SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 

M
ùa Thường Niên Tuần VĐầu Mùa Chay

Năm C
(Chúa Nhật) Chẵn (Trong Tuần)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật


Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: Lv 13, 1-2. 44-46

"Người phong cùi phải ở riêng ngoài trại".

Trích sách Lêvi.

Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng: "Nếu người nào thấy da thịt mình xuất hiện màu sắc khác thường, hoặc mụn nhọt hay những vết bóng láng, đó là dấu bệnh phong cùi, phải đem họ đến tư tế Aaron, hoặc đến một vị nào trong các con trai của ông.

"Vậy ai mắc bệnh phong cùi, và tư tế ra lệnh phải ở riêng, thì phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế. Bao lâu người đó còn mắc bệnh phong cùi và ô uế, họ phải ở riêng một mình ngoài trại".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 31, 1-2. 5. 11

Ðáp: Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ con khỏi điều nguy khổ (c. 7).

Xướng: 1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian! - Ðáp.

2) Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: "Con thú thực cùng Chúa điều gian ác của con, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con". - Ðáp.

3) Chư vị hiền nhân, hãy vui mừng hân hoan trong Chúa, và mọi người lòng ngay hãy hớn hở reo mừng. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Cr 10, 31 - 11, 1

"Anh em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi gương Ðức Kitô".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, dầu anh em ăn, dầu anh em uống, dầu anh em làm việc gì khác, anh em hãy làm mọi sự cho sáng danh Chúa. Anh em đừng nên cớ cho người Do-thái, dân ngoại hay Hội thánh của Thiên Chúa phải vấp phạm. Như tôi đây, tôi cố làm hài lòng mọi người trong mọi sự, không tìm điều gì lợi ích cho tôi, nhưng tìm điều lợi ích cho nhiều người, để họ được cứu rỗi. Anh em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi gương Ðức Kitô.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia

 

Phúc Âm: Mc 1, 40-45

"Bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, có một người bệnh cùi đến van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa Người rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch". Ðộng lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: "Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh". Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch. Nhưng Người nghiêm nghị bảo anh đi ngay và dặn rằng: "Anh hãy ý tứ đừng nói cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng mình đã được khỏi bệnh". Nhưng đi khỏi, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó, nên Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Người dừng lại ở ngoài thành, trong những nơi vắng vẻ, và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for mark 1 40-45

 


Suy nghiệm Lời Chúa

 

 

 

ĐỨC KITÔ - PHỤC HỒI

 

 

Trong các thứ bệnh hoạn tật nguyền của loài người, có lẽ chứng phong cùi là một chứng bệnh không nguy tử nhưng khốn nạn nhất. Bởi nó chẳng những làm con người bị biến hình biến dạng và trở thành dị hình dị dạng nơi thân thể của họ mà nó còn cô lập hóa họ khỏi xã hội loài người, bao gồm cả chính những người thân yêu nhất của họ trong gia đình, để tránh lây nhiễm cho chính những người thân yêu ấy cũng như cho chung cộng đồng xã hội của họ.

 

Đó là lý do, để bảo vệ lợi ích cho chung cộng đồng, chính Chúa là Thiên Chúa của Dân Do Thái đã truyền qua Mosen về trường hợp của những con người nạn nhân của chứng bệnh phong cùi này ở Bài Đọc I hôm nay như sau: "ai mắc bệnh phong cùi, và tư tế ra lệnh phải ở riêng, thì phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế. Bao lâu người đó còn mắc bệnh phong cùi và ô uế, họ phải ở riêng một mình ngoài trại".

 

Muốn trở về sống với gia đình và cộng đồng xã hội thì nạn nhân phải được lành sạch hoàn toàn như trước, và cần phải được chứng nhận bởi thành phần tư tế trong dân là thành phần lo về vấn đề tế tự thánh hảo (xem Levi 14:1-32), vì họ chính là những vị chức sắc tôn giáo có thẩm quyền mà ai thấy mình có triệu chứng phong cùi phải đi trình diện với họ, như Thiên Chúa đã qui định được Bài Đọc I hôm nay ghi lại thế này: "Nếu người nào thấy da thịt mình xuất hiện màu sắc khác thường, hoặc mụn nhọt hay những vết bóng láng, đó là dấu bệnh phong cùi, phải đem họ đến tư tế Aaron, hoặc đến một vị nào trong các con trai của ông".

 

Bởi thế chúng ta không lạ gì sau khi chữa lành cho một nạn nhân bị phong cùi trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã căn dặn anh ta phải cẩn thận tuân thủ điều khoản đi trình diện với các vị tư tế rằng: "Anh hãy ý tứ đừng nói cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng mình đã được khỏi bệnh".

 

Có thể nói chứng bệnh phong cùi là hình ảnh xác thực nhất về bản chất của tội lỗi, một bản chất xấu xa nhơ nhớp nên cần phải thanh tẩy (rửa tội và xưng tội), một bản chất xấu xí dị ngợm đang ghê tởm (làm biến hình biến dạng hình ảnh thần linh nguyên thủy nơi con người tạo vật được Thiên Chúa dựng nên), một bản chất gây lây nhiễm (bởi gương mù gương xấu của tội lỗi là những gì vốn hợp với bản chất hướng hạ và thích rộng rãi buông tuồng của bản tính con người), và cũng là một bản chất có tác dụng tự cô lập hóa con người vấp phạm (vì tội lỗi tự nó làm cho chủ thể phạm nhân bị mất đi mối liên hệ với chính Thiên Chúa cũng như với tha nhân đồng loại của họ).

 

Riêng về khía cạnh lây nhiễm của chứng bệnh phong hủi này, một khía cạnh ám chỉ đến tội lỗi của con người tự nó cũng là một thứ gương mù gương xấu, rất nguy hiểm cho cộng đồng xã hội loài người nói chung, nhất là thành phần yếu đuối nhẹ dạ nói riêng. Phải chăng đó là lý do Giáo Hội đã chọn Bài Đọc II cho Chúa Nhật VI Thường Niên này một đoạn thư của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Corintô, trong đó ngài khuyên nhủ Kitô hữu chẳng những đừng gây gương mù mà còn nhắm đến lợi ích thiêng liêng của tha nhân nữa: "đừng nên cớ cho người Do-thái, dân ngoại hay Hội thánh của Thiên Chúa phải vấp phạm. Như tôi đây, tôi cố làm hài lòng mọi người trong mọi sự, không tìm điều gì lợi ích cho tôi, nhưng tìm điều lợi ích cho nhiều người, để họ được cứu rỗi".

 

Một nạn nhân phong cùi sống lẻ loi cô độc một mình ở một nơi xa xôi hẻo lánh thì chẳng khác gì như một bóng ma thấp thoáng ở ngoài nghĩa trang nào đó gần khu vực loài người sinh hoạt xã hội. Họ chẳng khác nào như một thứ đồ bỏ của xã hội, ai cũng sợ họ và tránh xa họ. Họ cảm thấy vô cùng nhục nhã và tủi hổ. Một con vật nuôi trong nhà còn được gần chủ nhân con người; còn họ, với chứng bệnh phong cùi, họ còn bị coi thua kém hơn cả một con vật nuôi trong nhà nữa. Con người được dựng nên để sống có đôi, có xã hội, có liên hệ v.v. mà nay chỉ vì triệu chứng phong hủi ghê tởm hoàn toàn ngoài ý muốn của họ mà họ trở thành "nửa người nửa ngợm nửa đười ươi".

 

Một con người nạn nhân bị phong hủi như sống trong nấm mộ hoang trên thế gian này như thế mà bỗng chốc được lành sạch hoàn toàn thì còn gì bằng, thì còn gì sướng hơn, còn gì vui hơn, như từ cõi chết sống lại, làm sao không tưng bừng nhẩy nhót, làm sao không la lên hét lên chứ. Thế nên mới thông cảm được cho nạn nhân tật phong trong bài Phúc Âm hôm nay, cho dù được Đấng chữa lành cho căn dặn kỹ lưỡng rằng "'đừng nói cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng mình đã được khỏi bệnh'. Nhưng đi khỏi, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó, nên Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được".

 

Chắc chắn trước khi chữa lành cho nạn nhân phong hủi này, Chúa Giêsu đã biết trước dù có ngăn cấm anh ta sau khi chữa lành cho anh ta là không được nói gì với ai anh ta vẫn cứ nói, nhưng Người không vì thế mà không cứu chữa cho anh ta. Vấn đề vì anh ta loan truyền tin anh ta được chữa lành sạch khiến Người "không thể công khai vào thành nào được" không thành vấn đề, vì "hữu xạ tự nhiên hương", ở chỗ, cho dù "Người dừng lại ở ngoài thành, trong những nơi vắng vẻ", thế mà "người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người" một cách khác thường, chứng tỏ ảnh hưởng và sức thu hút mãnh liệt của "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý".

 

Động lực chính yếu Chúa Giêsu cứu chữa nạn nhân chính là vì Người "động lòng thương", nghĩa là hoàn toàn vì Người, nên không một cái gì bên ngoài nơi đối tượng có thể gây trở ngại cho lòng thương xót của Người, trái lại, chính tình trạng khốn khổ của nạn nhân, cộng với niềm tin của anh ta đặt ở Người: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch", được bày tỏ qua ngôn hành thích đáng của anh ta: "đến van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa", lại càng trở thành cảm hứng cho Người tỏ mình ra, thành cơ hội tốt đẹp để Người ban phát ơn lành: "Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: 'Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh'. Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch".

 

Có một chi tiết nữa trong Bài Phúc Âm cũng cần phải lưu ý và khai thác nữa, đó là thái độ của Chúa Giêsu đối với nạn nhân phong hủi vừa được Người chữa lành cho: "Người nghiêm nghị bảo anh đi ngay". Tại sao thế - như thể Người vừa làm một chuyện gì đó lén lút cho/với anh ta vậy? Tại sao nạn nhân vừa được lành sạch bệnh phong hủi lại phải "đi ngay" - Kẻo bị người ta thấy hay sao? Thấy cái gì chứ? Thấy việc Người chữa lành cho anh ta à? Bằng không thì tại sao Người lại cấm không cho anh ta nói với ai?! Nhưng Người không cho anh ta nói về sự kiện anh ta được lành sạch hay về việc Người chữa lành cho anh ta??

 

Chi tiết này có thể cho thấy rằng nạn nhân phong hủi này dám liều lĩnh đến gặp riêng Người, kiểu chặn đầu Người, nhờ nghe ngóng tin tức ở đâu không biết, và dù chưa bao giờ gặp Người, mới chỉ nghe danh của Người, mà đã tin tưởng nơi Người, đến độ vượt hàng rào luật lệ tách ly người phong hủi ra khỏi xã hội loài người, không được gặp bất cứ một ai. Phải chăng chính hành động này của nạn nhân đã làm cho Người "động lòng thương", chẳng những chữa lành cho anh ta, mà còn tránh cho anh ta khỏi bị tố cáo lỗi luật giao tiếp của thành phần bị cùi hủi như anh ta. Trong khi đó, chính nạn nhân lại không "care", lại bất chấp tất cả sau khi được chữa lành, đi loan truyền sự thật lành sạch của mình, với tất cả tâm tình của câu họa trong Bài Đáp Ca hôm nay: "Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ con khỏi điều nguy khổ".

 

Phần Kitô hữu chúng ta cũng thế, ai cũng có tội, cũng sống chẳng khác gì như một con người bị cùi hủi, đáng ghê tởm, đáng bị mọi người xa lánh. Bởi thế, cho dù sau khi đã được thanh tẩy trong Phép Rửa tái sinh, chúng ta vẫn cần phải được chữa lành, được liên tục thanh tẩy bằng Bí Tích Hòa Giải. Vấn đề ở đây là chúng ta có cảm thấy hân hoan vui sướng sau khi tội lỗi cùi hủi của chúng ta được tha thứ và tâm hồn của chúng ta được tái lành sạch hay chăng, theo như tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian!

2) Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: "Con thú thực cùng Chúa điều gian ác của con, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con".

3) Chư vị hiền nhân, hãy vui mừng hân hoan trong Chúa, và mọi người lòng ngay hãy hớn hở reo mừng.

 

 


Lễ Mẹ Lộ Đức

11/2

 

 

 

Đức Mẹ Nói Cùng Tôi

(St. Marie Bernadette Soubirous, Ep. Ad P. Gondrand, a 1861:
cf. A. Ravier, Les Écrits de Sainte Bernadette, Paris 1961, pp 53-59)



Ngày kia tôi cùng với hai đứa con gái khác đi xuống bờ sông Gave, thì thình lình tôi nghe thấy một cái gì đó như tiếng gió vi vu. Tôi ngoảnh đầu lại hướng về phía đồng cỏ gần bờ sông, song cây cối vẫn lặng lẽ, rõ ràng là tiếng động không xuất phát từ chúng. Đoạn tôi nhìn lên và thấy ngay trong động đá một vị nữ lưu mặc chiếc áo trắng dễ thương với chiếc giây thắt lưng óng ánh. Trên chân của bà mỗi bên đều có một bông hồng mầu vàng nhạt, cùng mầu với những hột ở chuỗi mân côi của bà.

Thấy thế tôi giụi hai mắt, nghĩ rằng tôi đang thấy một cái gì đó, và tôi xỏ tay vào viền quần đựng cỗ tràng hạt. Tôi muốn làm dấu thánh giá, nhưng tôi không thể làm được, và tay tôi trở nên rụng rời. Bấy giờ vị nữ lưu này làm dấu thánh giá và tôi cố làm dấu như bà, mặc dù tay tôi run lẩy bẩy. Thế là tôi bắt đầu lần hạt mân côi, trong khi đó vị nữ lưu này lấy ngón tay đưa hạt chuỗi mà không nhép miệng gì cả. Khi tôi hết đọc Kinh Kính Mừng thì bà liền biến đi.

Tôi hỏi hai cô bạn của mình xem họ có thấy được điều gì chăng, họ nói không. Dĩ nhiên họ muốn biết tôi đã làm gì, và tôi cho họ biết rằng tôi đã thấy một vị nữ lưu mặc bộ áo trắng đẹp, mặc dù tôi không biết bà ấy là ai. Tôi dặn họ đừng nói điều gì về câu chuyện này, và họ cho tôi rằng tôi ngớ ngẫn với những thứ ấy. Tôi nói là họ sai rồi, và tôi đã cảm thấy bị thúc đẩy trở lại nơi này vào hôm Chúa Nhật sau đó …

Lần thứ ba tôi đến đó thì vị nữ lưu này đã mở miệng nói với tôi và xin tôi hãy trở lại hằng ngày trong vòng 15 ngày. Tôi nói tôi sẽ làm như thế, đoạn bà bảo tôi rằng bà muốn tôi nói với các vị linh mục hãy xây cất lên một nguyện đường ở đó. Bà cũng bảo tôi hãy uống nước ở rạch nước. Tôi đã đến con sông Gave là giòng nước duy nhất tôi thấy. Thế rồi bà làm tôi nhận ra rằng bà không nói về con sông Gave, mà là một tia nước nhỏ gần chỗ tôi đứng. Tới nơi, tôi chỉ thấy có một vài giọt nước, còn toàn là bùn. Tôi chụm tay lại để hớt lấy một chút nhưng không được, tôi liền cào đất lên. Tôi cố tìm lấy một ít giọt nước, nhưng mãi vào lần thứ bốn tôi mới có đủ lượng nước để uống. Đoạn người nữ lưu biến đi và tôi trở về nhà.

Tôi đã trở lại đấy 15 ngày, trừ một ngày Thứ Hai và một ngày Thứ Sáu, và lần nào bà cũng hiện ra và bảo tôi tìm một rạch nước mà tắm cũng như để xem chuyện các vị linh mục xây nguyện đường ở đó thế nào. Bà nói tôi cũng phải cầu nguyện nữa để cầu cho tội nhân ăn năn cải thiện đời sống. Tôi đã hỏi bà nhiều lần về ý định của bà, song bà chỉ mỉm cười. Sau cùng, với cánh tay giang ra và đôi mắt ngước lên trời, bà bảo tôi rằng bà là Đấng Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Trong 15 ngày đó, bà đã nói với tôi ba điều bí mật, nhưng tôi không được phép nói với ai cả, và tôi vẫn giữ cho tới nay.
 


(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office of Readings, Saint Paul Editions, 1983, trang 1343-1344)

 

 

Bí Mật Lộ Đức

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


 

    Theo diễn tiến của Biến Cố Thánh Mẫu nổi tiếng được chính thức công nhận xẩy ra trong lịch sử Giáo Hội từ trước đến nay, thì người ta chỉ nghe nói đến Bí Mật Fatima và Bí Mật La Salette thôi, chứ đâu có bao giờ nghe đến Bí Mật Lộ Đức. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có Bí Mật Lộ Đức. Đúng thế, trong 18 lần hiện ra với thiếu nữ Bernadette 14 tuổi tại một hang động ở Massabielle, vào lần hiện ra thứ 7, 23/2/1858, người thiếu nữ quê mùa bần cùng thất học chưa được rước lễ lần đầu này cho biết là Mẹ Maria quả thực đã tiết lộ cho cô biết 3 bí mật riêng (three personal secrets), những bí mật nhiều người tò mò muốn biết nhưng cuối cùng chẳng ai được biết vì Mẹ Maria không cho cô nói lại với ai. Thậm chí cho tới nay, cho dù Bí Mật Fatima phần thứ ba là bí mật đầy rùng rợn (theo óc suy tưởng của nhiều người), tưởng chừng như không bao giờ được Tòa Thánh công bố, vì ích chung, cũng đã được lịch sử ghi nhận nội dung của nó khi nó được Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin chính thức tiết lộ ngày 26/6/2000, nhưng Bí Mật Lộ Đức vẫn hoàn toàn là một huyền nhiệm.

 

    Bí Mật Lộ Đức sở dĩ không được tiết lộ, trước hết, có thể là vì bí mật này chỉ liên quan tới bản thân của vị thụ khải Bernadette thôi. Nếu liên quan tới tình hình thế giới và Giáo Hội, chắc chắn không sớm thì muộn cũng được tiết lộ thôi, như trường hợp của Bí Mật Fatima phần thứ ba vậy. Có thể một trong ba bí mật được Mẹ Maria tiết lộ cho người con gái sống trên đời 35 năm ngắn ngủi đầy đau thương này liên quan tới thân phận của chị, như Mẹ đã tỏ cho chị biết vào lần hiện ra thứ ba, 18/2: “Mẹ không hứa với con hạnh phúc ở đời này mà là đời sau”, một lời cũng đã được tân Chân Phước Zélie Guérin (mới được tôn phong cùng chồng là Louis Martin vào Chúa Nhật Truyền Giáo 19/10/2008 ở vương cung thánh đường Lisieux Pháp quốc), mẹ của chị Thánh Thérèse Hài Đồng Giêsu, cảm nghiệm khi đi hành hương Lộ Đức vào những ngày cuối đời nhưng không được phúc chữa lành. Người ta cũng có thể suy đoán thêm một trong 3 điều bí mật riêng tư được Mẹ Maria tiết lộ cho chị biết ấy liên quan tới ơn gọi tu trì của chị, vì chị đã bắt đầu sống đời tận hiến trong Dòng Chị Em Bác Ái ở Nevers ngày 4/7/1866, khi chị được 22 tuổi, sau Biến Cố Lộ Đức 8 năm, cho đến ngày chị qua đời 13 năm sau, 16/4/1879.

 

    Tuy nhiên, ngoài 3 bí mật tư riêng liên quan tới bản thân của vị thụ khải Bernadette, thực tế cho thấy có một Bí Mật Lộ Đức liên quan đến hết mọi người, bởi thế cần phải tìm hiểu và khám phá để có thể đáp ứng “dấu chỉ thời đại” nơi Biến Cố Thánh Mẫu 150 năm (1858-2008) đặc biệt này, nhất là vào dịp Giáo Hội hoàn vũ long trọng mừng Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12/2008, một lễ liên quan tới danh xưng “Mẹ hoài thai vô nhiễm tội – Que soy era Immaculada Councepciou” của Mẹ ở Lộ Đức vào lần hiện ra thứ 16 ngày 25/3. Vậy cái được gọi là Bí Mật Lộ Đức đây là gì, nếu không phải là cái bí mật tại sao Lộ Đức là nơi có một danh xưng liên quan tới linh hồn vô nhiễm của Mẹ lại là nơi xẩy ra những phép lạ chữa lành xác thân con người? Đúng thế, có hai đặc điểm chính yếu và chuyên biệt ở Lộ Đức, thứ nhất đó là danh xưng “Mẹ hoài thai Vô Nhiễm Tội”, khác với ở danh xưng của Mẹ ở Fatima “Mẹ là Đức Bà Mân Côi” ngày 13/10/1917,  và thứ hai là các cuộc chữa lành bệnh nạn phần xác cho con người, một sự kiện không xẩy ra ở các Biến Cố Thánh Mẫu khác, dù biến cố ấy có thể nổi tiếng hơn như Fatima chẳng hạn. Nếu quả thực đây là Bí Mật Lộ Đức thì ý nghĩa của nó là gì và tại sao lại như thế?

