài từng là đại diện đức giáo hoàng ở vùng Cận Ðông. Khi đến lúc triệu tập công đồng, Ðức Gioan XXIII đã mời các quan sát viên từ mọi truyền thống Kitô Giáo, và đón nhận các ý kiến cũng như suy tư của họ về diễn tiến của công đồng.
Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII: "Mười Điều Tâm Niệm" Sống Ngày Hôm Nay
1. Ngày hôm nay, tôi sẽ sống tích cực trọn vẹn, chứ không tìm cách
giải quyết mọi vấn đề của đời mình.
2. Ngày hôm nay, tôi sẽ chú ý đặc biệt đến dáng vẻ của mình: ăn mặc
đơn sơ, không lớn tiếng, lịch sự trong cách ứng xử; tôi sẽ không
phê phán ai; tôi cũng sẽ không đòi ai phải ứng xử hoặc kỷ luật ai,
trừ ra chính con người của mình.
3. Ngày hôm nay, tôi vui sướng tin chắc rằng tôi được tạo dựng để
sống hạnh phúc, không chỉ cho đời sau mà ngay cả từ đời này.
4. Ngày hôm nay, tôi sẽ sống theo hoàn cảnh của mình, mà không đòi
hỏi hoàn cảnh phải phù hợp với những ước muốn của tôi.
5. Ngày hôm nay, tôi sẽ dành 10 phút để đọc điều gì thật hữu ích, và
luôn nhớ rằng lương thực cần cho cuộc sống như thế nào thì đọc điều
hữu ích cũng cần thiết để nuôi dưỡng cho linh hồn mình như vậy.
6. Ngày hôm nay, tôi sẽ làm một điều tốt mà không kể cho ai nghe.
7. Ngày hôm nay, tôi sẽ làm ít nhất một điều tôi không thích: và nếu
tôi bị tổn thương, thì tôi cũng không cho ai biết điều này.
8. Ngày hôm nay, tôi sẽ hoạch định một chương trình cho riêng tôi:
tôi có thể không theo sát được từng chữ, nhưng tôi sẽ có một chương
trình như thế. Và tôi sẽ đề phòng hai điều tai hại: cẩu thả và lừng
khừng, không dám quyết tâm.
9. Ngày hôm nay, tôi tin chắc rằng, dù thế nào đi nữa, thì Thiên
Chúa vẫn yêu thưong tôi như chỉ có mình tôi trên thế gian này.
10. Ngày hôm nay, tôi sẽ không sợ hãi gì. Tôi sẽ không ngần ngại
thưởng ngoạn vẻ đẹp thiên nhiên và tin tưởng vào lòng nhân ái của
con người và cuộc đời.
Thực thế, trong vòng 12 tiếng đồng hồ, tôi chắc chắn có thể làm tốt
điều mà tôi nghĩ rằng sẽ thật kinh hoàng nếu phải làm nó suốt cả
đời.
Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp từ tài liệu của TGP Sài Gòn, Đaminh VN và Muốn Nên Thánh
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 3, 22-29
"Tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, Thánh Kinh đã giam giữ mọi loài dưới ách tội lỗi, để nhờ lòng tin vào Ðức Giêsu Kitô mà lời hứa được ban tặng cho những kẻ tin.
Nhưng trước khi đức tin chưa đến, thì chúng ta bị giam giữ dưới ách lề luật, để mong chờ đức tin sẽ được tỏ hiện. Bởi thế, lề luật là thầy dạy đưa chúng ta đến cùng Ðức Kitô, để nhờ đức tin, chúng ta được công chính hoá. Nhưng một khi đức tin đã đến, chúng ta không còn ở dưới quyền thầy dạy nữa. Bởi chưng, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô. Vì chưng, tất cả anh em đã chịu phép rửa tội trong Ðức Kitô, nên anh em đã mặc lấy Ðức Kitô. Nay không còn phân biệt người Do-thái và Hy-lạp, người nô lệ và tự do, người nam và người nữ: vì tất cả anh em là một trong Ðức Giêsu Kitô. Nhưng nếu anh em thuộc về Ðức Kitô, thì anh em là dòng dõi Abraham, những kẻ thừa tự như lời đã hứa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 104, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).
Xướng: 1) Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. Hãy tự hào vì danh thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. - Ðáp.
2) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết. - Ðáp.
3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những người được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.
Alleluia: Ga 1, 14 và 12b
Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 11, 27-28
"Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ cất tiếng nói rằng: "Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!" Nhưng Người phán rằng: "Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Mẹ Maria có phúc vì đã tin hơn là được làm Mẹ Thiên Chúa
Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XXVII hôm nay phải nói là bài Phúc Âm ngắn nhất trong các bài Phúc Âm cho phần phụng vụ lời Chúa. Vì bài Phúc Âm này chỉ có 2 câu vắn gọn mà thôi:
"Khi ấy, Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ cất tiếng nói rằng: 'Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!' Nhưng Người phán rằng: 'Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn'".
Qua 2 câu ngắn ngủi của bài Phúc Âm này, Thánh ký Luca thuật lại cho chúng ta biết về sự kiện có một người đàn bà nghe thấy Chúa Giêsu giảng dạy thì bị cảm kích nên đã lên tiếng ngợi khen mẹ của nhà đại giảng thuyết có phúc vì đã được cưu mang ngài và cho ngài bú, thế nhưng chính vị đại giảng thuyết gia này đã đính chính về cái phúc thật mẹ của Người có được không như người đàn bà ấy tưởng nghĩ.
