SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
"Thày là Sự Sống"
Liên Hệ Thần Linh
Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần V Phục Sinh
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh
(cho các Chúa Nhật)
Nếu "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25) là chủ đề chính yếu của toàn Mùa Phục Sinh, trong đó, chủ đề "Thày là sự sống lại" cho nguyên Tuần Bát Nhật Phục Sinh là thời điểm 8 ngày có các bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc hoàn toàn liên quan đến các lần Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra mà thôi, thì chủ đề "Thày là sự sống" là chủ đề cho những ngày còn lại, bao gồm cả Chúa Nhật lẫn ngày trong tuần.
Vậy, nếu chủ đề "Thày là sự sống" ở Phụng Vụ Lời Chúa cho các ngày trong tuần lễ II của Mùa Phục Sinh liên hệ tới chiều kích Tái Sinh Thần Linh, trong tuần lễ III tới chiều kích Bánh Sự Sống và trong tuần lễ IV đến chiều kích Mục Tử Thần Linh, thì các ngày trong tuần của tuần lễ Thứ V của Mùa Phục Sinh như thế nào, nếu so sánh với nội dung của phụng vụ Lời Chúa cho cả các tuần lễ VI và VII còn lại nữa, thì nội dung của Phụng Vụ Lời Chúa cho Tuần V Phục Sinh này cho thấy chủ đề "Thày là sự sống" liên quan đến chiều kích Liên Hệ Thần Linh.
Bài Ðọc I: Cv 6, 1-7
"Họ chọn bảy người đầy Thánh Thần".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, số môn đồ gia tăng, nên xảy ra việc các người Hy-lạp kêu trách các người Do-thái, vì trong việc phục vụ hằng ngày, người ta khinh miệt các bà goá trong nhóm họ. Nên Mười hai Vị triệu tập toàn thể môn đồ đến và bảo: "Chúng tôi bỏ việc rao giảng lời Chúa mà lo đi giúp bàn, thì không phải lẽ. Vậy thưa anh em, anh em hãy chọn lấy bảy người trong anh em có tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan, để chúng tôi đặt họ làm việc đó. Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa".
Cả đoàn thể đều tán thành lời các ngài, và chọn Têphanô, một người đầy đức tin và Thánh Thần, và chọn Philipphê, Prôcô, Nicanô, Timon, Parmêna, và Nicôla quê ở Antiôkia. Họ đưa mấy vị đó đến trước mặt các Tông đồ. Các ngài cầu nguyện và đặt tay trên các vị đó.
Lời Chúa lan tràn, và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 32, 1-2. 4-5. 18-19
Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, như chúng con đã trông cậy Chúa (c. 22).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. - Ðáp.
2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. - Ðáp.
3) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Pr 2, 4-9
"Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, khi đến cùng Chúa là tảng đá sống động, bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa tuyển chọn và tôn vinh, chính anh em như những tảng đá sống động, xây dựng toà nhà thiêng liêng, chức vụ tư tế thánh thiện, để hiến dâng của lễ thiêng liêng đáng Thiên Chúa chấp nhận nhờ Ðức Giêsu Kitô. Vì thế, có lời Thánh Kinh rằng: "Ðây Ta đặt tại Sion tảng đá góc tường, được tuyển chọn và quý giá, ai tin Người, sẽ không phải hổ thẹn". Vậy, vinh dự cho anh em là những kẻ tin; nhưng đối với những kẻ không tin, thì tảng đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường, đá vấp ngã và đá chướng ngại cho những kẻ chống lại và không tin lời Chúa, và số phận của họ là thế. Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Ðấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 6
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 1-12
"Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi". Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người". Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói "Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha"? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha".
Ðó là lời Chúa.
Chủ đề "Thày là sự sống" sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh được tiếp tục ở Tuần thứ V Phục Sinh, từ Chúa Nhật đầu tuần. Thật vậy, nếu Tuần II (4 ngày đầu trong tuần), chủ đề "Thày là sự sống" liên quan đến việc "tái sinh bởi trời", "bởi nước và Thần Linh", Tuần III Phục Sinh liên quan đến "Bánh Sự Sống từ trời xuống cho thế gian được sự sống", và Tuần IV Phục Sinh "Thày là sự sống" liên quan đến "Vị Chủ Chiên nhân lành hiến mạng sống mình cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn", thì Tuần V Phục Sinh "Thày là sự sống" liên quan đến mối Liên Hệ Thần Linh giữa Chúa Kitô và thành phần môn đệ tông đồ.
Và đó là lý do các bài Phúc Âm cho Chúa Nhật Năm B và C được Giáo Hội chọn đọc đều về mối hiệp thông thần linh trong yêu thương, giữa thày trò với nhau như cành nho với cây nho (Năm B), và giữa các môn đệ với nhau (Năm C), như họ được Thày yêu thương thế nào họ cũng yêu nhau như vậy. Các bài Phúc Âm cho các ngày thường trong Tuần V Phục Sinh cũng thế, cũng theo chiều hướng (nên một với Chúa và với nhau) của 3 bài Phúc Âm Chúa Nhật (A-B-C) mở đầu Tuần V Phục Sinh này.
Vậy trong Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật V Phục Sinh Năm A này cho thấy chiều kích hiệp thông nên một ở chỗ nào, nếu không phải ở chỗ "Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó". Thế nhưng, đâu là ý nghĩa hiệp thông Chúa Kitô muốn nói đến qua câu nói vắn gọn chứa đầy những bí mật ấy? Đó là lý do chúng ta cần phải nắm bắt được toàn câu Người nói: "Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó".
Thường chúng ta hiểu câu này về biến cố Chúa Giêsu Thăng Thiên về cùng Cha là Đấng đã sai Người để dọn chỗ cho các thánh tông đồ. Không sai. Bởi vì, ngay trước câu này, Người đã khẳng định với các tông đồ rằng: "Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở". Tuy nhiên, nếu đọc trọn vẹn đoạn 14 của Phúc Âm Thánh Gioan mà bài Phúc Âm hôm nay chất chứa những câu mở đầu, thì câu Người nói mà chúng ta vốn nghĩ rằng liên quan đến biến cố Thăng Thiên của Người còn một ý nghĩa cũng hợp tình, hợp lý và hợp thời nữa. Bởi ở câu cuối cùng của đoạn 14 này còn nói đến một chi tiết trực tiếp liên quan đến câu chúng ta đang tìm hiểu nữa, đó là câu: "tên thủ lãnh thế gian này đang đến..." (Gioan 14:30).
Như thế, "Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con" đây ám chỉ việc Người ra đi để chịu khổ nạn và tử giá, bởi nếu Người không "đi trước chiên" (Gioan 10:4), không nêu gương cho chiên như vậy, các vị không thể theo Người, và do đó, cho dù tông đồ Phêrô có cố gắng thử sức xem sao, ngài, cuối cùng, sau 3 lần chối Thày như đã được Ngưới báo trước (xem Gioan 13:37-38), đã phải công nhận rằng Bậc Thày của ngài quá chí lý: "Nơi Thày đi, hiện giờ con không thể tới được, sau này con mới tới được" (Gioan 13:36,33).
"Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó". Thật vậy, sau khi Chúa Kitô sống lại từ trong kẻ chết, Người đã "trở lại" với các tông đồ của mình, và truyền cho các vị phải "đi khắp thế gian" (Marco 16:16), "cho đến tận cùng thế giới" (xem Tông Vụ 1:8), để "làm chứng về những điều đó" (Luca 24:48), về Đấng Vượt Qua (xem Luca 24:47). Trong số các tông đồ, Người đã "trở lại" riêng với Thánh Phêrô, báo cho ngài biết rằng ngài cũng sẽ phải chịu chết như Người: "để Thày ở đâu thì các con cũng ở đó", và bấy giờ Người lên tiếng kêu gọi ngài "hãy theo Thày" (Gioan 21:22), và chỉ sau đó, lời ngài thưa cùng Chúa Kitô: "con sẽ thí mạng sống vì Thày" (Gioan 13:37) mới được nên trọn mà thôi.
Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật V Phục Sinh Năm A hôm nay, bởi thế, đã được Chúa Kitô cho các tông đồ biết rằng, điều kiện tiên quyết và tối yếu để có thể sống liên kết mật thiết với Người, có thể "theo Thày" cho đến cùng, đó là "Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy". Tin vào cả 2 chứ không phải chỉ tin vào một trong hai. Nói cách khác cho dễ hiểu hơn: đó là hãy tin vào Cha qua Con, hay hãy tin vào Con để có thể đến được với Cha: "Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". Vì "Thày là đường, là sự thật và là sự sống".
"Thày là đường" ở chỗ "các việc Thày đã làm", nghĩa là Thày "từ trời xuống không phải để làm theo ý mình mà là ý Đấng đã sai" (Gioan 6:38). Bởi thế mà tất cả "những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc", và cũng chính vì thế cho thấy quả thực "Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy". Đến độ "ai thấy Thày là thấy Cha", để rồi nhờ đó, "nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy".
"Thày là sự thật" ở chỗ "ai thấy Thày là Thấy Cha": Thấy Thày qua "các việc Thày làm", để nhờ đó mà nhận biết rằng Thày đã được Cha sai, chứ "Thày không tự mình mà đến... chính Người đã sai Thày" (Gioan 7:28-29), nên "Ngài làm mọi việc" trong Thày và qua Thày, nghĩa là "qua các việc Thày làm" chỉ hoàn toàn theo ý Ngài, chứ không phải và không bao giờ theo ý của Thày một chút nào.
"Thày là sự sống" ở chỗ "ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha". Thật vậy, nhờ nhận biết được "sự thật" về Thày là Đấng Thiên Sai, qua "Thày là Đường", ở "các việc Thày làm", mà họ đã được hiệp nhất nên một với Người: "Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó". Nghĩa là họ cũng bị thế gian hận thù ghen ghét và sát hại như Thày (xem Gioan 15:18-21; 16:1-2). Thế nhưng, chính vì họ đã được "Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy", mà cuối cùng họ cũng chiến thắng thế gian như Thày "đã thắng thế gian" (Gioan 16:33).
Chính vì Chúa Kitô Vượt Qua, đã "về với Cha", những vẫn tiếp tục "thắng thế gian" nơi các tông đồ của Người như thế mà các vị, thành phần "chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa", mới có thể "làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn", nên mới xẩy ra sự kiện lịch sử vào thời Giáo Hội mới khai sinh, sau biến cố Thánh Thần Hiện Xuống, đó là sự kiện, như được Sách Tông Vụ thuật lại ở Bài Đọc 1 hôm nay: "Lời Chúa lan tràn, và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin", một sự kiện chưa hề xẩy ra ngay khi Chúa Kitô còn sống!
Tuy nhiên, tất cả những hoa trái thiêng liêng gặt hái được, còn hơn thời của Chúa Kitô nữa, không phải tự các vị tông đồ mà có và làm được, không phải là do "con hơn cha nhà có phúc", mà là do chính các vị đã "tin vào Thiên Chúa và tin vào Thày", tức đã được hiệp nhất nên một với Người, nhờ đó, các ngài đã, như Thánh Phêrô trong Bài Đọc II hôm nay cho biết, "là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Ðấng đã gọi (các ngài cũng như những ai tin vào Người qua các vị) ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người", để xứng đáng "hiến dâng của lễ thiêng liêng đáng Thiên Chúa chấp nhận nhờ Ðức Giêsu Kitô".
Chính vì các tông đồ "tin vào Thiên Chúa và tin vào Thày" mà các vị đã trở nên phương tiện để trao ban ơn cứu độ là tất cả lòng thương xót Chúa cho nhân loại, một lòng thương xót đã được Thánh Vịnh gia cảm nhận cùng chúc tụng ngợi khen ở bài Thánh Vịnh 32, được Giáo Hội lập lại trong Bài Đáp Ca hôm nay, nhất là ở câu họa chung: "Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, như chúng con đã trông cậy Chúa (c. 22)", và được bày tỏ ở 3 câu xướng sau đây:
1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa.
2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa.
3) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.
Bài Ðọc I: Cv 9, 26-31
"Ngài thuật lại cho các ông biết trên đường đã thấy Chúa thế nào".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, khi tới Giêrusalem, Saolô tìm cách tiếp xúc với các môn đệ; nhưng mọi người đều sợ ngài, không tin rằng ngài đã trở thành môn đệ. Barnaba dẫn ngài đến gặp các Tông đồ, và ngài thuật lại cho các ông biết trên đường ngài đã thấy Chúa thế nào, đã được Chúa phán dạy, và tại Ðamas ngài dạn dĩ xưng danh Ðức Giêsu thế nào. Và từ đó, ngài ra vào Giêrusalem với các ông, và dạn dĩ xưng danh Chúa. Ngài cũng giảng dạy cho dân ngoại, và tranh luận với những người Hy-lạp, nên họ tìm cách giết ngài. Các anh em biết việc đó, nên đem ngài xuống Xêsarêa, rồi tiễn đưa ngài về Tarsê.
Hội Thánh được bình an trong miền Giuđêa, Galilêa và Samaria, sống trong sự kính sợ Chúa, được xây dựng và đầy ơn an ủi của Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 21, 26b-27. 28 và 30. 31-32
Ðáp: Lạy Chúa, bởi Chúa mà lời con ca ngợi vang lên trong đại hội (c. 26a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Bởi Chúa mà lời con ca ngợi vang lên trong đại hội. Con sẽ làm trọn những lời khấn hứa của con, trước mặt những người tôn sợ Chúa. Bạn cơ bần sẽ ăn và được no nê, những kẻ tìm kiếm Chúa sẽ ca khen Chúa: "Tâm hồn các bạn hãy vui sống tới muôn đời". - Ðáp.
2) Thiên hạ sẽ ghi lòng và trở về với Chúa, khắp cùng bờ cõi địa cầu; và toàn thể bá tánh chư dân sẽ phủ phục trước thiên nhan Chúa. Bao người ngủ trong lòng đất sẽ tôn thờ duy một Chúa; bao kẻ nằm xuống bụi tro sẽ sấp mình trước thiên nhan. Và linh hồn con sẽ sống cho chính Chúa. - Ðáp.
3) Miêu duệ con sẽ phục vụ Ngài, sẽ tường thuật về Chúa cho thế hệ tương lai, và chúng kể cho dân hậu sinh biết đức công minh Chúa, rằng: "Ðiều đó Chúa đã làm". - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Ga 3, 18-24
"Ðây là giới răn của Người: là chúng ta phải yêu thương nhau".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, chúng ta đừng yêu bằng lời nói và miệng lưỡi, nhưng bằng việc làm và chân thật. Do đó, chúng ta biết mình thuộc về sự thật, và sẽ được vững lòng trước mặt Chúa. Vì nếu lòng chúng ta có khiển trách chúng ta, thì Thiên Chúa còn lớn hơn lòng chúng ta và Người thông biết mọi sự.
Các con thân mến, nếu lòng chúng ta không khiển trách, thì chúng ta tin tưởng nơi Thiên Chúa, và bất cứ điều gì chúng ta xin, thì chúng ta cũng được Người ban cho, vì chúng ta giữ giới răn Người và làm điều đẹp lòng Người.
Và đây là giới răn của Người: Chúng ta phải tin vào thánh danh Con của Người là Chúa Giêsu Kitô, và phải thương yêu nhau, như Người đã ban giới răn cho chúng ta. Ai giữ các giới răn của Người, thì ở trong Người và Người ở trong họ. Do điều này mà chúng ta biết Người ở trong chúng ta, đó là Thánh Thần mà Người đã ban cho chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 15, 4 và 5b
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Các con hãy ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con; ai ở trong Thầy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 15, 1-8
"Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sinh nhiều trái".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào sinh trái thì Người tỉa sạch để nó sai trái hơn. Các con đã được tỉa sạch nhờ lời Thầy đã nói với các con. Các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Cũng như nhành nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho; các con cũng vậy, nếu không ở trong Thầy.
"Thầy là cây nho, các con là nhành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì. Ai không ở trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như ngành nho, và sẽ khô héo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi. Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì cứ xin, và sẽ được. Ðây là điều làm Cha Thầy được vinh hiển là các con sinh nhiều trái, và như thế các con trở nên môn đệ của Thầy".
1) Bởi Chúa mà lời con ca ngợi vang lên trong đại hội. Con sẽ làm trọn những lời khấn hứa của con, trước mặt những người tôn sợ Chúa. Bạn cơ bần sẽ ăn và được no nê, những kẻ tìm kiếm Chúa sẽ ca khen Chúa: "Tâm hồn các bạn hãy vui sống tới muôn đời".
2) Thiên hạ sẽ ghi lòng và trở về với Chúa, khắp cùng bờ cõi địa cầu; và toàn thể bá tánh chư dân sẽ phủ phục trước thiên nhan Chúa. Bao người ngủ trong lòng đất sẽ tôn thờ duy một Chúa; bao kẻ nằm xuống bụi tro sẽ sấp mình trước thiên nhan. Và linh hồn con sẽ sống cho chính Chúa.
3) Miêu duệ con sẽ phục vụ Ngài, sẽ tường thuật về Chúa cho thế hệ tương lai, và chúng kể cho dân hậu sinh biết đức công minh Chúa, rằng: "Ðiều đó Chúa đã làm".
Bài Ðọc I: Cv 14, 20b-26
"Các ngài thuật lại những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba trở lại Lystra, Icôniô và Antiôkia, củng cố tinh thần các môn đồ, khuyên bảo họ giữ vững đức tin mà rằng: "Chúng ta phải trải qua nhiều nỗi gian truân mới được vào nước Thiên Chúa". Nơi mỗi hội thánh, các ngài đặt những vị niên trưởng, rồi ăn chay cầu nguyện, trao phó họ cho Chúa là Ðấng họ tin theo.
Sau đó, các ngài sang Pisiđia, đi đến Pamphylia. Sau khi rao giảng lời Chúa tại Perghê, các ngài xuống Attilia, rồi từ đó xuống tàu trở về Antiôkia, nơi mà trước đây các ngài đã được trao phó cho ơn Chúa để làm công việc các ngài mới hoàn thành. Khi đến nơi, các ngài tụ họp giáo đoàn, thuật cho họ nghe những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài và đã mở lòng cho nhiều dân ngoại nhận biết đức tin.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 8-9. 10-11. 12-13ab
Ðáp: Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa đến muôn đời (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. - Ðáp.
3) Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời, chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Kh 21, 1-5a
"Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan đã thấy trời mới và đất mới. Vì trời cũ và đất cũ đã qua đi, và biển cũng không còn nữa. Và tôi là Gioan đã thấy thành thánh Giêrusalem mới, tự trời xuống, từ nơi Thiên Chúa: tề chỉnh như tân nương được trang điểm cho tân lang của mình. Và tôi nghe có tiếng lớn tự ngai vàng phán ra: "Ðây là Thiên Chúa ở với loài người, và chính Thiên Chúa sẽ ở với họ. Người sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ. Sự chết chóc sẽ không còn nữa, cũng không còn than khóc, không còn kêu la, không còn đau khổ: bởi vì các việc cũ đã qua đi". Và Ðấng ngự trên ngai vàng đã phán rằng: "Này đây, Ta đổi mới mọi sự".
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 13, 34
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 13, 31-33a. 34-35
"Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển.
"Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau".
Ðó là lời Chúa.
Đề tài "Thày là sự sống" cho Chúa Nhật Thứ V Phục Sinh Năm C ở đây có thể nói là mối liên hệ thần linh nơi Giáo Hội Chúa Kitô, một mối liên hệ được gắn bó và thể hiện bằng một đức ái trọn hảo "như Thày đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau", một đức ái trọn hảo chẳng những kết hợp nội bộ mà còn là yếu tố chính yếu bất khả thiếu của chung Giáo Hội cũng như của riêng Kitô hữu trong sứ vụ làm chứng cho Chúa Kitô, để nhờ đó thế gian có thể nhận biết Chúa Kitô hầu trở về với Người hầu được cứu độ: "Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau".
Sách Tông Vụ ở Bài Đọc 1 hôm nay đã cho thấy sự phát triển của Giáo Hội vào lúc ban đầu, một sự kiện phát triển sẽ không thể nào xẩy ra nếu các vị tông đồ thừa sai chia rẽ nhau, không đoàn kết yêu thương nhau, nghĩa là không có sự sống của Chúa Kitô nơi các vị, một sự sống viên mãn, một đức ái trọn hảo, đối với nhau cũng như đối với những ai được Thiên Chúa đưa đến cùng các vị:
"Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba trở lại Lystra, Icôniô và Antiôkia, củng cố tinh thần các môn đồ, khuyên bảo họ giữ vững đức tin mà rằng: 'Chúng ta phải trải qua nhiều nỗi gian truân mới được vào nước Thiên Chúa'. Nơi mỗi hội thánh, các ngài đặt những vị niên trưởng, rồi ăn chay cầu nguyện, trao phó họ cho Chúa là Ðấng họ tin theo. Sau đó, các ngài sang Pisiđia, đi đến Pamphylia. Sau khi rao giảng lời Chúa tại Perghê, các ngài xuống Attilia, rồi từ đó xuống tàu trở về Antiôkia, nơi mà trước đây các ngài đã được trao phó cho ơn Chúa để làm công việc các ngài mới hoàn thành. Khi đến nơi, các ngài tụ họp giáo đoàn, thuật cho họ nghe những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài và đã mở lòng cho nhiều dân ngoại nhận biết đức tin".
Đúng thế, "giới răn mới" là một trong 3 điều chính yếu, (cùng với Bí Tích Thánh Thể và Thiên Chức Linh Mục), Chúa Giêsu ban cho Giáo Hội của Người qua các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly. Tuy nhiên, đối với "giới răn mới" này, Chúa Giêsu ban cho Giáo Hội của Người như là một di chúc, một thứ trăn trối của một vị Thày chẳng bao lâu nữa sẽ không còn trực tiếp ở với Giáo Hội của Người. Bởi thế Người mới nói: "Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau". Như thế có nghĩa là "Thày ở cùng các con cho tới tận thế" (Mathêu 28:20) khi các con yêu thương nhau: "Ở đâu có 2-3 người họp lại vì danh Thày thì Thày ở giữa họ" (Mathêu 18:20). - "Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời - Ubi caritas et amor, Deus ibi est".
Thật vậy, đức ái trọn hảo của Giáo Hội là tất cả những gì chứng thực quyền năng phục sinh của Chúa Kitô, Đấng "được toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18), Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết gây ra bởi những gì là vị kỷ, hận thù, ghen ghét, chia rẽ, phá hoại, một đức ái trọn hảo phản ảnh một tình "yêu cho đến cùng" (Gioan 13:1) của Đấng chẳng những "hiến mạng sống mình vì người yêu" (Gioan 15:13), mà còn yêu cả kẻ thù mình: "Xin Cha tha cho họ vì họ lầm không biết việc họ làm" (Luca 23:34). Có thể nói đức ái trọn hảo của Giáo Hội và nơi Giáo Hội "như Thày đã yêu thương các con" đây chính là "sự sống viên mãn" (Gioan 10:10) Chúa Kitô Chủ Chiên nhân lành đã ban cho đàn chiên Giáo Hội của Người.
Và phải chăng đó là tất cả ý nghĩa liên quan đến "vinh hiển" trong lời Chúa Kitô đã khẳng định ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển". Chúng ta có thể phân tích cầu Chúa Kitô nói này thứ tự như sau:
"Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người": "Bây giờ Con Người được vinh hiển" đây là lúc nào, phải chăng vào chính "khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán" về vinh hiển của Người. Có nghĩa là đã đến giờ khổ giá và tử nạn của Người theo đúng dự án cứu độ của Cha Người, để nhờ đó Cha Người là Đấng đã sai Người nhờ Người mà tỏ hết tình yêu vô cùng nhân hậu của Ngài ra. "Con Người được vinh hiển" đây là được chịu khổ giá và tử nạn để làm cho "Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người" ở chỗ làm cho thế gian nói chung và Giáo Hội nói riêng thấy được dung nhan thương xót của "Cha là Đấng xót thương" (Luca 6:36).
"Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình Ngài. "Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình Ngài" ở chỗ nào, nếu không phải là Ngài đã làm cho Chúa Kitô sống lại từ trong kẻ chết: "Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa"." (Philiphe 2:9-11).
"Và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển": Thiên Chúa chẳng những "đã" làm "cho Người được vinh hiển nơi chính mình Ngài", khi làm cho Người sống lại từ trong kẻ chết mà còn "sẽ" làm "cho Người được vinh hiển" nữa. Nếu không phải ở chỗ làm cho Người được tỏ hiện nơi đức ái trọn hảo của Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người, cho đến khi Người hoàn toàn tỏ rạng nơi Giáo Hội của Người, một Giáo Hội, cuối cùng, như Sách Khải Huyền ở Bài Đọc 2 hôm nay cho thấy như một: "Thành thánh Giêrusalem mới, tự trời xuống, từ nơi Thiên Chúa: tề chỉnh như tân nương được trang điểm cho tân lang của mình".
Đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay mới có câu họa chung là: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa đến muôn đời". "Danh Chúa" đây là ở chỗ "Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa" (câu xướng 1). Bởi thế cho nên "mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài" (câu xướng 2). Cũng thế, "con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời, chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ" (câu xướng 3).
Thánh Phê-rô Sa-nen sinh năm 1803 tại Cu-ết. Ngài được một linh mục thương dạy dỗ và cho vào chủng viện. Năm 1827, ngài thụ phong linh mục và đi giúp họ đạo Am-be. Nhưng thánh nhân mong ước đi truyền giáo cho dân ngoại, nhất là những dân tộc thiểu số còn kém văn minh vật chất, nên xin vào dòng Đức Maria là dòng thừa sai giảng đạo.
Và thánh nhân đã được toại nguyện. Năm 1837, ngài được bề trên sai đến đảo Fu-tu-na, mọt đảo nhỏ ít dân, còn sống hoang dã dữ tợn. Lúc đầu, ngài được dân địa phương và chủ đảo tiếp đón nồng hậu. Nhưng dần dần họ lại chống đối ngài. Nhất là khi vua đảo này nghe tin con trai ông ta theo đạo, thì ra lệnh hành hình và đánh đập ngài đến chết, vào ngày 28 tháng 4 năm 1841.
Chúng ta hãy xem gương của ngài: ” Ngay sau khi Phê-rô Sa-nen khấn dòng trong hội Đức Bà Maria, ngài được sai đi giảng đạo ở Úc châu theo như lời ngài đã xin. Ngài đã tới đảo Fu-tu-na trong Thái-bình-dương, nơi dan Đức Kitô chưa hề được rao giảng. Thầy trợ sĩ luôn lôn đi với ngài, thuật lại cuộc đời truyền giáo của ngài như sau: Trong khi đi làm việc, ngài thường bị cháy nắng và thường bị đói. Về đến nhà thì mồ hôi ra như tắm và mệt đừ. Nhưng lúc nào ngài cũng can đảm, sống động và vui vẻ, dường như ở chốn cực lạc về. Và như thế không phải chỉ một lần mà hầu như hằng ngày.
Ngài không bao giờ từ chối gí với dân Fu-tu-na; ngay cả với những kẻ bách hại làm khổ ngài. Bao giờ, ngài cũng bàu chữa cho họ. Và cho dù họ có cứng cỏi cộc cằn, ngài cũng vẫn không xua đuổi họ. Ngài hiền lành vô địch đối với mọi người; và bằng mọi cách, chẳng trừ một ai. Thế nên, chẳng có chi lạ khi người dân ở đó gọi ngài là” con người tốt bụng”. Có lần ngài nói với anh em đồng nghiệp rằng:” Ở nơi truyền giáo khó thì chúng ta phải là thánh nhân !”
Dần dà, ngài đã rao giảng Đúc Kitô và Tin Mừng. Nhưng thu lượm được ít kết quả. Với lòng kiên trì bất khuất, ngài cứ tiếp tục công cuộc truyền giáo, vừa có tính cách nhân đạo, vừa có tính cách đạo đức, tựa vào gương và lời Đức Kitô đã phán: Người gieo thì khác, mà người gặt thì khác. Trong khi đó, ngài vẫn chuyên cần tha thiết nài giúp, nài xin sự trợ giúp của Thánh Mẫu Thiên Chúa mà ngài có lòng sùng kính rất đặc biệt.
Công việc giảng đạo của ngài đã hủy bỏ được công việc thờ cúng các thần mà các tù trưởng ở Fu-tu-na đã cổ võ để giữ dân chúng dưới sự kềm kẹp của họ. Thế nên, họ giết ngài một cách dã man. Hy vọng rằng ngài chết đi thì mầm sống kitô giáo ngài gieo vãi cũng sẽ mai một luôn. Nhưng hôm trước ngày tử đạo, ngài đã nói:
Tôi có chết cũng chẳng sao. Kitô giáo đã ăn rễ sâu ở đảo này rồi. Nên tôi có chết, đạo cũng không mất được.
Máu của thánh tử đạo trước hết đã sinh ích cho dân ở Fu-tu-na. Vì chỉ ít năm sau, tất cả đã tn Chúa Kitô hết. Hơn nữa, còn có ích cho các đảo khác ở Úc châu. Nơi mà ngày nay đã mọc lên nhiều hội thánh phồn vinh, mà tất cả đều xưng thánh Phêrô là vị tử đạo tiên khởi của mình.” 1
Quyết tâm: Noi gương thánh Phêrô Sa-nen, hằng ngày tôi lo đem Chúa đến cho mọi người chưa biết Chúa, nhất là cho những người nghèo khó, dốt nát nơi xa xôi hẻo lánh.
Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh Phê-rô Sa-nen được vinh phúc tử đạo để mở mang nước Chúa.Xin cho chúng con biết tham dự vào mầu nhiệm Đức Kitô chịu chết và sống lại, hầu trở nên nhân chứng của đời sống mới.
Lời Bàn
Lời Trích
(xin bấm vào hàng chữ trên đây để đọc về vị thánh cùng ngày 28/4 này)
Thứ Hai sau Chúa Nhật V Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 14, 5-17
"Chúng tôi rao giảng cho các người bỏ các thần này mà trở về với Thiên Chúa hằng sống".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, tại Icônia có phong trào người dân ngoại và người Do-thái cùng các thủ lãnh của họ định ngược đãi và ném đá Phaolô và Barnaba. Biết thế, hai ngài trốn sang các thành thuộc Lycaonia là Lystra, Ðerbê và khắp vùng phụ cận, và rao giảng Tin Mừng ở đó.
Lúc ấy tại Lystra có người bại chân từ lòng mẹ, anh chỉ ngồi và không hề đi được. Anh nghe Phaolô giảng dạy. Phaolô chăm chú nhìn anh, thấy anh có lòng tin để được cứu chữa, nên nói lớn tiếng rằng: "Hãy chỗi dậy và đứng thẳng chân lên". Anh liền nhảy lên và bước đi. Dân chúng thấy việc Phaolô làm, thì la to bằng tiếng Lycaonia rằng: "Các vị thần mặc lớp người phàm đã xuống với chúng ta". Họ gọi Barnaba là thần Giupitê và Phaolô là thần Mercuriô, vì chính ngài giảng. Thầy sãi thần Giupitê ở ngoại thành, mang bò và vòng hoa đến trước cửa: ông toan hợp cùng dân tế thần.
Nghe tin ấy, các tông đồ Barnaba và Phaolô liền xé áo mình ra, xông vào đám dân chúng mà la lên rằng: "Hỡi các ngươi, các ngươi làm gì thế? Chúng tôi cũng là loài hay chết, là người như các ngươi, là những kẻ rao giảng cho các người bỏ các thần này mà trở về với Thiên Chúa hằng sống, Ðấng tạo thành trời đất, biển cả và mọi vật trong đó. Trong các thế hệ trước đây, Người đã để mặc cho mọi dân tộc đi theo đường lối riêng mình; dầu vậy, Người không hề để thiếu sót những dấu chứng về Người, Người ban phát muôn ơn lành, cho mưa từ trời xuống cho các ngươi và mùa màng hoa trái, cho các ngươi được no lòng phỉ dạ". Dầu nói thế, các ngài cũng phải vất vả lắm mới ngăn cản được dân chúng khỏi tế các ngài.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 113B, 1-2. 3-4. 15-16
Ðáp: Lạy Chúa, không phải cho chúng con, nhưng xin cho danh Ngài rạng sáng (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Không phải cho chúng con, lạy Chúa, không phải cho chúng con, nhưng xin cho danh Ngài rạng sáng, vì đức từ bi, vì lòng trung tín của Ngài. Tại sao Chúa để chư dân người ta nói: "Thiên Chúa của bọn này ở đâu?" - Ðáp.
2) Thiên Chúa chúng tôi ngự trên trời, phàm điều chi Ngài ưng ý, Ngài đã thực thi. Thần tượng của họ bằng bạc với vàng, đó là sự vật do tay loài người tác tạo. - Ðáp.
3) Anh em đã được Chúa ban phúc lành, Chúa là Ðấng đã tạo thành trời đất. Trời là trời của Chúa, còn đất thì Chúa đã tặng con cái loài người. - Ðáp.
Alleluia: Cl 3, 1
Alleluia, alleluia! - Nếu anh em sống lại làm một với Ðức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự cao siêu trên trời, nơi Ðức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 21-26
"Ðấng Phù Trợ mà Cha sẽ sai đến, Người sẽ dạy các con mọi điều".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ, người ấy là kẻ yêu mến Thầy, và ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy cũng yêu mến và tỏ mình ra cho người ấy".
Ông Giuđa, không phải Giuđa Iscariô, thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tại sao Thầy sẽ tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ cho thế gian?" Chúa Giêsu trả lời: "Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời mà các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Ðấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Ðấng Phù Trợ, là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con".
Ðó là lời Chúa.
Chiều
kích Liên Hệ Thần Linh trong chủ đề "Thày là Sự Sống"
cho chung Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh được tỏ hiện rất rõ
ràng trong bài phúc âm Thứ Hai Tuần V Phục Sinh hôm nay:
"Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy... Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy".
Trong bài
phúc âm hôm nay, sự
sống liên quan đến mối
liên hệ thần linh ở đây xẩy ra giữa chung loài người và riêng thành phần
môn đệ của Chúa Kitô với Người cũng như với Cha
của Người. Ở chỗ "yêu mến", tác động
duy nhất tạo nên mối hiệp nhất thần linh giữa con người tạo vật và
Thiên Chúa Tạo
Hóa.
Để tỏ lòng yêu mến của mình,
về phần con người, họ phải "giữ các điều răn của Thày" hay "giữ
lời Thày" cũng thế, bằng không, không làm theo ý muốn của người mình yêu
thì họ đâu
có thực lòng yêu mến nhau hay chưa
tỏ lòng yêu nhau thực sự.
Tác dụng thần linh của việc con người yêu mến Thiên Chúa, đó là họ chẳng những được Thiên Chúa yêu thương mà còn được Ngài tỏ mình ra cho và ở với nữa. Có nghĩa là được hiệp nhất nên một với Thiên Chúa, có cùng một tâm tưởng như Thiên Chúa, bởi được Ngài chiếm đoạt, làm chủ và điều hành toàn thể con người của họ hoàn toàn theo ý muốn toàn hảo và toàn năng của Ngài.
Về câu tông đồ Giuđa không phải Íchca hỏi "Lạy Thầy, tại sao Thầy sẽ tỏ
mình ra cho chúng con, mà không tỏ cho thế gian?",
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp như thế
nào. Nhưng qua những gì Người nói sau vấn nạn này, chúng ta thấy dường như
Người trả lời như sau:
Sở dĩ Thày không tỏ mình ra cho thế gian mà chỉ tỏ mình ra cho riêng các con mà thôi vì các con là bạn hữu Thày (xem Gioan 15:14-15, bài Phúc Âm Thứ Sáu tuần này), và sở dĩ Thày tỏ mình ra cho riêng các con là thành phần bạn hữu thân mật của Thày chứ không cho chung thế gian là để các con sinh hoa trái (cùng đoạn phúc âm câu 16-17). Nhưng muốn sinh hoa trái là phần rỗi các linh hồn, là các con thay Thày, đại diện Thày, nhân danh Thày tiếp tục ban phát ơn cứu độ của Thày cho thế gian thì các con cần phải “yêu mến Thày” bằng cách “giữ lời Thày”, nhờ đó các con mới được hiệp thông thần linh với Ba Ngôi là nguồn sống thần linh, một nguồn sống được thông ban qua Thày đến các con và từ các con sang thế gian.
Bài Đọc
1 (Tông Vụ 14:5-18)
Mối liên
hệ thần linh càng mật thiết càng cho thấy con người được Thiên Chúa chiếm
ngự có một thần lực phi thường như thần linh, như trường hợp của Thánh
Tông Đồ Phaolô trong bài đọc 1 hôm nay, vị tông đồ dân ngoại đã "chữa cho
một người bại chân" ở Lystra, "bị què từ khi lọt lòng mẹ, chưa
hề đi được bước nào", thế mà sau lời truyền của thánh nhân,
"anh đã đứng ngay dậy mà bước đi", khiến
cho dân chúng ở đó bàng hoàng sửng sốt tỏ ra sùng bái ngài như là một thần
linh giáng thế vậy.
"Thấy việc ông Phao-lô làm, đám đông hô lên bằng tiếng Ly-cao-ni-a: 'Thần
linh mặc lốt người phàm đã xuống với chúng ta!'... Thầy tư tế đền thờ thần
Dớt ở ngoại thành đem bò và vòng hoa đến trước cổng thành, và cùng với đám
đông, muốn dâng
lễ tế..."
Tuy nhiên,
không phải ai làm được
phép lạ cũng là
những vị thánh, cũng có một liên hệ thần linh mật thiết với Thiên Chúa, cũng
có một sự sống viên mãn nhờ được Thiên Chúa chiếm đoạt và sống động trong
họ, nếu họ không tỏ ra khiêm tốn để chứng thực cho
thấy chính họ chỉ là dụng cụ thần linh của Đấng toàn năng hoạt động trong họ
mà thôi, như Thánh Phaolô đã phải vội vàng phân trần với đám dân địa
phương đang tuốn đến để thần
thánh
hóa ngài:
"Hỡi các bạn, các bạn làm gì thế này? Chúng tôi đây cũng chỉ là người phàm,
cùng thân phận với các bạn. Chúng tôi loan Tin Mừng cho các bạn, là hãy bỏ
những cái hão huyền này đi, mà trở lại cùng Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã
tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó. Trong những thế hệ
đã qua, Người để cho muôn dân đi theo đường lối của họ. Tuy vậy Người không
ngừng làm chứng cho mình, khi thi ân giáng phúc, ban mưa từ trời và mùa màng
sung túc cho các bạn, và cho các bạn được no lòng, được an vui."
Ngày 29 tháng 4
Thánh Ca-ta-ri-na Xi-ê-na, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh
Con đã nếm thử và đã nhìn thấy
Bài đọc 2
Trích sách Đối thoại của thánh Ca-ta-ri-na Xi-ê-na, trinh nữ, về Thiên Chúa quan phòng.
Ôi Thiên Chúa vĩnh hằng, ôi Ba Ngôi vĩnh cửu ! Ngài đã dùng sự kết hợp với bản tính Thiên Chúa mà làm cho máu Con Một Ngài có giá trị biết bao ! Lạy Ba Ngôi vĩnh cửu, Ngài ví tựa đại dương sâu thẳm, càng tìm con càng thấy ; càng thấy con càng tìm. Ngài làm cho linh hồn được no thoả nhưng dường như lại không no thoả. Bởi lẽ trong vực thẳm của Chúa, Chúa làm cho linh hồn được no thoả mà vẫn còn luôn đói khát Chúa, vì linh hồn vẫn hết sức ước mong khao khát được thấy Chúa là ánh sáng trong ánh sáng của Chúa, ôi lạy Ba Ngôi vĩnh cửu !
Nhờ ánh sáng trí khôn và trong ánh sáng của Chúa, lạy Chúa Ba Ngôi, con đã nếm thử và đã nhìn thấy vực thẳm của Ngài cũng như vẻ đẹp của thụ tạo do Ngài dựng nên. Vì khi chính bản thân con được mặc lấy Ngài, con đã thấy con là hình ảnh của Ngài. Lạy Cha vĩnh cửu, điều này có nghĩa là Cha ban cho con được tham dự vào quyền năng và sự khôn ngoan của Ngài, sự khôn ngoan của riêng Con Một Ngài. Còn Thánh Thần, Đấng phát xuất từ Ngài là Cha và từ Con của Ngài, lại ban cho con ý muốn, và nhờ đó làm cho con có thể yêu mến.
Vì chính Ngài, lạy Ba Ngôi vĩnh cửu, Ngài là Đấng Sáng Tạo, còn con là thụ tạo : do đó, nhờ Ngài soi sáng, con cũng biết được rằng khi tái tạo con nhờ máu của Con Một Ngài, thì Ngài đã say mê vẻ đẹp nơi thụ tạo do Ngài dựng nên.
Ôi vực thẳm, ôi Ba Ngôi vĩnh cửu, ôi Thiên Chúa, ôi đại dương sâu thẳm, Chúa còn có thể ban cho con ơn gì lớn lao hơn chính Ngài nữa chăng ? Chúa là lửa luôn rực cháy mà không thiêu rụi. Chúa dùng sức nóng của Chúa mà thiêu huỷ mọi tình yêu vị kỷ của linh hồn. Chúa là lửa đánh tan mọi băng giá, và Chúa dùng ánh sáng của Chúa mà soi sáng trí lòng. Đó là ánh sáng Chúa đã dùng để làm cho con nhận biết chân lý của Chúa.
Khi soi mình trong ánh sáng ấy như trong một tấm gương, con nhận biết rằng : Chúa là sự thiện tuyệt đối, sự thiện vượt trên mọi sự thiện, sự thiện đem lại hạnh phúc, sự thiện không thể hiểu thấu được ; Chúa là vẻ đẹp vượt trên mọi vẻ đẹp ; Chúa là sự khôn ngoan vượt trên mọi khôn ngoan. Bởi vì Chúa là chính sự khôn ngoan ; Chúa là lương thực nuôi các thiên thần, nhưng vì lòng yêu thương nung nấu, Chúa đã tặng ban chính mình cho nhân loại.
Chúa là tấm áo che cho con khỏi trần trụi ; Chúa lấy sự dịu ngọt của Chúa mà nuôi dưỡng chúng con là những kẻ đang đói lả, vì Chúa ngọt ngào không chút đắng cay. Ôi lạy Ba Ngôi vĩnh cửu !
Lạy Chúa, Chúa đã đốt lửa yêu mến nồng nàn trong lòng thánh nữ Ca-ta-ri-na Xi-ê-na, khiến thánh nữ vừa thiết tha chiêm ngưỡng Đức Ki-tô chịu khổ nạn, vừa hăng say phục vụ Hội Thánh. Xin nhậm lời thánh nữ chuyển cầu mà cho dân Chúa biết thông phần khổ nạn với Đức Ki-tô, để được vui mừng chiêm ngưỡng vinh quang Chúa. Chúng con cầu xin
(Xin bấm vào hàng chữ trên đây để đọc bài giáo lý của ĐTC Biển Đức XVI về vị thánh hôm nay)
Cartarina sinh 1347 tại Siêna, là con út của một gia đình đông đảo, cha Ngài, ông Giacômô là một thợ nhuộm giàu có, Mẹ Ngài Mônna Lapa là một người quản trị có nhiều khả năng và giàu nghị lực của gia đình sống động này.
Cartarina đã trải qua tuổi nhỏ thơ ấu bình thường với tính vui đặc biệt khác hẳn với các anh chị. Nhưng với tuổi thanh xuân, Ngài đã say mê cầu nguyện trong cô tịch. Bà Lapa rất bực mình và có thời bà coi Cartarina như một đứa con khó trị, vì cô đã cưỡng lại sự hướng dẫn của mẹ trong những công việc như ăn mặc và giải trí, chống đối cả những đề nghị thành hôn và luôn cương quyết trong ý tưởng trở nên một nữ tu.
Ngay hồi 7 tuổi, Cartarina đã khấn với Đức Trinh nữ rằng : Chúa Giêsu là vị hôn phu duy nhất của mình. Lên 12 tuổi, cha mẹ muốn gả chồng cho Cartarina. Nhưng rồi cha mẹ Ngài đã hiểu rằng: không thể thay đổi ý định của Ngài được. Đàng khác, sau nhiều thử thách, cha mẹ Ngài phải cảm kích khi thấy Ngài vẫn dịu dàng tuân phục trong những việc nặng nề và từ đó họ không chống lại tiếng gọi thần linh nữa.
Năm 16 tuổi, Cartarina được mặc áo dòng ba Đaminh. Luật lệ dòng cho phép Ngài mặc áo đen trắng của dòng mà vẫn ở nhà với cha mẹ. Từ đó, trong 3 năm trời thánh nhân chỉ rời phòng riêng khi đi lễ và xưng tội. Ngài chỉ nói chuyện với cha giải tội của Ngài thôi. Sau này vị linh mục tốt lành này thú nhận rằng mình thường cảm thấy thiếu khả năng để hứơng dẫn Cartarina.
Cũng trong thời gian này có khi thánh nhân chỉ ăn một muỗng cháo và ngủ vài giờ mỗi ngày. Những khó nhọc khổ chế thể xác ấy còn quá nhẹ so với cơn thử thách mà quỷ gây ra trong tâm hồn. Khi hết các thử thách, Chúa Giêsu hiện đến dưới hình dạng bê bết máu trên thánh giá.
– Lạy Chúa, Chúa ở đâu khi con một mình chiến đấu với những dày vò kia ? Thánh nhân trách.
– Cha vẫn phải với con. Chúa trả lời.
– Sao, Chúa ở giữa những tư tưởng kinh tởm làm nhơ nhớp linh hồn con sao ?
– Nhưng những thử thách ấy đâu có làm cho con phiền muộn quá mức ?
– Ôi, con kinh sợ và đau buồn quá mức ?
– Đó, các tư tưởng ấy đã không thể làm nhơ uế hồn con vì con tởm gớm chúng. Chính cha ngự trong lòng con và đã cho con ơn biết đau buồn vì chúng.
Chúa Giêsu đã thưởng công cho lòng dũng cảm và trung tín của Cartarina bằng cuộc viếng thăm này. Thánh nhân xin cho được kết hợp mật thiết với Chúa hơn. Trong một thị kiến, Đức trinh Nữ đã cầm tay thánh nữ và Con Ngài đã xỏ vào tay thánh nữ một chiếc nhẫn vàng và chỉ một mình thánh nữ trông thấy. Đây là Lễ Cưới nhiệm mầu.
Sau biến cố đặc biệt này, thánh nữ bắt đầu chia sẻ mọi việc trong nhà, nuôi dưỡng bệnh nhân và giúp đỡ những người nghèo. Người ta còn nhắc đến việc Ngài săn sóc cho một người cùi và một người bị ung thư; để vượt qua sự ngại ngùng, Ngài dám hôn vết thương tanh hôi của họ. Anh hùng săn sóc cho thể xác, chắc chắn Ngài cũng nhiệt tình lo lắng cho linh hồn con người . Một phạm nhân cứng lòng đã hối cải sau lời khuyên của thánh nữ, và lãnh nhận cái chết đạo đức trong tay thánh nữ.
Được ơn thấu suốt các tâm hồn, thánh nhân đã trở nên nơi tập họp của một lớp người đông đảo cầu thuộc đủ mọi thành phần. Họ bị lôi kéo bởi sự vui tươi lẫn đời sống khổ hạnh của Ngài, bởi tính khí bình dân lẫn sự hiểu biết sâu sắc về đường thiêng liêng, bởi nét đẹp bình dị của Ngài. Người ta gọi nhóm người qui tụ bên Ngài là “Trường phái thần bí”.
Với ảnh hưởng lớn lao ấy, thánh Cartarina được mệnh danh là “Thiên thần hòa giải” bởi những mối thù hận giữa gia đình không thể chống lại được ảnh hưởng của Ngài. Ngài nói : – Ghen ghét người lân cận là chống đối lại Thiên Chúa, là hủy diệt đối với người nuôi dưỡng nó, bởi vì ai sống trong ghen ghét, họ tự ghét bỏ mình còn hơn là ghét bỏ thù nghịch nữa.
Trước uy tín dặc biệt này của thánh nhân Bề trên đã đặt Ngài mang lời Chúa đến cho dân chúng. Ngài dạy ở Siêng Pisa, Rôma. Mọi người đều ngạc nhiên khi thấy một người con gái bình thường lại có thể diễn đạt tư tưởng như một nhà thần học và một nhà triết học.
Trở về phòng riêng, thánh nữ tiếp tục cuộc rao giảng Tin Mừng, khích lệ và nâng đỡ các tâm hồn. Ngài viết thư cho các vua chúa và cho cả Đức giáo hoàng, các tu sĩ vâng phục Ngài, các hiệp sĩ bày tỏ nỗi lòng với Ngài. Những việc hệ trọng nhất được giao phó cho Ngài, một trật Ngài có thể đọc cho hai hay ba thơ ký viết về những đề tài khác nhau. Bởi đó, Ngài đã giữ một vai trò lớn lao trong lịch sử, mang lại an bình cho Giáo hội, ngăn chận cuộc nổi loạn ở Pisa và Tôscane. Ngài là Thiên thần của Siêna trong cuộc nội chiến và dịch hạch. Nhiều thành phố nổi dậy chống lại Đức giáo hoàng Gregoriô XI là Đấng rời tòa sang Pháp.
Tháng 5 năm 1376, Ngài sang Avignon nài nỉ Đức giáo hoàng trở về Rôma. Các thư từ của Ngài thổi vào sự can đảm cần thiết cho cuộc trở về này. Khi cuộc nổi loạn ở Florence bùng nổ, người ta bỗng thấy thánh Cartarina xuất hiện, quỳ dưới chân thủ lãnh những người nổi loạn và nói: – Ông muốn tìm Cartarina phải không ? Nó đây, nhưng xin đừng hại những người này.
Cảm kích vì lòng gan dạ của thiếu nữ, người đứng đầu chấm dứt âm mưu nổi dậy.
Đức giáo hoàng Grêgoriô XI bỏ Avignon ngày 13 tháng 9 năm 1376. Khi đức giáo hoàng Gregoriô qua đời, Cartarina trở về Siena và đọc cho thơ ký viết cuốn: “Đối thoại về Chúa quan phòng”. Nhưng có sự chia rẽ, Ngài đứng về phía Urbanô VI. Trong những bức thư đầy sinh lực, Ngài kêu gọi các vua Au châu vâng phục Đức giáo hòang. Bốn trăm bức thư và cuốn sách thánh nhân để lại là một kho tàng lớn lao trong các tác phẩm thiêng liêng.
Giữa các hoạt động rực rỡ trên, thánh Cartarina đã phải chịu những đau đớn vô danh. Chúng ta biết rằng: từ Chúa nhật thứ IV mùa chay năm 1375, Ngài đã được in năm dấu thánh. Dấu chỉ lộ rõ sau khi Ngài qua đời.
Một chiều tháng giêng năm 1380, thánh nhân đã ngã bệnh trong khi đọc một lá thơ viết cho đức giáo hoàng Urbanô. Phục hồi một phần, nhưng Ngài vẫn sống trong một cơn hấp hối nhiệm màu, một chuộc chiến đấu với ma quỉ. Và Ngài ngã bệnh hôn mê lần thứ hai khi đang cầu nguyện tại đền thờ thánh Phêrô và qua đời ba tuần sau vào ngày 29 tháng 4 năm 1380.
Ngài được mai táng dưới chân bàn thờ dòng Đa Minh Santa Maria Sopra Minerva, nhưng đầu Ngài sau này được dời về Siena. Tám mươi mốt năm sau Ngài được phong thánh.
Ngày 04 tháng 10 năm 1970, đức Phaolô VI đã tôn phong Ngài vào hàng tiến sĩ
Hội Thánh.
(Trích từ sách Theo Vết Chân Người, Dòng Đa Minh)
https://daminhtamhiep.net/2014/04/tieu-su-thanh-catarina-siena/
“Ôi Catarina, một Catarina ngọt ngào biết bao” là những gì mà tôi đã gọi tên vị thánh rất mạnh mẽ này. Thánh Nữ đã chiếm lấy trái tim tôi không giống bao nhiêu người khác.
Sinh tại Siena, nước Ý vào năm 1347, Catarina là con thứ 25 trong số 26 người con của hai ông bà Giacomo và Lapa di Benincasa. Nhiều anh chị em của Catarina, cả người chị sinh đôi, Giovanna, đã chết khi mới được vài tháng tuổi. Cha của Thánh Nữ là một thợ may quần áo, làm việc ở dưới tầng trệt của căn nhà lớn của gia đình cùng với những người làm công sống ở tầng trên.
Lúc 6 tuổi, Catarina bắt đầu nhận được nhiều ơn huyền bí và khi Catarina mới chỉ 12 tuổi, Thánh Nữ đã đoan hứa giữ khiết tịnh với Đấng Yêu Dấu là Chúa Giêsu. Khi người chị của Catarina là Bonaventura chết khi sinh con, và cô bé Catarina lúc đó 16 tuổi đã cảm thấy rất khó chịu, buồn bực về kế hoạch của cha mẹ khi cho Catarina kết hôn với quan phụ của Bonaventura, do vậy, Catarina đã cắt luôn mái tóc của mình và ăn chay liên tục. Cha mẹ của Catarina đã gửi Thánh Nữ đến gặp người anh họ mà họ yêu mến nhưng, lại không biết về cha mẹ của Catarina, chính người anh họ này lại cảm thông với mong ước của Catarina chỉ thuộc về một mình Chúa Giêsu, và là người đã khuyên Catarina cắt đi mái tóc của mình như là một dấu chỉ của tình yêu mà Catarina dành cho Chúa Giê su vì hành động này sẽ là điều cho thấy Catarina không mong muốn nhận lời của người nam nào trong những ngày này.
Catarina đã trở thành một phần tử của Dòng Ba Đa Minh sau khi đã hai lần bị từ chối và nhận những chữ đầu của T.O.S.D sau tên của ngài. Sau một thời gian gần ba năm sống trong phòng ngủ như là một “tập viện” ( không phải là tập viện của Catarina dành cho tu sĩ Đa Minh nhưng là một sự đào tạo huấn luyện cá nhân), Thánh Nữ đã được Thiên Chúa sai vào trong thế giới để làm điều tốt lành. Thánh Catarina được biết đến vì sự cống hiến thật lớn lao cho việc chăm sóc người đau bịnh- Catarina sinh ra trong thời điểm Châu Âu đang xảy ra bệnh dịch lớn- Thánh Nữ sẽ đi vào các nhà, bệnh viện và chăm sóc những bệnh nhân, điều mà người khác không làm được. Catarina đã lau rửa những vết thương ghê tởm của bệnh nhân và băng bó lại. Khi những bệnh nhân qua đời, Catarina đã tự tay chôn cất họ.
Tuy nhiên, quà tặng lớn nhất của Catarina nằm ở khả năng của Thánh Nữ về việc dạy và thuyết giảng về đức tin và tình yêu của Thánh Nữ về Bí tích Thánh Thể. Trong thời của Catarina, việc lãnh nhận Thánh Thể hằng ngày là điều không thường xuyên- nếu có, phải có phép và hầu như là đều không được lãnh nhận Thánh Thể mỗi ngày. Tuy nhiên, Catarina đã lãnh nhận được rất nhiều ơn sủng huyền bí trong Bí tích Thánh Thể - điều rất đỗi tuyệt vời là tình yêu sâu xa của Catarina dành cho Chúa Giê su trong Bí tich Thánh Thể. Những thị kiến và những lần xuất thần thường kéo dài quảng 3-4 tiếng đồng hồ lúc Rước Lễ…mà nhiều linh mục đã chứng thực về điều này. Thực vậy, linh mục giải tội, hướng dẫn thiêng liêng cho Catarina, là Cha Raymond Capua kể về người phụ nữ thánh thiện và mạnh mẽ này trong tiểu sử viết về Catarina mà Cha Raymond Capua đã viết:
“Đức Thánh Cha Greory XI…để làm toại nguyện sự khát khao của Catarina, đã ban một Sắc Chỉ cho phép Catarina có một linh mục để sắp đặt và giải gỡ cho Catarina và cho Catarina rước lễ và cũng có một bàn thờ di dộng, đến nỗi Catarina có thể nghe Thánh lễ và Rước lễ ở bất cứ khi nào, chỗ nào mà Thánh Catarina thích”. (Capua, the Life of St. Catherine of Siena – Đời sống của Thánh Catarina Siena, tr.284)
Thêm nữa…
“Với khoảng thời gian bảy năm trước khi chết, Thánh Catarina Siena đã không ăn uống gì, ngoại trừ Rước Lễ. Tuy nhiên, việc ăn chay này không ảnh hưởng gì đến sức lực Thực tế là, hầu hết các ý định, thành công lớn lao của Thánh Catarina đã diễn ra trong suốt khoảng thời gian bảy năm này. Ăn chay không làm mất đi năng lượng nơi Catarina, nhưng lại trở nên một nguồn sức mạnh lạ kỳ, Thánh nữ trở nên mạnh khỏe vào buổi chiều, sau khi đã Rước Lễ, đón nhận Chúa chúng ta trong Bí tích Thánh Thể của Ngài.
Tình yêu mãnh liệt của Catarina vào Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể đã làm cho Thánh Nữ đi đến với người nghèo, đặc biệt là những người rất đau ốm và chăm sóc họ như Catarina đã làm. Đây không phải là linh đạo Thánh Thể mà Mẹ Têrêsa Calcutta đã sống- đến nỗi mà Mẹ Teresa đã có thể nâng những người sắp chết từ những khu máng xối của ổ chuột, đưa họ về đến những phòng khám của Mẹ và chăm sóc học cho đến khi họ có thể khá hơn hay chết với phẩm giá của họ? Tình yêu và sự dâng hiến cho Chúa Giêsu nơi Thánh Thể đã làm nên điều đó. Các ngài đã mang lấy những lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Matthêu 25,40 “Bất cứ điều gì anh em làm cho những người anh em bé nhỏ nhất của Ta là các ngươi đã làm cho chính Ta”.
Trong cuốn Đối Thoại, Chúa Giê su nói với Catarina hai điều về tình yêu dành cho người thân cận:
“Họ yêu mến người anh em của họ với cùng một tình yêu mà họ đã yêu mến Ta” – Đối thoại 60
Và
“Linh hồn, ngay khi biết Ta, đã tìm kiếm để yêu những người thân cận”. Đối thoại 89
Nhưng chính trái tim của Chúa Ki tô đã chạm đến Catarina cách sâu xa nhất. Catarina đã có một sự hiến dâng mạnh mẽ cho Trái Tim của Chúa Giêsu- vết thương ở cạnh sườn Ngài. Thánh Nữ đã từng khao khát để được uống lấy cách thiêng liêng các ân sủng đã tuôn trào cách nhưng không từ cạnh sườn Ngài, như một đứa trẻ bú lấy giòng sữa từ người mẹ và Catarina đã lấy những hình ảnh này như một nguồn suối nuôi dưỡng và làm tăng sự hiến dâng của Catarina dành cho Chúa Giêsu.
Trong cuốn Bí mật của Trái Tim ( The Secreat of the Heart)- Một Nghiên Cứu Thần Học cvề những Lời Dạy của Catarina Siena về Trái Tim Chúa Giêsu, là Sr. Mary Jeremiah, O.P - tác giả của cuốn sách- đã nói “ Mặc dù Catarina Siena đã sống trong thế kỷ 14, nhưng lời dạy của Thánh Nữ vẫn còn liên hệ đến ngày hôm nay”. Chính Thánh nữ đã viết một lá thư cho một tu sĩ nói rõ rằng trái tim của Chúa Ki tô là “ một kho mở rộng, chất chứa đầy những chất đậm đà với một sự giàu có phong nhiêu của lòng thương xót ban tặng Ân Sủng.” (trang 97)
Chúng ta được kêu mời sống với Bí tích Rửa tội để yêu người khác với trái tim của Chúa Ki tô, Đấng đã nói “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Gioan 13, 34-35). Chúng ta sẽ chẳng yêu người khác bằng một tình yêu đủ ấm áp được, nhưng vì Chúa Giêsu đã yêu chúng ta một cách vô điều kiện và dám chết vì yêu chúng ta. Yêu tha nhân không chỉ là có tình cảm với họ. Thánh Catarina và tất cả các vị thánh lớn lao đã mang lấy lệnh truyền của Chúa Ki tô để đi về phía trước và làm vì những người khác, và thường là dám chấp nhận rủi ro về mạng sống của mình. Khi Catarina tình nguyện chăm sóc một người phụ nữ có tên là Tecca, bị bệnh phong cùi đang chữa trị tại bệnh viện địa phương, Mẹ của Catarina là bà Lapa đã rất lo lắng vì lo sợ con gái mình sẽ bị nhiễm căn bệnh gớm ghiếc đó.
Đúng như vậy, bàn tay của Catarina đã bị phơi nhiễm bệnh phong, nhưng vì yêu người phụ nữ này (thường không có một trái tim biết ơn với sự chăm sóc của Catarina với mình) đã không làm cho người trinh nữ Catarina ngừng chăm sóc, phục vụ Tecca. Khi Tecca chết, chính Catarina đã tắm xác và mặc quần áo cho thân thể đầy dẫy những vết lở loét của bệnh cùi, chuẩn bị mọi sự để chôn cất, đặt thi thể người phụ nữ này cách dịu dàng, âu yếm trong chiếc quan tài, đọc kinh cầu nguyện và tự tay đóng quan tài lại. Ngay khi đó, đôi bàn tay của Catarina đã được chữa khỏi cách kỳ diệu, lạ lùng, và đôi bàn tay nhìn trẻ trung hơn trước. Đó là tình yêu và niềm tin vào Thiên Chúa mà các thánh đã có.
Tình yêu của chúng ta dành cho Chúa Giê su trong những người khác, thân cận, là những gì đưa chúng ta lên Trời. Trong Lời Nguyện Thánh Thể II của Phụng vụ khẩn nài Thiên Chúa đưa chúng ta đến “sự tràn đầy của lòng bác ái” vì đó là nơi trời ở đó. Trong thư gửi tín hữu Rôma 12,1, Thánh Phao lô đã khẩn nài chúng ta “hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động”. Đó là những gì mà Thánh Catarina đã làm khi Thánh Nữ đã khóc ra bên ngoài khi cầu nguyện “Ôi lạy Thiên Chúa Hằng Hữu, xin hãy đón nhận lễ hy sinh cuộc đời con cho Thân Thể Mầu Nhiệm của Giáo Hội Thánh của Ngài”. Theo Thánh Justin- Tử đạo, trong cuốn Dialog With Trypho the Jew của mình, Thánh Justin nói rằng, khi chúng ta được rửa tội “là chúng ta trở thành dân Israel đích thực bắt nguồn từ Chúa Kitô , vì chúng ta được tạo thành từ Trái Tim của Ngài như là từ tảng đá”.
Các ân sủng từ phép rửa phải được nuôi dưỡng thường xuyên nhất với Bí tích Thánh Thể- Thân Thể - Máu - Linh Hồn- Thần Tính Thực, cùng với việc tiếp nhận thường xuyên Bí tích hòa Giải và có thời gian Chầu Thánh Thể, chiêm ngắm Đấng yêu thương chúng ta. Chúng ta được kêu gọi để mang niềm hy vọng đến cho những người ở giữa chúng ta, với những người mà xã hội con họ là những người bị phong cùi về tinh thần, không chỉ là bằng lời nói nhưng còn là bằng hành động của chúng ta nữa.
Chúng ta hãy đứng dậy, và “đi ra khỏi đây” (Gioan 14,31); chúng ta hãy “thức dậy từ giấc ngủ của chúng ta” (Rma 13,11) để làm những điều tốt đẹp mà chúng ta có thể làm cho những người bị thế giới này khinh bỉ và cho những người “không đáng kể” 1Cr 1,28). Chúng ta hãy cầu nguyện, nhờ lời chuyển cầu của Thánh Catarina Siena, đấng đã ìm thấy nhiều niềm vui trong sứ mạng phục vụ vì người nghèo hơn là trong tất cả những trạng thái ngây ngất trên thiên đàng, những thị kiến, những phép lạ và những hiện tượng bí nhiệm khác để làm Chúa Giê su hài lòng. Chúng ta hãy bày tỏ tình yêu của chúng ta với Chúa và cầu xin Người dùng chúng ta theo thánh ý và mục đích của Ngài dành cho người nghèo, và cho những người đã làm tổn thương chúng ta.
Tác giả: Cynthia Trainque
Chuyển ngữ: Nt. Teresa Ngọc Lễ, O.P
Nguồn: https://catholicexchange.com
Bên trong hốc chính giữa bên trên bàn thờ này là thánh tính của Thánh Catarina, đó là cái đầu của ngài được dân thành Siena lấy trộm từ Roma về.
Hình chụp trong chuyến Hành Hương Đức Tin Chứng Tích Phục Sinh 2021 với Nhóm Tông Đồ Chúa Tình Thương sáng ngày 13/11
Thứ Ba sau Chúa Nhật V Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 14, 18-27
"Các ngài thuật cho giáo đoàn nghe những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, có mấy người Do-thái từ Antiôkia và Icôniô đến xúi giục dân chúng. Họ ném đá Phaolô, và tưởng rằng Phaolô đã chết, nên kéo ngài ra bỏ ngoài thành. Nhưng đang khi các môn đồ đứng xung quanh ngài, ngài liền chỗi dậy đi vào thành, và hôm sau, ngài cùng Barnaba đi sang Ðerbê. Khi đã rao giảng Tin Mừng cho thành này và dạy dỗ được nhiều người, các ngài trở lại Lystra, Icôniô và Antiôkia, củng cố tinh thần các môn đồ, khuyên bảo họ giữ vững đức tin mà rằng: "Chúng ta phải trải qua nhiều nỗi gian truân mới được vào nước Thiên Chúa". Nơi mỗi hội thánh, các ngài đặt những vị niên trưởng, rồi ăn chay cầu nguyện, trao phó họ cho Chúa là Ðấng họ tin theo.
Sau đó, các ngài sang Pisiđia, đi đến Pamphylia. Sau khi rao giảng lời Chúa tại Perghê, các ngài xuống Attilia, rồi từ đó xuống tàu trở về Antiôkia, nơi mà trước đây các ngài đã được trao phó cho ơn Chúa để làm công việc các ngài mới hoàn thành. Khi đến nơi, các ngài tụ họp giáo đoàn, thuật cho họ nghe những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài và đã mở lòng cho nhiều dân ngoại nhận biết đức tin. Các ngài còn ở lại đó với môn đồ trong một thời gian lâu dài.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 10-11. 12-13ab. 21
Ðáp: Lạy Chúa, các bạn hữu Chúa nhận biết vinh quang nước Chúa (x. c. 12a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. - Ðáp.
2) Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời, chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ. - Ðáp.
3) Miệng tôi hãy xướng lời ca ngợi khen Chúa, mọi loài huyết nhục hãy chúc tụng danh Chúa tới muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Ga 16, 28
Alleluia, alleluia! - Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian, bây giờ Thầy lại bỏ thế gian mà về cùng Cha. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 27-31a
"Thầy ban bình an của Thầy cho các con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng: Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại với các con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin. Thầy không còn nói nhiều với các con nữa, vì thủ lãnh thế gian đã đến. Nó không có quyền lực gì đối với Thầy. Nhưng để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Cha, thì Thầy làm như Cha đã truyền dạy".
Ðó là lời Chúa.
Chủ đề
"Thày là sự sống" cho Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh theo
chiều kích Liên Hệ Thần Linh của Tuần Lễ thứ 5 vẫn tiếp tục được tỏ hiện
trong bài Phúc Âm Thứ Ba hôm
nay. Ở
chỗ tâm hồn cảm thấy được
bình an nhờ được
hiệp nhất nên một với Thiên Chúa, đến độ,
tràn đầy niềm vui thần
linh ngay khi không
còn điểm tựa thiết yếu nhất của mình nữa,
bởi đã
như thể đạt được cùng đích của mình rồi vậy:
"Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy
ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ
hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: 'Thầy ra đi và đến cùng anh em'. Nếu anh em
yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì
Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc
xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin".
"Bình an" của Thiên Chúa đây, như bài Phúc Âm cho thấy, trước hết không phải "theo kiểu thế gian", ở chỗ trấn an lương tâm để hành ác, hay thứ bình an vắng bóng chiến tranh hoặc không có khủng hoảng hay không bị thử thách, không có sợ hãi và buồn chán, như thực tế rõ ràng cho thấy ngày nay, ngay tại xã hội văn minh nhất thế giới là Hoa Kỳ này vẫn không biết chết chùm, chết tại chỗ lúc nào, không hề có còi báo động như ở Ukraine, vì luật cho phép dùng súng v.v., vẫn thường xẩy ra những hiện tượng xuống đường chống đối những gì không hợp với mình hay bất lợi cho mình v.v., mà là ngay trong lúc gian nan khốn khó vẫn không xao xuyến sợ hãi gì. Bởi luôn tin tưởng vào Thiên Chúa ở mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự.
"Bình an" của Thiên Chúa đây không phải con người đã nhiễm lây nguyên tội tự mình mà có được, cho dù họ "thiện tâm", mà chỉ có những ai được Thiên Chúa ở cùng, được Thiên Chúa thương thôi, đúng như lời các thiên thần từ trời xuất hiện ở cánh đồng Belem trong Đêm Thánh Vô Cùng đã vang lên: "Vinh danh Chúa cả trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương" (chứ không phải "cho người thiện tâm" - Luca 2:14), một "bình an" con người đã tự đánh mất khi bất tuân lệnh Chúa nghe theo ma quỉ ăn trái cấm, và là một "bình an" vì thế chỉ có thể được phục hồi sau khi Chúa Kitô Phục Sinh, toàn thắng tội lỗi và sự chết nơi chính bản thân Người để nhờ đó Người có thể thông ban cho loài người, trước hết là Giáo Hội của Người nơi các vị tông đồ vào tối ngày thứ nhất trong tuần và vào một tuần sau đó (xem Gioan 20:19,26).
Đó là "bình an" của Thiên Chúa, còn "bình an của Thày" là của chính Chúa Kitô thì sao, "bình an" Người muốn ban cho các môn đệ của Người thì như thế nào, nếu không phải là Thày bình an cho dù "buồn đến chết được" (Mathêu 26:38) trong Vườn Cây Dầu vào đêm Thứ Năm Tuần Thánh, vì Người vẫn "bình an" sẵn sàng tuân theo Thánh Ý tối cao của Cha Người!? Nếu không phải là Thày vẫn "bình an" khi tỏ ra vô cùng hiền lành nhân hậu chỉ biết thương cảm và tha thứ cho thành phần lên án tử cho Người, hành khổ Người và sát hại Người: "Lạy Cha xin Cha tha cho họ vì họ lầm không biết việc họ làm" (Luca 23:34)?! Nếu không phải Người vô cùng "bình an" "xin phó thác linh hồn Con trong tay Cha" (Luca 23:46), cho dù Người có cảm thấy "Chúa Trời của Tôi ơi, Chúa Trời của Tôi ơi, nhân sao Ngài lại bỏ rơi Tôi?" (Mathêu 27:46).
Tại sao Chúa
Giêsu lại nói đến bình an với các môn đệ trong lúc này, nếu không phải vì
ngay sau đó Người báo trước cho các vị biết về thân phận theo Người của các
vị, ở chỗ “Thày đi rồi Thày sẽ trở lại cùng các con”
như Người đã nói trước
ở đầu đoạn 14 cũng phúc âm Thánh Gioan. “Thày đi”
đây là đi chịu chết, “để
dọn chỗ cho các con” (Gioan 14:2-3), tức làm gương cho các vị, và
“Thày sẽ
trở lại cùng các con” đây là để “Thày ở đâu các con cũng ở đó với Thày”
(Gioan 14:3), vì tôi tớ không trọng hơn chủ và sứ giả không trọng hơn vị sai
đi (xem Gioan 13:16), nghĩa là các tông đồ cũng sẽ chịu gian nan khốn khó
như Người, nhưng nhờ Người ở với các vị mà các vị vẫn bình an như thường,
vẫn không sợ chết mà còn chiến thắng sự dữ như Người
và với Người.
Hai chi tiết trong bài phúc âm hôm nay cũng cho thấy là Chúa Giêsu nói với các môn đề về bình an liên quan đến thân phận theo Người là Đấng khổ nạn và tử giá đó là: Thứ nhất, “Thày về cùng Cha vì Cha trọng hơn Thày”, ở chỗ, Cha muốn Người hy sinh cho phần rỗi các linh hồn thì Người cũng cần phải tuân theo như vậy; và thứ hai, “Thầy không còn nói nhiều với các con nữa, vì thủ lãnh thế gian đã đến. Nó không có quyền lực gì đối với Thầy”, nghĩa là quyền lực sự dữ có sát hại Người đi nữa cũng là cơ hội để Người chu toàn sứ vụ cứu độ của Người mà thôi, chứ không phải là quyền lực hỏa ngục thắng được Người “là sự sống lại và là sự sống” (Gioan 11:25).
Riêng chi tiết về mạc khải thần linh "Cha trọng hơn Thày", đã được vị giáo sĩ Arius khởi xướng lên lạc thuyết chủ trương Chúa Kitô không phải là Thiên Chúa, không ngang hàng với Thiên Chúa, mà chỉ là một tạo vật siêu việt mà thôi, một lạc thuyết đã bị vị giáo phụ Athanasia kịch liệt phản chống, bằng giáo thuyết về mầu nhiệm nhập thể và mầu nhiệm Ba Ngôi, một vị khi mới là phó tế đã được tham dự Công Đồng Chung Nicea năm 325 nhưng đã có uy tín và thế giá trước công đồng toàn là các vị giám mục này, để rồi cùng với Công Đồng Chung Contantinople năm 381, lạc thuyết Arius đã bị lên án tuyệt thông, và Bản Tuyên Xưng Đức Tin (Kinh Tin Kính) chính thức của Giáo Hội cho tới bây giờ đã xác tín về Chúa Kitô là Lời Nhập Thể như sau:
"Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Ðức Chúa Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh sáng bởi Ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Ðức Chúa Cha: nhờ Người mà muôn vật được tạo thành". Nghĩa là, về Ngôi Vị thì Cha trước Con sau, Cha trên Con dưới, nhưng về bản thể thì bằng nhau, ngang nhau, như nhau, không hơn không kém, nên mới "được sinh ra mà không phải được tạo thành", không phải chỉ là một tạo vật siêu việt, mà còn là chính nguyên lý của mọi sự trên trời dưới đất: "nhờ Người mà muôn vật được tạo thành".
Bài Đọc
1 (Tông Vụ 14:19-28)
Điển
hình cho những tâm hồn được thừa hưởng bình an đích thực của Thiên Chúa nhờ
sống mật thiết Liên Hệ Thần Linh với Ngài bằng một lòng tin tưởng cậy trông
phó thác nơi Ngài, hoàn toàn bình an không hề nao núng sợ sệt, đó là Tông đồ
Phaolô, vị đã bị ném đá mà vẫn còn sống sót và vì thế vẫn còn tiếp tục hăng
say với sứ
vụ
"loan báo Tin Mừng":
"Bấy giờ có những người Do-thái từ An-ti-ô-khi-a và I-cô-ni-ô đến, thuyết phục được đám đông. Họ ném đá ông Phao-lô rồi lôi ông ra ngoài thành, vì tưởng ông đã chết. Nhưng khi các môn đệ xúm lại quanh ông, ông đứng dậy và vào thành. Hôm sau, ông trẩy đi Đéc-bê cùng với ông Ba-na-ba. Sau khi đã loan Tin Mừng cho thành ấy và nhận khá nhiều người làm môn đệ, hai ông trở lại Lýt-ra, I-cô-ni-ô và An-ti-ô-khi-a. Hai ông củng cố tinh thần các môn đệ, và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin. Hai ông nói: 'Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa'. Trong mỗi Hội Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn chay cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin".
(1504 -1572)
"Những gì không thuộc về Thánh giá Chúa Kitô sẽ không làm cho chúng ta được vinh hiển". Đó là lời thánh Giáo Hoàng Piô V đã tuyên bố sau 60 năm tận tụy phụng sự Thiên Chúa, Giáo hội và phần rỗi nhân loại. Lời đó nhắc lại cho chúng ta giá trị đời đau khổ mà Chúa đã thánh hóa bằng Thập giá, nhưng đồng thời cũng tóm tắt đầy đủ đời sống thánh thiện của chính thánh nhân.
Thánh Giáo Hoàng Piô V tên thật là Micae Ghislieri. Ngài sinh ngày 17-01-1504 tại Bosco, một làng nhỏ xinh xinh thuộc địa phận Tortona và không xa thành Alexanđria. Đầu tiên cha mẹ ngài rất giầu sang và có thế lực, nhưng dần dần gia cảnh bị sa sút, ông bà phải tần tảo lắm mới nuôi nổi đàn con đông đúc. Cũng vì thế, Micae vừa lớn lên đã phải đi chăn chiên. Sau ba năm sống lặn lội với đoàn chiên, năm 1517, Micae được cha mẹ cho đi trường học. Còn gì hạnh phúc cho cậu hơn. Cậu coi đó là hồng ân Chúa quan phòng. Vì thế cậu sống ngoan ngoãn với các vị giáo sư, cần mẫn học tập và cố gắng thực hiện bác ái. Lợi dụng những giờ nhàn rỗi, Micae một mình vào nhà thờ cầu nguyện. Chính trong những giờ phút vắn vỏi nhưng quý báu này mà Micae đã được nghe tiếng Chúa gọi sống đời tận hiến. Năm 1518, Micae xin nhập dòng thánh Đaminh, và năm sau được nhận lời khấn trọng thể tại tu viện Vigevanô.
Nhận rõ trí khôn thông minh và nhất là khiếu đặc biệt về khoa thần học của thầy Micae, các bề trên quyết định cho thầy theo học tại đại học Bologne. Mãn học, thầy Micae chịu chức linh mục và được cử giữ chức giáo sư suốt 15 năm. Ngài làm việc tận tụy và gây được nhiều ảnh hưởng nhờ ở đời sống thánh thiện và trí óc uyên thâm. Ngài giữ luật từng chi tiết nhỏ, tuyệt đối vâng phục bề trên và thân mật với mọi anh em. Vì thế đời sống ngài sáng chói nhân đức "vâng lời và bác ái". Hơn thế, cha Micae còn nổi tiếng là một chiến sĩ Phúc âm. Ngài không quản ngại dùng hết trí lực bênh vực chân lý Giáo hội, chống lại với nhiều tà giáo, nhiều bè rối...
Năm 1551, Đức Giáo Hoàng Giuliô III cử ngài làm việc ở Bộ thánh vụ, đến đời Đức Giáo Hoàng Phaolô IV, thì ngài chính thức được thăng làm Bộ trưởng Bộ Thánh vụ. Tiếp đó ngài được Đức Giáo Hoàng tấn phong Giám mục thành Sutri và Nêpi hai địa phận gần Rôma. Hai năm sau, ngài được cử làm Hồng y.
Địa vị cao sang đó không làm giảm đời sống khắc khổ của thánh nhân. Tuy là Hồng y nhưng ngài ăn mặc rất nghèo khó, từ chối mọi phần của cải cha mẹ chia cho. Dưới triều Đức Piô IV, ngài bỏ Rôma đi kinh lược các địa phận với mục đích cảnh tỉnh tinh thần tông đồ của hàng giáo sĩ và kêu gọi sự hợp nhất của giáo dân. Nhờ cuộc kinh lược lâu dài này, Đức Hồng y đã thu được nhiều tài liệu đem trình bày tại công đồng Triđentinộ Đời sống thánh thiện và nhiệt thành làm việc của Đức Hồng y đã khiến cho mọi người phải chú ý. Họ nhìn ngài với một thầm đoán: "Ngài sẽ làm Giáo Hoàng". Dự đoán ấy đã được Chúa Quan phòng chấp nhận và thể hiện. Ngày 07-01-1566, Đức Hồng y đã đắc cử làm Giáo Hoàng với danh hiệu là Piô V.
Lên ngôi Giáo Hoàng, Đức Piô V để ý ngay đến việc thánh hoá hàng giáo sĩ. Ngài khuyến cáo những vị dù là Hồng y, Giám mục hay Linh mục thiếu tinh thần khó nghèo và chí nguyện tông đồ. Trái lại, ngài khích lệ và nâng đỡ những vị tỏ ra nhiệt thành trong việc vun xới vườn nho Thiên Chúa. Ngài rất khiêm tốn, nhưng cũng rất cương quyết. Hoạt động của Đức Thánh Cha không phải chỉ thu hẹp trong khu Vatican hay trong phạm vi truyền đạo. Nhưng Ngài đã khéo dùng quyền Chúa ban và địa vị của Giáo hội để đem hoà bình cho nhiều chính phủ, nhiều dân tộc, nhiều tổ chức. Ngài đã bận tâm không ít về chiến tranh của người Hồi giáo, đến những phương thế đưa người Do Thái về với đức tin, mặc dầu họ có thái độ kiêu căng. Đức Piô V làm việc như quên mệt, ngài hội kiến với các vị Hồng y ngay từ sáng sớm. Những khi rỗi việc, thay vì đi du ngoạn, Đức Thánh Cha kiên nhẫn ngồi nghe những lời tâm sự của đám dân nghèo. Người ta còn phải cảm phục biết bao khi thấy mỗi chiều thứ năm hằng tuần Ngài rửa chân cho 12 người nghèo và hôn kính họ, không kể chi những ung nhọt thối tha. Ngài đã cho lập hội "Nhân ái" tại Flôrencia với mục đích giúp đỡ và bênh vực những người tù tội, nô lệ, và bị oan ức. Ít lâu sau, Đức Giáo Hoàng lại truyền cho các thầy dòng thánh Gioan Thiên Chúa xây một bệnh viện tại Rôma. Công việc thành tựu, Đức Thánh Cha đến khánh thành và hàng tuần đến yên ủi các bệnh nhân. Ngoài ra Đức Thánh Cha còn trích nhiều số tiền với mục đích xây cất nhà thương và thể hiện những chương trình từ thiện khác. Đi đôi với những hoạt động bác ái, Đức Piô V còn lưu ý cách riêng đời sống thánh thiện của giáo dân. Ngài đã phát động nhiều phong trào ăn chay đền tội trong toàn Giáo hội. Và đó là phương thế Đức Thánh Cha muốn cho mọi người tín hữu cộng tác vào việc đương đầu với bè rối, nhất là các giáo phái thệ phản. Dựa vào quyền thế các Hoàng đế thiếu đức tin, các giáo phái này mỗi ngày một lan rộng và đàn áp giáo hữu tại Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Pháp, và đặc biệt tại hai nước Anh và Đức.
Đồng thời Đức Thánh Cha ra nhiều sắc lệnh ngăn cản trào lưu tư tưởng ngoại giáo tràn vào các đại học công giáo. Ngài săn sóc cách riêng các đại học Đức quốc. Chính Đức Thánh Cha khuyến khích tu sĩ Carnutô tên là Laurensô Suriô (Lauent Surius) tiếp tục nghiên cứu và viết về "đời sống các thánh Tông phụ" nhằm mục đích ngăn ngừa những luận điệu xuyên tạc của bè rối về tiểu sử các vị thánh. Năm 1576 Đức Piô V cũng ban bố sắc lệnh Ex omnibus affictionibus lên án 80 luận đề sai lạc của nhiều giáo sư đại học Louvain đã quá thiên về tư tưởng ngoại giáo, và thệ phản. Cũng với ý chí sắt đá ấy, Đức Piô V đã bảo vệ đức tin cho giới trí thức và sinh viên tại nước Thụy Sĩ, Đan Mạch, Hoà Lan, và Thụy Điển...
Ngay trong năm đầu triều đại của Ngài (1566), Đức Piô V đã phải đương đầu với nhiều cuộc xâm lấn của hồi giáo. Thời ấy, quân hồi hồi nổi lên đánh phá khắp nơi. Người công giáo phải trải qua những ngày loạn ly khổ cực. Là người cha, Đức Giáo Hoàng không thể cầm lòng thấy đoàn con tan tác vì đức tin. Vì thế, Đức Giáo Hoàng đã kêu gọi nhiều vương tước trung thành với đức tin dùng thế lực Chúa ban mà bênh vực Giáo hội. Đó là bước đầu cho phong trào "Đạo binh Thánh giá". Nhưng dầu sao đó chỉ là những phương tiện tùy tòng; đường lối hoạt động chính của Đức Thánh Cha vẫn là đời sống chay tịnh và cầu nguyện. Lời Quận công Soliman làm chứng điều đó: "Tôi sợ những lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha hơn là đoàn quân hùng hậu của Hoàng đế". Phải, chính nhờ sự hợp lực của toàn giáo dân về cả sức tự nhiên và siêu nhiên ấy, Đức Thánh Cha đã giữ vững con thuyền Giáo hội qua bao cơn giông tố và Nghĩa binh Thánh giá đã chiến thắng ở nhiều nơi. Đến nỗi nhiều cuộc thắng trận đã được coi như những phép lạ. Người ta kể: quãng năm giờ chiều ngày 7-10-1571, khi Đức Thánh Cha đang tiếp kiến các vị Giáo chủ, các Quận công thành Bussotti, bỗng nhiên cảm động nhìn qua cửa sổ hướng về miền đông, rồi Ngài quay lại, mặt sáng lên, Ngài nói với các vị: "Chúng ta không còn phải bận tâm nhiều nữa, nhưng chúng ta hãy đi cảm ơn Chúa, vì đạo binh công giáo vừa toàn thắng, kết thúc mọi phá hoại của quân thù". Từ chiều hôm đó, niềm hân hoan tràn ngập lòng mọi người tín hữu.
Cũng chính thời này, lòng thành kính của thánh Piô V đối với Đức Trinh Nữ Maria nổi bật đến tột điểm. Ngài đã sống và làm việc cho Giáo Hội dưới sự phù trợ của Đức Mẹ. Cuộc toàn thắng của nghĩa binh Thánh giá tại hải cảng Lêpangtê xứ Hy lạp được Ngài coi là do quyền phép của Đức Mẹ. Vì thế để ghi ơn Đức Mẹ, Ngài đã truyền thêm vào kinh cầu Đức Mẹ lời: "Đức Bà phù hộ các giáo hữu, cầu cho chúng con". Hơn thế, Ngài còn lập một lễ kính Đức Mẹ vào ngày 7-10 hằng năm với danh hiệu "Lễ Đức Mẹ Toàn Thắng". Lễ này được sửa đổi nhiều lần dưới nhiều triều Giáo Hoàng. Sau cùng Đức Piô VII định vào ngày 24-5 và đổi tên là "Lễ Kính Đức Bà phù hộ các giáo hữu". Còn ngày 7-10 dành kính Đức Mẹ mân Côi.
Nhưng để việc thánh hóa Giáo hội và bảo toàn đức tin được bền vững, Đức Piô V hết sức lưu tâm đến việc hướng dẫn và đào tạo hàng giáo sĩ. Ngài rất thận trọng trong việc cắt cử các vị Giám mục và truyền chức thánh cho các đại chủng sinh. Ngài dùng mọi phương thế giúp họ sống theo tinh thần kỷ luật và bác ái của Phúc âm. Nhưng nhất là Ngài có công nhiều trong Công đồng Triđentinô về việc sửa đổi lễ nghi phụng vụ, sách nguyện cho các linh mục, nhất là việc truyền giáo tại cả Đông Phương (Orient) và Tây Phương (Occident). Ngài lại chủ trương: các đại chủng sinh trước khi chịu chức linh mục phải qua nhiều năm thần học. Chính Ngài làm lễ tuyên phong Thánh Tôma (Thomas) làm tiến sĩ Giáo hội và buộc tất cả chủng sinh phải học khoa thần học của Thánh sư. Viết về những hoạt động và công việc cải cách của Đức Piô V một tác giả kinh nghiệm đã bày tỏ như sau: "Đường lối phục hưng của Đức Thánh Cha đã đưa lại nhiều kết quả tốt đẹp về đức tin, lòng đạo đức và cả về văn hoá, mỹ thuật. Ít có thời đại sung mãn sự thánh thiện như thời Đức Piô V".
Vì quá bận tâm với công việc, Đức Piô V như quên cơn bệnh đang phá hoại sinh lực; Ngài bị chứng sốt kinh niên ngay từ năm 1569. Dầu vậy Ngài vẫn yên lặng chịu bệnh và cứ hăng hái làm việc. Cuối năm 1571 cơn bệnh trở nên trầm trọng và Đức Thánh Cha phải nằm liệt giường. Biết ngày giờ đã gần đến, Đức Thánh Cha Piô V dọn mình sốt sắng và can đảm chịu bệnh hầu phụng sự Giáo hội cách hoàn hảo hơn. Suốt ngày đêm Ngài ôm chặt cây Thánh giá trên ngực và thầm thĩ với Chúa: "Lạy Chúa, xin thêm đau khổ cho con, xin giúp con nhẫn nại theo gương Chúa, xin cho con luôn nhớ rằng chỉ có những cái gì thuộc về Thánh giá Chúa mới làm cho con được vinh hiển".
Sứ mệnh trần gian đã hết, ngày 1-5-1572, Ngài được Chúa gọi về trời.
Xác Ngài được táng trọng thể tại thánh đường Đức Bà Cả (Sainte Marie Majeur). Năm 1671 Đức Giáo Hoàng Clêmentê X cất Ngài lên bậc Chân phước và năm 1710 Ngài lại được Đức Giáo Hoàng Clêmentê XI truy phong bậc Hiển thánh và định lễ kính Ngài hằng năm.
Lạy thánh Piô, người Chúa đã chọn để áp đảo quân thù của Giáo hội và để tu bổ việc tôn thờ Thiên Chúa, xin cho chúng con biết theo gương Ngài trung thành phụng thờ Chúa, để chúng con thắng được mọi mưu mô quân thù và được hưởng phúc thanh nhàn đời đời.
http://giaophanvinhlong.net/thanh-pio-v-giao-hoang.html
1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Đức Piô V là vị Giáo Hoàng có công Canh Tân Hội Thánh Công Giáo; ngài cương quyết thực hiện thành quả của Công Đồng Triđentinô trong suốt nhiệm kỳ Giáo Hoàng ngắn ngủi của mình (1566 –1572). Ngài được mừng lễ vào hôm trước ngày người qua đời, nhằm ngày 1 tháng 5 năm 1572.
Michele Ghislieri sinh ra từ một gia đình nghèo nàn, gần Alexandrie, thuộc vùng Píemont vào năm 1504. Ngài vào Dòng Đa Minh lúc mười bốn tuổi, sau đó được thụ phong linh mục, dạy triết học và thần học. Với tính cách của một tu sĩ nhiệt thành và nghiệm nhặt, ngài hoạt động trong các tòa án thẩm tra của Rôma cho đến khi trở thành Tổng Ủy Viên năm 1550. Sau khi được Đức Giáo Hoàng Phaolô IV phong làm Hồng Y và bổ nhiệm làm Tổng Thẩm Tra viên của các nước Kitô giáo, ngài quan tâm bảo vệ đức tin không suy chuyển.
Năm 1566, Michele Ghislieri được mọi người nhất trí bầu làm Giáo Hoàng. Trong sáu năm làm Giáo Hoàng, Đức Piô V miệt mài canh tân Hội Thánh – khởi đầu từ giáo triều Rôma – và quyết tâm thực thi cụ thể các nghị quyết về mục vụ của Công Đồng Triđentinô, với sự hỗ trợ của vị Hồng Y trẻ Charles Borromée, sau này cũng được phong thánh. Như thế vào thời ấy đã xuất hiện các sách như: Giáo lý Rôma (1566), ấn bản mới của bộ Sách Nguyện Rôma (1568) và bộ Sách Lễ (1570). Các tác phẩm của thánh Tôma Aquinô – được tôn làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1567 – cũng được tái bản toàn bộ.
Nhờ dựa vào cuộc thẩm tra, Đức Piô V cũng đấu tranh chống sức bành trướng của đạo Tin lành tại Ý và Tây Ban Nha. Về phần nước Anh, ngài ủng hộ Marie Stuart mà phạt vạ tuyệt thông cùng chủ trương hạ bệ nữ hoàng Élisabeth (1570). Song việc này chỉ khiến cho tình cảnh của những người Công Giáo trong vương quốc này càng thêm éo le hơn.
Vì lo âu trước tai họa người Thổ Nhĩ Kỳ đang gieo rắc cho Kitô giáo ở Tây Phương, nên Đức Piô V – trong một Châu Âu bị phân hóa – đã cũng với Venise và Tây Ban Nha, thành lập một Liên minh Kitô-giáo. Từ đó, dưới sự chỉ huy của Don Juan d’Autriche, hạm đội liên quân đã thắng trận Lépante (ngày 7 tháng 10 năm 1571), khiến hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ của Ali Pacha thoát chạy tán loạn. Nhân chiến công hiển hách đó đã làm nức lòng giới Kitô giáo đồng thời chấm dứt huyền thoại về đế quốc Ottoman bất bại, Đức PiôV thành lập ngày lễ Đức Bà Toàn Thắng (hay Đức Bà mân Côi).
Vì thế, vị Giáo Hoàng của công cuộc Canh Tân Hội Thánh Công giáo cũng là vị thánh của chuỗi Mân Côi. Đặc biệt ngài cũng là người cổ vũ việc lần hạt qua sắc chỉ Consueverunt (1569). Sắc chỉ này giải thích và phần nào xác định hình thức truyền thống của chuỗi Mân Côi (xem thông điệp Marialis cultus, số 42).
Hôm trước ngày người qua đời, Đức Piô V nói với các Hồng Y qui tụ quanh mình: “Ta gửi gắm cho chư vị Hội Thánh mà ta rất yêu mến. Xin chư vị hãy bầu cho Ta một người kế vị nhiệt thành; vị đó chỉ lo tôn vinh Thiên Chúa và không mưu cầu điều gì khác dưới trần thế này ngoài vinh dự của Tòa thánh và lợi ích cho các nước theo Kitô giáo”.
2. Thông điệp và tính thời sự
a. Lời nguyện riêng gợi lại những công đức to lớn của Đức Piô V. Ngài đã cương quyết bảo vệ đức tin Công giáo và đã quan tâm “canh tân Phụng Vụ”.
Khi được bầu làm Giáo Hoàng vào một giai đoạn mà các nước theo Kitô giáo càng ngày càng bị phân hóa và cần có ngay một cuộc canh tân đích thực trong các lĩnh vực tín lý, Phụng Vụ và luân lý, thì ngài đã nhiệt thành dấn thân cải cách và cho phổ biến một tác phẩm quan trọng: Sách nguyện và Sách Lễ Rôma, cùng giáo lý Công đồng Triđentinô. Ngài nói: “Tâm hồn, sức lực và mọi ý tưởng của chúng ta đều phải hướng về mục đích này: đó là gìn giữ tinh ròng nền Phụng Vụ đã được Hội Thánh cử hành”.
Ngay cả trong lĩnh vực giáo luật, Đức Piô V còn ban hành nhiều luật lệ chống lại việc mại thánh và hủ hóa cũng như giám sát việc tuyển chọn các giám mục.
b. Lời chú giải của thánh Augustinô ở phần Kinh Sách, nhắc lại vai trò của Phêrô và của những người “đấu tranh đến hy sinh mạng sống vì chân lý đức tin”. “Phêrô nghĩa là toàn thể Hội Thánh ở trần thế này đang bị rung chuyển bởi muôn vàn thử thách, song không sụp đổ bởi vì được xây dựng trên đá tảng”. Chính khi noi theo Phêrô mà chúng ta đến gần được tảng Đá sống động, bị loài người vứt bỏ song được Thiên Chúa tuyển chọn. Vì thế, cả chúng ta nữa, chúng ta sẽ trở nên những viên đá sống động của tòa nhà, nơi đó Chúa tìm được niềm vui và vinh quang của Người (xem Xướng - Đáp).
Enzo Lodi
https://www.kath-vietnamesen.de/phung-vu-2/30-04-thanh-pio-v-giao-hoang-1504-1572-le-nho-tuy-chon/
Thánh Giáo Hoàng Piô V gia nhập Dòng Đa Minh năm 14 tuổi. Ngài là người sống rất kỉ luật và đam mê học hỏi. Chính vì lẽ đó, Ý Chúa nhiệm mầu đã muốn đặt ngài làm Giáo Hoàng để trở nên “con chó của Thiên Chúa”. Nhờ đó, ngài có thể dùng tiếng gầm của mình để chống lại cuộc li khai của Tin Lành và những người Thổ theo Hồi Giáo đang muốn thống trị Giáo Hội và nền văn minh Phương Tây. Là một Giáo Hoàng canh tân, ngài nhiệt tâm chỉnh đốn lối sống buông thả của giới tu sĩ và những bại hoại luân lý trong hàng giáo phẩm. Ngài có vai trò rất lớn trong việc thực thi thành công các sắc lệnh của công đồng Trentô và chuẩn hóa Phụng Vụ. Mặc dù rất bận rộn với vai trò là người đại diện Chúa Kitô, ngài vẫn cống hiến đắc lực cho Dòng Đa Minh và luôn mặc tu phục màu trắng Đa Minh nơi phẩm phục giáo hoàng. Theo hầu hết các sử gia, thánh Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập một tiền lệ cho những vị kế nhiệm là mặc áo chùng trắng như một phẩm phục giáo hoàng.
Lòng Sùng Kính Đức Maria
Với khát khao chuẩn hóa Phụng Vụ, ngài cho duyệt lại Phụng Vụ Các Giờ Kinh vào năm 1568. Như một phần cần duyệt lại, ngài đã đưa bản hoàn tất Kinh Kính Mừng (đã được sử dụng trong các bản kinh nhật tụng khác) vào Kinh Nhật Tụng phổ quát cho cả Giáo Hội La Mã. Như vậy, hành động này đã chính thức công bố bản Kinh Kính Mừng đầy đủ - bản kinh mà ngày nay chúng ta đang sử dụng- như một thể thức được chuẩn y một cách phổ quát. Bản Kinh Kính Mừng đầy đủ này không phải xuất phát trong triều đại giáo hoàng của Đức Piô V, bởi vì nó đã được sử dụng từ thế kỉ thứ 14. Nhờ danh tiếng và uy tín của mình, ngài đã thiết lập Kinh Kính Mừng như một quy chuẩn phổ quát.
Nhắm đối phó với cuộc chống đối của Tin Lành, thánh Giáo Hoàng Piô V đã cho phát hành Sách Giáo Lý Công Đồng Trento. Tập sách này bao gồm những giáo huấn chính thức của Hội Thánh về Đức Trinh Nữ Maria. Là người bạn thân thiết của thánh Carôlô Borromeo, hồng y và là giám mục thành Milan, thánh Giáo Hoàng Piô V đánh giá rất cao những nỗ lực của thánh Borromeo nhằm bảo vệ Kinh Mân Côi chống lại phái Tin Lành. Thánh Giáo Hoàng đặc biệt ủng hộ thánh Carôlô khi ngài tận lực bảo vệ Giáo Hội bằng cách nhấn mạnh vai trò thiết yếu của Đức Trinh Nữ Maria trong cuộc đời Đức Kitô và trong Giáo Hội. Thánh Piô V đã được an táng trong ngôi thánh đường lớn nhất của Giáo Hội Công Giáo được cung hiến cho Đức Maria. Đó là Vương cung Thánh đường Đức Bà Cả ở Roma.
Chiến Sĩ Kinh Mân Côi
Thánh Piô V là một trong những vị chiến sĩ vĩ đại nhất trên cương vị giáo hoàng về Kinh Mân Côi. Ngài đã viết hai văn kiện đặc biệt về Kinh Mân Côi. Thánh nhân quảng bá Kinh Mân Côi như một phương tiện giúp chế ngự quân Hồi Giáo, và đã thiết lập thánh lễ tôn vinh Kinh Mân Côi. Văn kiện đầu tiên được ngài ban hành vào ngày 17 tháng 11 năm 1569 có tựa đề là Consueverunt Romani Pontifices. Đi theo với việc ca ngợi Kinh Mân Côi, tông thư này bao hàm nhiều phát biểu khẳng định truyền thống đạo đức và khuyến khích lần hạt Mân Côi thường xuyên, đặc biệt là để chống lại những đe dọa đang diễn ra từ các tín đồ Hồi Giáo.
Trước âm mưu xâm lược của những người Thổ Ottoman (Hồi Giáo), thánh Giáo Hoàng Piô V đã thành lập một Liên Hiệp Thánh. Đây là một lực lượng quân đội nhằm phản kháng trước thế lực hùng mạnh của Hồi Giáo. Nhận thấy sức mạnh của Kinh Mân Côi, ngài chủ đích thiết lập Liên Hiệp này trong ngày lễ kính Thánh Đa Minh. Trong nỗ lực chiến đấu với quân Hồi Giáo, ngài kêu mời tất cả các Kitô hữu toàn cầu, đặc biệt là ở Ý, hãy quy tụ và cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi ngõ hầu có thể đánh bại quân Hồi Giáo. Chính ngài cũng tụ họp mọi người ở Rôma, ngay trong ngôi thánh đường Santa Maria Sopra Minerva thuộc dòng Đa Minh, để cùng nhau đọc Kinh Mân Côi cầu nguyện cho ý chỉ này. Những lời cầu nguyện sốt sắng của ngài và của mọi người đã được Thiên Chúa toàn năng nhậm lời. Theo ghi chép lịch sử kể lại, trước khi tin tức loan đến Rôma cho biết quân Hồi Giáo đã bị đánh bại trong trận chiến Lepanto, thì thánh Giáo Hoàng Piô V đã nhận được một thị kiến là nhìn thấy Đức Mẹ, và ngài biết chắc rằng trận chiến đã thắng là nhờ vào Liên Hiệp Thánh này.
Nhằm bày tỏ lòng biết ơn về chiến thắng ở Lepanto, và xác tín rằng chiến thắng là nhờ vào chiến dịch lần hạt Mân Côi mà mình đã khởi xướng, thánh Giáo Hoàng đã ban hành văn kiện thứ 2 về Kinh Mân Côi Salvatoris Domini vào ngày 15 tháng 3 năm 1572. Trong văn kiện này, ngài chỉ thị phải thiết lập một thánh lễ vào ngày 7 tháng 10 hằng năm nhằm tưởng niệm biến cố chiến thắng quân Hồi Giáo. Ngày lễ này được mang một cái tên thích hợp là Đức Mẹ Chiến Thắng. Cũng trong văn kiện này, để công nhận vai trò đặc biệt của Kinh Mân Côi trong cuộc chiến ở Lepanto, ngài cũng thiết lập Chúa Nhật Mân Côi. Thánh lễ này được cử hành hằng năm vào Chúa Nhật đầu tiên trong tháng Mười. Tất cả những ai tham dự thánh lễ đều được lãnh nhận một ơn toàn xá. Ngài cũng ban ơn toàn xá cho bất cứ ai đã tham gia vào Hội Mân Côi.
Trích từ Donald H. Calloway, MIC,
Champions of the Rosary, Marian Press, 2016
https://ttmv.de/song-dao/guong-thanh-nhan/4247-30-04-thanh-giao-hoang-pio-v-1504-1572
Thứ Tư sau Chúa Nhật V Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 15, 1-6
"Người ta quyết định là các ngài lên Giêrusalem xin các Tông đồ và niên trưởng giải quyết vấn đề này".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, có mấy người từ Giuđê đến dạy bảo các anh em rằng: "Nếu anh em không chịu cắt bì theo luật Môsê, thì không được cứu độ". Do đó, Phaolô và Barnaba đã tranh luận gắt gao với họ. Bấy giờ người ta quyết định là Phaolô và Barnaba và một ít người khác thuộc phe họ lên Giêrusalem gặp các Tông đồ và niên trưởng để xin giải quyết vấn đề này.
Các ngài được giáo đoàn tiễn đưa, và khi đi ngang qua Phênixê và Samaria, các ngài kể lại việc dân ngoại trở lại khiến mọi anh em đầy hân hoan. Khi đến Giêrusalem, các ngài được giáo đoàn, các Tông đồ và kỳ lão đón tiếp, rồi các ngài kể lại bao nhiêu việc Thiên Chúa đã thực hiện với các ngài. Nhưng có mấy người tín hữu thuộc nhóm biệt phái đứng lên nói rằng: "Phải cắt bì cho những người dân ngoại và bắt họ cũng phải giữ luật Môsê". Các Tông đồ và các kỳ lão họp lại cứu xét việc này.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 121, 1-2. 3-4a. 4b-5
Ðáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa"(c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi. - Ðáp.
2) Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ lạc của Chúa tiến lên. - Ðáp.
3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Ðavít. - Ðáp.
Alleluia: Ga 16, 28
Alleluia, alleluia! - Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian; bây giờ Thầy lại bỏ thế gian mà về cùng Cha. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 15, 1-8
"Ai ở trong Thầy, và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào sinh trái thì Người tỉa sạch để nó sai trái hơn. Các con đã được tỉa sạch nhờ lời Thầy đã nói với các con. Các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Cũng như nhành nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho; các con cũng vậy, nếu không ở trong Thầy.
"Thầy là cây nho, các con là nhành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì. Ai không ở trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như nhành nho, và sẽ khô héo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi.
"Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin, và sẽ được. Ðây là điều làm Cha Thầy được vinh hiển là các con sinh nhiều trái, và như thế các con trở nên môn đệ của Thầy".
Ðó là lời Chúa.
Chiều
kích "Liên Hệ Thần Linh" của chủ đề "Thày là sự sống" cho Thứ
Tư của Tuần lễ V Phục Sinh càng tỏ hiện hết sức rõ ràng nơi những gì Chúa
Kitô nói với các tông đồ về cây nho và cành nho trong bài
Phúc Âm hôm nay, một
liên hệ thần linh phát sinh sự sống một khi cành nho dính liền với thân nho.
"Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.... Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý. Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy".
Nếu bài Phúc Âm hôm qua sự sống thần linh liên quan đến bình an Thày ban cho các con không như thế gian ban, tức là một sự sống nội tâm, sự sống ở chỗ chẳng những tự chủ không chiều theo cám dỗ của ma quỉ và thu hút của thế gian, mà còn thắng vượt được gian nan thử thách đau khổ chứ không bị chìm đắm, như chính Chúa Kitô trong Vườn Cây Dầu trong đêm Thứ Năm Tuần Thánh hay trên Thánh Giá chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, thì sự sống thần linh nội tâm tràn đầy bình an của Chúa Kitô Phục Sinh ấy phải sinh hoa trái tông đồ nữa mới được và mới trọn vẹn.
Vì chỉ có như thế họ mới thực sự làm vinh danh Cha trên trời, Đấng "muốn cứu độ mọi người" (1Timotheu 2:4), và trở nên môn đệ đích thực của Chúa Kitô, Đấng "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư vong" (Luca 19:10). Bằng không, không sinh hoa trái, cho dù họ có đạo đức tốt lành mấy chăng nữa, hằng ngày đi lễ rước lễ, hằng tuần chay tịnh, hằng tháng xưng tội và hằng năm tĩnh tâm, kèm theo việc bác ái xã hội khi có thể, (thực tế cho thấy có cặp vợ chồng phục vụ homeless mà vẫn ly dị!), họ cũng chỉ là một cây vả tốt tươi um tùm những lá mà không có trái thì hậu quả là sẽ bị đốn đi (xem Luca 13:6-7; Mathêu 7:19), như cành nho không dính liền với cây nho sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa vậy.
Tuy nhiên, cành nho nào đã sinh trái, hoa trái đạo đức tốt lành kèm theo việc bác ái ấy, theo kinh nghiệm và thực tế sống đạo, lại là những tâm hồn hay gặp gian nan khốn khó hoạn nạn hơn nhưng người khô khan và tội lỗi. Nếu bấy giờ họ không cảm thấy chán nản, bởi đời sống đạo đức và bác ái của mình không được bù đắp xứng đáng, nghĩa là họ sống đạo chỉ có lợi cho họ hơn là vì Chúa thật, trái lại, họ biết lợi dụng chính những khốn khó họ phải chịu, không gây ra bởi tội lỗi của họ, mà bởi chính đời sống đạo của họ, thì bấy giờ họ mới thực sự càng sai trái hơn, ở chỗ nhờ họ tin vào Chúa hơn, họ được Chúa chiếm đoạt, Đấng sống trong họ (xem Galata 2:20), tiếp tục ơn cứu độ của Người qua họ.
Trong bài Phúc Âm về mối Liên hệ Thần Linh giữa cây nho là Chúa Kitô và cành nho là chung Giáo Hội hay các môn đệ của Chúa Kitô, chúng ta thấy: 1- trước hết, trái nho chỉ ở cành nho chứ không ở ngay chính thân nho, tức là thân nho không sinh hoa trái mà là cành nho; 2- thế nhưng, cành nho không thể nào sinh hoa kết trái nếu không dính liền với thân nho, tức là nếu không có nhựa sống của thân nho; 3- "ở lại trong Thày", như cành nho dính liền với thân nho đây nghĩa là Kitô hữu đã được Chúa Kitô ở cùng khi lãnh nhận Phép Rửa thì phải sống sự sống của Người hơn là sống sự sống tự nhiên của mình, nhờ đó Chúa Kitô mới có thể sống trong họ và sinh hoa kết trái nơi họ qua các chứng từ trung thực và sống động của họ về Người.
Thật vậy, theo tu đức, thì mối liên hệ thần linh giữa Kitô hữu và Chúa Kitô được bắt đầu từ Phép Rửa. Nhờ Thánh Sủng, Chúa Kitô ở trong họ cùng với Thánh Thần của Người, một mối liên hệ thần linh được Người ví như: "Thày là cây nho các con là cành".
Vậy họ ở trong Người như thế nào để Người tiếp tục ở trong họ, tức là lớn lên trong họ, cho đến độ chiếm đoạt họ, làm chủ họ và qua họ tỏ mình cho thế gian, nhờ đó thế gian nhận biết Người, nếu không phải nhờ Thánh Thể của Người mà họ thường xuyên nhận lãnh khi cử hành Thánh Thể, và đặc biệt là bằng Thánh Giá của Người, nghĩa là bằng những đau khổ thứ thách Người cho họ chia sẻ với Thánh Giá của Người, như phương thức tỉa cắt cho họ là cành nho đã sinh trái càng sinh hoa trái dồi dào hơn.
Bài Đọc
1 (Tông Vụ 15:1-6)
Nếu cành
nho Kitô hữu dính liền với thân nho Chúa Kitô sinh hoa kết
trái là do Chúa Kitô thông ban sự sống của Người cho Kitô hữu nhờ lòng tin
của họ nơi Người, thì việc sinh hoa kết trái của họ không phải là do chính
tự cành nho, đúng như bài đọc 1 hôm nay đã trình thuật về hoa trái truyền
giáo của tông đồ Phaolô và Barnabê như sau:
"Các ông được Hội Thánh tiễn đưa. Khi đi qua miền Phê-ni-xi và miền
Sa-ma-ri, các ông tường thuật việc các dân ngoại đã trở lại với Thiên Chúa,
khiến tất cả các anh em rất đỗi vui mừng. Tới Giê-ru-sa-lem, các ông được
Hội Thánh, các Tông Đồ và kỳ mục tiếp đón, và các ông kể lại tất cả những
gì Thiên Chúa đã cùng làm với các ông".
Thứ Năm sau Chúa Nhật V Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 15, 7-21
"Tôi xét là không nên làm khó dễ các người dân ngoại trở về với Thiên Chúa".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, khi đã cứu xét kỹ càng, Phêrô đứng lên nói: "Hỡi anh em, anh em biết rằng từ những ngày đầu, Thiên Chúa đã chọn tôi để dân ngoại được nghe lời Phúc Âm do miệng tôi và tin. Thiên Chúa đã thấu biết các tâm hồn và đã minh chứng bằng cách ban Thánh Thần cho họ, như đã ban cho chúng ta; Người không phân biệt chúng ta với họ, vì dùng đức tin thanh tẩy tâm hồn họ. Vậy giờ đây sao anh em thách thức Thiên Chúa khi anh em đặt lên cổ các môn đồ cái ách mà cả tổ phụ chúng ta lẫn chúng ta không sao mang nổi? Nhưng chúng ta tin rằng nhờ ơn của Chúa Giêsu Kitô mà chúng ta được cứu độ cùng một thể thức như họ". Tất cả đám đông đều im lặng, rồi họ nghe Barnaba và Phaolô kể lại bao nhiêu phép lạ, và việc kỳ diệu Thiên Chúa đã nhờ các ngài mà thực hiện giữa các dân ngoại.
Khi hai ngài dứt lời, Giacôbê lên tiếng nói rằng: "Hỡi anh em, hãy nghe tôi. Simon đã thuật lại cách thức Thiên Chúa trước tiên đã thương chọn cho danh Người một dân giữa chư dân. Lời các tiên tri cũng phù hợp như vậy, như đã chép rằng: "Sau đó Ta sẽ trở lại và tái thiết lều của Ðavít đã sụp đổ. Ta sẽ tu bổ những chỗ hư hại và sẽ dựng nó lên, để các kẻ còn lại và tất cả dân ngoại kêu cầu danh Ta, sẽ tìm kiếm Chúa. Chúa phán và thực hành các việc đó. Từ đời đời Chúa biết các việc Chúa làm". Vì vậy, tôi xét là không nên làm khó dễ các người dân ngoại trở về với Thiên Chúa, nhưng truyền cho họ kiêng những ô uế của tượng thần, đừng gian dâm, và kiêng thịt các con vật chết ngạt và kiêng máu. Vì chưng từ thời xưa người ta đã rao giảng Môsê trong mỗi thành, họ đọc sách của người mọi ngày Sabbat trong các hội đường".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 10
Ðáp: Hãy tường thuật phép lạ Chúa giữa chư dân (c. 3).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Chúa đi, toàn thể địa cầu! Hãy ca mừng Chúa, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.
2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. - Ðáp.
3) Người giữ vững địa cầu cho nó khỏi lung lay; Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. - Ðáp.
Alleluia: Ga 16, 17 và 13
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy sẽ sai Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 15, 9-11
"Các con hãy ở trong tình yêu của Thầy, để niềm vui của các con được trọn vẹn".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân giữ lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn".
Ðó là lời Chúa.
Chủ đề
"Thày là sự sống" cho Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh theo
chiều kích Liên Hệ Thần Linh cho Tuần Lễ V Phục Sinh tiếp tục càng được
thể
hiện trong bài Phúc Âm Thứ Năm hôm
nay:
"Chúa Cha đã
yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại
trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ
ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy
và ở lại trong tình thương của Người. Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để
anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn
vẹn".
Mối Liên Hệ Thần Linh trong bài Phúc Âm hôm nay chẳng những giữa Chúa Kitô và các tông đồ, mà còn giữa các tông đồ và Cha trên trời qua trung gian của Chúa Kitô nữa. Ở chỗ: "Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy".
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô còn cho các tông đồ biết cách thức các vị có thể "ở lại trong tình thương" của Người, đó là "giữ các điều răn" của Người, nghĩa là làm theo ý muốn của Người, hay nói ngược lại, để cho ý muốn của Người trở thành hiện thực trong đời sống của Kitô hữu, hay để cho Người sống trong Kitô hữu, nhờ đó họ mới có thể suy tưởng, ước muốn, phát biểu, tác hành và phản ứng như Chúa Kitô và với Chúa Kitô, Đấng, qua họ và nhờ chứng từ của họ, tiếp tục tỏ mình ra cho những ai nhìn thấy họ, lắng nghe họ và gần gũi họ!
Nếu việc
"ở lại trong tình
thương"
của Chúa Kitô là ở chỗ
“giữ các giới răn”
của Người, mà giới răn cao
cả nhất Người dạy đó là
“các con hãy
yêu nhau như Thày đã yêu thương các con”
(Gioan 13:34, 15:12), thì việc
"ở lại trong tình
thương"
của Chúa Kitô nghĩa là để cho Người yêu thương tha nhân trong chúng
ta và qua chúng ta. Như thế, theo những gì Chúa Giêsu nói trong bài phúc âm
hôm nay, thì mối liên hệ thần linh ở chỗ tình yêu từ Cha qua Chúa Kitô sang
nhiệm thể Giáo Hội và từng phần thể của Giáo Hội đến toàn thể nhân loại vậy.
Bài Đọc 1 (Tông Vụ 15:7-21)
Vấn đề "giữ các điều răn của Thày" trong bài phúc âm hôm nay cũng được tỏ hiện trong bài đọc 1 cùng ngày, qua quyết định tối hậu của công đồng Giêrusalem về vấn đề không cần cắt bì theo nghi thức Do Thái giáo xưa mới trở thành Kiô hữu, mới được cứu rỗi, mà việc cứu rỗi là do ân sủng của Chúa Kitô được chấp nhận bởi những ai tin vào Người, kèm theo những việc làm tương xứng với đức tin Kitô giáo của họ:
"Sau khi các ông đã tranh luận nhiều, ông Phê-rô đứng lên nói: 'Thưa anh em, anh em biết: ngay từ những ngày đầu, Thiên Chúa đã chọn tôi giữa anh em, để các dân ngoại được nghe lời Tin Mừng từ miệng tôi và tin theo. Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi tâm can đã chứng tỏ Người chấp nhận họ, khi ban Thánh Thần cho họ cũng như đã ban cho chúng ta. Người không phân biệt chút nào giữa chúng ta với họ, vì đã dùng đức tin để thanh tẩy lòng họ.... Chính nhờ ân sủng Chúa Giê-su mà chúng ta tin mình được cứu độ, cùng một cách như họ."
Thánh Anathasio Giám Mục Tiến Sĩ
2/5
ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Anathasia
Thứ Tư 20/6/2007 - Bài Giáo Lý 42 Thánh giáo phụ Athanasius
I. CON NGƯỜI VÀ CUỘC ĐỜI
Thánh Athanasiô (Athanasius) sinh vào khoảng năm 297 tại Alêxanđria, nước Ai
Cập. Thánh nhân đã trung thành tận hiến đời mình để minh chứng Đức Chúa
Giêsu là Thiên Chúa chân thật. Điều này quan trọng bởi vì một số người theo
bè rối Ariô đã chối bỏ chân lý này. Ngay trước khi làm linh mục, Thánh
Athanasiô đã đọc nhiều sách dạy về đức tin. Đó là lý do tại sao Thánh nhân
có thể dễ dàng vạch ra những giáo huấn sai lầm của bè rối Ariô.
Thánh Athanasiô làm Tổng Giám mục thành Alêxanđria khi chưa đầy ba mươi
tuổi. Suốt bốn mươi sáu năm, Athanasiô là một mục tử hết sức anh dũng. Cả
bốn vị hoàng đế Rôma đã không thể nào bắt ép Athanasiô thôi viết những bài
giải thích rất hay và rất rõ ràng về đức tin thánh thiện của Kitô giáo. Các
kẻ thù của Athanasiô thì tìm mọi cách để khủng bố ngài.
Trong cuộc đời, Thánh Athanasiô bị đuổi ra khỏi giáo phận của ngài tất cả năm
lần. Lần lưu đày đầu tiên kéo dài hai năm. Năm 336, Athanasiô bị đưa
đến thành phố Trier, ở biên giới Đức. ở đây Ngài gặp được vị giám mục quảng
đại tốt lành là Thánh Maximilianô đã tiếp đón rất nồng hậu. Những lần lưu
đày khác kéo dài lâu hơn. Thánh Athanasiô bị những kẻ thù ngài săn đuổi.
Trong một kỳ lưu đày, các đan sĩ đã trông giữ Athanasiô cách an toàn trong
sa mạc suốt bảy năm. Do đó, các kẻ thù của Thánh Athanasiô đã không thể nào
tìm được ngài.
Một lần kia, các binh lính của hoàng đế rượt đuổi Athanasiô trên bờ sông
Nile.”Họ đang đuổi bắt chúng ta!” các bạn hữu của Thánh nhân thét lên như
thế. Nhưng Athanasiô chẳng lo lắng gì cả.”Hãy quay thuyền vòng lại, “ ngài
nói cách bình thản, “và hãy chèo về phía họ!” Các binh lính ở trong thuyền
kia la lên: “Các anh có thấy Athanasiô đâu không?” Đằng sau có tiếng trả
lời: “Chúng ta chẳng còn cách xa ông ấy bao nhiêu!” Rồi chiếc thuyền của kẻ
thù cố sức phóng nhanh hơn vận tốc bình thường; và thế là thánh Athanasiô đã
an toàn thoát nạn!
Dân thành Alêxanđria rất yêu mến Đức Tổng Giám mục tốt lành của mình. Ngài
thực là người cha của họ. Với những năm tháng trôi qua, họ hiểu rõ được
những đau khổ ngài đã phải chịu vì Đức Chúa Giêsu và Giáo hội của Người.
Chính giáo dân, những người đã cùng làm việc với thánh nhân, làm chứng rằng
Athanasiô đã góp phần rất lớn vào việc kiến tạo hòa bình.
Ngài đã sống bảy năm sau cùng với họ trong niềm vui thư thái. Các kẻ thù của
Athanasiô đã lùng bắt ngài nhưng không thể nào tìm được ngài ở đâu. Suốt
thời gian ấy, Thánh Athanasiô viết truyện “Cuộc đời thánh Antôn ẩn tu”.
Thánh Antôn là người bạn chí thân của Athanasiô lúc Athanasiô còn trẻ.
Thánh Athanasiô qua đời trong an bình vào ngày mùng 2 tháng Năm năm 373.
Ngài luôn là một trong những vị Thánh can đảm đặc biệt nhất qua mọi thời
đại.(Theo tinmung.net)
II. SỰ NGHIỆP
1. Sự nghiệp lớn nhất của thánh Athanasiô là vai trò của ngài trong việc bảo
vệ đức tin chính thống của Giáo Hội chống lại Arius và học thuyết cùng tên
về Giáo lý Chúa Ba Ngôi.
Thế học thuyết Arius là học thuyết như thế nào?
Nói một cách thật vắn gọn thì học thuyết này: Cũng như nhiều lạc thuyết
khác, giáo thuyết Arius bắt đầu với một quan điểm trung thực: Thiên Chúa là
Đấng duy nhất và tự hữu, không thể sinh ra bởi nguyên nhân nào khác. Nhưng
ông nói thêm: Thiên Chúa không thể thông bản tính mình cho ai được,
vì nếu chủ trương khác, tức là phủ nhận Thiên Chúa, Đấng đơn thuần duy nhất.
Bởi ông kết luận tất cả mọi vật ngoài Thiên Chúa đều là thụ tạo, trong đó có
cả Đấng Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa. Theo Arius, Chúa Kitô không phải là
Thiên Chúa, không ngang hàng không đồng bản tính với Ngôi Cha. Ngài chỉ là
một tạo vật hoàn hảo nhất, có trước thời gian, nhưng không phải vô thủy vô
chung. Ngài được chọn làm Con Thiên Chúa, được tham dự Thiên tính, được đặt
làm trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Arius mượn lời trong
Phúc âm thánh Gioan: ”Cha Ta cao trọng hơn Ta” (XIV, 28), để minh
chứng sự xa cách giữa Chúa Cha và Chúa Con.
Phải nói giáo phái Arius là một trong những thử thách nặng nề và đáng sợ
nhất, mà Giáo hội thời Thượng cổ phải đối phó. Trong gần một thế kỷ, nó gây
ra những cuộc tranh luận sôi nổi về Thiên tính Chúa Kitô, mà cả hai bên: bên
Công giáo cũng như phe Arius đều không nhượng bộ nhau. Nhiều giáo phụ Công
giáo có những thái độ anh hùng, sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ đức
tin. Nhiều người có đầu óc và có địa vị đã tiếp tay cho giáo phái với những
lời tuyên truyền và tranh đấu rất khôn khéo, mềm dẻo.
Năm 325 trong Công Đồng Nicêa I, dù mới chỉ là một phó tế, mới 27 tuổi,
Thánh Athanasiô đã là người chính yếu tiên phong trong việc bảo vệ giáo lý
về Ba Ngôi, chống lại học thuyết Arius lúc bấy giờ.
Tháng 6 năm 328, ở tuổi 30, Athanasiô trở thành Tổng giám mục Alêxanđria sau
khi vị tiền nhiệm qua đời. Ngài tiếp tục dẫn dắt cuộc tranh luận chống phái
Arius cho tới cuối đời và tham gia đấu tranh chính trị cũng như thần học
chống lại Constantius
II và
các giáo sĩ theo thuyết Arius có thế lực và ảnh hưởng, do Eusebius
thành Nicomedia cùng
các nhân vật khác dẫn dắt. Chính vì thế mà người ta đã gán cho ngài một danh
hiệu rất đáng tự hào: Athanasius Contra Mundum (“Athanasiô
chống lại thế giới”). Vài năm sau khi ngài qua đời, Grêgôriô
thành Nazianzô đã
gọi ngài là “Trụ cột của Giáo hội”. Các tác phẩm của Athanasiô
được các giáo phụ sau này từ cả Đông phương lẫn Tây phương coi trọng.
Trong suốt bốn mươi lăm năm làm giám mục, Đức cha Athanasiô là mục tiêu tấn
công quyết liệt của bè rối Ariô và đã bị đi lưu đày năm lần. Ngài đã trải
qua tất cả mười sáu năm bị lưu đày, liên tục bị phế truất và phục hồi khi
quyền lực thay đổi cả trong Giáo Hội lẫn trong triều đình. Tuy nhiên, khi
Đức Giám mục Athanasiô qua đời vào năm 373, bè phái ariô đã bị suy yếu bởi
những sự chia rẽ nội bộ và không còn là mối đe dọa lớn cho Giáo Hội nữa.
2. Bên cạnh sự nghiệp bảo vệ Giáo Hội chống lại bè rối Arius, chúng ta thấy
thánh Athanasiô còn nhiều hoạt động khác làm cho Giáo lý trong sáng của Chúa
càng ngày càng phát triển và thêm mạnh mẽ trở nên sức sống cho Giáo Hội do
Chúa thiết lập
Chúa Giêsu Ngôi Hai của Thiên Chúa Cha là Người Đã Mang lấy Cái Chết của
Chúng Ta. Đó
là lý do tại sao Ngôi Lời vô hình và bất diệt của Thiên Chúa đã bước vào thế
giới của chúng ta… .
Ngôi Lời Đã Trở Nên Người Phàm
Người (Đức Giêsu) là Người Con, là Sự Khôn Ngoan và Quyền Năng (Sức Mạnh)
của Thiên Chúa không? Thậm chí, Người còn khiến cho trời đất vạn vật phá vỡ
sự im lặng của nó: Ngay cái chết của Người – hay đúng hơn là nơi thập giá,
đó là chiến tích của Người về cái chết – tất cả các vạn vật đều thú nhận
rằng Người … không chỉ là một con người, mà còn là Con Thiên Chúa và Đấng
Cứu Độ của tất cả mọi loài. Mặt trời ẩn mặt đi, trái đất chuyển rung, những
tảng đá nứt ra và tất cả mọi người đều kinh hoàng, sợ hãi. Tất cả những điều
này cho thấy rằng Chúa Kitô trên thập giá là Thiên Chúa và rằng tất cả mọi
thọ tạo là tôi tớ của Người và đang làm chứng bằng sự sợ hãi của chúng trước
sự hiện diện của Chủ mình.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã cho thánh giám mục Athanasiô được
can đảm đứng lên bênh vực niềm tin của Giáo Hội về thần tính của Đức Kitô,
Con Một Chúa. Xin nhận lời thánh nhân chuyển cầu, cho chúng con biết nghe
lời Người giảng dạy, để ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa hơn.”( lời
nguyện nhập lễ, lễ thánh Athanasiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh).
https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-02-05-thanh-athanasiogiam-muc-tien-si-hoi-thanh-295-373-48720
Tại công đồng Nicea, thánh Athanassiô tháp tùng Đức Giám mục Alaxander và đã góp phần vào bản văn chung quyết của cộng đồng, trong đó định tín rằng: Chúa Con đồng bản tính với Chúa Cha.
Thánh Athanasiô sinh khoảng năm 295 có lẽ tại Alexandria. Gia đình Ngài rõ
ràng là khá giả vì sau này Ngài có dịp trốn ở phần mộ của gia đình, Ngài đã
theo môn cổ học và sau này thường trích dẫn các tác giả cổ. Có lẽ Ngài cùng
theo học tại một trường Giáo lý ở Caêsarêa nên tư tưởng của Ngài thấm nhuần
Kinh thánh, cả những chú giải Kinh thánh và cũng theo truyền thống các giáo
phụ nữa.
Vào khoảng 25 tuổi Athanasiô đã có một thời sống với thánh Antôn ẩn tu. Bốn
mươi năm sau, Ngài đã mời thánh An tôn ẩn tu về Alexandria để góp phần bảo
vệ đức tin. Khi qua đời thánh ẩn tu đã nhường lại cho Athanasiô cái áo
choàng Ngài vẫn dùng đắp mình khi ngủ và tấm da chiên để dùng sưởi ấm lúc
tuổi già. Những năm chung sống nơi sa mạc với vị thánh ẩn tu này đã tạo nên
nét thánh thiện và nhân cách của Athanasiô.
Vào năm 320, Athanasiô mới bắt đầu góp phần vào lịch sử. Khi ấy Đức Cha
Alexander Giám mục Alexandria cảm phục và triều vời Athanasiô từ sa mạc về,
đặt làm phó tế. Khi ấy Ariô là cha sở Boucalis. Ông ta là một nhà giảng
thuyết danh tiếng, có một cuộc sống khắc khổ và hướng dẫn các trinh nữ hiến
mình cho Thiên Chúa. Ariô đã sáng nghĩ và rao giảng những ý tưởng lầm lạc
cho rằng: "Ngôi Lời Thiên Chúa không có từ đời đời, không cùng bản tính với
Chúa Cha mà chỉ là một thụ tạo được mang danh hiệu Con Thiên Chúa".
Athanasiô đã bảo bỏ những sai lầm này. Bút pháp và nội dung của bức thông
điệp Đức Giám mục Alexander ban hành năm 322 cho thấy tác giả chính là
Athanasiô.
Tại công đồng Nicea, thánh Athanassiô tháp tùng Đức Giám mục Alaxander và đã
góp phần vào bản văn chung quyết của cộng đồng, trong đó định tín rằng: Chúa
Con đồng bản tính với Chúa Cha. Ngài đã trở thành mục tiêu cho bọn lạc giáo
ghen ghét.
Mùa hạ năm 328, Đức Giám mục Alexander qua đời và đặt Athanasiô lên kế vị.
Nhận thấy mình bất xứng, Athanasiô đã bỏ trốn, nhưng rồi bị ép buộc lãnh
nhận trách nhiệm. Ngài đã tỏ ra có nhân cách khôn sánh, có ý chí bất khuất
và rất thông minh. Rảo quanh khắp giáo phận rộng lớn, Ngài gặp thánh
Dachômiô từ trong sa mạc, là Đấng đã nghe Chúa nói với mình rằng: - Ta đã
đặt Athanasiô làm cột trụ Giáo hội, nhưng Ngài sẽ bị đau khổ nhiều.
Nhưng Athanasiô không sợ đau khổ. Nhiều lần Ngài đã bị trục xuất khỏi giáo
phận. Trước hết, dưới ảnh hưởng của những người theo phái Ariô, năm 335
thánh Athanasiô bị vua Constantinô đầy đi Trier ở biên thùy nước Đức. Tại
đây Ngài trước tác một số tác phẩm nay vẫn còn danh tiếng.
Nhưng rồi năm sau. Ariô chết cách khốn khổ. Vua Constantinô cho thánh nhân
được trở về giáo phận, Ngài chỉ trở lại hai năm sau tức năm 337 khi thấy nhà
vua mới Constance ngả về phía lạc giáo. Cuộc trở về của thánh nhân diễn ra
như một cuộc khải hoàn. Tuy nhiên từ năm 337 đến năm 366, cuộc đời Ngài là
một cuộc chiến đấu liên tục với nhóm người ngả theo Ariô có, bảo thủ có,
buông thả để an phận có. Chính hoàng đế cũng muốn can thiệp để sửa đổi giáo
thuyết Hội Thánh khiến các thù địch tỏ ra độc ác và tìm cách tiêu diệt vị
giám mục. Lần kia đang lúc thánh Athanasiô dâng lễ, bọn lính xâm nhập thánh
đường. Thánh nhân trốn thoát được và ẩn mình trong sa mạc. Sợ những người
chứa chấp bị liên lụy Ngài ẩn mình trong một hang đá. Và không ngừng trung
thành với đức tin chân chính.
Hoàng đế Constance qua đời, Juliano người sẽ mang biệt danh là kẻ bội giáo,
lên kế vị và cho phép những kẻ lưu đày trở về. Đức Giám mục Athanasiô trở
lại giáo phận và thiết lập trật tự trong giáo đoàn cũng như lo truyền bá đức
tin sang Ethiopie và Ả Rập.
Ngài chống lại các mê tín dị đoan khiến các lương dân tức giận. Họ quyết sát
hại thánh nhân. Lần này, Ngài lại phải chạy trốn theo lệnh của nhà vua, bội
giáo chèo thuyền dọc sông Nil, Ngài bị quân lính đuổi theo sát nút. Nguy
ngập Ngài quay thuyền lại để gặp họ. Bọn lính hung hăng hỏi thăm xem còn
cách vị giám mục bao xa. Ngài trả lời : - Chèo mạnh lên, ông không ở xa đâu.
Bọn lính vội vã làm theo và thánh nhân thoát nạn, Ngài lang thang đây đó cho
tới khi Vua Julianô qua đời, vào năm sau. Jovianô, vị tân hoàng đế rất kính
phục đức giám mục và thích đàm luận với Ngài. Nhưng triều đại của ông lại
quá vắn vỏi. Khi Valens lên nắm quyền cai trị, lại một cuộc bách hại mới mở
ra. Một lần nữa thánh Athanasiô lại phải trốn đi. Trong bốn tháng liền, Ngài
ẩn mình trong phần mộ của gia đình.
Sau cùng Valens vì hiểu được lòng kính phục của dân Ai cập đối với vị giám
mục của họ, và không muốn xa rời dân chúng nên chịu cho Ngài trở về. Những
năm cuối đời, thánh nhân được sống trong yên ổn phần nào, bởi vì lúc ấy cuộc
tranh chấp thực sự chưa ngã ngũ, Ngài qua đời ngày 02 tháng 5 năm 373. Phải
đợi năm năm sau, cuộc tranh luận của cộng đồng Nicêa mới toàn thắng với cái
chết của Valens.
Thánh Athanasiô đã viết những tác phẩm vĩ đại nhất trong 30 năm xáo trộn.
Cuốn Uncarnatione Verbi hoàn thành năm 337, cuốn Virginitate và Orationes
khoảng năm 357, cuốn Contra Arianô có thể sau năm 362. Ngài đã viết rất
nhiều và mọi tư tưởng Ngài cũng như cuộc sống Ngài tập trung vào hai ý niệm:
Chúa Con là sự bày tỏ của Chúa Cha, và Giáo hội là sự bày tỏ của Chúa Con.
Giáo hội Tây phương kính nhớ Ngài như thánh tiến sĩ Chúa Ba Ngôi, nhưng
trước hết, Ngài là Thánh Tiến sĩ về mầu nhiệm nhập thể và về Ơn thánh.
Thánh Athanasiô không sợ gian nan, nguy hiểm, hình phạt. Thánh Athanasiô với cương vị mục tử từ năm 328 tới 373, đã 5 lần bị lưu đầy, tù tội. Thánh nhân thực hiện lời Chúa dậy:” củng cố lòng tin”, Ngài đã hiên ngang, anh dũng, đã giữ vững đức tin, với một ý chí sắt đá, với một lòng tin không gì lay chuyển nổi, thánh Athanasiô đã luôn bảo vệ giáo lý chân chính của Chúa Kitô.
Ca hiệp lễ, lễ thánh giám mục có viết:” Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em. Để anh em ra đi, thu được kết quả, và kết quả của anh em được lâu bền”( Ga 15, 16 ). Thánh Athanasiô đã được Chúa tuyển chọn để làm chứng cho Chúa và củng cố lòng tin cho các tín hữu.
Giáo Hội của Chúa ở trần gian có lúc thịnh, có lúc xem ra đầy an bình, nhưng có những lúc đen xen ánh sáng và bóng tối. Hội Thánh trong mọi thăng trầm của mình đã được Chúa Thánh Thần luôn chở che, gìn giữ và soi sáng. Giữa những phong ba bão táp, bách hại đạo, cấm cách đạo ở muôn thời, Giáo Hội của Chúa Kitô luôn đứng vững vì Chúa luôn thực hiện lời hứa:” Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Năm 311, cơn cấm cách, bắt đạo vừa chấm dứt, Giáo Hội lại bị bè rối nổi lên, phá phách, xuyên tạc giáo lý, làm nhiều người chưa vững đức tin bị lung lay. Arius tại Alexandria tuyên truyền giáo thuyết lạc đạo chối bỏ thiên tích của Chúa Giêsu. Hội Thánh được tràn đầy Thánh Thần luôn cương quyết bảo vệ đức tin, vào năm 325, Giáo Hội triệu tập công đồng Nicée để lên án Arius và xác quyết:” Đức Kitô là Thiên Chúa, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha”. Cuộc chống lại Giáo Hội với giáo thuyết lạc đạo này đã kéo dài tới 50 năm, Arius đã làm lung lạc nhiều người, làm cho nhiều người không biết đâu là bến bờ, là chân lý. Thiên Chúa có cách của Ngài như lời thánh vịnh nói:” Hãy nói với chư dân: Chúa là vua hiển trị, Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng lay chuyển, Người xét xử muôn nước theo đường ngay chính”( TV 96, 10 ). Thiên Chúa đã ban cho Hội Thánh nhiều vị bênh vực đầy Thánh Thần và khôn ngoan mà nổi bật nhất là thánh Athanasiô.
THÁNH ATHANASIÔ BÊNH VỰC GIÁO HỘI
Không sợ Hoàng Đế, không ngán ngẩm, sợ sệt các giám mục chạy theo bè rối chống lại Hội Thánh. Thánh Athanasiô không sợ gian nan, nguy hiểm, hình phạt. Thánh Athanasiô với cương vị mục tử từ năm 328 tới 373, đã 5 lần bị lưu đầy, tù tội. Thánh nhân thực hiện lời Chúa dậy:” củng cố lòng tin”, Ngài đã hiên ngang, anh dũng, đã giữ vững đức tin, với một ý chí sắt đá, với một lòng tin không gì lay chuyển nổi, thánh Athanasiô đã luôn bảo vệ giáo lý chân chính của Chúa Kitô. Thánh nhân đã viết nhiều bài giảng ca tụng đức trinh khiết và bậc sống ẩn tu, Ngài đã diễn tả tình yêu mật thiết với Đức Kitô, Đấng đến trần gian để cho nhân loại được sống và sống dồi dào( Ga 10, 10 ). Thánh nhân đã luôn tâm niệm lời thánh vịnh: “ Ai gieo trong nước mắt sẽ về giữa tiếng cười…”. Thánh Athanasiô đã được Giáo Hội tôn vinh và đặt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã cho thánh giám mục Athanasiô được can đảm đứng lên bênh vực niềm tin của Giáo Hội về thần tính của Đức Kitô, Con Một Chúa. Xin nhận lời thánh nhân chuyển cầu, cho chúng con biết nghe lời Người giảng dạy, để ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa hơn.” (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Athanasiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Ngày 3 tháng 5
THÁNH PHI-LÍP-PHÊ VÀ THÁNH GIA-CÔ-BÊ, TÔNG ĐỒ
lễ kính
Ngày 3 tháng 5
Lễ Thánh Philípphê và Giacôbê, Tông Ðồ
Lễ Kính
Bài Ðọc I: 1 Cr 15, 1-8
"Chúa hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng mà tôi đã rao giảng cho anh em, và anh em đã lãnh nhận và đang tin theo, nhờ đó anh em được cứu độ, nếu anh em tuân giữ lời lẽ tôi đã rao giảng cho anh em, bằng không anh em đã tin cách vô ích.
Tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã nhận lãnh: đó là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh. Người được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi sau với mười một vị. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em trong một lúc; nhiều người trong số anh em đó hãy còn sống tới nay, nhưng có vài người đã chết. Thế rồi Người hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ. Sau cùng, Người cũng hiện ra với chính tôi như với đứa con đẻ non.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 2-3. 4-5
Ðáp: Tiếng chúng đã vang cùng trái đất (c. 5a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp tay Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyền tụng cho đêm kia. - Ðáp.
2) Ðây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 6b và 9c
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Hỡi Philipphê, ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 6-14
"Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin, Thầy sẽ làm cho".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Tôma rằng: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người".
Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con".
Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Philipphê, ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: 'Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha?' Con không tin Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho".
Ðó là lời Chúa.
Lạy Chúa, hằng năm Chúa cho chúng con được hân hoan mừng lễ hai thánh tông đồ Phi-líp-phê và Gia-cô-bê. Xin Chúa thương nhậm lời các ngài cầu thay nguyện giúp, mà cho chúng con biết thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Ki-tô Con Một Chúa, để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời. Chúng con cầu xin
Thứ Sáu sau Chúa Nhật V Phục Sinh
(Nếu ngày này trong tuần không bị át đi bởi lễ kính 2 vị tông đồ Giacôbê và Philiphê như năm 2024 này)
Bài Ðọc I: Cv 15, 22-31
"Thánh Thần và chúng tôi xét rằng không nên buộc thêm cho anh em gánh nặng nào khác".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, các Tông đồ, kỳ lão cùng toàn thể Hội Thánh, chấp thuận chọn ít người trong các ngài, và sai đi Antiôkia với Phaolô và Barnaba: đó là Giuđa, gọi là Barsaba, và Sila, những vị có uy thế giữa anh em. Các ngài nhờ tay hai ông chuyển bức thư viết như sau: "Anh em Tông đồ và kỳ lão chúng tôi kính chào các anh em thuộc dân ngoại ở Antiôkia, Syria và Cilicia. Chúng tôi nghe tin rằng có mấy người trong chúng tôi đã đến nói những lời gây hoang mang và làm cho tâm hồn anh em xao xuyến, chúng tôi không uỷ quyền cho họ, vì thế chúng tôi họp lại, đồng ý chọn một ít người và sai đến anh em làm một với Barnaba và Phaolô, những anh em yêu quý của chúng tôi, tức là những người đã liều mạng sống mình vì danh Ðức Giêsu, Chúa chúng tôi. Vậy chúng tôi đã sai Giuđa và Sila đến nói miệng với anh em cũng chính những lời này: Thánh Thần và chúng tôi xét rằng không nên đặt thêm cho anh em gánh nặng nào khác ngoài mấy điều cần kíp này là anh em hãy kiêng đồ cúng thần, huyết, thịt thú chết ngạt và gian dâm; giữ mình khỏi các điều đó, là anh em làm phải. Chúc anh em vạn an".
Các ngài giã từ và đi xuống Antiôkia, triệu tập dân chúng lại và trao cho họ bức thư. Ðọc thư xong, họ vui mừng vì được an ủi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 56, 8-9. 10-12
Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ngợi khen Chúa giữa chư dân (c. 10a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Lòng con bền vững, lạy Chúa, lòng con bền vững; con sẽ hát xướng, con sẽ đàn ca. Hãy thức dậy, linh hồn tôi ơi, hãy thức dậy, hỡi đàn sắt với đàn cầm, tôi sẽ làm cho bình minh thức giấc. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, con sẽ ngợi khen Chúa giữa chư dân; con sẽ hát mừng Ngài trong các nước: vì đức từ bi Chúa cao tới cõi trời, và lòng trung tín Ngài chạm ngàn mây. Lạy Chúa, xin Ngài hiện ra cao cả trên trời, xin tỏ vinh quang Ngài trên toàn cõi đất! - Ðáp.
Alleluia: Mt 28, 19 và 20
Alleluia, alleluia! - Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 15, 12-17
"Ðây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ðây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền. Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi, và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau".
Ðó là lời Chúa.
Chủ đề
"Thày là sự sống" về chiều kích Liên Hệ Thần Linh cho Tuần Lễ V Phục
Sinh tuần này tiếp tục được
bài Phúc Âm hôm nay cho thấy không
thể tách rời với đức bác ái yêu thương nhau nữa, một đức ái trọn
hảo như chính Người đã nói đến trong Bữa Tiệc Ly với các tông đồ ở Bài Phúc
Âm Chúa Nhật V đầu tuần, cũng theo Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 13 (hơn là
đoạn 15 như hôm nay), chứ không phải chỉ Liên Hệ
Thần Linh với Chúa Kitô thôi:
"Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương
anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh
tính mạng vì bạn hữu của mình".
Tuy nhiên mối Liên Hệ Thần Linh theo hàng ngang là yêu thương nhau này lại hoàn toàn lệ thuộc vào mối Liên Hệ Thần Linh theo hàng dọc giữa các tông đồ hay các môn đệ với Chúa Kitô, bằng không, họ không thể nào "yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em".
Như
thế, bác ái yêu thương giữa các
môn đệ với nhau và với tha nhân đồng loại chính là hoa trái của mối Liên Hệ
Thần Linh giữa họ và Chúa Kitô, một mối Liên hệ Thần Linh thân mật như giữa
bạn hữu với nhau, chứ không phải giữa chủ và tớ, một mối Liên Hệ Thần Linh
bằng hữu hiệp nhất nên một đến độ có gì cũng cho nhau biết để cùng thông
hưởng, nhờ đó có thể tác hành một cách thích đáng và mang lại tác dụng
tối đa:
"Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết. Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau".
Căn cứ vào toàn bộ bài Phúc Âm hôm nay về đức bác ái yêu thương, dường như chúng ta không thấy chủ đề "Thày là sự sống" của Mùa Phục Sinh hậu Tuần Bát Nhật đâu hết. Tuy nhiên, tình yêu chính là sự sống hiệp thông và yêu là sống hiệp thông, chính vì vậy mà nếu "ai không yêu thương thì ở trong sự chết và ai ghét anh em mình là kẻ sát nhân", như Thánh Gioan đã khẳng định (xem 1 Gioan 3:14-15).
Bởi thế, sự sống ở đây chính là bác ái yêu thương, và trong bài Phúc Âm này sự sống là chính đức ái trọn hảo - perfect love / perfectae caritatis, ở chỗ: "Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con". Mà Người yêu mến thành phần môn đệ của Người như thế nào, nếu không phải cho đến hy sinh chính mạng sống mình cho họ, coi họ còn cao quí và cao trọng hơn cả mạng sống mình nữa: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình". Chưa hết, Người còn yêu họ "đến cùng" (Gioan 13:1), đến con chiên lạc cuối cùng là tông đồ Giuđa Íchca trong việc Người rửa chân cho cả người môn đệ đáng thương này. Còn nữa, Người còn yêu thương cả kẻ thù của Người là thành phần lên án tử cho Người và ra tay hành khổ, xỉ nhục cùng sát hạt Người: "Lạy Cha xin Cha tha cho họ vì họ lầm không biết việc họ làm" (Luca 23:34). Tóm lại, tình yêu của Chúa Kitô là tình yêu cứu độ, một tình yêu đến gánh lấy tất cả tai vạ của tội đồ nhân loại để đền tội cho họ và nhờ đó họ có thể "được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn" (Gioan 10:10).
"Bạn hữu" đây không phải hiểu theo nghĩa thường, ngoài liên hệ ruột thịt, mà là theo nghĩa thân thiết, như vợ chồng không ruột thịt với nhau nhưng lại là bạn trăm năm của nhau. Và chính vì thân thiết trong tình bạn bè mới tỏ cho nhau biết hết bầu tâm sự của mình, một bầu tâm sự không thể bạ ai cũng chia sẻ, như người lạ mặt ngoài đường hay người "đầy tớ" đối với chủ được Chúa Giêsu nhắc đến trong bài Phúc Âm hôm nay.
Bầu tâm sự của Chúa Giêsu muốn tỏ cho thành phần môn đệ bạn hữu của Người, thành phần được Người coi trọng hơn chính sự sống của Người, đó là "tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết", ám chỉ "Cha Thày yêu Thày thế nào Thày cũng yêu các con như vậy" (Gioan 15:9). Chúa Giêsu thực sự là hiện thân của tình yêu vô cùng thương xót của Thiên Chúa đối với chung loài người và riêng Giáo Hội của Người, hay nói đúng hơn Người chính là Tình Yêu Thương Xót của Thiên Chúa vậy, một tình yêu không một tạo vật nào xứng đáng nếu Ngài không tự tỏ ra trước, bất chấp thân phận bất xứng hay bất cân xứng của đối tượng được Ngài yêu.
Đó là ý nghĩa sâu xa ở câu Chúa Giêsu đã nói tiếp ngay sau đó: "Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con". Chính vì được Thiên Chúa yêu thương nhưng không và yêu cho tới cùng như vậy nơi Chúa Giêsu Kitô (xem Gioan 13:1), mà thành phần bạn hữu môn đệ của Con Ngài, thành phần thật ra thân phận chỉ là đầy tớ của Ngài và của Con Ngài, nhưng được thăng hóa thành bạn hữu của Con Ngài nhờ tình yêu của Ngài, phải đáp ứng tình yêu của Ngài, hay đúng hơn phải để cho Ngài yêu thương, bằng việc hoàn toàn tin tưởng phó thác vào tình yêu vô cùng nhân hậu của Người, cho đến độ Người chiếm đoạt họ và làm chủ họ, để nhờ đó họ có thể yêu nhau và yêu tha nhân như: "Thày đã yêu" (Gioan 13:34; 15:12). Đó là lý do trong cùng bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã nói đến mục đích của việc "Thày đã chọn các con" đó là: "để các con đi, và mang lại hoa trái" - Hoa Trái yêu thương: "các con hãy yêu mến nhau", như Người lập lại ở cuối bài Phúc Âm hôm nay.
Bài Đọc
1 (Tông Vụ 15:22-31)
Mối Liên Hệ Thần Linh giữa Chúa Kitô và các tông đồ của Người ngay từ khi Giáo Hội còn sơ khai đã cho thấy Người luôn ở cùng các vị, cũng như các vị luôn ở cùng Người, do đó các vị đã có những quyết định đúng như những gì Người mong muốn, hoàn toàn ngược lại với những ai có tinh thần khác biệt với các vị, gây rắc rối trong Giáo Hội bấy giờ. Đoạn thư được các vị gửi để công bố quyết định "đồng tâm nhất trí" của các vị đã thực sự phản ảnh Mối Liên hệ Thần linh của các vị với Chúa Kitô, Đấng sống trong từng cá nhân của các vị và chung cộng đồng Giáo Hội bằng Thánh Thần của Người, Đấng "đã quyết định" với các vị:
"Anh em Tông Đồ và kỳ mục chúng tôi gửi lời chào anh em gốc dân ngoại tại An-ti-ô-khi-a, tại miền Xy-ri và Ki-li-ki-a. Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi ủy nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Ba-na-ba và ông Phao-lô, những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi cử ông Giu-đa và ông Xi-la đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây: Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh."
Thứ Bảy sau Chúa Nhật V Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 16, 1-10
"Xin đi sang Macêđonia mà cứu giúp chúng tôi".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô đến Ðerbê và Lystra. Ở đó có một môn đồ tên là Timôthêô, con của một bà Do-thái đã tin đạo, còn cha là người dân ngoại. Các anh em ở Lystra và Icôniô chứng nhận anh là người tốt. Phaolô muốn anh đi theo mình, vì nể người Do-thái ở trong vùng ấy, nên Phaolô đã đem anh đi cắt bì, vì mọi người biết cha anh là người dân ngoại. Khi hai ngài đi ngang qua các thành phố, hai ngài truyền lại cho họ tuân giữ những giáo lý do các tông đồ và kỳ lão tại Giêrusalem đã quyết định. Nhờ vậy, các giáo đoàn được vững mạnh trong đức tin và mỗi ngày càng tăng thêm đông số.
Các ngài đi qua Phrygia và vùng Galatia, vì Thánh Thần ngăn cản không cho rao giảng lời Chúa tại Tiểu Á. Khi đến Mysia, các ngài tìm cách đi Bithynia; nhưng Thánh Thần của Chúa Giêsu không cho phép. Vậy các ngài đi sang Mysia, xuống Trôa, và ban đêm Phaolô được thị kiến thấy một người Macêđô đứng đó và van xin ngài rằng: "Xin đi sang Macêđônia mà cứu giúp chúng tôi".
Vừa thấy vậy, chúng tôi liền tìm cách đi sang Macêđônia, tin chắc rằng Thiên Chúa đã kêu gọi chúng tôi rao giảng Tin Mừng cho họ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 99, 2. 3. 5
Ðáp: Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Chúa! (c. 2a)
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Chúa! Hãy phụng sự Chúa với niềm vui vẻ; hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá. - Ðáp.
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người. - Ðáp.
3) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín còn tới muôn muôn thế hệ. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 16
Alleluia, alleluia! - Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác, để ở cùng các con luôn mãi. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 15, 18-21
"Các con không thuộc về thế gian, vì chính Thầy đã chọn các con khỏi thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng họ đã ghét Thầy trước. Nếu các con thuộc về thế gian, thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó, nhưng các con không thuộc về thế gian, vì chính Thầy đã chọn các con khỏi thế gian, nên thế gian ghét các con. Các con hãy nhớ lại lời Thầy đã nói với các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ. Nếu họ đã bắt Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con; nếu họ tuân giữ lời Thầy, thì họ cũng tuân giữ lời các con. Tại vì danh Thầy mà họ sẽ làm cho các con tất cả những điều đó, bởi vì họ không biết Ðấng đã sai Thầy".
Ðó là lời Chúa.
Chiều
kích "Liên Hệ Thần Linh" của chủ đề "Thày là sự sống" cho Tuần
Lễ Thứ V Mùa Phục Sinh là ở nơi việc hiệp nhất nên một với Chúa Kitô, nhờ đó
các môn đệ của Người mới có thể sinh hoa kết trái yêu thương như Người yêu
thương họ, như các bài Phúc Âm trong tuần đã cho thấy, cũng là mối Liên Hệ
Thần Linh nhờ đó làm cho các vị nên giống
Người nơi thân phận bị thế gian ghét bỏ và sát hại, chỉ
vì danh của Người, như
lời Người khẳng định và tiên báo cho các tông đồ trong bài phúc âm hôm nay:
"Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả
như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó.
Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi
thế gian, nên thế gian ghét anh em. Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: tôi
tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.
Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. Nhưng họ sẽ làm
tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ
không biết Đấng đã sai Thầy".
Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần V theo Thánh Gioan hôm nay là bài Phúc Âm chất chứa những lời Chúa Giêsu tiên báo cho các môn đệ của Người về thân phận chịu khổ của các vị trong thế gian này, bị thế gian thù ghét, chỉ vì các vị đã được Người "chọn" và "tách ra khỏi thế gian". Nghĩa là những ai thuộc về Người và theo Người thì phải chịu chung số phận với Người và như Người: "Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em".
Chính thân phận bị thế gian ghét bỏ và bách hại như Thày và vì Thày của thành phần môn đệ Chúa Kitô là những gì chứng tỏ họ thực sự thuộc về Chúa Kitô, hoàn toàn ở trong Chúa Kitô và Chúa Kitô hằng ở trong họ hơn ai hết và hơn bao giờ hết. Đúng thế, chính những gian nan khốn khó gặp phải trong cuộc hành trình đức tin trần thế nói chung và nhất là trong sứ vụ làm chứng cho Chúa Kitô đã chứng thực ai là môn đệ đích thực của Chúa Kitô và ai không/chưa.
Mà thành phần môn đệ của Chúa Kitô nói chung, sau thời các thánh tông đồ, được Người tuyển chọn khi nào và ra sao? Nếu không phải khi Người gọi họ trở thành môn đệ Kitô hữu của Người qua các chứng nhân của Người (xem Mathêu 28:20), hay hơn thế nữa, khi Người gọi một số môn đệ Kitô hữu của Người theo sát Người hơn nữa theo 3 lời khuyên của Phúc Âm, nhất là khi Người gọi họ trở thành linh mục thừa tác của Người; và chính họ cũng đã đáp lại bằng việc lãnh nhận phép rửa, lãnh nhận Bí Tích Truyền Chức Thánh, cũng như bằng việc tuyên khấn các lời khấn sống đời thánh hiến trọn lành hơn theo tinh thần và gương sống của Người.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, những môn đệ Kitô hữu nào được "Thày đã chọn, đã tách ra khỏi thế gian", và cũng đã theo Người như thế, mà chỉ tìm kiếm và theo đuổi một Chúa Kitô Phục Sinh chẳng có các dấu thánh trên thân xác sống lại từ trong kẻ chết của Người, thì thực tế cho thấy họ vẫn tiếp tục "thuộc về thế gian", và vì thế họ được "thế gian yêu thích cái gì là của nó". Chẳng hạn như những người môn đệ thuộc về một thứ Giáo Hội Nhà Nước trong thế giới cộng sản, hay những môn đệ có biệt tài nào đó trở thành nổi tiếng, được dân chúng mộ mến đến bất chấp Giáo Quyền, hoặc những môn đệ mị dân không dám khuyên bảo hay giảng dạy dân chúng "vào qua cửa hẹp" (Mathêu 7:13), bởi sợ bị dân ghét bỏ, hay những môn đệ chỉ vì danh tiếng, vì nghề nghiệp, mà về chính trị đã bỏ phiếu chấp thuận hay ủng hộ các đạo luật phản tín lý và luân lý Công giáo của mình v.v.
Trái lại, những môn đệ bị bách hại vì công lý (xem Mathêu 5:11) chính là các cành nho tốt lành đã sinh hoa kết trái trong đời sống thiêng liêng, ở chỗ họ càng ngày càng được kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô, qua việc thường xuyên tham dự các Bí Tích Thánh và thiết tha lắng nghe cùng đáp ứng Lời Chúa, và vì thế, họ còn được cắt tỉa thêm cho càng sai trái (xem Gioan 15:2), cho càng được nên giống Chúa Kitô là Thày của mình hơn ai hết và hơn bao giờ hết. Đến độ sự sống đã chiến thắng tội lỗi và sự chết của Chúa Kitô Phục Sinh nơi họ đã trở thành như một ngọn lửa thần linh bừng lên thiêu đốt bụi gai bản thân thấp hèn yếu đuối của họ, nhưng bụi gai là bản thân của họ đầy thương tích đớn đau ấy chẳng những vẫn không bị thiêu rụi (xem Xuất Hành 3:2), trái lại, chính bụi gai ấy lại còn thần hiển "rạng ngời chân lý - veritatis splendor" (Thông Điệp của ĐTC GP II ngày 6/8/1993) như một Chúa Kitô Tử Giá!
Đến đây, chúng ta thấy, căn cứ vào chính Lời Chúa dạy, có 3 dấu hiệu chứng thực Kitô hữu chúng ta là môn đệ thật sự của Chúa Kitô, chứ không chỉ "hữu danh vô thực", là thành phần chứng nhân trung thực và sống động của Người, đó là: đức ái trọn hảo (1), sinh nhiều hoa trái (2) và bị đời thù ghét (3).
1- Đức ái trọn hảo: "Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy ở điểm này, đó là các con yêu thương nhau." (Gioan 13:34-35);
2- Sinh hoa kết trái: "Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy" (Gioan 15:8); "Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái" (Gioan 15:16);
3- Bị đời thù ghét: "Tôi tớ không lớn hơn chủ. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em" (Gioan 15:20).
Bài Đọc
1 (Tông Vụ 16:1-10)
Mối Liên Hệ Thần Linh tràn đầy sự sống còn có thể được thấy nơi trường hợp của phái đoàn môn đệ Chúa Kitô, trong đó chính yếu là Tông Đồ Phaolô, những vị luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô, Đấng ở với họ, sống trong họ và hướng dẫn họ bằng Thánh Thần của Người trong công cuộc truyền giáo chứng nhân của họ, thậm chí Ngài còn hướng dẫn họ đến những nơi Người muốn họ tới, như bài đọc 1 hôm nay cho thấy:
"Các ông đi qua miền Phy-ghi-a và Ga-lát, vì Thánh Thần ngăn cản không cho các ông rao giảng lời Chúa ở A-xi-a. Khi tới sát ranh giới My-xi-a, các ông thử vào miền Bi-thy-ni-a, nhưng Thần Khí Đức Giê-su không cho phép. Các ông bèn đi qua miền My-xi-a mà xuống Trô-a. Ban đêm, ông Phao-lô thấy một thị kiến: một người miền Ma-kê-đô-ni-a đứng đó, mời ông rằng: 'Xin ông sang Ma-kê-đô-ni-a giúp chúng tôi!' Sau khi ông thấy thị kiến đó, lập tức chúng tôi tìm cách đi Ma-kê-đô-ni-a, vì hiểu ra rằng Thiên Chúa kêu gọi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho họ".