 

    Vào ngày 13/6/2008, tôi có nhận được một điện thư của vị muốn giúp ý kiến về đề tài tĩnh tâm có lợi cho cả hai đoàn thể Đạo Binh Xanh và Đạo Binh Đức Mẹ: Thánh Mẫu học theo thánh An Phong hay thánh Long Mộng Phố, hoặc linh đạo Fatima. Tôi đã đề nghị trong năm 2008 là thời điểm Mừng Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức 150 năm, cũng là thời điểm Mừng 20 năm Phong Thánh cho Các Chứng Nhân Đức Tin trên Đất Việt, đề tài nên chọn là lời Mẹ nói với chị Thánh Bernadette vào lần hiện ra thứ ba 18/2/1858: ‘Mẹ không hứa với con hạnh phúc đời này mà là đời sau’. Đề tài này rất thích hợp với Bí Mật Fatima phần thứ ba liên quan tới thị kiến tử đạo. Trong phần hội thảo chung, tôi đề nghị nêu lên vấn nạn là: ‘Tại sao ở khi hiện ra ở Lộ Đức, Mẹ Maria tự xưng mình 'Mẹ Hoài Thai Vô Nhiễm Tội' ngày 25/3 là những gì liên quan đến phần hồn của Mẹ mà Mẹ lại biến Lộ Đức thành Trung Tâm Thánh Mẫu duy nhất nổi tiếng về các phép lạ chữa lành phần xác cho một số tâm hồn?’ Thế rồi vào ngày 11/8, vị này cho tôi biết rằng: “Đề tài này tuy vậy mà cũng khó, phải có những gợi ý”. Tôi đã hồi âm cho vị ấy là: “Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời được chất chứa trong lời ĐTC GPII huấn dụ trong huấn từ Truyền Tin ở Lộ Đức ngày 15/8/2004 như sau: ‘Từ tảng đá ở động Massabielle, Vị Trinh Nữ này đã hiện ra với Bernadette. Tỏ mình ra như Đấng đầy ơn phúc của Thiên Chúa, Mẹ đã kêu gọi thống hối và nguyện cầu. Mẹ đã chỉ cho Bernadette một mạch nước, và xin em uống mạch nước này. Mạch nước mới mẻ ấy đã trở thành một trong những biểu hiệu của Lộ Đức: một biểu hiệu của sư sống mới được Chúa Kitô ban cho tất cả những ai hướng về Người.”.

 

    Trong Bài Giảng cho Thánh Lễ Mẹ Đau Thương Thứ Hai 15/9/2008 cho Thành Phần Bệnh Nhân trước tiền đường của Đền Thờ Đức Mẹ Mân Côi Lộ Đức, ĐTC Biển Đức XVI, trong chuyến tông du Pháp quốc ngày 12-15/9/2008, đã tiếp tục khai triển chiều hướng trên đây của ĐTC Gioan Phaolô II liên quan tới biểu hiệu nước ở Lộ Đức, như thể hai vị tỏ ra muốn cùng nhau đi sâu vào tất cả những gì là huyền nhiệm ở Lộ Đức để hoàn toàn làm sáng tỏ cái thực sự là Bí Mật Lộ Đức này trước mọi người:

 

    “Nụ cười của Mẹ Maria là suối nước sự sống. Chúa Giêsu phán: ‘ai tin Tôi thì từ lòng họ sẽ vọt lên những giòng sông chảy nước sự sống’ (Jn 7:38). Mẹ Maria là người đã tin tưởng, và từ cung lòng của Mẹ, những giòng sông chảy nước sự sống đã tuôn ra tưới dội lịch sử loài người. Giòng suối mà Mẹ Maria chỉ cho Bernadette ở Lộ Đức đây là một dấu hiệu đơn sơ về thực tại thiêng liêng này. Từ trái tim tin tưởng của Mẹ, từ tấm lòng từ mẫu của Mẹ, chảy ra nước sự sống để thanh tẩy và chữa lành. Bằng việc dìm mình vào những bể tắm ở Lộ Đức, rất nhiều người đã khám phá ra và đã cảm nghiệm được tình yêu thương từ mẫu dịu dàng êm ái của Vị Trinh Nữ Maria này, bằng việc tỏ ra gắn bó với Mẹ để liên kết mình chặt chẽ hơn với Chúa! … Đó là lý do tại sao có rất nhiều bệnh nhân đến Lộ Đức đây để được giãn cơn khát của mình nơi ‘nguồn mạch yêu thương’ này, và để cho mình được Mẹ dẫn đến với nguồn cứu độ duy nhất là Chúa Giêsu Cứu Thế Con Mẹ”.

 

    Tóm lại, nếu ở Fatima, tất cả Bí Mật Fatima (3 phần) được Mẹ Maria tỏ cho 3 Thiếu Nhi Fatima biết vào lần hiện ra thứ ba 13/7/1917, là “Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria”, một trái tim liên quan tới định mệnh chung của nhân loại, đến trình trạng “nhiều linh hồn được cứu độ và thế giới được hòa bình”, thì tất cả Bí Mật Lộ Đức là ở nơi nụ cười của Mẹ Maria, một cử chỉ độc đáo chưa từng có trong lịch sử Biến Cố Thánh Mẫu, một nụ cười là suối nước sự sống tràn đầy “vui mừng và hy vọng”, có tác dụng gia tăng đức tin phần hồn, thậm chí chữa lành cả phần xác của một số tâm hồn thiên định nào đó.

 

    Nếu Biến Cố Thánh Mẫu Fatima liên quan đến lửa, (sự kiện mặt trời nhẩy múa trên trời ngày 13/10/1917), cũng như tới tước hiệu Mẹ Mân Côi, cả hai ám chỉ quyền thế của Mẹ đối với Thiên Chúa (như Bí Mật Fatima phần 3 cho thấy), thì Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức liên quan tới nước, (sự kiện mạch nước vọt lên từ đất ngày 25/2/1858), cũng như tới tước hiệu Mẹ Vô Nhiễm, cả hai ám chỉ tình trạng Mẹ dồi dào ân sủng là để mang lại sự sống cho con cái khổ đau, như ĐTC BĐXVI khẳng định trong huấn từ Truyền Tin CN 14/9/2008 ở Lộ Đức như sau:

 

    “Ơn Hoài Thai Vô Nhiễm được ban cho Mẹ Maria không phải chỉ là một ơn huệ của một cá nhân, mà là một ân sủng cho tất cả mọi người, một ân huệ được ban cho toàn thể dân Chúa. .. chúng ta là con cái của Mẹ Maria, chúng ta cũng được hưởng bổng lộc từ tất cả mọi ân huệ Mẹ có; phẩm vị khôn sánh Mẹ có được nhờ Hoài Thai Vô Nhiễm rạng ngời chiếu tỏa trên chúng ta là thành phần con cái của Mẹ”.

 

    Bí Mật Fatima và Bí Mật Lộ Đức có một liên hệ mật thiết với nhau thế này: nếu ở Fatima Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ được Mẹ tỏ cho Lucia biết “là nơi cho con nương náu và là đường đưa con đến cùng Thiên Chúa”, thì ở Lộ Đức, Đấng “hoài thai Vô Nhiễm Tội” đến là để “thông ơn Thiên Chúa” cho con cái của mình, được thể hiện rõ ràng nhất qua những lần Mẹ chữa lành phần xác cho một số cá nhân đặc biệt nào đó, trong vô số trường hợp được cho biết là mỗi năm có khoảng 40 vụ chữa lành trình báo cho giáo quyền địa phương Lộ Đức, nhưng Giáo Hội mới chính thức công nhận 67 phép lạ. Nếu việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh tật được thuật lại trong các Phúc Âm là những gì chứng thực Vương Quốc Thiên Chúa gần đến hay Ơn Cứu Độ sắp hoàn thành thế nào, thì những việc chữa lành phần xác cho con người ở Lộ Đức mãi đến ngày nay, trong một thời đại văn minh tân tiến tột độ về khoa học và kỹ thuật nhưng lại đang bị phá sản đức tin từ thế kỷ 19, cũng là những gì báo trước Nước Mẹ trị đến cho Nước Chúa vinh quang, Nước của “Đức Mẹ Mân Côi” cũng là “Đức Mẹ Thắng Trận”, Đấng đã khẳng định ở Fatima ngày 13/7/1917 cuối phần Bí Mật Fatima thứ hai là “cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng”!

 

 

 

 

 

 

Phép Lạ Lộ Đức: Tiến Trình Điều Tra và Công Nhận

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 


 

     Gần văn phòng y khoa bận bịu là một chỗ trưng bày hình ảnh lạ lùng của những người hành hương đã được chữa lành, với những hàng chữ nói về tình trạng tật nguyện bệnh nạn của họ. Vấn đề này là những gì được phổ biến công khai. Những cuộc lành bệnh này không phải tự nhiên xẩy ra mà là chất chứa cả một đức tin trong ấy, thế nhưng làm thế nào để có thể chứng thực được những gì xẩy ra liên  quan tới đức tin siêu nhiên như thế, nhất là giữa một thế giới thiên về duy thực dụng, coi khoa học như là chân lý ngày nay?

 

     Cũng chính vì con người trong thế giới văn minh ngày nay cần đến những chứng cớ về khoa học mà bằng chứng về y khoa liên quan tới những biến cố chữa lành này là những gì bất khả thiếu và hùng hồn cho thấy sự hiện diện thần linh của Đấng Vô Hình làm chủ lịch sử và định mệnh của từng người trên  thế gian này. Ngoài ra, Giáo Hội cũng cần đến những chứng cớ về y khoa để có thể công nhận các biến cố chữa lành được gọi là phép lạ thật sự ở Lộ Đức.

    

Tiến Trình Điều Tra

     Khi một người hành hương Lộ Đức cho rằng mình được chữa lành thì họ được vị bác sĩ ở đó khám nghiệm, trước khi chuyển đến các vị bác sĩ ở văn phòng y khoa là văn phòng được thiết lập chính thức vào năm 1947. Cơ quan này có trách nhiệm thẩm định đầu tiên để xem tính chất thực sự của việc chữa lành. Người hành hương được chữa lành này, cùng với những ghi nhận từ các cuộc khám nghiệm trước đó, được các vị bác sĩ chủ trị khám nghiệm, tất cả đều được chứng dự bởi vị giám đốc đền thánh và vị linh mục đặc trách khách hành hương.

 

     Những qui chuẩn đòi phải có đối với một việc chữa lành bao gồm ít là 4 điều sau đây: chứng bệnh phải thực sự xẩy ra và việc chẩn bệnh xác đáng; dự đoán về chứng bệnh phải rành mạch, kể cả những dự đoán về tính chất vĩnh viễn hay bất trị của nó; việc được chữa lành phải xẩy ra tức khắc, chứ không phải tình trạng hồi phục, hoàn toàn, dứt khoát và mãi mãi; việc chữa trị được qui định không góp phần gì vào biến cố lành mạnh cả.

 

     Khi biến cố chữa lành được khẳng định rồi, thì cuộc thẩm định chung đòi người bệnh gặp gỡ văn phòng y khoa 3 năm nữa. Nếu đa số các bác sĩ đồng ý, thì hồ sơ của bệnh nhân  được lành khỏi ấy sẽ được gửi đến cho Tiểu Ban Y Khoa Quốc Tế Lộ Đức (CMIL: Lourdes International Medical Committee) được thành lập vào năm 1954.

 

     Tiểu ban y khoa quốc tế này sẽ thẩm định những biến cố chữa lành trên 10 đến 15 năm để theo dõi việc phát triển của bệnh nhân. Sau khi văn phòng y khoa quốc tế này khẳng định việc chữa lành hoàn toàn vượt quá khả năng của y khoa thì hồ sơ của việc chữa lành được gửi đến cho các vị thẩm quyền của Giáo Hội.

 

Việc Công Nhận Phép Lạ

 

     Việc công bố phép lạ chữa lành là phận sự của vị giám mục nơi ở của người được chữa lành. Nhưng trước khi vị giám mục địa phương công bố thì vấn đề hay hồ sơ của người bệnh được chữa lành được cứu xét bởi một Ủy Ban Giáo Phận bao gồm các vị linh mục, các vị chuyên  gia về giáo luật, các thần học gia và các vị bác sĩ.

    

Y Khoa hay Phép Lạ chữa lành

 

     Căn cứ vào thời điểm văn phòng y khoa được thiết lập vào năm 1947, thì trước đó, mức độ được chữa lành trước năm 1914 là 1:100, từ 1914 đến 1928 là 1:700, thế nhưng từ 1928 đến 1947 là 1:1600. Tóm lại, có 5 ngàn vụ được cho là chữa lành trước năm 1947. Từ 1947 đến 1990 chỉ còn 1000, trong số đó chỉ có 56 vụ được công nhận trong thời gian này, trung bình là 1.3 vụ mỗi năm, khác với 57 vụ mỗi năm trước năm 1914.

 

     Căn cứ vào các dữ kiện ấy, người ta có thể suy ra rằng càng văn minh hay y khoa càng tiến bộ, bao gồm cả các thứ thuốc men được sáng chế thêm, thì bệnh tật được chữa lành bởi khoa học hơn là bởi phép lạ. Từ thập niên 1960 con số được cho là phép lạ đã thụt giảm hẳn xuống. Vấn đề có thể đặt ra ở đây là chính vì khoa học tân tiến mà người ta tin vào khoa học hơn là trời cao, nên không đến để xin chữa lành nhiều như trước nữa, do đó không có nhiều phép lạ chữa lành xẩy ra nữa.

 

     Giống như vấn đề tại sao ngày nay Âu Châu là nơi đã từng là chiếc nôi Kitô Giáo và lan truyền Kitô Giáo khắp thế giới, nay lại là nơi xuất phát ra nền văn hóa sự chết và cần tái truyền  bá phúc âm  hóa hơn  bao giờ hết. Phải chăng là vì Kitô Giáo đã lỗi thời, không còn tác lực cứu độ nữa? Vấn đề có thể đặt ngược lại là khoa học và kỹ thuật tân tiến hay văn minh của con người nếu quả thực là cứu tinh của con người, mang lại hạnh phúc thực sự và trọn vẹn cho con người, thì tại sao thế giới càng văn minh con người càng bạo loạn như thực tế không thể chối cãi ngày nay cho thấy! Như thế, vấn  đề ở đây là phải chăng vì con người bỏ Thiên Chúa, bị khủng hoảng đức tin con người mới trở nên đáng thương như thế, cần phải được chữa lành cả về (nhất là về) phần hồn nữa vậy.

 

     Kể từ ngày thành lập của mình, tiểu ban y khoa quốc tế này đã cứu xét 1300 vụ và đã nộp 29 vụ cho Giáo Hội và được thẩm quyền  Giáo Hội công nhận 19. Tư năm 1858 tới nay, tức sau 150 năm, Giáo Hội mới chính thức công nhận 67 phép lạ Lộ Đức. Sau đây là hai phép lạ cuối cùng, phép lạ thứ 66 và 67.

 

Phép Lạ thứ 66

 

     Phép Lạ thứ 66 xẩy ra cho ông Jean-Pierre Bély, một người Pháp, bị liệt bại, một chứng bệnh ông đã mắc từ năm 1972. Khi ông đi hành hương Lộ Đức năm ông 51 tuổi, tức vào năm 1987, bạn bè ông cho rằng ông không thể nào chịu nổi chuyến đi. Vào cuối cuộc hành hương, ông được lãnh nhận bí tích xức dầu kẻ liệt, để rồi, khi trở về đến nhà, ông đã bước đi được như một người bình thường. Hiện nay tất cả mọi dấu vết bệnh tật đã hoàn toàn biến mất. Bác sĩ Patrick Fontanaud, một nhà ngộ đạo thức, vẫn chăm sóc cho ông này đã phải thú nhận khoa học không thể nào cắt nghĩa được hiện tượng khỏi bệnh lạ lùng này. Vị làm đầu Văn Phòng Y Khoa Lộ Đức là bác sĩ Patrick Theillier đã nói với tờ Le Monde rằng còn hai phép lạ chữa bệnh nữa sẽ được nhìn nhận, đó là phép lạ xẩy ra cho một phụ nữ 25 tuổi người Pháp và một phụ nữ 60 tuổi người Ý, cả hai đều được khỏi bệnh vào năm 1995.

 

Phép Lạ thứ 67

 

     Còn Phép Lạ thứ 67 thì ĐTGM Gerardo Pierro giáo phận Salerno đã chính thức công bố hôm Thứ Sáu 11/11/2005 là một “việc chữa lành lạ lùng” xẩy ra cho một người đàn bà chịu bệnh khổ đau lâu dài và đã đến viếng Đền Thánh Mẫu Lộ Đức ở Pháp quốc năm 1952.

 

     Bệnh nhân này là bà Anna Santaniello ở giáo phận Salerno, nay đã 94 tuổi, đã chịu tật dị tim từ nhỏ, đã được các bác sĩ tuyên bố là không thể nào chữa khỏi.

 

     Vào năm 40 tuổi, tình trạng sức khỏe của bà bị suy kiệt trầm trọng, và bất chấp lời khuyên của các vị bác sĩ và gia đình của mình, bà quyết định đi viếng Đền Thánh Mẫu Lộ Đức. Bà đã cho Đài Phát Thanh Vatican biết phản ứng của ba bấy giờ như thế này:

 

     “Tôi nói với tất cả họ rằng: ‘Tôi muốn đi. Nếu tôi có chết đi chăng nữa thì tôi muốn chết khi trông thấy Đức Mẹ”.

 

     Bà cảm thấy rất khó thở và những tình nguyện viên ở Lộ Đức đã không muốn đưa bà từ nhà trọ cho bệnh nhân xuống hang Đức Mẹ, bà cũng cho Đài Phát Thanh Vatican biết phản ứng của bá lúc ấy như sau:

 

     “Tôi đã cầu nguyện lớn tiếng để Mẹ có thể nghe thấy tôi, ‘Đức Trinh Nữ ơi, Mẹ cần phải cứu giúp con. Con đã thấy một bóng tối, một bóng tối trên bầu trời thì thào bên tai tôi rằng: ‘Đừng có nghe họ, hãy cứ đi,  hãy cứ đi’. Hết mọi người đều cầu nguyện cho tôi, nam cũng như nữ. Họ đã cho tôi hôn tượng Đức Mẹ họ đang có ở đó trên bàn thờ nhỏ”.

 

     Tật di tim của bà làm cho bà khó khăn trong việc đi đứng và nói năng một cách rõ ràng. Nó đồng thời cũng làm cho mặt bà bị xanh tím cùng với những chỗ xưng ở hạ phần tứ chi.

 

     Ở Lộ Đức, các nữ tu đã đưa bà vào trong hồ nước và theo bà cho biết là bấy giờ “nước lạnh buốt. Thế nhưng tôi lập tức cảm thấy một cái gì đó sôi lên trong ngực của mình, như thể sự sống trở lại với tôi. Sau mấy giây đồng hồ, tôi đứng lên một mình và bắt đầu bước đi, không cần những người mang cáng giúp nữa, làm cho họ nhìn tôi không thể nào tin được”.

 

     “Tôi bảo họ rằng ‘Hãy đi giúp những người khác, vì tôi có thể tự làm lấy được rồi. Tôi bước ra và đi vào công trường, bắt đầu phục vụ bữa ăn trưa cho bệnh nhân. Vào lúc 4 giờ chiều, họ có một cuộc rước kiệu Thánh Thể và tôi đã tham dự, hát ca.

 

     “Tôi rất biết ơn Đức Mẹ vì tôi đã mất đi một người anh và một người chị cũng vì một chứng bệnh này: anh ấy bấy giờ 29 tuổi và chị ấy 33 tuổi”. 

 

     Trở về nhà, bà đã lấy hẹn gặp một vị bác sĩ nổi tiếng về tim, và vị này “nói với tôi rằng tôi chẳng có bị gì cả, tôi rất khỏe mạnh và ông ta không hiểu tại sao lại có tất cả những thứ chứng thư và khám xét đã được thực hiện trước đó”.

 

     Bà đã trở lại Lộ Đức vào một số dịp sau đó để tự nguyện giúp đỡ thành phần bệnh nhân. Bà, gia đình và bạn hữu bà đã đến tham dự lễ nghi công bố phép lạ của bà, lễ nghi được diễn ra tại Chủng Viện John Paul II Metropolitan ở Pontecagnano.

 

     “Việc hiện diện của nhiều bệnh nhân hành hương ở Lộ Đức, cũng như thành phần thiện nguyện viên đi kèm với họ, khiến chúng ta suy nghĩ đến việc chăm sóc từ mẫu và êm ái mà Vị Trinh Nữ này bày tỏ đối với nỗi đớn đau và khổ đau của loài người” (ĐTC Biển Đức XVI, Sứ Điệp Ngày Thế Giới Bệnh Nhân 11/2/2008).

 

     “Đấng Cứu Chuộc thần linh muốn đi sâu vào tâm hồn của hết mọi con người đau khổ bằng trái tim của Người Mẹ Thánh của Người, một con người cao cả đầu tiên và trên hết trong thành phần được cứu chuộc” (ĐTC John Paul II, Apostolic Letter, "Salvifici doloris," n. 26).

 

Phép Lạ thứ 70 

 

Phép lạ cuối cùng được thẩm quyền Giáo Hội chính thức chấp nhận vào năm 2013, và là phép lạ thứ 70 trong hơn 7 ngàn phép lạ từ đầu cho tới nay. Phép lạ thứ 70 này xẩy ra cho một nữ tu người Pháp là Bernadette Moriau, vị nữ tu bị chứng đau cột xương sống, phải ngồi trên xe lăn và hoàn toàn bị tàn tật từ năm 2008, và trong chuyến hành hương Lộ Đức Năm 2008, không hề xin ơn được chữa lành gì hết, nhưng sau khi lãnh nhận phép lành Thánh Thể cho bệnh nhân tham dự thì cảm thấy một dấu lạ xẩy ra nơi thân thể của mình, và khi về phòng riêng thì nghe thấy tiếng nói "hãy bỏ cái nẹp bó ra". Thế là vị nữ tu này từ đó tự nhiên bước ra khỏi xe lăn và không còn sử dụng thuốc giảm đau là morphine nữa.

 

 

 

Hành Hương Thánh Mẫu
 


Trong cuộc Hành Hương Năm Thánh 2000, tôi được dịp viếng thăm Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức, tôi chợt nghĩ ra một điều, một điều mà nếu không đến đây, tôi nghĩ chắc chắn tôi không bao giờ nghĩ ra và nghĩ được. Thật vậy, trong các Linh Địa Thánh Mẫu, kể cả Linh Địa Fatima, thì phải công nhận một điều không thể chối cãi được là Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức thật là thơ mộng, thật là hữu tình. Có dịp mà không đến thì đúng là mất nửa đời người! Tại sao? Cảm nghĩ của tôi tự nhiên có được sau khi mới từ Linh Địa Thánh Mẫu Fatima tới, đó là vì Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức là nơi duy nhất Đức Mẹ hiện ra tươi cười, chứ không hoàn toàn nghiêm trọng đến buồn thảm như ở các nơi khác, nhất là ở Fatima.


Sự Tích Mẹ Lộ Đức được bắt đầu từ 18 lần Đức Mẹ hiện ra với Bênađét, một thiếu nữ quê mùa nghèo nàn 14 tuổi tại một hang đá ở Lộ Đức thuộc miền Nam Nước Pháp. Trong 18 lần hiện ra này, những lần quan trọng nhất là những lần Mẹ tỏ cho Bênađét biết Mẹ là ai và muốn gì, như lần thứ ba ngày 18/2, lần thứ tám, 24/2, lần thứ chín, 25/2, lần thứ mười ba, 2/3 và lần thứ mười sáu, 25/3.


Vào lần hiện ra thứ ba ngày 18/2, để đáp lại việc Bênađét đưa giấy, bút và mực cho Mẹ để xin Mẹ viết xuống cho biết tên của Mẹ và Mẹ muốn gì, Mẹ đã trả lời như sau: “Những gì Mẹ muốn nói với con không cần phải viết ra. Con có sẵn lòng trở lại đây 15 ngày không? Mẹ không hứa với con được hạnh phúc ở đời này mà là ở đời sau”.


Vào lần hiện ra thứ tám ngày 24/2, Mẹ kêu gọi Bênađét: “Hãy ăn năn thống hối! Hãy ăn năn thống hối! Hãy ăn năn thống hối!” “Hãy cầu xin Thiên Chúa cho các tội nhân!”. “Con hãy bò bằng đầu gối vào hang đá và hãy hôn đất để tỏ dấu hiệu ăn năn thống hối thay cho các tội nhân”.


Vào lần hiện ra thứ chín ngày 25/2, theo lời Bênađét kể lại thì “Vị hiện ra bảo tôi hãy đi uống nước suối. Vì không thấy suối đâu, tôi đã đến uống nước sông (đó là con sông Gave, nhỏ song nước trong vắt và chảy suốt ngày đêm, theo trí nhớ của khách hành hương này). Người bảo tôi không phải nước tôi uống ở chỗ đó, rồi lấy tay chỉ ở dưới tảng đá. Tôi lại đó và chỉ thấy có một chút nước hơi mằm mặn. Tôi đặt bàn tay tôi vào chỗ đó song không thể lấy được một chút nước nào. Đoạn tôi lấy hai tay đào bới và đã lấy được chút đỉnh. Tôi đã đổ đi ba lần vì bẩn, cho đến lần thứ bốn tôi mới uống được. Người bảo tôi ăn một chút cỏ mọc chung quanh mạch suối ấy”.


Vào lần hiện ra mười ba, ngày 2/3, Bênađét đã thuật lại thế này: “Người bảo tôi đi nói với các vị linh mục là hãy xây cất một Ngôi Đền ở đó. Tôi đã đi vị linh mục giáo xứ nói cho ngài hay. Ngài trơ mắt nhìn tôi một lúc đoạn nói với tôi một cách chắc ăn là ‘Vậy thì tên của Bá đó là gì?’. Tôi trả lời ngài rằng tôi không biết. Ngài bảo tôi hãy đi hỏi tên của Người. Ngày hôm sau tôi hỏi Người thì Người chỉ nhoẻn miệng mỉm cười”.


Vào lần hiện ra mười sáu, ngày 25/3, Bênađét cho biết như sau: “Sau hai tuần lễ tôi đã hỏi Người tất cả là ba lần. Người cứ tiếp tục mỉm cười nên tôi không dám hỏi Người nữa. Tuy nhiên, lần này Người lại hướng mắt lên trời, chắp tay trước ngực mà nói cùng tôi rằng: ‘Ta là Đấng Đầu Thai Vô Nhiễm Tội’. Đây là những lời cuối cùng Người nói với tôi. Đôi mắt của Người mầu xanh dương”.


Ở Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức có ba điều chuyên biệt: thứ nhất là mạch nước lạ, thứ hai là ngôi đền thờ, và thứ ba là tước hiệu Vô Nhiễm Nguyên Tội.


Thứ nhất là mạch nước lạ, mạch nước này ở ngay trong hang đá, về phía dưới ở bên phải chỗ Mẹ hiện ra. Mạch nước lạ này được đậy bằng một tấm pha lê trong và chảy về hai phía, một phía cho khách hành hương lấy phúc uống và một phía cho họ tắm. Phía nước uống được hệ thống hóa xong từ năm 1949 và khu nước tắm được hoàn thành từ năm 1955. ĐTC Gioan Phaolô II đã uống nước này vào ngày 14/8/1983. Và vô số phép lạ đã thực sự xẩy ra tại đây, được hội đồng y khoa địa phương được thành lập từ năm 1882 và hội đồng y khoa quốc tế thành lập từ từ năm 1952 công nhận, trong số đó, từ lần xẩy ra đầu tiên ngày 1/3/1858 đến ngày 28/6/1989, tất cả có 65 phép lạ được Giáo Hội chính thức công nhận.


Thứ hai là ngôi đền thờ, như Mẹ yêu cầu, đã được thực hiện, đó là Đại Thánh Đường Vô Nhiễm. Đại Thánh Đường Vô Nhiễm này là một trong 4 đại thánh đường tại Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức. Ba đại thánh đường khác là Đại Thánh Đường Mân Côi, Đại Thánh Đường Thánh Giáo Hoàng Piô X, và Đại Thánh Đường Thánh Bênađét được thánh hiến năm 1988. Đại Thánh Đường Vô Nhiễm được bắt đầu xây vào năm 1866, lúc mà Ngôi Nhà Nguyện Hầm nhỏ được xây nằm ở phía bên trên được hoàn tất cùng năm. Đại Thánh Đường Vô Nhiễm được hoàn tất năm 1871 và được thánh hiến năm 1876. Đại Thánh Đường Vô Nhiễm này ở tầng hai, dưới Ngôi Nhà Nguyện Hầm ở tầng nhất và trên Đại Thánh Đường Mân Côi ở tầng đất. Đại Thánh Đường Mân Côi được xây cất 30 năm sau biến cố Thánh Mẫu Lộ Đức và được thánh hiến vào năm 1901. Đại Thánh Đường Thánh Giáo Hoàng Piô X được thánh hiến năm 1958, kỷ niệm bách chu niên Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức, được xây dưới lòng đất theo hình chiếc tầu lật ngược, chứa được 27 ngàn người, nằm về phía Tây hang Mẹ hiện ra ở bên kia sông Gave, phải đi qua một chiếc cầu. Đại Thánh Đường Thánh Bênađét được thánh hiến năm 1988, chứa được 5000. Tổng Thánh Đường chính của Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức gồm có ba tầng: tầng nhất là Ngôi Nhà Nguyện Hầm nhỏ, tầng hai là Đại Thánh Đường Vô Nhiễm, và tầng ba là Đại Thánh Đường Mân Côi. Tổng Thánh Đường này, phía Tây ở bên hông dính liền với hang động chỗ Mẹ hiện ra, và phía Bắc trước mặt là Công Trường Lộ Đức hình trái tim.


Thứ ba là tước hiệu Vô Nhiễm Nguyên Tội, một tước hiệu nói lên đặc ân vô cùng cao cả của Mẹ đã được Giáo Hội, qua Á Thánh Giáo Hoàng Piô IX, chính thức tuyên tín thành tín điều vào chính ngày Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12/1854, gần bốn năm trước Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức.

Ngoài ra, tại Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức, chúng ta còn có thể đi viếng 14 Đàng Thánh Giá ở ngọn đồi phía Đông của Khu Đền Thờ ba tầng. Cả một ngọn đồi rộng được xây cất cho 14 Chặng Đường Thánh Giá, một chặng đường Thánh Giá vĩ đại tôi chưa từng thấy, và tôi thích nhất là chặng cuối cùng ở mãi sâu dưới chân đồi, hết sức tự nhiên, vì đó là một hang động đá hoàn toàn thiên nhiên, có thể nói lên ý nghĩa đích thực của ngôi mộ đá Chúa Giêsu được táng xác như Phúc Âm nhắc tới. Chưa hết, ngay trong khu Linh Địa, còn có Bảo Tàng Viện lưu niệm tất cả mọi di tích lịch sử về Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức. Bên ngoài khu Linh Địa, vế phía bắc, khách hành hương có thể ra khu phố có nhà ở của chị Bênađét nữa.


Vì Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức, ngoài tiếng tăm về phép lạ chữa lành, vừa thơ mộng hữu hình, vừa nguy nga tráng lệ nên thật sự đã thu hút khách hành hương tuốn về hết sức đông đảo và nhộn nhịp.


Đúng thế, những sinh hoạt hằng ngày chính yếu tại đây gồm có hai cuộc kiệu, đó là kiệu Thánh Thể ban chiều, từ Lều Tạm ở bên kia bờ sông Gave vào hầm Đại Thánh Đường Thánh Giáo Hoàng Piô X, các bệnh nhân ngồi trên xe lăn được theo kiệu và lĩnh phép lành Thánh Thể, và cuộc rước nến vào buổi tối, từ hang Mẹ hiện ra, qua công trường Lộ Đức, đến trước tiền đường Đại Thánh Đường Mân Côi, cho chung khách hành hương, bằng việc lần hạt bằng các thứ ngôn ngữ quốc tế. Riêng tại Đại Thánh Đường Thánh Giáo Hoàng Piô X còn có Thánh Lễ Quốc Tế vào các ngày Thứ Tư và Chúa Nhật hằng tuần. Ngoài ra, tại các Đại Thánh Đường khác, nhất là tại chính hang Mẹ hiện ra, lúc nào cũng có Thánh Lễ của hết phái đoàn hành hương này đến doàn hành hương kia.

Đó chính là lý do, để kết thúc về Sự Tích Đức Mẹ Lộ Đức, tôi xin chia sẻ kinh nghiệm hành hương tại Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức như sau. Muốn tránh cảnh nhộn nhịp với đủ mọi thứ tổ chức ban ngày lẫn ban tối ở đủ mọi nơi và mọi lúc như thế, nhất là để có thể thực sự cảm thấy cái linh thiêng được gần gũi với Mẹ Maria hơn, chúng ta hãy cố dậy từ sáng sớm, đến chính hang Mẹ hiện ra vào lúc 5 giờ sáng, giờ Mẹ thường hiện ra với chị Bênađét ngày xưa, và hãy qùi trước hang Mẹ mà cầu nguyện bằng chuỗi hạt Mân Côi trong tay với Mẹ, như Mẹ đã lần hạt với chị Bênađét xưa kia vậy. Amen.

Ngày Lễ Mẹ Lộ Đức hằng năm cũng đã được Giáo Hội chọn là Ngày Thế Giới Bệnh Nhân. Để hiệp thông với Giáo Hội Hoàn Vũ đang cử hành Ngày Thế Giới Bệnh Nhân lần thứ chín tại Giáo Đô Rôma vào Chúa Nhật ngày 11/2 kính Mẹ Lộ Đức cuối tuần này, cũng như để thông cảm và an ủi quí thính giả bệnh nhân rất thương mến của chúng ta, chúng ta hãy cùng nhau lắng nghe lại huấn từ Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ thành phần bệnh nhân trong ngày Thứ Sáu 11/2 Năm Thánh 2000, khi họ qui tụ về Rôma để Mừng Ngày Năm Thánh của họ, ngày mà 200 người đại diện cho bao ngàn bệnh nhân được Đức Thánh Cha ban phép Xức Dầu Thánh tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Sau đây là lời của ĐTC:

“Đau đớn và bệnh nạn là số phận nơi mầu nhiệm của con người trên trái đất này. Dĩ nhiên con người vẫn có quyền chiến đấu với bệnh nạn, vì sức khỏe là một tặng ân của Thiên Chúa. Thế nhưng, người ta cũng cần phải làm sao để có thể nhận ra dự án của Thiên Chúa mỗi khi đau khổ đến gõ cửa nhà của chúng ta nữa. ‘Chìa khóa’ để có thể nhận thức được điều này ở nơi Thập Giá của Chúa Kitô. Lời nhập thể đã ôm lấy nỗi yếu đuối của chúng ta, mang lấy nó trong mầu nhiệm Thập Giá. Từ bấy giờ, tất cả mọi khổ đau có một ý nghĩa khả dĩ làm cho nó có một giá trị đáng kể. Từ ngày của Cuộc Khổ Nạn, qua 2000 năm rồi, Thập Giá vẫn chiếu sáng như là một cuộc bộc lộ tối hậu mối tình của Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Những ai có thể chấp nhận nó trong đời sống của mình đều cảm thấy rằng đau đớn theo ánh sáng đức tin đã trở thành nguồn hy vọng và cứu độ” (đoạn 3.1).


“Quí bệnh nhân thân mến, đây là giây phút tuyệt đỉnh của Cuộc Mừng Kỷ Niệm của các con! Bằng việc bước qua ngưỡng Cửa Thánh, các con hợp với tất cả những ai trên khắp thế giới đã bước qua đó và những ai sẽ bước qua đó trong Năm Mừng Kỷ Niệm này. Chớ gì việc bước qua Cửa Thánh là dấu hiệu của việc các con thiêng liêng tiến vào mầu nhiệm của Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc tử giá và phục sinh, Đấng vì yêu đã mang lấy ‘những sầu thương và gánh chịu những buồn phiền của chúng ta’ (Is 53:4)” (đoạn 4.2).(L’Osservatore Romano ấn bản Anh ngữ, 16/2/2000, trang 2)
 

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)

 

 


 

Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 1, 1-11

"Lòng tin của anh em được thử thách, rèn luyện đức kiên nhẫn, để anh em nên hoàn hảo và trọn vẹn".

Khởi đầu bức thơ của Thánh Giacôbê Tông đồ.

Giacôbê, đầy tớ của Thiên Chúa và của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, kính chào mười hai chi tộc sống phân tán khắp nơi. Anh em thân mến, anh em hãy vui mừng khi gặp mọi thử thách, anh em biết rằng lòng tin được thử thách rèn luyện đức kiên nhẫn. Còn kiên nhẫn phải đưa đến hành động hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo và trọn vẹn, không khiếm khuyết điều gì.

Nếu ai trong anh em thấy mình khiếm khuyết sự khôn ngoan, thì hãy xin cùng Thiên Chúa là Ðấng rộng lượng ban ơn cho mọi người mà không quở trách, và Người sẽ ban cho. Nhưng hãy lấy lòng tin tưởng mà xin, đừng hoài nghi, vì ai hoài nghi, thì giống như sóng biển bị gió cuốn đi và giao động. Con người hai lòng, do dự trong mọi đường lối, con người ấy đừng mong lãnh nhận gì nơi Chúa.

Người anh em khó hèn, hãy hiên ngang vì được suy tôn; còn người giàu mà trở nên khó hèn, thì cũng vậy, vì chưng ai nấy cũng sẽ qua đi như hoa cỏ. Mặt trời mọc lên nóng bức, làm cho cỏ héo hoa tàn, và vẻ đẹp của nó cũng tiêu tan; người giàu có cũng vậy, bôn ba đến mấy, cũng sẽ suy tàn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 118, 67. 68. 71. 72. 75. 76.

Ðáp: Nguyện Chúa xót thương cho con được sống (c. 77a).

Xướng: 1) Trước khi bị khổ, con đã lạc lầm, nhưng giờ đây, lời sấm của Ngài con xin tuân. - Ðáp.

2) Chúa là Ðấng tốt lành và nhân hậu, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.

3) Con bị khổ nhục, đó là điều tốt, để cho con học biết thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.

4) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn. - Ðáp.

5) Lạy Chúa, con biết sắc dụ Ngài công minh, và Ngài có lý mà bắt con phải khổ. - Ðáp.

6) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu ủy lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 15, 15b

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 8, 11-13

"Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người. Người thở dài mà nói: "Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào". Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia.

Ðó là lời Chúa.


    Image result for Mark 8, 11-13

 

Suy nghiệm Lời Chúa

 

 

ĐỨC KITÔ - ĐIỀM LẠ

 

 

Hôm nay là Thứ Hai trong Tuần VI Thường Niên Năm Chẵn, Bài Phúc Âm của Thánh ký Marco thuật lại cho chúng ta biết về một cuộc đụng độ gây ra bởi thành phần vẫn theo dõi Chúa Giêsu để bắt bẻ Người và tìm cách tố cáo Người, một đối thủ không đội trời chung của họ trên đấu trường dân Do Thái, thành phần dân chúng không thông luật bằng họ, không giữ luật như họ, thậm chí còn được họ dạy luật cho, bấy giờ lại chẳng những tỏ lòng kính phục và tôn sùng nhân vật xuất hiện từ một nơi chẳng có danh tiếng gì, được gọi là Nazarét (chứ không phải ở gần giáo đô Giêrusalem như Tiền Hô Gioan Tẩy Giả), xứ Galilêa (chứ không phải xứ Giuđêa là nơi thuộc vương quốc Đavít), mà còn kéo nhau đổ xô tuốn đến với nhân vật này.

 

 Thánh Marco đã trình thuật lại cuộc đụng độ này như sau: "Khi ấy, các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người. Người thở dài mà nói: 'Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào'. Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia".

 

Dầu sao chúng ta cũng thấy rằng, về phía thành phần biệt phái trong bài Phúc Âm hôm nay, bất chấp thành kiến và ác cảm của mình, họ vẫn cứ tiếp tục nhẫn nại theo đuổi nhân vật Giêsu Nazarét, vì họ muốn biết nhân vật này thực sự là ai, từ đâu đến. Bởi thế, họ mới "xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người", để xem Người uy quyền đến đâu theo kiểu trần gian của họ. Thế nhưng, cho dù Chúa Giêsu đã làm bao nhiêu là "điềm lạ" trong dân và cho dân chính mắt họ đã thấy, như việc Người chữa lành đủ mọi bệnh nạn tật nguyền của dân, hay khu trừ ma quỉ cho dân, thế mà họ vẫn chưa cho là "điềm lạ", vẫn cứ muốn "một điềm lạ" theo ý nghĩ, ý thích và ý muốn chủ quan của họ.

 

Bởi thế mà họ chẳng thế nào và chẳng bao giờ thấy được "một điềm lạ" nào như ý riêng của họ ở nơi Chúa Giêsu, như chính Người cũng đã khẳng định cho họ biết trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào". Hành động tiếp ngay sau của Chúa Giêsu như được Phúc Âm thuật lại đó là: "Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia". Nghĩa là họ ở bờ bên này, và Người ở bờ bên kia, không thể gặp nhau, đúng hơn họ không thể gặp Người khi Người ở với họ, trái lại càng làm họ xa Người hơn, đúng như Người sau này quả quyết về họ và báo trước cho họ biết rằng nơi Người đi họ chẳng những không thể nào tới được, mà còn chết trong tội lỗi của họ ngay chính lúc họ đi tìm Người, nghĩa là muốn tìm biết Người nữa (xem Gioan 7:34, 8:21), và quả thực mọi sự đã xẩy ra đúng y như vậy, khi Thượng Tế Caipha sau này nhân danh Thiên Chúa để hỏi thẳng Người có phải là Đấng Thiên Sai hay không, và sau khi Người nói về mình thì bị Hội Đồng Đầu Mục Do Thái hầu như đồng thanh lên án tử cho Người (xem Mathêu 26:63-66).

 

Thật ra chính bản thân của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét là "một điềm lạ" đối với chung dân Do Thái và riêng thành phần trí thức trong dân cũng như thành phần lãnh đạo của dân. Ở chỗ, Người chỉ là một con người tầm thường chẳng ai biết tới, xuất thân từ một sinh quán vô danh tiểu tốt trong lịch sử cứu độ của dân Do Thái, mà lại tự nhiên trở thành một nhân vật phi thường, có thẩm quyền về giảng dạy trước mặt dân chúng, cùng với quyền lực chữa lành cùng trừ quỉ cho dân, nhờ đó đã lôi kéo được cả dân của mình mà còn cả dân ngoại ở các vùng phụ cận nữa. Nhưng có lẽ Người là "một điềm lạ" nhất của họ là khi Người cứu được người khác mà không cứu được mình, không thể xuống khỏi thập tự giá (xem Mathêu 27:42). Đó mới là "một điềm lạ" thực sự cứu độ con người khỏi tội lỗi và sự chết mà "ai chấp nhận Người (nơi "điềm lạ" này) thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12).

 

Đúng thế, đối với thành phần trí thức trong dân Do Thái và thành phần lãnh đạo của dân do Thái thì nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét quả là một thử thách cả thể đối với họ, chẳng những về nguồn gốc bí ẩn của nhân vật này, mà còn về hành vi cử chỉ "dị chúng nhân" đầy vẻ bất bình thường thậm chí quái đản của nhân vật ấy nữa. Tuy nhiên, "cái khó nó bó cái khôn" mà nếu họ chân thành tìm kiếm chân lý khách quan hơn là chủ quan, ở chỗ khiêm tốn hạ mình xuống, thì mọi sự nơi nhân vật này và về nhân vật này sẽ trở nên hoàn toàn khác hẳn. Đó là lý do Thánh Giacôbê Tông Đồ, vị tông đồ đặc biệt của dân Do Thái, như Tông Đồ Phaolô của Dân Ngoại, trong Bài Đọc I hôm nay đã khuyên nhủ họ sống khôn ngoan như sau:

 

"Anh em thân mến, anh em hãy vui mừng khi gặp mọi thử thách, anh em biết rằng lòng tin được thử thách rèn luyện đức kiên nhẫn. Còn kiên nhẫn phải đưa đến hành động hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo và trọn vẹn, không khiếm khuyết điều gì. Nếu ai trong anh em thấy mình khiếm khuyết sự khôn ngoan, thì hãy xin cùng Thiên Chúa là Ðấng rộng lượng ban ơn cho mọi người mà không quở trách, và Người sẽ ban cho. Nhưng hãy lấy lòng tin tưởng mà xin, đừng hoài nghi, vì ai hoài nghi, thì giống như sóng biển bị gió cuốn đi và giao động. Con người hai lòng, do dự trong mọi đường lối, con người ấy đừng mong lãnh nhận gì nơi Chúa".

 

Quả thực là như thế, thành phần trí thức trong dân Do Thái cũng như thành phần lãnh đạo của dân Do Thái sở dĩ muốn biết về nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, muốn tìm kiếm chân lý mà lại quay ra sát hại chân lý, bởi vì, đúng như Thánh Giacôbê đã nhận định trong Bài Đọc I hôm nay: "ai hoài nghi, thì giống như sóng biển bị gió cuốn đi và giao động. Con người hai lòng, do dự trong mọi đường lối, con người ấy đừng mong lãnh nhận gì nơi Chúa".

 

Bởi thế, thành phần "xin Người một điềm lạ trên trời" mà không được cần phải có một tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Trước khi bị khổ, con đã lạc lầm, nhưng giờ đây, lời sấm của Ngài con xin tuân.

2) Chúa là Ðấng tốt lành và nhân hậu, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài.

3) Con bị khổ nhục, đó là điều tốt, để cho con học biết thánh chỉ của Ngài.

4) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn.

5) Lạy Chúa, con biết sắc dụ Ngài công minh, và Ngài có lý mà bắt con phải khổ.

6) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu ủy lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa.

 

 

 


 

Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 1, 12-18

"Chính Thiên Chúa không hề cám dỗ".

Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.

Phúc cho kẻ chịu thử thách, vì khi đã được tinh luyện, sẽ lãnh nhận triều thiên sự sống mà Thiên Chúa đã hứa ban cho những kẻ yêu mến Người. Khi bị cám dỗ, đừng ai nói rằng bị Thiên Chúa cám dỗ, vì Thiên Chúa không thể bị sự dữ cám dỗ, và chính Người cũng không hề cám dỗ ai. Nhưng mỗi người bị tình dục cám dỗ, bị nó xúi giục và dụ dỗ. Rồi khi tình dục đã thai nghén, thì sinh ra tội lỗi, và khi tội đã phạm rồi, thì sinh ra chết.

Anh em thân mến, anh em đừng lầm lẫn: mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do tự trời, bởi Cha sáng láng ban xuống, nơi Người không có thay đổi và cũng không có bóng dáng sự thay đổi. Người đã muốn sinh ra chúng ta bằng lời chân thật, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các tạo vật.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 93, 12-13a. 14-15. 18-19

Ðáp: Lạy Chúa, phúc thay người được Ngài dạy bảo (c. 12a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, phúc thay người được Ngài dạy bảo, và giáo hoá theo luật pháp của Ngài, hầu cho họ được thảnh thơi trong những ngày gian khổ. - Ðáp.

2) Vì Chúa sẽ không loại trừ dân tộc, và không bỏ rơi gia nghiệp của Ngài. Nhưng sự xét xử sẽ trở lại đường công chính, và mọi người lòng ngay sẽ thuận tình theo. - Ðáp.

3) Ðang lúc con nghĩ rằng chân con xiêu té, thì, lạy Chúa, ân sủng Ngài nâng đỡ thân con. Khi lòng con vướng thêm nhiều điều lo lắng, thì ơn Chúa ủi an làm vui sướng hồn con. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 8, 14-21

"Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi men biệt phái và men Hêrôđê".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, các môn đệ quên mang bánh và chỉ còn một chiếc bánh trong thuyền. Và Chúa Giêsu dặn bảo các ông rằng: "Các con hãy coi chừng và giữ mình cho khỏi men biệt phái và men Hêrôđê". Các môn đệ nghĩ ngợi và nói với nhau rằng: "Tại mình không có bánh". Chúa Giêsu biết ý liền bảo rằng: "Sao các con lại nghĩ tại các con không có bánh? Các con chưa hiểu, chưa biết ư? Sao các con tối dạ như thế, có mắt mà không xem, có tai mà không nghe? Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư, các con không nhớ sao?" Các ông thưa: "Mười hai thúng". - "Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư?" Họ thưa: "Bảy thúng". Bấy giờ Người bảo các ông: "Vậy mà các con vẫn chưa hiểu sao?"

Ðó là lời Chúa.

Mc 8:14-21 - GIÁO PHẬN PHÚ CƯỜNG


Suy nghiệm Lời Chúa


 

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần VI Thường Niên Hậu Giáng Sinh hôm nay liên quan chính yếu đến lời cảnh báo của Chúa Giêsu với thành phần tông đồ là các môn đệ nồng cốt của Người: "Các con hãy coi chừng và giữ mình cho khỏi men biệt phái và men Hêrôđê". Thế nhưng, tiếc thay, thành phần môn đệ của Người hầu như toàn là thành phần quê mùa chất phác, hay có trí thức một chút như chàng Mathêu hay Batôlômêo cũng đầy lòng chân thành nên cũng chẳng nghĩ gì sâu xa. Bởi đó, sau khi nghe Thày mình nói như vậy, các vị bảo nhau rằng: "Tại mình không có bánh", bởi các vị lại cứ tưởng Người bảo các vị đừng ăn bánh của nhóm biệt phái và Hêrôđê, vì men liên quan đến bánh, mà hãy ăn số bánh mang theo thôi, trong khi đó "các môn đệ quên mang bánh và chỉ còn một chiếc bánh trong thuyền".

 

Bởi thế, Chúa Giêsu đã phải giải thích cho các môn đệ tông đồ của Người biết ý nghĩa những gì Người nói về "men biệt phái và men Hêrôđê". Tuy nhiên, Người hoàn toàn nói về bánh mà thôi, liên quan đến hai lần Người làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, như Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: "Sao các con lại nghĩ tại các con không có bánh? Các con chưa hiểu, chưa biết ư? Sao các con tối dạ như thế, có mắt mà không xem, có tai mà không nghe? Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư, các con không nhớ sao?" Các ông thưa: 'Mười hai thúng'. - 'Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư?' Họ thưa: 'Bảy thúng'. Bấy giờ Người bảo các ông: 'Vậy mà các con vẫn chưa hiểu sao?'"

 

Không thấy Thánh ký Marco cho biết thêm là các tông đồ có hiểu sau lời giải thích của Chúa Giêsu hay chăng. Nhưng, căn cứ vào lời giải thích này thì Người mới chỉ hé lộ phân nửa ý nghĩa về "men biệt phái và men Hêrôđê", men liên quan đến bánh. Nghĩa là, Người cố ý nhắc cho các tông đồ rằng tại sao các con lại sợ thiếu bánh chứ, khi Thày nói với các con rằng "các con hãy coi chừng và hãy giữ mình cho khỏi men biệt phái và men Hêrôđê", vì Thày có thể làm cho bánh hóa ra nhiều cơ mà, như các con đã thấy đó, dù hiện nay chúng ta chỉ có một chiếc bánh mang theo. Vậy một nửa ý nghĩa kia liên quan đến chính men là gì, Chúa Giêsu hoàn toàn không hề nói tới.

 

Tuy nhiên, nếu các tông đồ để ý, nhất là qua những lần đụng chạm giữa thành phần biệt phái và Thày của các vị, những lần cả Thày trò bị thành phần này theo dõi và hạch hỏi cùng bắt bí, sẽ hiểu được đâu là ý nghĩa của men được Thày của các vị nói tới, và căn dặn các vị phải "canh chừng và giữ mình", đó là những chủ trương sống đạo sai lạc và đời sống giả hình ham danh của họ. Chủ trương duy luật và tự công chính hóa nhờ việc giữ luật của họ bất chấp lòng nhân hậu là một thứ men, và đời sống giả hình ham danh của họ, thích ăn trên ngồi trước, làm việc gì cũng chỉ để khoe khoang lấy tiếng.

 

Đúng thế, gương mù gương xấu tự bản chất có tác dụng làm dậy lên tình trạng xấu xa tệ hại trong môi trường nhân sinh và gây ô nhiễm hay lây nhiễm một cách nhanh chóng. Bởi vì, nơi con người ta, vì lây nhiễm nguyên tội, vốn xu hướng về những gì là rộng rãi thoải mái và tầm thường trần tục, dễ dàng hùa theo những gì tự nhiên dễ dãi hơn là những gì khắt khe, khổ chế, khó khăn v.v. Nhất là những gì hợp với thị hiếu hay sở trường hoặc ước muốn cùng chủ trương của từng cá nhân con người. Có thể Chúa Giêsu đã lợi dụng chính lúc các tông đồ quên bánh mà nói đến men, đến gương mù gương xấu của thành phần trí thức và có thế giá dễ gây ảnh hưởng trong dân chúng, nhất là thành phần bình dân dễ tin và dễ theo, dễ bị lôi kéo, trong khi đó các tông đồ cũng ngây thơ vô tội đến độ có thể bị cuốn theo lúc nào không biết, chẳng hạn như các vị có lần đã tỏ ra ham danh chẳng thua gì nhóm biệt phái ở chỗ tranh giành ngôi thứ với nhau.

 

Phải, sở dĩ con người trần gian dễ bị gương mù gương xấu lôi cuốn và noi gương bắt chước là vì chính trong con người của mình họ đã có sẵn mầm mống xấu, có cùng tần số với gương mù gương xấu, dễ dàng chiều theo gương mù gương xấu. Yếu tố trong con người rất dễ nhậy cảm với gương mù gương xấu, rất dễ bốc cháy theo ngọn lửa gương mù gương xấu, theo Thánh Gicôbê trong Bài Đọc I hôm nay, đó là "tình dục" ở nơi họ, và gương mù gương xấu chẳng khác gì như một chước "cám dỗ": "Khi bị cám dỗ, đừng ai nói rằng bị Thiên Chúa cám dỗ, vì Thiên Chúa không thể bị sự dữ cám dỗ, và chính Người cũng không hề cám dỗ ai. Nhưng mỗi người bị tình dục cám dỗ, bị nó xúi giục và dụ dỗ. Rồi khi tình dục đã thai nghén, thì sinh ra tội lỗi, và khi tội đã phạm rồi, thì sinh ra chết".

 

Trong Bài Đọc I hôm nay, Thánh Giacôbê như thể còn đề ra cho chúng ta một phương cách để tránh khỏi tầm ảnh hưởng của gương mù gương xấu nữa, bởi vì, nếu "gương mù gương xấu" xuất phát từ con người, từ trần gian, một trần gian không thể nào thoát khỏi gương mù, thì ân sủng và phúc lành từ trời, được chất chứa nơi "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14), những gì chân thật nhất làm cho con người được tái sinh vào sự sống: "Anh em đừng lầm lẫn: mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do tự trời, bởi Cha sáng láng ban xuống, nơi Người không có thay đổi và cũng không có bóng dáng sự thay đổi. Người đã muốn sinh ra chúng ta bằng lời chân thật, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các tạo vật".

 

Đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay mới chất chứa một tâm tình rất hợp với phụng vụ Lời Chúa hôm nay, bao gồm cả Bài Đọc I lẫn Bài Phúc Âm:

 

1) Lạy Chúa, phúc thay người được Ngài dạy bảo, và giáo hoá theo luật pháp của Ngài, hầu cho họ được thảnh thơi trong những ngày gian khổ.

2) Vì Chúa sẽ không loại trừ dân tộc, và không bỏ rơi gia nghiệp của Ngài. Nhưng sự xét xử sẽ trở lại đường công chính, và mọi người lòng ngay sẽ thuận tình theo.

3) Ðang lúc con nghĩ rằng chân con xiêu té, thì, lạy Chúa, ân sủng Ngài nâng đỡ thân con. Khi lòng con vướng thêm nhiều điều lo lắng, thì ơn Chúa ủi an làm vui sướng hồn con.

 

 

 

 

 

Từ Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh sang Mùa Chay

  

Dẫn Nhập tổng quan về Phụng Niên 

 

Theo phụng niên của Giáo Hội thì Mùa Chay và Mùa Phục Sinh ở giữa Mùa Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh và Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh. 

Thực ra có thể chia phụng niên của Giáo Hội thành hai phần chính yếu: phần đầu bao gồm Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh và Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, và phần sau là phần bao gồm Mùa Chay, Mùa Phục Sinh và Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh. 

Hai phần bất khả thiếu và bất khả phân ly làm nên phụng niên của Giáo Hội này, phần nào cũng liên hệ hết sức mật thiết với nhau về ý nghĩa của từng phần, được thể hiện qua chủ đề chung của nó, và cả hai phần cũng chặt chẽ liên kết với nhau.

Trước hết, từng phần có liên hệ chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn, ý nghĩa chính yếu của Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh và Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh ở câu Phúc Âm chủ đề liên quan đến việc tỏ mình của Thiên Chúa: "Lời đã hóa thành nhục thể (Mùa Vọng) và ở giữa chúng ta (Mùa Giáng Sinh)... Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý (Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh)" (Gioan 1:14), như đã được suy diễn trọn phần đầu phụng niên này. 

Cũng thế, phần hai của phụng niên bao gồm Mùa Chay, Mùa Phục Sinh và Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh, cũng liên hệ mật thiết với nhau vì liên quan đến việc Thiên Chúa thông mình ra, thông ban sự sống: "Tôi tự ý bỏ sự sống của Tôi (Mùa Chay và Tuần Thánh) và Tôi có quyền lấy nó lại (Mùa Phục Sinh)" (Gioan 10:18), vì "Tôi là sự sống lại (Mùa Phục Sinh - Tuần Bát Nhật) và là sự sống (Mùa Phục Sinh - sau Tuần Bát Nhật" (Gioan 11:25), và "Tôi đến cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn (Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh)" (Gioan 10:10). 

Sau nữa, cả hai phần cũng liên hệ với nhau. Ở chỗ, nếu phần đầu của phụng niên bao gồm Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh và Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh liên quan đến việc Thiên Chúa tỏ mình ra, thì phần sau của phụng niên bao gồm Mùa Chay, Mùa Phục Sinh và Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh liên quan đến việc Thiên Chúa thông mình ra, sau khi tỏ mình ra ở phần phụng niên đầu, việc thông ban chính sự sống thần linh của Ngài cho nhân loại, chủ đích của việc Ngài muốn tỏ mình ra cho nhân loại, chủ đề của phần đầu của phụng niên, nhờ đó nhân loại mới có thể hiệp thông thần linh với Ngài và cũng nhờ đó thành phần lãnh nhận Phép Rửa Kitô hữu mới có thể làm chứng cho Ngài, thành phần qua họ Ngài tiếp tục tỏ mình và thông mình ra cho nhân loại.

Riêng về Mùa Chay, theo cuốn Catholic Encyclopedia - Tự Điển Bách Khoa Công Giáo thì thời khoảng 40 ngày trong / của Mùa Chay là như thế này:
1- 40 ngày bắt đầu từ Nghị định (Canon) của Công đồng Chung Nicea năm 325, ám chỉ 40 ngày chay tịnh của Chúa Kitô.
2- Từ thời này, hầu hết bên Tây phương cử hành Mùa Chay 6 tuần lễ, nhưng ăn chay 6 ngày trong tuần tuần, trừ Chúa Nhật (6 tuần x 7 ngày = 42 - 6 = 36).
3- Còn thiếu 4 ngày nữa mới đủ 40 ngày chay tịnh như Chúa Kitô, nên từ thế kỷ thứ VII mới có thêm 4 ngày nữa, từ Thứ Tư Lễ Tro, trước Chúa Nhật 1 Mùa Chay.
4- Như thế là đủ và đúng 40 ngày chay tịnh như thời gian 40 ngày chay tịnh của Chúa Kitô, dù không liên tục như Chúa Kitô, bởi trừ Chúa Nhật là ngày Chúa Sống Lại.
5- Vậy nếu tính theo 40 ngày chay tịnh, trừ Chúa Nhật, thì Mùa Chay từ Thứ Tư Lễ Tro đến hết Thứ Bảy Tuần Thánh, chứ không phải chỉ tới Thứ Năm Tuần Thánh.

Nếu tính theo đúng thời gian Mùa Chay 40 ngày thì Chúa Nhật Lễ Lá là ngày thứ 40, có nghĩa là ngày đầu của Mùa Chay là Thứ Tư Lễ Tro và ngày cuối là CN Lễ Lá.
Bởi thế, trong một số bài chia sẻ PVLC trong Mùa Chay ở đây độc giả vẫn có thể thấy chi tiết 40 ngày Mùa Chay tính theo đúng thời gian như vậy,
nhưng xin hiểu là chỉ tính theo thuần thời gian thôi, chứ không phải là phủ nhận truyền thống của Giáo Hội căn cứ vào 40 ngày chay tịnh như thời gian 40 ngày Chúa Kitô chay tịnh.

Tuy nhiên, cách tính theo thuần thời gian cũng có tính cách dung hòa, khi tách Tuần Thánh là Tuần cuối cùng của Mùa Chay chúng ta thấy giống Tuần Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh.
Khiến Tuần Thánh, nếu tách khỏi Mùa Chay, là thời điểm tột đỉnh của Phụng niên, bởi 3 ngày cuối Tuần Thánh là Tam Nhật Vượt Qua, liên quan đến Chúa Kitô hơn là đến chúng ta.
Tóm lại, dù tính thế nào thì tính, Mùa Chay là Hành trình lên Jerusalem với Chúa Kitô, và vì thế mà Tuần Thánh chính là tột đỉnh đức tin ở chỗ Nhập cuộc Vượt Qua với Chúa Kitô!

 


Thứ Tư Lễ Tro

 

 Mở Màn Mùa Chay 40 ngày cho đến Chúa Nhật Lễ Lá bắt đầu Tuần Thánh

 

Phụng Vụ Giờ Kinh  

Thánh thi (Phụng Vụ Giờ Kinh Sách Thứ Tư Lễ Tro)

Thời gian thuận tiện đến rồi
Như ngày bừng sáng ơn trời đã ban,
Thuốc thiêng chữa bệnh trần gian,
Ấy là sám hối ăn năn hãm mình.

Một ngày mới đẹp bình minh :
Hồng ân nguồn mạch cứu tinh tuôn trào ;
Hồn mang vết tội thương đau,
Tịnh trai chữa hết ưu sầu đắng cay.

Chúa ban ơn thánh mỗi ngày,
Tinh thần thể xác ăn chay ngại gì,
Biển trần dầu lắm hiểm nguy
Cũng trông đạt tới bến quê đời đời.

Muôn loài thờ lạy Ba Ngôi,
Canh tân tha thứ loài người chúng con.
Xin cùng vũ trụ càn khôn
Dâng bài ca mới suy tôn hát mừng.


Thánh thi (Phụng Vụ Giờ Kinh Chiều Thứ Tư Lễ Tro)

 

Lạy Ðức Kitô, Ngài thánh hiến

Thời gian trai tịnh bốn mươi ngày,

Và cho người thế mau siêu độ

Ngài đã kêu mời phải ăn chay.

 

Giờ đây Giáo Hội đang sám hối

Xin lượng từ bi ghé mắt nhìn,

Ðấm ngực cúi đầu, than khóc tội

Ngài thương giải cứu, đỡ nâng lên.

 

Bao lỗi lầm xưa, Ngài tha thứ

Chính vì nghĩa nặng với ân sâu,

Từ đây xin Chúa thương gìn giữ

Kẻo lỡ một mai vướng tội nào.

 

Hằng năm khi đến mùa trai tịnh

Vẳng tiếng ăn năn thấm lệ nhòa

Ta hãy rửa hồn cho thanh khiết

Ðể mừng long trọng lễ Vượt Qua.

 

Vũ trụ càn khôn cùng khép nép

Tôn thờ ca ngợi Chúa Ba Ngôi

Ðoàn con nhận lãnh ơn xá tội,

Dâng khúc tân ca cảm tạ Ngài.


Lời cầu (Phụng Vụ Giờ Kinh Sáng Thứ Tư Lễ Tro)

 

Chúa Cha đã tuôn đổ ơn Thánh Thần xuống thanh luyện tâm hồn chúng ta, và làm cho chúng ta được nên vững mạnh trong tình yêu mến. Vậy ta hãy cảm tạ Người và tha thiết cầu xin :

Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần Chúa cho chúng con.

Xin cho chúng con biết cảm tạ Chúa khi đón nhận những ơn lành Chúa ban, - và cũng biết nhẫn nại khi gặp gian nan thử thách.

Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần Chúa cho chúng con.

Xin giúp chúng con biết thực thi bác ái, không những trong việc lớn, - mà còn đặc biệt trong những chuyện nhỏ của đời sống hằng ngày.

Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần Chúa cho chúng con.

Xin cho chúng con biết từ khước những chi tiêu không cần thiết, - để giúp đỡ các anh em nghèo khổ.

Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần Chúa cho chúng con.

Con Một Chúa đã chịu đau khổ trong thân thể Người, để đem lại sự sống mới cho chúng con, - xin cho chúng con biết hãm mình ép xác, để chia sẻ những đau khổ của Người.

Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần Chúa cho chúng con.

Lời nguyện (Phụng Vụ Các Giờ Kinh Thứ Tư Lễ Tro)

 

Lạy Chúa, ngày hôm nay, tất cả chúng con ăn chay hãm mình để bước vào mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng, xin giúp chúng con hằng biết sống khắc khổ, để ngày thêm vững mạnh mà chiến thắng ác thần. Chúng con cầu xin



Phụng Vụ L
ời Chúa


 Image result for ash wednesday

Bài Ðọc I: Ge 2, 12-18

"Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo các ngươi".

Trích sách Tiên tri Giôel.

Bấy giờ Chúa phán: Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van. Hãy xé tâm hồn, chớ đừng xé áo các ngươi. Hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa các ngươi, vì Người nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giầu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai hoạ. Biết đâu Người sẽ trở lại, sẽ hối tiếc và sẽ ban lại phần phúc để có của lễ hiến tế dâng lên Chúa là Thiên Chúa các ngươi?

Hãy thổi kèn lên khắp Sion, hãy ra lệnh ăn chay, triệu tập một đại lễ, quy tụ dân chúng, ra lệnh mở đại hội, tập họp các bô lão, quy tụ các thiếu nhi và các trẻ còn măng sữa. Tân lang hãy ra khỏi nhà, và tân nương hãy ra khỏi phòng. Các tư tế là những kẻ phụng sự Chúa, hãy đứng giữa cửa chính và bàn thờ mà than khóc và kêu lên rằng: Lạy Chúa, xin thương xót dân Chúa, xin đừng để cho cơ nghiệp Chúa phải hổ thẹn, đừng để các dân tộc thống trị nó. Tại sao thiên hạ dám nói rằng: "Chúa của chúng ở đâu?" Chúa đã nhiệt thành với xứ sở Người và đã tha thứ cho dân Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 5-6a. 12-13. 14 và 17

Ðáp: Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa (x. c. 3a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.

2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn; con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. - Ðáp.

3) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.

4) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Lạy Chúa, xin mở môi con, để miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 2 Cr 5, 20 - 6, 2

"Hãy làm hoà cùng Chúa đi... Bây giờ là cơ hội thuận tiện".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.

Anh em thân mến, chúng tôi đây là sứ giả của Ðức Kitô, chính Thiên Chúa nhờ chúng tôi mà khích lệ anh em. Nhân danh Ðức Kitô, chúng tôi năn nỉ anh em hãy làm hoà cùng Thiên Chúa. Ðấng không hề biết đến tội lỗi thì Thiên Chúa đã làm Người thành thân tội vì chúng ta, để trong Người, chúng ta được trở nên sự công chính của Thiên Chúa.

Với tư cách là những cộng sự viên của Người, chúng tôi khuyên anh em đừng nhận lấy ơn của Thiên Chúa một cách vô hiệu. Quả thật Chúa phán: "Dịp thuận tiện đến rồi, Ta đã nhậm lời ngươi, vào ngày giải thoát, Ta đã cứu vớt ngươi". Bây giờ là cơ hội thuận tiện, giờ đây là ngày cứu thoát.

Ðó là lời Chúa.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 50, 12a và 14

Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ.

 

Phúc Âm: Mt 6, 1-6. 16-18

"Cha ngươi, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Ðấng ở trên trời. Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Các con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con rằng: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con, Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".

Ðó là lời Chúa.



Suy nghiệm Lời Chúa

 


   Sự Sống nhận biết    



Vì Mùa Chay kéo dài 40 ngày, tiêu biểu cho 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, cũng như cho 40 năm dân Do Thái băng qua sa mạc, một biểu hiệu cho hành trình đức tin của họ, "vượt qua sự chết mà vào sự sống" (Gioan 5:24), từ vùng đất nô lệ Ai Cập biểu hiệu cho vùng đất của sự chết tiến về miền Đất Hứa tự do biểu hiệu cho vùng đất của sự sống, hay cũng tiêu biểu cho 40 ngày Moisen ở trên Núi Sinai để lãnh nhận Lề Luật của Chúa (xem Xuất Hành 34:38), hoặc cho 40 ngày hành trình của Tiên Tri Isaia tiến lên Núi Horeb để gặp gỡ Thiên Chúa (xem 1Kings 19:8), nên Mùa phụng vụ này cần phải bắt đầu từ Thứ Tư trước Chúa Nhật I Mùa Chay và mở đầu cho thời khoảng 5 tuần lễ Mùa Chay, và thời điểm Thứ Tư mở màn cho Mùa Chay này lại bao gồm cả nghi thức xức tro, nên được gọi là Thứ Tư Lễ Tro, một nghi thức dọn lòng cho tín hữu hiệp thông với Chúa Kitô là Đấng "tự ý bỏ sự sống mình đi".

Thật vậy, là Kitô hữu, qua Phép Rửa, họ đã được hiệp thông với Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô và với Chúa Kitô (xem Roma 6:3-5), Đấng đã "tự ý bỏ sự sống mình đi và có quyền lấy nó lại", vì thế và nhờ thế, "con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Ki-tô, tức là con người do tội lỗi thống trị đã bị hủy diệt để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa" (Roma 6:6), trái lại, "chúng ta được sống một đời sống mới" (Roma 6:4).

Chính vì Mùa Chay là thời điểm phụng vụ cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, mầu nhiệm "vượt qua sự chết mà vào sự sống" của Người (Gioan 5:24 và xem Gioan 12:24), một mầu nhiệm theo nguyên tắc liên quan đến chính Phép Rửa Kitô giáo như vậy, và trên thực tế liên quan đến đời sống của những ai lãnh nhận Phép Rửa như thế, mà thành phần dự tòng mới được lãnh nhận Phép Rửa vào chính Đêm Vọng Phục Sinh để được tháp nhập vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, nhờ đó, nhờ được hiệp thông với Cuộc Vượt Qua của Người, thành phần tân tòng Kitô hữu này mới có thể cùng với toàn thể Giáo Hội trở thành chứng nhân của Người và cho Người, cho đến khi Người lại đến.

Trong Mùa Chay, một thời điểm có thể nói như Thánh Phaolô trong Bài Đọc 2 hôm nay, "là cơ hội thuận tiện... là ngày cứu thoát", Kitô hữu sống lại cái cảm nghiệm khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô và với Chúa Kitô, bằng những việc làm cụ thể, bao gồm cả con người của họ, cả linh hồn và thân xác của họ, bởi họ được Chúa Kitô cứu độ trọn vẹn bản tính của họ, bao gồm cả thân xác sẽ phục sinh của họ khi Người lại đến trong vinh quang, một việc làm cụ thể chứng tỏ họ thực sự cảm nghiệm khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô và với Chúa Kitô. 

Việc làm cụ thể nhất Kitô hữu cần làm trong Mùa Chay liên quan đến cuộc khổ nạn và tử giá của Đấng "tự ý bỏ sự sống mình đi" cho phần rỗi của chung nhân loại và của từng Kitô hữu môn đệ của Người, không phải chỉ là những việc làm bề ngoài liên quan đến bộ ba tu đức Mùa Chay là bố thí, cầu nguyện và chay tịnh, như được liệt kê trong Bài Phúc Âm hôm nay, mà nhất là nhận biết tình yêu thương vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa, và có thực hành bộ ba tu đức này Kitô hữu cũng phải thi hành làm sao với tất cả tinh thần nhận biết của mình.

Đó là lý do qua miệng Tiên Tri Joel ở Bài Đọc 1 hôm nay, Thiên Chúa đã nhắc nhở dân Ngài bao gồm cả thành phần Kitô hữu chúng ta rằng: "Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van. Hãy xé tâm hồn, chớ đừng xé áo các ngươi. Hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa các ngươi, vì Người nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giầu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai hoạ".

Trong câu vừa nhắc nhở vừa kêu gọi này, Thiên Chúa chẳng những đề cập đến những gì là hình thức bề ngoài như "chay tịnh, nước mắt và than van", nhưng các việc này phải bắt nguồn từ bên trong với thái độ "thật lòng trở về với Ta", một thái độ chứng thực con người nhận biết "Chúa là Thiên Chúa ... nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giầu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai hoạ".

Bài Đọc 2 hôm nay cũng thế, Thánh Phaolô Tông Đồ đã "nhân danh Đức Kitô" kêu gọi Kitô hữu Corintô trong Thư 2 của ngài "hãy làm hòa cùng Thiên Chúa". Tại sao vậy? Lý do duy nhất và chính yếu cũng xuất phát từ việc Kitô hữu nhận biết Vị "Thiên Chúa ... nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giầu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai hoạ", Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu đến độ, như Thánh Phaolô cảm nhận và khẳng định trong Bài Đọc 2 hôm nay: "Ðấng không hề biết đến tội lỗi thì Thiên Chúa đã biến Người thành tội lỗi vì chúng ta, để trong Người, chúng ta được trở nên sự công chính của Thiên Chúa".

Nếu Kitô hữu quả thực nhận biết Thiên Chúa, nhận biết tình yêu vô cùng nhân hậu của Ngài, Đấng "nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giầu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai hoạ", Đấng "đã biến (Đức Kitô vô tội) thành tội lỗi vì chúng ta", họ mới có được một tâm tình ăn năn thống hối tuyệt vời về những gì họ đã chẳng những phạm đến Ngài mà còn bất xứng với tình yêu đầy lòng xót thương của Ngài nữa, một tâm tình của Thánh Vương Đavít trong Thánh Vịnh 50 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. 

2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn; con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. 

3) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. 

4) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Lạy Chúa, xin mở môi con, để miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. 

Việc Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa là Đấng "nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giầu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai hoạ", Đấng "đã biến (Đức Kitô vô tội) thành tội lỗi vì chúng ta" không phải chỉ ở chỗ ăn năn thống hối về mặt tiêu cực mà thôi, còn cần phải được tỏ hiện bằng những việc tích cực thích hợp chứng thực việc nhận biết thần linh của họ nữa, những việc được chính Chúa Kitô nói đến trong Bài Phúc Âm hôm nay, cũng là những việc được Giáo Hội cho rằng rất thích hợp với Mùa Chay mà Kitô hữu không thể nào không thi hành, những việc chúng ta có thể gọi là bộ ba tu đức Mùa Chay, thứ tự là bố thí, cầu nguyện và chay tịnh, cả 3 đều phải làm hoàn toàn chỉ vì "Đấng thấu suốt mọi bí ẩn" mà thôi.

"Bố thí" là việc làm đầu tiên trong bộ ba tu đức Mùa Chay, một hành động mà Kitô hữu cần làm trước hết và trên hết, bởi vì "bố thí" liên quan hết sức mật thiết với Lòng Thương Xót Chúa, một Lòng Thương Xót Chúa mà Kitô hữu đã được hoan hưởng một cách hoàn toàn nhưng không, nên họ cũng phải cho đi nhưng không, cũng phải san sẻ chính những gì họ cảm nghiệm thấy về Lòng Thương Xót Chúa này, như thể họ được Lòng Thương Xót Chúa đoái nhìn đến thân phận thấp hèn tội lỗi của họ thế nào thì họ cũng phải thương xót tha nhân như vậy. 

"Cầu nguyện" là việc thứ hai, sau "bố thí" và trước "chay tịnh", mà Kitô hữu cần phải làm. Bởi vì, nhờ cầu nguyện mà họ mới cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa đã được tỏ ra cho họ trong đời sống của họ, để nhờ đó và từ đó họ mới có thể "bố thí", mới có thể yêu thương như họ được thương yêu, và cũng chỉ nhờ cầu nguyện là giao tiếp với Thiên Chúa là thần linh trong tinh thần và chân lý họ mới có thể sẵn sàng hiến mình cho Lòng Thương Xót Chúa như giá trả cho phần rỗi vô giá của các linh hồn tội nhân đáng thương bằng việc "chay tịnh".

"Chay tịnh" là việc thứ ba trong bộ ba tu đức Mùa Chay mà Kitô hữu cần phải thực hiện để chứng tỏ mình nhận biết tình yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa đối với họ, một việc "chay tịnhnhư là thành quả của việc "cầu nguyện" và là chứng thực cho việc "bố thí", một việc "bố thí" cao cả nhất, quí giá nhất và khẩn thiết nhất, đó là "bố thí" chính bản thân mình, đến độ có thể sẵn sàng "hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người" (Mathêu 20:28) như Chúa Kitô, nghĩa là họ đạt tới tầm mức hiệp nhất nên một với chính Lòng Thương Xót Chúa!

Căn cứ vào ý nghĩa sâu xa của bộ ba tu đức Mùa Chay và mối liên hệ bất khả phân ly của bộ ba này, có thể nói bộ ba tu đức Mùa Chay này cũng chính là linh đạo Kitô giáo. Linh đạo Kitô giáo nhắm đến đức ái trọn hảo và thể hiện đức ái trọn hảo (bố thí), ở chỗ "yêu nhau như Thày đã yêu thương các con", "thí mạng sống mình vì người mình yêu(xem Gioan 13:34;15:12,13), một đức ái trọn hảo xuất phát từ mối hiệp thông thần linh (cầu nguyện), ở chỗ "hiệp nhất nên một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha" (Gioan 17:21), đến độ, "không phải tôi sống nữa (chay tịnh) mà là Chúa Kitô sống trong tôi" (Galata 2:20), nhờ đó tôi mới có thể sống đức ái trọn hảo yêu nhau như Chúa yêu đến thí mạng sống mình cho nhau (bố thí). 

 

Mùa Chay - Chay Tịnh

(Phụ thêm cho Thứ Năm và Thứ Sáu sau Thứ Tư Lễ Tro)

 

 

THÁNH MÊTHÔĐÔ, GIÁM MỤC (KHOẢNG 815-885)

Toàn cầu: Lễ Kính – Ở Âu châu: Lễ Buộc

14/2

Ngày 14 tháng 2  THÁNH SY-RI-LÔ ĐAN-SĨ  THÁNH MÊ-TÔ-ĐI-Ô GIÁM MỤC

  1. Ghi nhận lịch sử – Phụng vụ

Ngày lễ Kính thánh Cyrillô và Mêthôđô, được kính như các Tông đồ dân Slavơ và được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố năm 1980, như thánh Quan thầy Âu châu, cùng tước hiệu với thánh Bênêđictô, trùng với ngày qua đời của thánh Cyrillô, khi đến Rôma vào ngày 14.02.869.

Trong thế kỷ IX, Hội Thánh đã trải rộng khắp miền Đông Âu châu và trong vùng vịnh Địa Trung Hải, và bây giờ lại bành trướng sang những chân trời mới. Các dân tộc Slavơ tiếp nhận Tin Mừng được hai nhà đại truyền giáo đem đến: Là thánh Cyrillô và Mêtôđô. Các ngài sinh tại Thêxalônica (Đông Bắc Hy Lạp), được Hội Thánh chính thống Byzantium (Đế quốc La Mã phương Đông) sai đi rao giảng Tin Mừng Moravia (Vùng đất phía Đông của Cộng hòa Séc ngày nay) và đã gặt hái được những thành công.

Trước khi đi truyền giáo vùng Moravia, Méthôđô là Tổng trấn một tỉnh người Slavơ và Cyrillô, nhỏ tuổi hơn, nhưng lại sáng chói hơn, đã chu toàn những sứ vụ tôn giáo và ngoại giao quan trọng. Cả hai nói lưu loát tiếng Slavơ.

Sứ vụ làm cho hai vị nổi tiếng là sứ vụ do Thượng phụ Photios sai đi từ năm 862-963 với mục đích dạy dỗ và Phúc Âm hóa dân Slavơ ở Moravia trong ngôn ngữ của họ. Vì thế Cyrillô và Mêthôđô bắt đầu dạy ngữ vựng đầu tiên, được gọi là “Cyrillique” và họ cũng đã dịch các văn bản tôn giáo ra tiếng Slavơ: Thánh vịnh, các Phúc Âm, các thư Tông đồ, kinh nguyện…

Để ghi chép tiếng của các dân tộc này và viết lại Kinh Thánh bằng tiếng nói của họ, hai anh em ruột đi truyền giáo này đã hoàn thành bảng mẫu tự mới. Trong ngôn ngữ Slavơ, các ngài không những đã cử hành phụng vụ, mà còn thiết lập một nền tảng cho nền văn hóa Kitô hữu mới. Những khó khăm nghiêm trọng, nhất là cuộc chiến tranh giữa những người Đức và những người Slavơ, đã gây cản trở cho việc Tông đồ của các ngài. Đàng khác Giáo hội Byzantin không nâng dỡ đủ mức cho công cuộc truyền giáo nên các ngài đã kêu xin sự trợ giúp và nâng đỡ từ Giáo Hội Rô-ma. Đức Thánh Cha Ađrianô II đã chấp thuận công cuộc truyền giáo và phương pháp mục vụ của các ngài. Thánh Cy-ril-lô qua đời tại Rôma năm 869; thánh Mêtôđô sau khi được tấn phong Giám mục tại Rôma, đã trở lại rao giảng Tin Mừng và sẵn sàng chịu đựng biết bao mệt nhọc ghê gớm ở cả một miền truyền giáo mênh mông gồm Cộng hòa Séc, Cộng hòa Slovác, và hầu như toàn bộ vùng Nam Tư cũ như Slovenia và Croatia.

Truyền thuyết nói rằng, trong một giai đoạn cực kỳ hăng say, Ðức Mêthôđiô đã chuyển dịch toàn bộ Phúc Âm sang tiếng Slavơ chỉ trong vòng tám tháng. Ngài từ trần vào ngày thứ Ba Tuần Thánh, với các môn đệ tụ tập chung quanh. Sau khi Thánh Mêthôđiô qua đời năm 885 tại Veherad thuộc Tiệp Khắc, sự chống đối vẫn chưa dứt, và công trình của hai anh em thánh nhân ở Moravia đã đi vào chỗ tận tuyệt, các môn đệ của hai ngài phải phân tán khắp nơi. Nhưng sự trục xuất ấy đã có ảnh hưởng tốt đẹp trong việc phổ biến các công trình về phụng vụ, về tâm linh và văn hóa của hai anh em thánh nhân đến các vùng Bulgaria, Bohemia và nam Ba Lan.

Sau cái chết của người em, Méthôđô được gọi làm Giám mục ở Pannonie và Sứ thần Toà Thánh cho dân Slavơ; ngài gặp nhiều khó khăn do sự chống đối của hàng giáo sĩ Đức; nhưng điều này không ngăn cản được công trình Phúc Âm hoá và hội nhập văn hóa mà ngài đã theo đuổi cho đến chết (885).

Các môn đệ ngài đã rao giảng Tin Mừng miền Bohême, ông hoàng Bozyvojd được rửa tội theo nghi thức Slavơ, sau đó là dân Serbie và Lusace (vùng Croatia), tiếp đến là Ba Lan, Bulgarie, Roumanie và vùng Kiev.

Với công trình như thế, chúng ta mới thấy được công khó của hai thánh Cyrillô và Mêthôđô trong việc thiếp lập các cộng đoàn Kitô giáo trong nhiều vùng Đông Âu. Việc này đã tạo một bước tiến để thành lập Âu châu, không những về mặt tôn giáo, nhưng cả về mặt chính trị và văn hóa.

Mỹ thuật trình bày thánh Cyrillô với bản ngữ vựng, và thánh Mêthôđô với một quyển Phúc Âm mở ra, được ghi bằng tiếng Slavơ.

  1. Thông điệp và tính thời sự

Thánh Cyrillô ngã bệnh và biết trước giây phút cuối cùng của mình, vẫn nhận ra ơn gọi cao cả: “Xưa tôi chưa hiện hữu, bây giờ tôi đã hiện hữu và tôi sẽ hiện hữu mãi mãi.” Ngài cầu nguyện cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin gìn giữ đàn chiên trung thành này… Xin triển khai Giáo hội với số lượng cao và qui tụ mọi thành phần vào trong sự hiệp nhất. Xin thu tóm tất cả thành một dân được tuyển chọn, kết hiệp mọi người trong đức tin và giáo lý chính thống…” (Phụng vụ giờ Kinh).

Được giao nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô, Cyrillô và Mêthôđô đã giảng dạy “Đức tin chân thật và giáo lý chính thống”, nhưng hai ngài còn hoàn tất công tác Phúc Âm hóa khi hội nhập sứ điệp Kitô giáo vào trong văn hóa các dân Slavơ. Nhờ thế, khi công trình của hai vị được hoàn tất, đã cho phép ngôn ngữ Slavơ xứng đáng trở thành văn tự phổ biến. Nhờ việc đề cao ngôn ngữ và văn hóa, các dân tộc Slavơ đã có thể chống cự lại thứ chính trị thống trị và đồng hóa của người Đức và người Hy Lạp.

Công trình của Cyrillô và Mêthôđô vô cùng to lớn, đánh dấu bằng sự can đảm trí thức và sự khiêm tốn, vì trong thời gian mà người ta chỉ được cầu nguyện ca tụng Thiên Chúa bằng tiếng Do Thái, Hy Lạp hay Latinh, hai vị thánh Tông đồ của dân Slavơ đã đáp trả bằng tiếng Slavơ, và qua đó cho thấy mọi người có thể đến gần với Thiên Chúa bằng ngôn ngữ của mình.

Bên cạnh các tác phẩm tôn giáo, cả hai đã dịch và suy diễn “Bộ luật Justinien”, được xem như bộ luật cổ nhất của Slavơ (Zakon Sudnyj). Người ta cũng cho rằng thánh Mêthôđô đã dịch quyển Nomokanon [Luật của Giáo hội], thu tập các luật Giáo hội và luật dân sự Byzantin.

Phúc Âm được chọn cho Thánh lễ này là dụ ngôn người gieo giống (Mc 4,1-20). Các khó khăn mà vị Tông đồ đã phải gánh chịu (Mêthôđô cũng đã phải vào tù) không ngăn cản được hạt giống rơi vào đất tốt và mang lại nhiều hoa trái.

Công trình Phúc Âm hóa vẫn chưa kết thúc. Chính vì thế Hội Thánh, trong ngày lễ kính hai vị thánh Tông đồ này, đã hát trong Thánh lễ Thánh vịnh 95: Từ ngày này sang ngày khác, hãy công bố ơn cứu độ của Người / hãy thuật lại cho muôn dân vinh quang của Người / cho muôn dân kỳ công của Người. Chúng ta có thể nhắc lại những lời cuối cùng của Cyrillô nói với anh mình là Mêthôđô: “Anh ơi, chúng ta đã chia sẻ cùng một số phận, cùng dắt một cái cày trên cùng một luống. Em biết anh vẫn thích Núi thánh của anh (sự cô tịch), nhưng đừng bỏ trách nhiệm giảng dạy để trở về với núi đó. Thật vậy, anh tìm được nơi nào để hoàn tất ơn cứu độ của anh?”

 

Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB

http://loichua.donboscoviet.org/ngay-14-thang-2-thanh-cyrillo-va-thanh-methodio/

 

Thánh Sy-ri-lô và Mê-tô-đi-ô là hai anh em ruột, sinh tại Tê-xa-lô-ni-ca, trong một gia đình quyền quý đạo giáo.

Lớn lên, hai anh em theo học tại Công-tăn-ti-nốp. Và sau khi tốt nghiệp, các ngài đã chiếm địa vị cao trong xã hội. Nhưng các ngài đã từ bỏ hư danh trần thế, dâng mình đi tu làm linh mục, phụng sự Chúa và phục vụ các linh hồn.

Lúc đó, vua nước Mô-ra-vi mến mộ đạo Chúa, tin các vị thừa sai và mời vào nước giảng đạo. Hai anh em Sy-ri-lô và Mê-tô-đi-ô biết tiếng Sla-vơ, nên được chọn đến rao giảng Tin Mừng cho nước này, Các ngài sốt sắng nhiệt thành rao giảng đạo Chúa, đem nhiều người trở lại đạo.

Để giúp họ dễ dàng học hỏi giáo lý và tham dự các Bí tích nhất là Thánh lễ, các ngài dịch Kinh Thánh và các bản văn phụng vụ ra tiếng Sla-vơ. Và vì họ chưa có chữ viết nên thánh Sy-ri-lô sáng tạo ra 38 chữ cái cho họ viết.

Nhờ đó, người theo đạo Chúa ngày càng đông, nhất là tham dự Thánh lễ đông hơn các nhà thờ hành lễ bằng tiếng Latin. Các linh mục theo La Ngữ thấy vậy thì tố cáo các ngài lạc đạo, buộc lòng các ngài phải đến Roma biện minh với Đức Giáo Hoàng.

Đức Giáo Hoàng chấp nhận bản dịch của các ngài. Nhưng trong lúc ở đó, thánh Sy-ri-lô lâm bệnh và qua đời, ngày 14 tháng 2 năm 869. Trước khi chết, ngài sốt sắng cầu xin Chúa gìn giữ đoàn chiên ngài đã dày công sáng lập, và cho Hội thánh đồng tâm nhất trí và lan rộng khắp nơi. Ngài cầu nguyện: – Lạy Chúa là Thiên Chúa con, Chúa đã dựng nên các phẩm thiên thần và các đạo binh thần trí vô hình; Chúa đã mở rộng bầu trời và đã đặt đất trên nền tảng vững vàng. Chúa đã kéo mọi vật từ vô hữu sang hiện hữu. Chúa luôn luôn nghe lời những người làm theo ý Chúa. Xin Chúa nhậm lời con nguyện và gìn giữ đoàn chiên trung thành này mà Chúa đã đặt con đây là kẻ bất xứng lên đứng đầu. Xin Chúa cứu họ khỏi lòng độc dữ và ngoại đạo của những kẻ hằng lộng ngôn tới Chúa; Xin Chúa làm cho Hội thánh thêm đông số và đoàn tụ tất cả nên một. Xin Chúa làm cho Hội thánh trở thành dân được chọn, đồng tâm nhất trí trong đức tin chân thật và giáo lý chân chính; xin Chúa đặt lời giáo huấn của Chúa vào lòng họ; vì chính nhờ ơn Chúa, chúng con đã được lãnh nhận sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô, nhờ được khuyến khích làm các việc lành và mọi sự đẹp lòng Chúa.. Chúa dùng sức mạnh tay hữu Chúa mà hướng dẫn họ và cho họ nấp bóng Chúa, để mọi người ca ngợi Chúa và chúc tụng thánh danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen.

Đức Giáo Hoàng truyền cho mọi người Hy Lạp có mặt ở Rôma phải họp với dân thành Rôma cầm nến đi đưa đám ngài như có thói quen làm cho chính các vị Giáo Hoàng. Và mọi người đã làm như thế.

Còn lại thánh Mê-tô-đi-ô, ngài được Đức Giáo Hoàng phong chức Giám mục cai quản miền Mô-ra-vi và Pan-nô-ni.

Khi trở lại Mô-ra-vi, thánh nhân đã bị những người dâng lễ theo tiếng Latin bắt giam.. Và ngài đã qua đời tại đây ngày 6 tháng 4 năm 885.

* Quyết tâm: Noi gương thánh Sy-ri-lô và Mê-tô-đi-ô, hằng ngày lo giúp người dốt nát biết chữ, biết Chúa, và cầu nguyện cho Hội thánh là đoàn chiên Chúa ngày càng thêm đông số và hiệp nhất.

* Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dùng hai anh em thánh Sy-ri-lô và thánh Mê-tô-đi-ô để đưa các dân tộc Xi-la-vô-ni-a tới ánh sáng Tin Mừng. Xin mở lòng chúng con đón nhận Lời Chúa dạy, và biến đổi chúng con thành dân riêng của Chúa, luôn đồng tâm nhất trí với nhau để sống đức tin chân thật và thẳng thắn tuyên xưng.

GPVL

http://giaoxutanviet.com/ngay-14-thang-2-thanh-sy-ri-lo-dan-si-thanh-me-to-di-o-giam-muc/

 

Trong Tông huấn Đức Kitô đang sống, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắn nhủ các bạn trẻ rằng: Một số người trẻ đã hy sinh mạng sống của họ vì mục đích ra đi truyền giáo. Các bạn trẻ thân mến, đừng đợi đến ngày mai mới đóng góp năng lực - sự táo bạo và sự sáng tạo của các bạn để thay đổi thế giới của chúng ta. Tuổi trẻ của các bạn không phải là “một thời gian ở giữa.” Các bạn là hiện tại của Thiên Chúa, và Người muốn các bạn sinh hoa trái. Vì “lúc cho đi là lúc chúng ta nhận lãnh.” Cách tốt nhất để chuẩn bị một tương lai tươi sáng là trải nghiệm hiện tại bao nhiêu có thể, một cách dấn thân và rộng lượng.[1] Lời mời gọi này đưa dẫn chúng ta chiêm ngắm thánh Cyrillô và thánh Mêtôđiô khi Giáo hội đang mở rộng biên cương cho việc truyền giáo và cần lắm sự sáng tạo dấn thân táo bạo của những vị tiên phong như các ngài.

Hai anh em Cyrillô và Mêtôđiô sinh ở Thessalônica nước Hy Lạp. Mêtôđiô sinh năm 815 và Cyrillô sinh năm 827. Cả hai anh em đều trở thành linh mục và cùng có những ước muốn thánh thiện là rao giảng đức tin. Cả hai đã trở nên những nhà truyền giáo cho các dân tộc miền Đông và Trung Âu là Môravia, Bôhêmia và Bungari.[2] Cả hai đều dấn thân và hăng say trong sứ vụ dạy dỗ và Phúc Âm hóa dân Slavơ bằng ngôn ngữ của họ.

Do nhu cầu truyền giáo, nên thánh Cyrillô và thánh Mêtôđiô phát minh ra một bảng chữ cái Slavơ và đã chuyển dịch bộ Kinh Thánh và phụng vụ Giáo hội sang tiếng Slavơ. Nhờ việc này, những người thuộc ngôn ngữ Slavơ có thể tiếp nhận giáo lý Công giáo bằng những từ ngữ mà họ có thể hiểu được. Đây là một bước tiến không chỉ về mặt tôn giáo nhưng cả về mặt chính trị và văn hóa.

Rao giảng Tin Mừng trong môi trường sống của mình đã là một việc tốt trong vai trò làm con cái Chúa. Nhưng rao giảng Tin Mừng một cách quảng đại hơn, dấn thân hơn, táo bạo và sáng tạo hơn đó là việc làm đáng ca ngợi. Hai anh em thánh Cyrillô và thánh Mêtôđiô diễn tả ơn gọi của mình theo nghĩa chặt, đó là “phục vụ sứ mạng truyền giáo cho người khác.” Các ngài đã chia sẻ công trình sáng tạo của Chúa và đóng góp cho lợi ích chung bằng cách sử dụng các hồng phúc mà các ngài đã nhận được.[3]

Việc dấn thân phục vụ Chúa của thánh Cyrillô và thánh Mêtôđiô cho thấy: “Khi chúng ta khám phá ra Thiên Chúa đang kêu gọi chúng ta làm một điều gì đó, (…) chúng ta sẽ vận dụng các khả năng tốt nhất của chúng ta để hy sinh, quảng đại và cống hiến. Biết rằng chúng ta không làm các sự việc chỉ vì mục đích để làm chúng, mà đúng hơn, chúng ta đem đến cho chúng một ý nghĩa, như một đáp ứng đối với một lời kêu gọi đang vang lên trong thẳm sâu, chúng ta phải cung ứng một điều gì đó cho người khác...”[4] Con đường mà hai vị thánh đi đã để lại ý nghĩa cao đẹp cho chúng ta và những người trẻ hôm nay. Chu toàn sứ vụ thôi chưa đủ, dấn thân và mau mắn trong sứ vụ vẫn chưa đủ, cần phải nỗ lực sáng tạo, mở tung các cánh cửa mới và can đảm chấp nhận những lời phê bình chỉ trích của người đương thời. Hãy xem “Trong những thế kỉ qua, đã có những người đặt bước chân đầu tiên của họ trên những con đường mới; họ không được trang bị gì ngoài tầm nhìn riêng của họ. Họ có mục đích khác nhau, nhưng tất cả đều có một số điều chung: bước chân của họ là bước chân đầu tiên, con đường của họ là con đường hoàn toàn mới, nhãn quan của họ không hề do vay mượn, và phản ứng mà họ nhận được luôn là sự căm ghét… Nhưng những người đó, với tầm nhìn không vay mượn, vẫn tiếp tục tiến lên. Họ đã chiến đấu, họ đã đau khổ và họ phải trả giá. Nhưng họ đã chiến thắng.”[5]

Ngày 31/12/1980, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn nhận thánh Cyrillô và thánh Mêtôđiô làm quan thầy của Âu châu cùng với thánh Bênêđictô.

 Chúng  ta ngưỡng mộ hai vị thánh này và noi theo gương các ngài. Hãy xin các ngài phù hộ cho chúng ta lòng can đảm, quảng đại và sự dấn thân của các ngài để chúng ta phục vụ và làm sáng danh Chúa trong những nẻo đường mới cần đến con tim và khối óc của chúng ta. Amen

CÂU CHUYỆN CỦA THÁNH VALENTINE

Có thể bạn đã từng nghe câu chuyện này, nhưng chắc rằng không phải tất cả mọi người đều biết hết về câu chuyện của thánh Valentine, nếu các bạn muốn nghe câu chuyện này thì hãy để trí tưởng tượng của bạn bay bổng theo câu chuyện do chính thánh Valentine kể cho các bạn về điều gì đã xảy ra với ngài và tại sao trên khắp thế giới người ta lại kỷ niệm ngày lễ của Tình Yêu.

Tôi xin được tự giới thiệu về mình.  Tên của tôi là Valentine, là Giám mục sống ở Rome vào thế kỷ thứ 3.  Vào thời đó, Rome nằm dưới sự cai trị của Hoàng đế Claudius.  Tôi không thích Hoàng đế Claudius và mọi người dân thành Rome cũng không thích ông hoàng Claudius.

Vào thời đó, Hoàng đế Claudius muốn xây dựng một đội quân hùng mạnh.  Ông muốn tất cả đàn ông phải tham gia vào đội quân.  Nhưng đa số người dân không muốn chiến tranh, họ không muốn phải chém giết lẫn nhau và phải rời xa gia đình mình.  Và như các bạn có thể đoán, rất nhiều người đã không nhập ngũ.  Điều này làm Hoàng đế Claudius rất giận dữ.  Ông ta cho rằng nếu những người đàn ông không lấy vợ thì họ sẽ không phản đối việc tham gia vào quân đội.

Thế là, ông Hoàng Claudius quyết định không cho phép bất cứ một người đàn ông nào được kết hôn.  Những thanh niên trai tráng rất tức giận với cái luật mới này của ông ta.  Tôi cũng không ủng hộ luật này.  Bởi vì, các bạn có biết không, tôi là một linh mục và công việc yêu thích nhất của tôi là se duyên cho các cặp tình nhân đấy.  Vậy là, sau khi Hoàng đế Claudius ban hành điều luật của ông ta thì tôi vẫn tiếp tục đứng ra tổ chức các đám cưới và tất nhiên là một cách bí mật.  Mà điều này lại dường như là rất thú vị. Các bạn hãy tưởng tượng xem trong một không gian nhỏ với một cây nến chỉ có cô dâu, chú rể và tôi.  Tôi thì thầm đọc những lời nguyện cho đám cưới trong những tiếng bước chân rình rập của những tên lính.

Và một đêm khi đang làm đám cưới cho một đôi tình nhân tôi nghe thấy tiếng bước chân.  Thật là kinh hoàng.  Nhờ ơn Chúa, đôi tình nhân đã kịp trốn thoát, nhưng tôi đã bị bắt (có lẽ tại bước chân của tôi đã không còn nhanh nhẹn như trước đây).  Tôi bị đưa ra toà và bị kết án tử hình.  Những ngày còn lại trong tù chờ án tử hình tôi cố gắng sống một cách vui vẻ.  Các bạn có biết điều gì xảy ra với tôi không? Mọi việc thật là tuyệt vời.  Rất nhiều thanh niên đã đến nhà tù để thăm tôi.  Họ ném hoa và những lá thư qua cửa sổ cho tôi.  Họ muốn tôi biết rằng họ sẽ luôn luôn tin vào tình yêu.  Một cô gái em của người cai tù được anh trai cho phép cô vào nhà tù thăm tôi.  Chúng tôi đã ngồi và nói chuyện với nhau hàng giờ liền.  Cô gái đã giúp tôi luôn giữ vững tinh thần.  Vào ngày tôi phải lên đoạn đầu đài, tôi đã chuyển một lá thư cảm ơn đến cô gái vì tình bạn và lòng trung thành mà cô gái đã dành cho tôi, và tôi ký dưới bức thư dòng chữ: “Tình yêu của Valentine dành cho con.”  Tôi tin rằng lời nhắn ấy đã dẫn đến phong tục trao đổi những bức thông điệp tình yêu vào ngày Valentine.

Bức thông điệp của tôi được viết vào ngày 14 tháng 2 năm 269 sau Công nguyên.  Giờ đây, hàng năm vào ngày này mọi người lại tưởng nhớ tôi, nhưng tôi cho rằng điều quan trọng nhất là mọi người luôn nghĩ về tình yêu và tình bạn vào ngày này.  Và mọi người nghĩ đến Hoàng đế Claudius, người đã cố sức ngăn cản tình yêu nhưng tình yêu đã luôn luôn chiến thắng.  Khoảng hai thế kỷ sau đó, vào năm 496 sau Công nguyên, Giáo Hoàng Gelaius đã quyết định lấy ngày 14-2 là ngày lễ cho các cặp tình nhân gặp gỡ và tìm bạn trăm năm và ông đã chọn một Thánh để đại diện cho những người yêu nhau.  Giám mục Valentine đã được chọn là Thánh quan thầy của Lễ hội này.  Bây giờ bạn đã biết được câu chuyện về ngày Thánh Valentine.  Và nếu bạn không biết làm gì vào ngày này, thì có lẽ bạn có thể kể câu chuyện về Thánh Valentine cho bạn bè của bạn, gia đình hoặc một người nào đó bạn muốn gây ấn tượng.

Hải Âu

http://suyniemhangngay.net/2020/02/21/cau-chuyen-cua-thanh-valentine/

https://www.songtinmungtinhyeu.org/index.php?open=contents&id=2955

Truyền thuyết Thánh Valentine – vị thần bảo trợ tình yêu Và cùng tìm hiểu về ngày lễ tình nhân lãng mạn...

 

Ngày Valentine 14/2 là ngày lễ đặc biệt dành cho các đôi tình nhân trên toàn thế giới. Đây là dịp đôi lứa dành cho nhau các món quà lãng mạn như hoa hồng, chocolate, trao cho nhau những nụ hôn "tình củm". Cùng chúng tớ tìm hiểu về vị thánh trong truyền thuyết và ngày lễ đặc biệt này nhé!

Có lẽ châu Âu là nơi có nhiều dị bản nhất xung quanh vị thánh này. Trong đó, truyền thuyết phổ biến nhất kể về Thánh Valentine là một người xuất thân từ trần gian thời La Mã cổ đại. Dưới thời kì trị vì của hoàng đế Claudius đệ nhị, đế chế La Mã tham gia vào rất nhiều cuộc chiến tranh xâm lược đẫm máu. Nhà vua rất khó khăn trong việc tuyển mộ quân lính. Claudius bạo chúa nghĩ rằng đó là do đàn ông còn bận tâm về gia đình vợ con nên mất hết ý chí; thay vào đó, những người đàn ông trẻ độc thân thì chiến đấu sẽ tốt hơn. Kết quả là một đạo luật hà khắc ra đời: ông đã cấm tất cả đàn ông được kết hôn. Đạo luật đi trái với ý Chúa và dân tình nên gây ra nhiều phẫn nộ.

Trước tình cảnh đó, một vị linh mục nhân ái tên Valentine đã bí mật tổ chức hôn lễ cho nhiều cặp tình nhân trong nhà thờ. Sự việc bại lộ, vị linh mục tốt bụng bị bắt giam trong ngục trước khi bị xử tử bởi hình phạt dã man là chém đầu, kéo lê xác khắp thành. Điều kì diệu là thời gian sống trong ngục tối, linh mục đã giúp chữa khỏi mắt cho con gái quản ngục vốn mù lòa bẩm sinh tên Julia. Trước khi ra pháp trường ngày 14/2 khoảng năm 270 TCN, ông đã gửi cho Julia một tấm thiệp kí tên “dal vostro Valentino” - “from your Valentine”. Cảm động trước lòng tốt của vị linh mục tốt bụng này, ngày lễ Valentine ra đời với ý nghĩa tưởng nhớ những công lao của ông trong việc bảo trợ tình yêu con người.

Một dị bản khác về xuất xứ của ngày Valentine đó là từ các lễ hội Công giáo. Cụ thể ở đây là xuất phát từ lễ hội Lupercalia chỉ có tại Rome cổ đại được tổ chức vào khoảng ngày 13-15/2 hàng năm nhằm tưởng nhớ nữ thần La Mã Juno. Trong ngày này, các cặp đôi sẽ được se duyên thông qua hình thức rút thăm tựa như một hệ thống quay số tình yêu. Những cặp đôi được se duyên sẽ làm quen và nếu thực sự có tình cảm với nhau sẽ trở thành tình nhân. Sau đó, ngày này được các mục sư chuyển thành ngày tình nhân Valentine 14/2.

Một điều thú vị không kém khi tìm hiểu về lễ tình nhân ở các nước châu Âu đó là quan niệm của họ về tình yêu. Với người phương Tây, họ cho rằng vào giữa tháng 2, chim chóc bắt đầu bước vào mùa tìm bạn tình nên khoảng thời gian này là đẹp nhất trong năm cho các đôi lứa tìm hiểu và yêu nhau, dành cho nhau những gì tốt đẹp nhất. Ý niệm về một ngày lễ tình yêu giữa tháng 2 có lẽ xuất phát từ đây.

Ở các nước châu Mĩ, ngày lễ tình nhân còn có những cái tên khác. Ở Brazil, Valentine không diễn ra vào 14/2 như các nước khác. Nó diễn ra vào ngày 12/6 hàng năm và mang tên “Dia dos namorados” có nghĩa là "Ngày của tình yêu". Còn ở Colombia, Valentine được tổ chức vào ngày thứ 7 tuần thứ ba của tháng 9 với cái tên “Dia del amor y amistad” (Ngày tình yêu và tình bạn).

Thánh Valentine Và Lịch Sử Ngày Tình Yêu 14/2


Người ta nghĩ rằng Thánh Valentine đã từng là linh mục ở Rôma cũng như là một y sĩ. Vì không chịu từ вỏ đức tin, ngài được тử đạo vào ngày 14 tháng Hai. Chúng ta không biết gì nhiều về ngài, nhưng ngay vào khoảng năm 350, một nhà thờ đã được xây cất nơi ngài тử đạo.

 

Truyền thuyết nói rằng ngài là một linh mục thánh thiện đã cùng với Thánh Marius giúp đỡ các vị тử đạo trong thời Claudius II. Ngài bị вắт và bị gửi cho tổng trấn Rôma xét χử. Sau khi dụ ∂ỗ mọi cách nhưng đều vô hiệu, quan tổng trấn đã ra ℓệин cho lính dùng gậy đáин đập ngài, sau đó đưa đi ᑕᕼéᗰ đầu vào ngày 14 tháng Hai, khoảng năm 269. Người ta nói rằng Ðức Giáo Hoàng Julius I đã cho xây một nhà thờ gần Ponte Mole để kính nhớ ngài.

Nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc việc cử hành ngày Valentine. Một số cho rằng người Rôma có một tập tục vào giữa tháng Hai, trong ngày ấy các con trai tô điểm tên các cô con gái để tỏ lòng tôn kính nữ thần ᗪâᗰ ᗪụᑕ là Februata Juno.

Các tu sĩ thời ấy muốn ᗪẹᑭ ᗷỏ tập tục này nên đã thay thế bằng tên các thánh tỉ như Thánh Valentine. Một số khác cho rằng thói quen gửi thiệp Valentine vào ngày 14 tháng Hai là vì người tin tin rằng các con chim bắt đầu sống thành cặp vào ngày này, là ngày Thánh Valentine bị ᑕᕼéᗰ đầᑌ.

Dường như chắc chắn hơn cả là vào năm 1477, người Anh thường liên kết các đôi uyên ương với ngày lễ Thánh Valentine, vì vào ngày này, 14 tháng Hai, “mọi chim đực đi tìm chim mái .” Tục lệ này trở thành thói quen cho các đôi trai gái viết thư tình cho nhau vào ngày Valentine. Và ngày nay, các cánh thiệp, quà cáp và thư тử trao cho nhau là một phần của việc cử hành Ngày Valentine.

https://conggiaovn.com/thanh-valentine-va-lich-su-ngay-tinh-yeu-14-2-21/

 


Thứ Năm sau Thứ Tư Lễ Tro


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: Ðnl 30, 15-20

"Hôm nay tôi đề nghị với anh em về sự chúc lành và sự chúc dữ".

Trích sách Ðệ Nhị Luật.

Môsê nói với dân rằng: Này hôm nay tôi giãi bày cho anh em về sự sống và hạnh phúc, về sự chết và bất hạnh. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa anh em, hãy đi trong đường lối Người và tuân giữ các giới răn, những lề luật và các huấn lệnh của Người, hầu anh em được sống và tăng số, và Chúa chúc lành cho anh em trên phần đất mà anh em sẽ chiếm hữu. Nhưng nếu lòng anh em không quay về, không muốn nghe, và chạy theo lầm lạc, thờ lạy và phụng sự các thần khác, thì hôm nay tôi tuyên bố với anh em rằng anh em sẽ chết, không được sống trên phần đất bên kia sông Giođan mà anh em sẽ chiếm hữu. Hôm nay, tôi xin trời đất làm chứng rằng: tôi đã đề nghị với anh em về sự sống và sự chết, sự chúc lành và sự chúc dữ. Vậy hãy chọn lựa sự sống để anh em và dòng dõi anh em được sống. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa anh em, hãy tuân phục lệnh Người và liên kết với Người, vì Người là sự sống và là sự sống lâu dài của anh em, để anh em được ở trong đất nước mà Chúa đã hứa ban cho tổ phụ anh em là Abraham, Isaac và Giacóp".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6

Ðáp: Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa (Tv 39, 5a).

Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.

3) Kẻ gian ác không được như vậy, họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi; vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6,2b

Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.

 

Phúc Âm: Lc 9, 22-25

"Ai bỏ mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại".

Chúa nói với mọi người rằng: "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì chưng, ai muốn giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?"

Ðó là lời Chúa.

 

PARÓQUIA DIVINO ESPÍRITO SANTO: Evangelho de hoje, quinta-feira, 15/02/2018

 

luke 9:22-25 reflection french anonymous painter

 

Suy nghiệm Lời Chúa



  Sự Sống mất còn   



Chủ đề của Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh, như đã đề cập từ Thứ Tư Lễ Tro hôm qua, đó là "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17), rất khít khao với bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm ngay sau Thứ Tư Lễ Tro, ngày thứ hai mở đầu Mùa Chay

Thật vậy, chủ đề "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lạiđược phản ảnh rất chính xác ngay câu Chúa Giêsu tiên báo về cuộc Vượt Qua của Người trong Bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại".

Thế nhưng, Giáo Hội cố ý chọn Bài Phúc Âm hôm nay không phải để nhấn mạnh đến Chúa Kitô cho bằng đến Kitô hữu, thành phần đã nhờ Phép Rửa mà được hiệp thông với cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô thì cũng phải sống như Chúa Kitô và với Chúa Kitô, ở chỗ, đáp ứng đúng như lời Người kêu gọi trong bài Phúc Âm hôm nay:

"Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì chưng, ai muốn giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?"

Đúng thế, nếu "môn đệ không hơn Thày và tôi tớ không hơn chủ" (Mathêu 10:24), mà Thày và chủ đây "phải đau khổ nhiều, bị khai trừ và giết chết" thì bất cứ người môn đệ và đầy tớ nào "muốn theo Thày" của mình cũng không thể nào không "bỏ mình" và "vác thập giá mình hằng ngày mà theo" Người.

Chính Chúa Kitô cũng đã "bỏ mình" và "vác thập giá mình" ở chỗ "tuy là Con, Người cũng đã biết tuân phục ("bỏ mình"nơi những gì Người phải chịu ("vác thập giá mình")..." (Do Thái 5:8), đến độ "Người đã vâng lời cho đến chết ("bỏ mình") và chết trên thập giá ("vác thập giá mình")... " (Philiphe 2:8).

Là môn đệ của Chúa Kitô, nghĩa là thành phần được hiệp thông với cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô từ khi lãnh nhận Phép Rửa, từ khi đã chết cho con người cũ và mặc lấy Người là con người mới của họ (xem Epheso 4:22-14), Kitô hữu nào không sống với Chúa Kitô và như Chúa Kitô đã sống thì chẳng khác nào như một tên phản kitô, trong khi Người "tự bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại" họ lại "muốn giữ mạng sống mình thì sẽ mất", mất Người là chính sự sống của họ và nơi họ.

Trái lại, chỉ có Kitô hữu môn đệ nào dám "mất sự sống mình" vì Người và cho Người, thì mới "được sống" vì bấy giờ "sự sống tôi đang sống không phải là tôi sống mà là Chúa Kitô sống trong tôi" (Galata 2:20), một "sự sống viên mãn" (Gioan 10:10), một sự sống cao quí hơn tất cả mọi sự, hơn được "lời lãi cả thế gian" này. 

Dám "mất sự sống mình" đây, như chính gương của Người, nghĩa là Kitô hữu phải làm sao sống giống như một hạt lúa miến mục nát đi để sinh nhiều hoa trái (xem Gioan 12:24). Chính Chúa Kitô là hạt lúa miến được gieo xuống đất bằng việc nhập thể và đã mục nát đi nơi cuộc khổ nạn và tử giá của Người, nên đã sinh nhiều hoa trái là ơn cứu độ cho trần gian bằng cuộc phục sinh của Người.

Nếu Chúa Kitô, trước cuộc Vượt Qua của mình, đã sánh Người giống như một hạt lúa miến được gieo xuống đất cần phải bị mục nát đi để sinh nhiều hoa trái, đúng như Người đã tiên báo: "Tôi bỏ sự sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17), thì nhân của Hạt Lúa Miến Thần Linh Kitô này đây là thần tính của Người và vỏ của của Hạt Lúa Miến Thần Linh Kitô này đây là nhân tính của Người, một nhân tính vỏ bọc bao gồm cả hồn lẫn xác của Người đã thực sự bị mục nát đi nơi cuộc khổ nạn và tử giá của Người, nhờ đó thần tính nhân trung của Người đã được rạng ngời tỏ hiện nơi cuộc phục sinh vinh hiển của Người.

Tuy nhiên, nơi trường hợp của Chúa Kitô, nhân trung thần tính của Người không lệ thuộc vào vỏ bọc nhân tính, trái lại, sử dụng nhân tính như một phương tiện để tỏ mình ra, do đó, chính Người đã tuyên bố: "Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được." (Gioan 10:18). Nơi Kitô hữu thì khác, nhân tính của họ phải là mảnh đất tốt, ở chỗ cởi mở đón nhận và sẵn sáng đáp ứng tác động Thần Linh nơi họ thì Thánh Sủng là hạt giống sự sống được gieo vãi cùng phú bẩm trong tâm hồn của họ mới sinh hoa trái (xem Mt 13:8).

Thật thế, hạt lúa miến Kitô hữu cũng cần phải bị mục nát đi trong lòng đất thế gian, trong cuộc đời của họ, không phải mục nát ở nhân mà là ở vỏ bọc. Nhân của hạt lúa miến không thể nào nẩy mầm và mọc lên nếu vỏ của nó không bị mục nát đi, nghĩa là không mở ra thế nào, thì nhân trung Chúa Kitô nơi hạt lúa miến Kitô hữu cũng chỉ hoàn toàn nẩy nở và phát triển cho khi đạt đến tầm vóc thành toàn của Người là Đầu nơi họ (xem Epheso 4:13-15), ở chỗ cái vỏ nhân tính nơi hạt lúa miến Kitô hữu mục nát đi, bằng việc họ hoàn toàn tín thác vào tình yêu vô cùng nhân hậu của Chúa Kitô là Đấng đang sống trong họ và muốn tỏ mình ra cho họ và qua họ cho thế gian.

Chiều hướng "ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống", như vừa cảm nghiệm ngay ở đoạn trên đây, một từ bỏ không phải là tự diệt mà chính là việc sự sống tự bản tính là những gì bất diệt sẽ vĩnh viễn tồn tại và phát triển nơi bản thân Kitô hữu và trong cuộc đời của họ, cũng đã được sáng tỏ ở nội dung của Bài Đọc 1 hôm nay, qua lời của Moisen nhắn nhủ và kêu gọi dân Do Thái được Sách Đệ Nhị Luật ghi lại như sau:

"Hôm nay, tôi xin trời đất làm chứng rằng: tôi đã đề nghị với anh em về sự sống và sự chết, sự chúc lành và sự chúc dữ. Vậy hãy chọn lựa sự sống để anh em và dòng dõi anh em được sống. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa anh em, hãy tuân phục lệnh Người và liên kết với Người, vì Người là sự sống và là sự sống lâu dài của anh em, để anh em được ở trong đất nước mà Chúa đã hứa ban cho tổ phụ anh em là Abraham, Isaac và Giacóp".

Đúng thế, "ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống", theo Bài Đọc 1 hôm nay, là ở chỗ không sống theo bản tính tự nhiên đã bị băng hoại theo nguyên tội, một bản tính đã chất chứa đầy những mầm mống chết chóc và liên lỉ xu hướng về chết chóc, như Bài Đọc 1 diễn tả: "chạy theo lầm lạc, thờ lạy và phụng sự các thần khác", trái lại, sống đúng như những gì Thiên Chúa muốn, ở chỗ "tuân phục lệnh Người và liên kết với Người, vì Người là sự sống và là sự sống lâu dài của anh em".

Bài Đáp Ca hôm nay phản ảnh nội dung của Bài Đọc 1 về cả thành phần "công chính" liên quan đến "sự sống" và "chúc lành" lẫn thành phần "gian ác" liên quan đến "sự chết" và "chúc dữ", hai thành phần tiêu biểu này hoàn toàn hợp với những lời Chúa Giêsu nói trong Bài Phúc Âm hôm nay: "ai muốn giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống": 

1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. 

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. 

3) Kẻ gian ác không được như vậy, họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi; vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. 



Thứ Sáu sau Thứ Tư Lễ Tro


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 58, 1-9a

"Có phải đó là việc ăn chay mà Ta mong muốn không?"

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: "Ngươi hãy hô to, và đừng ngừng tiếng; hãy làm cho tiếng ngươi vang dội như tiếng kèn, và loan báo cho dân Ta biết sự bất trung của họ, cho nhà Giacóp biết tội lỗi của nó. Vì hằng ngày họ tìm kiếm Ta, và ước mong biết đường lối Ta, như một dân tộc thực hiện công lý và không bỏ lề luật Chúa. Họ hỏi Ta về quy tắc công lý và ước mong đến gần Thiên Chúa: "Tại sao chúng con ăn chay mà Chúa không thấy? Tại sao chúng con hãm mình mà Chúa không hay biết?" Phải, trong ngày ăn chay, các ngươi lo dàn xếp công việc làm ăn, các ngươi hối thúc mọi người làm công. Phải, các ngươi ăn chay trong sự cãi vã, ẩu đả và đánh nhau hung tợn. Các ngươi đừng ăn chay như xưa nay, là cố la lớn tiếng cho người ta nghe. Có phải đó là việc ăn chay mà Ta mong muốn, có phải như thế là ngày hãm mình không? Gục đầu như bông sậy, mặc áo thô, nằm trên đống tro, có phải đó là ăn chay, là ngày làm cho Chúa hài lòng không? Nào ăn chay như Ta mong muốn không phải như thế này sao, là huỷ bỏ xiềng xích bất công, tháo gỡ ách nặng, trả tự do cho kẻ bị áp bức, dẹp bỏ mọi gánh nặng; hãy chia cơm bánh cho kẻ đói, tiếp rước những kẻ phiêu bạt không nhà; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ áo mặc, ngươi đừng khinh bỉ người cùng xác thịt như mình. Như thế, sự sáng ngươi tỏ rạng như hừng đông, các vết thương ngươi sẽ lành nhanh chóng; công lý ngươi sẽ đi trước mặt ngươi, vinh quang Chúa sẽ hậu thuẫn cho ngươi. Như thế, khi ngươi kêu cầu, Chúa sẽ trả lời; ngươi la lên, Chúa sẽ phán: "Này Ta đây".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 5-6a. 18-19

Ðáp: Lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung (c. 19b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.

2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. - Ðáp.

3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33,11

Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn trở lại và được sống".

 

Phúc Âm: Mt 9, 14-15

"Khi tân lang ra đi, bấy giờ họ mới ăn chay".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu sang miền Gêsarênô, các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: "Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?" Chúa Giêsu nói với họ: "Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay".

Ðó là lời Chúa. 



Suy nghiệm Lời Chúa

 

 

  

   Sự Sống chay tịnh   


Hôm nay, Thứ Sáu, sau Thứ Tư Lễ Tro, ngày thứ ba của Mùa Chay, Chủ đề của Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17) vẫn tiếp tục phản ảnh nơi bài Phúc Âm hôm nay, một bài Phúc Âm theo Thánh ký Mathêu chỉ có vỏn vẹn 2 câu, một bài Phúc Âm ngắn nhất trong các bài Phúc Âm trong phụng niên, giống như Bài Phúc Âm Thứ Bảy Tuần 2 Thường Niên theo Thánh Marco cũng chỉ có 2 câu (3:20-21)

Hai câu của Bài Phúc Âm theo Thánh ký Mathêu hôm nay nguyên văn đó là: "Khi ấy, Chúa Giêsu sang miền Gêsarênô, các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: 'Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?' Chúa Giêsu nói với họ: 'Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay'".

Qua câu trả lời này của mình, Chúa Giêsu chẳng những tự nhận Người như là một "tân lang" và Người so sánh các môn đệ của Người như là "các khách dự tiệc cưới", mà Người còn sâu xa ám chỉ đến lời tiên báo khẳng định về ý định liên quan tới số phận đóng vai trò cứu độ của Người nữa: "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại", ở chỗ "rồi sẽ có ngày tân lang ra đi".

Như Bài Phúc Âm cho ngày thứ hai ở ngay đầu Mùa Chay hôm qua, cũng là Thứ Năm sau Lễ Tro, lời tiên báo về cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô bao gồm cả việc bỏ mình và vác thập giá mà theo Người nơi các môn đệ của Người, bài Phúc Âm cho ngày Thứ Sáu cũng là ngày thứ ba ở đầu Mùa Chay hôm nay cũng thế, chẳng những liên quan đến số phận khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô mà còn đến cả ơn gọi hiệp thông cứu độ với Người của các môn đệ theo Người nữa: "Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay".

Thật vậy, nếu "ngày tân lang ra đi" đây là thời điểm Người cần phải lìa bỏ các môn đệ của Người để hoàn thánh ý muốn của Đấng đã sai Người bằng một cuộc khổ nạn và tử giá của Người, một cuộc khổ nạn và tử giá hoàn toàn trái với tất cả những gì thành phần môn đệ của Người nói riêng và dân Do Thái nói chung vốn trông đợi ở nơi một Đấng Thiên Sai đầy quyền năng và thế lực thần linh như Người.

Trong khi chung dân Do Thái và riêng các môn đệ của Chúa Kitô mong đợi một Đấng Thiên Sai, như thời các Quan Án sau khi vào Đất Hứa và trước thời Chư Vương xưa, đến để giải thoát dân tộc của họ khỏi tình trạng bị đô hộ bởi Đế quốc Roma bấy giờ thì Người, Đấng bị đóng đinh với tư cách trước chính quyền Roma là "Vua Dân Do Thái" lại không thể nào xuống khỏi thập giá và không thể nào tự cứu được bản thân mình (xem Mathêu 27:37-44).

Vấn đề và cốt lõi của việc chay tịnh nơi các môn đệ Chúa Kitô: "bấy giờ họ mới giữ chay" đây, trước hết và trên hết là ở chỗ đó, là ở chỗ các vị, về mặt tiêu cực, cần phải chấp nhận tất cả những gì hoàn toàn trái với ý nghĩ và ý muốn của các vị về vị Đại Sư Phụ vô cùng kính mến của các vị. Chưa hết, "bấy giờ họ mới giữ chay" đây, về mặt tích cực, còn ở chỗ, các vị cần phải tuyệt đối tin tưởng vào Người, dù phải xa Người, không còn được gần gũi với Người về thể lý nữa, như thể các vị đã bị mất đi những gì chính yếu nhất của con người các vị và cho cuộc đời các vị.

Thế nhưng, chính việc "bấy giờ họ mới giữ chay" này lại một điều kiện tối cần bất khả thiếu để các vị có thể không bao giờ xa Người nữa, mất Người nữa, trái lại, còn gần Người hơn bao giờ hết, còn hiệp nhất nên một với Người hơn ai hết, như lời Người quả quyết trong Bài Phúc Âm hôm qua "ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống". 

Việc các môn đệ của Chúa Kitô "bấy giờ họ mới giữ chay" vào "ngày tân lang ra đi", một cuộc "ra đi" với một trong những mục đích "là để dọn chỗ cho các con để Thày ở đâu các con cũng sẽ được ở đó với Thày" (Gioan 14:3)chính là việc các vị "mất mạng sống vì Ta", nghĩa là việc các vị tiếp tục tin tưởng vào Người, ở chỗ chờ đợi Người và sẵn sàng theo Người cho tới cùng: "Họ theo Con Chiên đi đến những nơi Con Chiên tới" (Khải Huyền 14:4), như vị đệ nhất môn đệ là Maria Mẹ của Người ở dưới chân cây thập giá của Người (xem Gioan 19:25).

Nếu ý nghĩa chính yếu của việc chay tịnh theo chiều hướng Chúa dạy trong Bài Phúc Âm hôm nay là sống đức tin, thì không phải chỉ sống đức tin liên quan đến tình trạng không còn được ở bên Thày, không còn được trông thấy Thày, không còn chỗ nương tựa nơi Thày nữa, và ở chỗ Thày không phải là Đấng theo cảm quan và quan niệm tự nhiên của mình nữa, mà còn, về chính bản thân mình, ở chỗ sống siêu nhiên, không theo những khuynh hướng tự nhiên vừa hướng hạ lại hướng nội: hướng hạ ở chỗ sống theo đam mê nhục dục, và hướng nội ở chỗ sống kiêu căng tự ái. Nếu chay tịnh mà không phải là sống đức tin, nhờ đó nở hoa đức ái, thì việc chay tịnh ấy chỉ là một thứ chay tịnh hủy diệt hay cằn cỗi, không có sức cứu độ và giải phóng con người cùng thăng hóa con người.

Ý nghĩa của việc chay tịnh có tính cách tích cực theo chiều hướng cứu độ như nơi trường hợp của các tông đồ trong Bài Phúc Âm hôm nay cũng là những gì chính yếu đã được nhấn mạnh đến trong Bài Đọc 1 hôm nay, trong đó, qua miệng của Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa đã  khiển trách dân Do Thái về kiểu cách bất xứng trong việc họ chay tịnh khiến việc chay tịnh của họ chẳng những trở thành vô hiệu mà còn làm mất lòng Chúa nữa. 

"Phải, trong ngày ăn chay, các ngươi lo dàn xếp công việc làm ăn, các ngươi hối thúc mọi người làm công. Phải, các ngươi ăn chay trong sự cãi vã, ẩu đả và đánh nhau hung tợn. Các ngươi đừng ăn chay như xưa nay, là cố la lớn tiếng cho người ta nghe. Có phải đó là việc ăn chay mà Ta mong muốn, có phải như thế là ngày hãm mình không? Gục đầu như bông sậy, mặc áo thô, nằm trên đống tro, có phải đó là ăn chay, là ngày làm cho Chúa hài lòng không?" 

Thiên Chúa không phải chỉ khiển trách dân Do Thái về việc ăn chay bất xứng và vô dụng của họ, Ngài còn cho họ biết việc chay tịnh theo đúng như ý Ngài muốn như thế nào nữa, nhờ đó, họ mới có thể được sống và sống viên mãn hơn, như Ngài tiếp tục phán dạy họ qua Tiên Tri Isaia như sau:

"Nào ăn chay như Ta mong muốn không phải như thế này sao, là hủy bỏ xiềng xích bất công, tháo gỡ ách nặng, trả tự do cho kẻ bị áp bức, dẹp bỏ mọi gánh nặng; hãy chia cơm bánh cho kẻ đói, tiếp rước những kẻ phiêu bạt không nhà; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ áo mặc, ngươi đừng khinh bỉ người cùng xác thịt như mình. Như thế, sự sáng ngươi tỏ rạng như hừng đông, các vết thương ngươi sẽ lành nhanh chóng; công lý ngươi sẽ đi trước mặt ngươi, vinh quang Chúa sẽ hậu thuẫn cho ngươi. Như thế, khi ngươi kêu cầu, Chúa sẽ trả lời; ngươi la lên, Chúa sẽ phán: 'Này Ta đây'".

Ý nghĩa và mục đích của việc chay tịnh không phải là tự diệt, là sự chết mà là phát triển, là sự sống, theo ý nghĩa gắn liền với những gì là vui tươi, như nơi hình ảnh của "tân lang", hình ảnh của "các khách dự tiệc cướiđược Chúa Giêsu sử dụng trong Bài Phúc Âm hôm nay để trả lời cho vấn đề chay tịnh được "các môn đệ của Gioan" đặt ra hỏi Người về lý do "Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?"   

Bởi thế, bất cứ thứ chay tịnh nào không mang lại sự sống đều là tác hại và giả dối, cần phải loại bỏ. Đó là lý do thứ chay tịnh mang tính cách tích cực đúng như Thiên Chúa muốn, như Ngài phán dạy trong Bài Đọc 1 hôm nay, mới làm cho những ai thực hành thứ chay tịnh chính đáng này "tỏ rạng như hừng đông, các vết thương (của họ) sẽ lành nhanh chóng; công lý (của họ) sẽ đi trước mặt (họ), vinh quang Chúa sẽ hậu thuẫn cho (họ). Như thế, khi (họ) kêu cầu, Chúa sẽ trả lời; (họ) la lên, Chúa sẽ phán: 'Này Ta đây'". 

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa tâm tình ăn năn thống hối tội lỗi của Vua Đavít trong Thánh Vịnh 50 của vua, trong đó, cũng cho thấy nếu việc chay tịnh hướng đến ơn cứu độ thì không thể không dính liền với lòng thống hối ăn năn, một tấm lòng thống hối ăn năn, tự bản chất của nó, cũng là việc chay tịnh căn bản nhất và cần nhất nơi những ai muốn được cứu độ, một việc chay tịnh đẹp lòng Chúa còn hơn cả chính "lễ toàn thiêu" nữa, vì việc chay tịnh này được thực hiện với tất cả "tâm hồn tan nát khiêm cung".

1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. 

2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. 

3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung. 


 

Thứ Bảy sau Thứ Tư Lễ Tro


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 58, 9b-14

"Ngươi hãy ca tụng Chúa khi ngươi bỏ đường lối của ngươi".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa phán: "Nếu ngươi loại bỏ ra khỏi tâm hồn sự đàn áp, cử chỉ đe dọa và những lời nói hiểm độc; khi ngươi hết lòng quảng đại với người đói khát, làm cho tâm hồn đau khổ được thư thái, thì sự sáng của ngươi xuất hiện trong tối tăm và tối tăm sẽ trở nên như giữa ban ngày. Và Thiên Chúa sẽ luôn luôn ban cho ngươi được thảnh thơi, cho tâm hồn ngươi tràn ngập ánh sáng huy hoàng, cho xương cốt ngươi được mạnh mẽ, và ngươi sẽ như cánh vườn xinh tươi, như nguồn suối nước không bao giờ khô cạn. Nhờ ngươi, những điêu tàn ngày xưa sẽ được tái thiết, ngươi sẽ gầy dựng lại nền tảng dòng dõi ngươi. Thiên hạ sẽ gọi ngươi là "kẻ tu bổ những chỗ sứt mẻ, kẻ tu bổ lại đường lối nơi cư ngụ".

"Nếu ngươi không tự tiện đi đường xa trong ngày Sabbat là ngày thánh, và ngươi coi ngày Sabbat là ngày hạnh phúc, ngày thánh, ngày hiển vinh của Thiên Chúa; nếu ngươi bỏ công ăn việc làm và những cuộc bàn tính mưu lợi mà ca tụng Chúa, thì ngươi sẽ được hoan lạc nơi Thiên Chúa, và Ta sẽ đưa ngươi lên làm chủ các núi đồi, Ta cho ngươi thừa hưởng gia nghiệp của Giacóp, tổ phụ ngươi, vì chính Chúa đã phán".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 85, 1-2. 3-4. 5-6

Ðáp: Lạy Chúa, xin dạy con đường lối Chúa, để con sống theo chân lý của Ngài (c. 11a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ghé tai, xin nhậm lời con, vì con đau khổ và cơ bần. Xin bảo toàn mạng sống con vì con hiếu thảo với Ngài, xin cứu vớt người bầy tôi đang cậy trông vào Chúa. - Ðáp.

2) Ngài là Thiên Chúa của con, xin thương con, lạy Chúa, vì con ân cần kêu van Ngài. Nguyện cho bầy tôi Chúa được hân hoan, vì lạy Chúa, con vươn hồn lên tới Chúa. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giàu lượng từ bi với những ai kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng con van nài. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 4, 4b

Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.

 

Phúc Âm: Lc 5, 27-32

"Ta không đến kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu trông thấy một người quan thuế tên là Lêvi đang ngồi ở bàn thu thuế, Ngài bảo ông: "Hãy đi theo Ta". Ông liền bỏ mọi sự đứng dậy theo Người. Lêvi đã dọn một bữa tiệc linh đình thết đãi Người tại nhà ông. Có đông người thu thuế và nhiều người khác cùng ngồi ăn với các ngài. Những người biệt phái và các luật sĩ của họ lẩm bẩm với các môn đệ của Người rằng: "Sao các người lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?" Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Những ai mạnh khoẻ không cần tới thầy thuốc, chỉ những người đau yếu mới cần thôi. Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải".

Ðó là lời Chúa.



Suy nghiệm Lời Chúa


    

Sự Sống cứu độ 

 

Thứ Bảy hôm nay, ngày thứ ba sau Thứ Tư Lễ Tro, cũng là ngày thứ tư đầu Mùa Chay, chủ đề của Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17) được phản ảnh trong bài Phúc Âm hôm nay, liên quan đến thành phần tội nhân và lòng thống hối ăn năn.

Thật vậy, nếu "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại" cho nhân loại thì, trước hết và trên hết, là cho những ai xứng đáng với giá cứu chuộc vô giá của Người và sự sống đời đời Người ban tặng. 

Tất nhiên người xứng đáng lãnh nhận mạng sống vô cùng quí báu của Chúa Kitô đã trở thành giá cứu chuộc vô giá cho nhân loại đó chính là và phải là thành phần tội nhân, thành phần bệnh nhân, chứ không phải thành phần công chính, thành phần lành mạnh, tức là thành phần tự cho mình là công chính, tự cho mình là lành mạnh, không cần đến thày thuốc, như chính Người khẳng định và tuyên bố ngay trước mặt "những người biệt phái và các luật sĩđang hiện diện trong "bữa tiệc linh đình thiết đãi Người tại nhà (Levi)" là viên thu thuế đã được Người kêu gọi "Hãy đi theo Tavà cũng đã "liền bỏ mọi sự đứng dậy theo Người": 

"Những ai mạnh khoẻ không cần tới thầy thuốc, chỉ những người đau yếu mới cần thôi. Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải". Như chính việc Người kêu gọi viên thu thuế Levi, việc Người vào nhà của tên tội nhân này và nhất là việc Người đồng bàn với thành phần tội nhân trong số thân nhân bạn hữu của chàng Levi này là một bằng cớ hùng hồn chứng thực lời Người công khai tuyên bố ấy.

Vấn đề hay đề tài chính của phụng vụ Lời Chúa hôm nay, bao gồm cả Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1, là lòng thống hối ăn năn, một vấn đề cũng là đề tài rất thích hợp với Mùa Chay, rất hợp với chủ đề của Mùa Chay: "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lạiđể cho những ai đáng thương (tội nhân) nhưng xứng đáng (thống hối).

Đúng thế, nếu vấn đề hay đề tài bỏ mình của ngày Thứ Năm sau Thứ Tư Lễ Tro và vấn đề hay đề tài chay tịnh của ngày Thứ Sáu sau Thứ Tư Lễ Tro áp dụng hầu như cho thành phần môn đệ của Chúa Kitô, thì vấn đề hay đề tài thống hối ăn năn ở chung Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay cũng như ở riêng Bài Phúc Âm hôm nay là những gì áp dụng cho chung tất cả mọi người, bao gồm cả những con người chưa phải là môn đệ của Chúa Kitô. 

Tuy nhiên, thậm chí là cho thành phần môn đệ của Chúa Kitô trên danh nghĩa đi nữa, nhưng trong thực tế vẫn sống mâu thuẫn với danh phận làm môn đệ của mình, họ sống như thể họ không phải là người theo Chúa Kitô, vì họ tự cho mình là công chính, tức là họ đã tỏ ra không cần đến Chúa Kitô nữa

Bởi thế, không thể nào có vấn đề bỏ mình và chay tịnh để theo Chúa Kitô, để được hiệp thông cứu độ với Người, mà lại mang tâm trạng cho mình là công chính, không cần đến Chúa Kitô, không cần đến ơn cứu độ của Người, nếu trước hết và trên hết không có lòng thống hối ăn năn, không biết mình cho dù đã được cứu độ nhưng vẫn phải được tiếp tục cứu độ cho đến cùng, tức là bền đổ cho đến cùng mới được cứu độ (xem Mathêu 24:12)

Thật ra, khi lãnh nhận Phép Rửa, cho dù vô thức, như khi còn là một em bé sơ sinh, hay khi là người lớn song vẫn chưa ý thức trọn vẹn ý nghĩa của Phép Rửa, thì tự việc lãnh nhận Phép Rửa này của họ, đã là một lời tuyên xưng tôi là kẻ có tội vô cùng khốn nạn đáng thương, và tôi cần đến Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất ban ơn cứu độ cho tôi.

Thế nhưng, vấn đề là ở chỗ, sau khi trở thành Kitô hữu rồi, sau khi đã được thanh tẩy cho khỏi nguyên tội và được thánh hóa bởi Thánh Linh rồi, trong cuộc sống đức tin, có một số tâm hồn lại tỏ ra hãnh diện về đời sống đạo đức tốt lành của mình, đến độ khinh bỉ người khác, nhất là đối với những người anh chị em sống khô khan nguội lạnh, sống tội lỗi bê tha, như thể họ cho rằng họ nên công chính là do công khó của họ chứ không phải là nhờ ơn Chúa.

Việc tự cho mình là công chính của thành phần Kitô hữu sau Phép Rửa này có thể nói là việc họ tự tử thiêng liêng, ở chỗ họ ngấm ngầm cho mình là cùng đích của họ, là master làm chủ họ, là thày của họ chứ không phải là Thày Kitô, không còn Thày Kitô nào khác ngoài chính bản thân tự công chính của họ, nghĩa là họ tự chặt mất đầu của họ là Chúa Kitô, họ tự thắt cổ của mình làm cho cả cơ thể của họ không còn hiệp thông với luồng khí Thần Linh trong cơ thể của họ nữa.  

Không phải việc bác bỏ cảm nhận tự cho mình là công chính, hay nói cách khác, không phải việc bác bỏ tính cách lập công trong việc mình làm, mà chúng ta trở thành những Kitô hữu duy tín, nghĩa là những Kitô hữu chỉ cần tin là được cứu rỗi, không cần phải làm gì nữa, kẻo những công việc Kitô hữu làm, hay những gì họ gọi là "công nghiệp" ấy sẽ làm mất đi hay giảm bớt đi giá trị vô cùng cao cả của công nghiệp Chúa Kitô. Trái lại, chính vì "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6) nên "đức tin không có việc làm là đức tin chết" (Giacôbê 2:14). 

Thế nhưng việc làm của đức tin nơi Kitô hữu đây, không thể nào thiếu đây, tự nó không mang tính cách lập công để chiếm thưởng, cho bằng tính cách con người cần phải có những việc làm cụ thể và thích đáng trong việc đáp ứng tác động thần linh, đáp ứng Thánh Sủng, đáp ứng Đức Ái, đáp ứng Sự Sống Thần Linh, một Sự Sống Thần Linh đã được ban cho Kitô hữu khi họ lãnh nhận Phép Rửa, và như một mầm sống thần linh cần phải được nẩy mầm và triển nở nơi một con người thích đáng như là một mảnh đất tốt.  

Chính Thánh Sủng, chính Đức Ái, chính Thánh Linh ở nơi Kitô hữu mới là nguyên nhân chính, mới là nguyên động lực chính, mới là tác nhân chính làm cho Kitô hữu nên công chính, chứ không phải tự nguyên việc làm của họ, chứ không phải do công lao họ lập được, để rồi nhờ đó họ cũng mới thực sự được nên công chính, và càng ngày họ càng nên công chính hơn nữa khi họ biết hưởng ứng và có những đáp ứng thần linh một cách cân xứng, nhất là khi họ biết chia sẻ và truyền đạt những gì họ lãnh nhận cho tha nhân, cho đồng đạo, để xây dựng công ích, để phát triển Nhiệm Thể Chúa Kitô

Mảnh đất nhân tính của họ không thể nào trở thành một cây mọc lên xum xuê nếu nhân tính ấy không có hạt giống đức tin, hạt giống thần linh gieo vào. 

Bài Đọc 1 hôm nay cũng cho thấy chiều hướng đáp ứng thần linh tích cực đầy hiệu quả, ở chỗ sống chia sẻ bác ái yêu thương: "hết lòng quảng đại với người đói khát, làm cho tâm hồn đau khổ được thư thái", chứ không phải thái độ bất cần của một kẻ tự cho mình là công chính, một thái độ hoàn toàn phản chứng yêu thương: "tâm hồn đàn áp, cử chỉ đe dọa và những lời nói hiểm độc", có tính chất thui chột và tự diệt.  

Nhờ các đáp ứng thần linh mang tính cách bác ái yêu thương như thế nơi những tâm hồn sống trong sự thật, mà tâm hồn của họ càng trở nên công chính và cuộc đời của họ càng phát triển cho đến tầm mức hoàn hảo theo tác động thần linh của Thiên Chúa, như những gì được Tiên Tri Isaia ám chỉ bằng những hình ảnh tươi sáng trong Bài Đọc 1 hôm nay: 

"Thiên Chúa sẽ luôn luôn ban cho ngươi được thảnh thơi, cho tâm hồn ngươi tràn ngập ánh sáng huy hoàng, cho xương cốt ngươi được mạnh mẽ, và ngươi sẽ như cánh vườn xinh tươi, như nguồn suối nước không bao giờ khô cạn. Nhờ ngươinhững điêu tàn ngày xưa sẽ được tái thiết, ngươi sẽ gầy dựng lại nền tảng dòng dõi ngươi".

Tâm tình của thành phần cho mình là một tội nhân đáng thương nếu chân thành nhìn nhận mình như một kẻ khốn cùng cần được cứu độ và đáng được Vị Thiên Chúa từ bi thương xót cứu độ sẽ vang lên những lời nguyện đầy tin tưởng của Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Lạy Chúa, xin ghé tai, xin nhậm lời con, vì con đau khổ và cơ bần. Xin bảo toàn mạng sống con vì con hiếu thảo với Ngài, xin cứu vớt người bầy tôi đang cậy trông vào Chúa. 

2) Ngài là Thiên Chúa của con, xin thương con, lạy Chúa, vì con ân cần kêu van Ngài. Nguyện cho bầy tôi Chúa được hân hoan, vì lạy Chúa, con vươn hồn lên tới Chúa. 

3) Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giàu lượng từ bi với những ai kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng con van nài.