Thật vậy, Chúa Giêsu có ý đề cao mẹ của Người về hạnh phúc thật nơi Mẹ không phải chỉ ở tầm mức thể lý là "cưu mang" Người và cho Người "bú" mớm, như một người mẹ bình thường, mà trên hết và trước hết, ở chỗ, Mẹ đã "nghe và giữ lời Thiên Chúa", bằng không Mẹ đã vĩnh viễn không xứng đáng làm Mẹ của Người, và có khả năng làm Mẹ của Người, Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Đấng đến không phải để làm theo ý của mình mà là ý của Đấng đã sai Người (xem Gioan 6:38).
Thật vậy, Mẹ Maria đầy ân phúc đã chẳng những được Thiên Chúa ở cùng, được làm Mẹ Con Đấng Tối Cao, làm Mẹ Con Thiên Chúa (xem Luca 1:28,32,34), mà còn đầy ân phúc vì đã tin (xem Luca 1:45), đã xin vâng (xem Luca 1:38), "đã theo Con Chiên đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới" (Khải Huyền 14:4), cho tới khi đứng bên Thánh Giá với con mình (xem Gioan 19:25).
Đúng thế, nếu cái "phúc hơn" của Mẹ Maria được Chúa Giêsu đề cao Người Mẹ đầy ơn phúc gương mẫu của Người ở Bài Phúc Âm hôm nay, nhờ đó Mẹ mới xứng đáng và có thể làm Mẹ Thiên Chúa và đồng công với Con cứu chuộc loài người, nhờ đó Mẹ đã trở thành Mẹ của Giáo Hội, thì Kitô hữu giáo đoàn Galata nói riêng, và qua mọi thời đại nói chung, thành phần Kitô hữu được phúc không phải chỉ ở chỗ trở nên "con cái Thiên Chúa nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô", mà còn phải tiếp tục sống Chúa Kitô nữa, sau khi nhờ Phép Rửa họ "đã mặc lấy Ðức Kitô". Nghĩa là, thành phần Kitô hữu qua mọi thời đại phải làm sao cho Chúa Kitô thực sự tỏ hiện nơi họ là môn đệ của Người, và càng ngày càng rạng ngời hơn qua họ là tông đồ chứng nhân cho Người. Ở chỗ "nghe và giữ Lời Chúa" như Người Mẹ "phúc hơn" của Người.
Trong biến cố Truyền Tin, vừa được nghe Tổng Thần Gabiên loan báo tin vui là "trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận" (Luca 1:31-33), Mẹ đã không nhẩy ngay lên xin vâng liền và tạ ơn Chúa ngay, trái lại, Mẹ đã đặt vấn đề với vị sứ thần về chức phận làm Mẹ Thiên Chúa vô cùng cao cả mà Mẹ cảm thấy bản thân Mẹ vô cùng bất xứng ấy.
Cả khi đến thăm người chị họ Isave của mình, Mẹ cũng không tự khoe mà do chính người chị này, nhờ Thánh Thần, tự nhận biết và tôn vinh danh phận vô cùng cao trọng của Mẹ: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? (Luca 1:42-43), một người em của bà cũng chỉ là một phụ nữ như bà, đã được Thiên Chúa nhưng không tuyển chọn, trở thành một tạo vật có phúc hơn tất cả mọi tạo vật, kể cả các thần trời, một tạo vật lại là phụ nữ, một thân phận vốn bị xã hội loài người coi thường theo văn hóa của họ, thậm chí cho tới cả thời đại văn minh tân tiến về cả khoa học kỹ thuật lẫn nhân bản nhân quyền ngày nay.
Cả hai trường hợp xẩy ra trong biến cố Truyền Tin lẫn Thăm Viếng của Mẹ Maria, vừa được dẫn chứng trên đây, đã chứng thực cái phúc của Mẹ không phải là Mẹ được hưởng ân ban quí báu của Thiên Chúa giành cho một tạo vật của Ngài, mà là việc Mẹ được phụng sự Ngài với vai trò là tỳ nữ xin vâng của Mẹ (xem Luca 1:38) Mẹ mới cảm thấy "phúc hơn". Bởi vì cho dù Mẹ bất xứng, chẳng là gì và chẳng đáng gì trước nhan Chúa, nhưng chỉ vì lòng thương xót Chúa đã đoái đến thân phận nữ tỳ của Mẹ nên đã thực hiện những việc lạ lùng vĩ đại nơi Mẹ thôi, như qua Mẹ Ngài muốn tỏ ra cho chung tạo vật thấy lòng thương xót của Ngài, nên Mẹ đã được muôn đời ngợi khen chúc tụng Mẹ diễm phúc (xem Luca 1:48-50). Và đó chính là tâm tình của riêng Mẹ Maria và chung dân Do Thái lẫn cả loài người phải có đối với Thiên Chúa trong bài Đáp Ca hôm nay:
1) Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. Hãy tự hào vì danh thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui.
2) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết.
3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những người được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu.