Chân Lư Đức Tin:

... Con Thiên Chúa hằng sống

(x Mt 16:16)

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

 Tiếp bài: Chân Lư Đức Tin: Thày là Đức Kitô,..

 

 

Nếu Phúc Âm Nhất Lăm viết cho dân Do Thái (Phúc Âm Thánh Mathêu và Marcô) cũng như cho Dân Ngoại (Phúc Âm Thánh Luca) đều nhắm tới việc chứng thực “Đức Kitô” Thiên Sai và khía cạnh nhân tính của Người, th́ Phúc Âm Thánh Kư Gioan viết cho Giáo Hội để Giáo Hội thấy được thần tính của Người, một thần tính chứng tỏ Người là “Con Thiên Chúa hằng sống”.

 

Trước hết, Phúc Âm của Thánh Kư Gioan viết cho Giáo Hội, như Sách Khải Huyền của ngài cũng thế, v́ trong phúc âm này có những yếu tố trực tiếp liên quan đến Giáo Hội. Như yếu tố tái sinh bởi trời (có  tính cách bí tích) ở đoạn 3, yếu tố bánh sự sống (nuôi dân Chúa) ở đoạn 6, yếu tố chủ chiên và đàn chiên ở đoạn 10, yếu tố phục vụ và yêu thương cùng hiệp nhất với nhau trong Chúa ở đoạn từ 13 đến hết 17, yếu tố Mẹ Maria là Mẹ Giáo Hội và Giáo Hội được xuất phát từ cạnh sườn tuôn ra máu cùng nước của Tân Adong ở đoạn 19, và yếu tố trao quyền chăn dắt đàn chiên cho tông đồ Phêrô ở đoạn 21.

 

Sau nữa, Phúc Âm của Thánh Kư Gioan nhắm vào việc chứng thực thần tính của “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, ở chỗ, ngay trong lời mở đầu, đă có những chi tiết liên quan đến thần tính của Người: “Ngay từ ban đầu đă có Lời, Lời ở nơi Thiên Chúa và Lời là Thiên Chúa… Lời đă hóa thành nhục thể…” (Jn 1:1,14). Và cũng  chỉ ở trong Phúc Âm Thánh Kư Gioan mới thấy những lời tuyên bố của Lời Nhập Thể liên quan đến thần tính của Người: “Tôi là ánh sáng thế gian… ánh sáng sự sống” (Jn 8:12); “Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống” (Jn 6:51); “Thày là sự sống lại và là sự sống” (Jn 11:25); “THày là đường, là sự thật và là sự sống” (Jn 14:6) v.v.

 

Tuy nhiên, không phải chú trọng tới chiều kích thần tính của “Con Thiên Chúa hằng sống” mà Phúc Âm của Thánh Kư Gioan không hế nói ǵ tới chiều kích “Đức Kitô” của Người. Bởi v́ "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" chỉ là một chân lư đức tin duy nhất bất khả phân ly, mà Phúc Âm Thánh Kư Gioan đă không thể nào bỏ qua phần đầu của chân lư này, phần về "Đức Kitô".

 

Đúng thế, nếu cẩn thận theo dơi, người đọc thấy được rằng, trong cuốn Phúc Âm cuối cùng này, nhân vật Giêsu Nazarét dường như tự ḿnh chứng thực ḿnh là "Đức Kitô", tuy không bao giờ công khai và hiển nhiên tuyên bố ḿnh là "Đức Kitô", cho dù có được dân Do Thái năn nỉ Người hăy tự động chính thức tuyên bố cho họ biết về Người là "Đức Kitô": "Ngài sẽ c̣n để cho chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao lâu nữa đây? Nếu Ngài thực sự là Đấng Thiên Sai th́ hăy cứ nói thẳng cho chúng tôi biết đi" (Jn 10:24).

 

Nếu trong bộ Phúc Âm Nhất Lăm nói chung và Phúc Âm Thánh Mathêu nói riêng, chứng cớ về sự thật đức tin Người là "Đức Kitô" đă được vị thánh kư của cuốn phúc âm thứ nhất này sử dụng các câu Thánh Kinh Cựu Ước để cho dân Do Thái thấy được tất cả sự thật về Người và nơi Người, th́ ở Phúc Âm Thánh Gioan, Người đă tự chứng thực về ḿnh là "Đấng Thiên Sai", bằng cách ít khi trích dẫn Thánh Kinh cho bằng sử dụng ngay chứng từ trần gian là những ǵ đă được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, một nhân vật uy tín được dân tin tưởng, nói về Người: "Nếu Tôi làm chứng về ḿnh th́ quí vị không thể kiểm chứng được chứng từ của Tôi, thế nhưng có một người khác đang làm chứng về Tôi và chứng từ của ông về Tôi là những ǵ Tôi biết có thể kiểm chứng. Quí vị đă sai người với Gioan, vị đă làm chứng cho chân lư" (Jn 5:31-33).

 

Tuy nhiên, chứng từ quan trọng hơn và chính yếu hơn về sự thật đức tin "Thày là Đức Kitô" đó là chứng từ của chính Thiên Chúa. Đó là lư do, ngay sau khi nại đến chứng từ trần gian của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, như trên trích dẫn, Người đă nói tiếp như thế này: "(Không phải là chính bản thân Tôi chấp nhận chứng từ loài người ấy - Tôi nói đến những điều này là chỉ v́ phần rỗi của quí vị mà thôi).... Tôi c̣n một chứng từ lớn lao hơn chứng từ của Gioan nữa ḱa, đó là những công việc Cha đă trao cho Tôi hoàn thành. Chính những việc mà Tôi thi hành ấy là những ǵ làm chứng rằng Cha đă sai Tôi" (Jn 5:35-36).

 

Đó là lư do, ngay sau khi nghe thấy dân Do Thái van nài Người tỏ ḿnh ra cho họ, đừng để họ phải băn khoăn t́m kiếm sự thật về Người là "Đức Kitô" nữa, những ǵ Người đă trả lời cho họ liên quan đến chứng từ của Cha Người, liên quan đến các công việc Cha trao cho Người: "Tôi đă nói với quí vị mà quí vị không tin. Những công việc Tôi làm nhân danh Cha của Tôi đều làm chứng về Tôi, thế nhưng quí vị không chịu tin, v́ quí vị không phải là chiên của Tôi" (Jn 10:25-26). Như thế có nghĩa là Người tự ḿnh làm chứng rằng Người quả thực là "Đấng Thiên Sai", Đấng được Thiên Chúa sai đến với dân Do Thái, bằng chính việc Người làm theo ư Cha là Đấng đă sai Người: "Tôi từ trời xuống không phải để làm theo ư của Tôi mà là ư của Đấng đă sai Tôi" (Jn 6:38).  

 

Có một mâu thuẫn hết sức lạ lùng ở đây là, trong khi Người, ở Phúc Âm Thánh Gioan, cố gắng chứng thực ḿnh là "Đức Kitô", th́ ở Phúc Âm Nhất Lăm Người lại tỏ ra lo sợ về việc người ta biết đến căn tính "Kitô" của ḿnh. Đó là lư do, khi ma quỉ hô lên rằng “Ngài là Con Thiên Chúa” th́ Người “đă trách chúng và không cho phép chúng nói v́ chúng đă biết rằng Ngưi là Đấng Thiên Sai” (Lk 4:41). Và cả sau khi được tông đồ Phêrô tuyên xưng rất chính xác rằng: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16:16), "Người đă nghiêm nghị truyền lệnh cho các môn đệ của ḿnh không được nói cho bất cứ ai biết rằng Người là Đấng Thiên sai" (Mt 16:20). Trong Tại sao? Tại v́ dân Do Thái khó ḷng mà chấp nhận được một Đấng Thiên Sai như Người theo tâm thức mong đợi thiên về trần gian của họ.

 

Sự thật về Người "là Đức Kitô" quả thực là một bí mật siêu việt, trí khôn hạn hẹp của loài người không thể nào thấu suốt và chấp nhận nếu không được mạc khải thần linh. Chính các tông đồ, cho dù đă nhận biết căn tính của Thày ḿnh "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" như thế, mà ngay sau đó vẫn bị Thày thậm tệ quở mắng là "Đồ Satan, hăy xéo đi cho khuất mắt Ta" (Mt 16:23), v́ họ vẫn c̣n những phán đoán về Người theo trần gian hơn là theo đúng như phán đoán của Thiên Chúa (x Mt 16:23). Ở chỗ, theo họ, đă “là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” th́ một c̣n ai hay một sự ǵ có thể đụng chạm tới, trái lại, có mănh lực trên mọi sự và mọi người v.v. Có thể chính v́ cái tâm thức trần tục này mà thậm chí sau này có người c̣n âm mưu phản nộp Người như tông đồ Giuđa Íchca (x Mk 14:10-11), "tất cả bỏ Người mà thoát thân" (Mk 14:50), hay trắng trợn chối bỏ Người như tông đồ Phêrô (x Mk 14:66-72).

 

Các tông đồ là thành phần được tuyển chọn để trở thành chứng nhân tiên khởi của Người và cho Người c̣n như thế trước sự thật "Thày là Đức Kitô" nơi Người th́ thử hỏi dân chúng nói chung và thành phần trí thức như Pharisiêu hay luật sĩ hoặc có thẩm quyền như Hội Đồng Đầu Mục Do Thái lại càng bị choáng váng tới đâu, đến độ họ chia rẽ nhau trong chính hàng ngũ của ḿnh. Dưới đây là một số trường hợp điển h́nh cho thấy dân chúng chia rẽ hay bị choáng ngợp trước sự thật về "Đức Kitô" nơi nhân vật Giêsu Nazarét.

 

Trường hợp thứ 1 xẩy ra vào Ngày Lễ Lều Tạm và sau những lời (Jn 7:21-24) Người đáp lại câu chạy tội của dân Do Thái nói với Người bấy giờ rằng "Ông mất trí rồi, ai mà muốn giết ông chứ?" (Jn 7:20,21-24), th́ Thánh Kư Gioan cho thấy rằng: "Điều ấy đă khiến cho một số dân Thành Giêrusalem nhận định là 'Đó không phải là người mà họ muốn giết hay sao? Ḱa ông ta đang nói công khai mà họ lại chẳng hề lên tiếng ǵ với ông ta cả! Có lẽ cácvị có thẩm quyền đều đă quyết định rằng ông ta là Đấng Thiên Sai. Phần chúng ta th́ biết người này bởi đâu mà đến. Khi Đấng Thiên sai đến không ai lại không biết được nguồn gốc của Ngài... Nhiều người trong đám đông tỏ ra tin vào Người. Họ lập đi lập lại rằng: 'Khi Đấng Thiên Sai đến, liệu Ngài có thể thực hiện nhiều dấu lạ hơn người này hay chăng?'" (Jn 7:25-27,31).

 

Trường hợp thứ 2 xẩy ra, cũng ngay sau đoạn 7 trên đây, khi Người kêu gọi "những ai khát đến cùng Tôi; ai tin vào Tôi th́ hăy uống v́ Thánh Kinh đă nói: 'Từ trong họ sẽ tuôn chảy những gịng sông chảy nước sự sống'" (Jn 7:37-38), th́ Thánh Kư Gioan thuật lại cuộc tranh luận xẩy ra như thế này: "Có một số người trong đám đông nghe thấy những lời ấy th́ bắt đầu lên tiếng nói: 'Vị này phải là  một tiên tri'. Có những người khác lại tuyên bố: 'Người là Đấng Thiên Sai'. Nhưng có kẻ chống lại mà rằng: 'Đấng Thiên Sai chẳng lẽ lại xuất phát từ Galilêa? Thánh Kinh đă chẳng nói rằng Đấng Thiên Sai, thuộc gịng dơi Đavít, xuất phát từ Bê Lem, quê của Đavít hay sao?' Thế là đám đông trở nên chia rẽ trầm trọng" (Jn 7:40-43).

 

Trường hợp thứ 3 xẩy ra liên quan đền sự thật về "Đức Kitô" nơi nhân vật Giêsu Nazarét đó là sau khi Chúa Giêsu nói "một khi Tôi được treo lên khỏi đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi" (Jn 12:32), th́ Thánh Kư Gioan cho biết phản ứng của dân chúng bấy giờ như sau: "Đám đông lên tiếng chống lại những lời Người nói: 'Chúng tôi đă nghe thấy trong lề luật rằng Đấng Thiên Sai sẽ tồn tại măi măi. Vậy mà Ngài lại bảo rằng Con Người cần phải được treo lên? Con Người này là ai vậy?'" (Jn 12:31,34).

 

Cũng ở bộ ba Phúc Âm Nhất Lăm, nơi tŕnh thuật của cả 3 vị thánh kư về lần gặp gỡ chính thức đầu tiên cũng là cuối cùng giữa nhân vật Giêsu Nazarét với chính Hội Đồng Đầu Mục Do Thái, vấn đề then chốt đă được đặt ra liên quan đến sự thật về "Đức Kitô" nơi con người này: "Bấy giờ vị thượng tế nói với Người: 'Ta truyền cho ngươi phải nói cho chúng ta biết một cách chân thực trước nhan Thiên Chúa hằng sống rằng ngươi có phải là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hay chăng'" (Mt 26:63); "Vị thượng tế lại chất vấn Người rằng: 'Ngươi có phải là Đấng Thiên Sai, Con của Đấng Thánh hay chăng?'" (Mk 14:61); "Họ lại mang Người đến trước hội đồng, họ nói: 'Hăy nói cho chúng ta biết ngươi có phải là Đấng Thiên Sai hay chăng?'" (Lk 22:66).

 

Quả đúng như lời tiên báo của Người về t́nh trạng choáng váng trước sự thật về "Đức Kitô" của Người đối với cả dân Do Thái lẫn thành phần tông đồ của Người nói chung và biến cố chất vấn cuối cùng này của Hội Đồng Đầu Mục Do Thái. Người đă nói với dân Do Thái trước rằng: "Quí vị sẽ t́m Tôi nhưng các vị sẽ chết trong tội lỗi của các vị. Nơi Tôi đi các vị không thể nào tới được". Có nghĩa là chung dân Do Thái muốn biết được đích thực Người là ai hay nguồn gốc của Người từ đâu tới, nhưng một khi họ biết được tất cả sự thật về Người khi Người chính thức công nhận sự thật ấy như lời họ hỏi: “Phải, rồi quí vị sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Quyền Năng và đến trên mây trời” (Mk 14:62) th́ họ sẽ chẳng những không chấp nhận Người mà c̣n lên án tử cho Người nữa, đúng như những ǵ đă xẩy ra nơi phiên xử của Hội Đồng Đầu Mục Do Thái về Người. "Nơi Tôi đi quí vị không thể nào tới được" đă hoàn toàn ứng nghiệm khi họ chế nhạo và thách thức Người xuống khỏi thập giá để họ tin, nhưng Người vẫn làm theo ư Đấng đă sai Người mà thôi.

 

Đối với thành phần môn đệ của Người cũng thế, Người cũng lập lại những ǵ Người đă nói với dân Do Thái: "Các con nhỏ của Thày ơi, Thày không c̣n ở với các con lâu hơn được nữa. Các con sẽ t́m kiếm Thày, nhưng giờ đây Thày nói với các con những ǵ Thày đă từng nói với người Do Thái đó là 'Nơi Tôi đi quí vị không thể nào tới được'" (Jn 13:33). Lời tiên báo này cũng ứng nghiệm nơi cả các môn đệ của Người, ở chỗ, không một người môn đệ nào đă có mặt trong cuộc khổ nạn và tử giá của Người, ngoại trừ người môn đệ được Chúa Giêsu yêu là Gioan (x Jn 19:25).

 

Ở Phúc Âm Thánh Kư Gioan, cho dù vẫn mật thiết liên hệ với phần đầu của sự thật đức tin: "Thày là Đức Kitô" như thế, nhưng trọng tâm của phúc âm này vẫn là "Con Thiên Chúa hằng sống". Có thể nói và phải nói rằng nếu thực sự "Thày là Đức Kitô" th́ thành quả tất yếu hay mục đích tối hậu vẫn hướng tới chỗ Thày chính là "Con Thiên Chúa hằng sống". Ở chỗ, “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” là Đấng đă hoàn toàn làm theo ư Đấng sai Người, chẳng những nơi những ǵ Cha muốn mà c̣n cả cách thức Cha muốn nữa: "V́ Tôi không tự ḿnh mà nói; không, Cha là Đấng đă sai Tôi truyền cho Tôi nói những ǵ và nói ra sao" (Jn 12:49).

 

Và chính Người đă khẳng định Đấng sai Người chính là Cha của Người, là Thiên Chúa, Đấng đă sai chính Con Một của ḿnh đến, chứ không sai bất cứ con người thuần túy nào đến như trong Cựu Ước nữa. Đó là lư do chỉ trong Phúc Âm của Thánh Kư Gioan mới có các câu chẳng những cho thấy mối liên hệ giữa Cha và Con mà c̣n giữa Thiên Chúa với loài người nơi Con của Ngài. Chẳng hạn, điển h́nh nhất là câu: "Thiên Chúa đă yêu thương thế gian đến ban Người Con duy nhất của ḿnh để ai tin vào Người th́ không phải chết nhưng được sự sống đời đời" (Jn 3:16).

 

Trong dụ ngôn về vườn nho và thành phần tá điền ở Phúc Âm Nhất Lăm cả 3 vị thánh kư (x Mt 21:37-39; Mk 12:6-8; Lk 20:13-15) đều nói đến người con rất yêu quí của chủ vườn nho (ám chỉ "Con Thiên Chúa hằng sống" nhập thể) được cha sai đến cuối cùng để thu thành quả của vườn nho từ nhóm tá điền thay cho một số thành phần tôi tớ được sai đến trước đó (ám chỉ các vị tiên tri Cựu Ước) và đều đă bị bọn tá điền bất lương hành hạ và sát hại, nhưng thân phận của người con này cũng không hơn ǵ nhóm đầy tớ trước đó, tức cũng bị đám tá điền sát hại, v́ có sát hại chính người con này của chủ họ mới có thể đoạt trọn gia tài của chủ, (ám chỉ thái độ của Hội Đồng Đầu Mục Do Thái đă nhân danh Thiên Chúa và muốn bảo vệ danh Thiên Chúa mà sát hại Con Thiên Chúa chỉ là một con người thuần túy trước mắt của họ mà đă dám lộng ngôn phạm thượng cho ḿnh là Con Thiên Chúa - Mt 26:63-66; Mk 14:61-64; Lk 22:66-71).

 

Như thế, nơi sự thật đức tin giữa phần nhất "Thày là Đức Kitô" và phần hai "Con Thiên Chúa hằng sống", có một móc nối vô cùng chặt chẽ, đó là sự kết hợp bất khả phân ly giữa ư muốn của Con là Đấng Thiên Sai của Cha nơi nhân tính với ư muốn của Cha là Đấng đă sai Con. Ở đây chúng ta thấy lời nguyện "ư Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" trong Kinh Lạy Cha hoàn toàn ứng nghiệm và nên trọn nơi "Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Ở chỗ, "ư Cha thể hiện dưới đất" đây là thể hiện nơi nhân tính của Đức Kitô Thiên Sai, và "cũng như trên trời" đây là thể hiện theo đúng như ư muốn của Cha. Nếu "Lời đă hóa thành nhục thể" (Jn 1:14) là "để tỏ Cha ra" (Jn 1:18) th́ chính việc Người làm chứng về ḿnh là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", bằng cách làm theo ư Cha chứ không phải ư muốn nhân tính của bản thân Người lại là việc Người tỏ Cha ra một cách minh nhiên và sống động nhất, nhờ đó, nhờ mối hiệp nhất "Cha ở trong Con và Con ở trong Cha" (Jn 17:21), được thể hiện nơi Giáo Hội mà "thế gian có thể tin rằng Cha đă sai Con" (Jn 17:21,23).

 

Tuy vai tṛ thiên sai giống nhau giữa thành phần đầy tớ được sai đến trước và người con được sai đến cuối cùng và số phận bị tàn sát cũng giống nhau giữa cả thành phần tôi tớ lẫn người con, nhưng giữa người con và thành phần tôi tớ của ông chủ vườn nho hoàn toàn khác nhau nơi thân phận của ḿnh. Ở chỗ, người con mới là người được hưởng gia tài của cha chứ không phải thành phần tôi tớ.

 

Trước hết, gia tài của Thiên Chúa đây có thể hiểu về Danh của Thiên Chúa, Đấng hiện hữu (x Ex 3:14), một Thiên Chúa chân thật duy nhất (x Jn 17:3), một "Thiên Chúa là t́nh yêu" (1 Jn 4:8,16) muôn đời thủy chung với nhân loại, trong việc hoàn thành những ǵ Ngài đă hứa, nhất là với chung loài người, ngay từ khi bắt đầu có nguyên tội, bằng cách sai Đấng Cứu Thế đến với loài người sa đọa, trở thành gịng dơi của loài người để có thể đạp nát đầu rắn quỉ Satan (x Gen 3:15), "phá hủy các việc làm của ma quỉ" (1Jn 3:8), bằng chính cái chết vô cùng đớn đau và nhục nhă thấp hèn của ḿnh. Trong việc "vâng lời cho đến chết, cho dù chết trên thập tự giá" (Phil 2:8) như thế, "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" đă thực sự tôn vinh Cha hơn bao giờ hết, đă tỏ Danh Cha hơn hết, nhất là cho các môn đệ của Người: "Cha ơi, xin hăy tôn vinh Danh Cha!" (Jn 12:28); "Giờ đây Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người" (Jn 13:31); "Cha ơi, giờ đă đến, xin hăy tôn vinh Con của Cha để Con của Cha có thể tôn vinh Cha" (Jn 17:1); "Con đă tỏ danh Cha cho những ai Cha ban cho Con nơi thế gian" (Jn 17:6).

 

Sau nữa, gia tài của Thiên Chúa đây c̣n có thể hiểu về Thánh Thần tràn đầy nơi "Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống": "Khi ngươi thấy Thần Linh ngự xuống và đậu trên ai th́ đó là vị làm phép rửa bằng Thánh Linh" (Jn 1:33); "Ai uống thứ nước Tôi ban cho họ sẽ không bao giờ khát nữa; không, thứ nước Tôi ban sẽ trở thành một mạch nước vọt lên để cung cấp sự sống đời đời trong họ" (Jn 4:14); "Vậy, được tràn đầy Thánh Linh, Chúa Giêsu đă rời sông Dược Đăng và được Thần Linh đưa vào sa mạc 40 ngày, nơi Người bị ma quỉ cám dỗ" (Lk 4:1-2); "Hôm nay, đoạn Thánh Kinh này được nên trọn như quí vị nghe thấy" (Lk 4:21), Người có ư nói đến đoạn Sách Tiên Tri Isaia (61:1) nói về Thánh Linh ở nơi Người: "Thần trí của Chúa ở trên tôi...".

 

Chính bởi Thánh Linh, chứ không phải bởi loài người, mà Người đă được thụ thai (x Mt 1:20; Lk 1:35), và cũng chính bởi Thánh Linh mà Người đă sống lại từ trong kẻ chết (x Rm 8:11). V́ được sinh ra và phục sinh bởi Thánh Linh như thế mà Người có cùng bản tính với Cha, ngang hàng với Cha, hằng hữu như Cha (x Jn 1:1-2, 8:58, 10:30). Đúng thế, ngay từ giây phút được thụ thai trong ḷng Trinh Nữ Maria, tức ngay từ khi nhập thể làm người, bởi mầu nhiệm ngôi hiệp (hypostatic union), hai bản tính - thần tính và nhân tính – đă hiệp nhất và trở nên một Ngôi Vị đó là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. V́ chủ thể của Ngôi Vị độc nhất vô nhị này là “Con Thiên Chúa” về thần tính, chứ không phải “Con Người” về nhân tính, mà các việc Người làm với tư cách là “Con Thiên Chúa” nơi nhân tính của Người là một “Con Người” đă có một giá trị vô cùng, và thân xác thuộc nhân tính của Người đă được mặc lấy tính chất vĩnh hằng để nó không bao giờ bị hư nát, trừ phi Người tự ư bỏ nó đi, nhưng vẫn có quyền lấy nó lại (x Jn 10:18), v́ Người muốn sử dụng nó như là một hạt miến mục nát đi trong ḷng đất thế gian để nó có thể sinh muôn vàn hoa trái cứu độ (x Jn 12:24).

 

Sau hết, gia tài của Thiên Chúa đây cũng có thể hiểu là sự sống thần linh, sự sống đời đời. Nếu "sự sống đời đời là nhận biết Cha là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô" (Jn 17:3), th́ tất cả những ǵ "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" làm trên trần gian này đều chỉ có một mục đích duy nhất và trên hết đó là thông ban sự sống thần linh của Người cho con người, tức là thông ban kiến thức thần linh của Người về Cha và về chính bản thân ḿnh cho con người, nhờ đó, con người có thể nhận biết Thiên Chúa qua Người, nhất là qua mầu nhiệm Vượt Qua của Người từ khổ nạn tử giá đến phục sinh vinh hiển. Tuy nhiên, không thể nào ban sự sống thần linh là ư thức thần linh về Thiên Chúa nếu "Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" không có sự sống thần linh nơi chính ḿnh Người. Thánh Kư Gioan, trong Thư Thư Nhất của ḿnh, đă đồng hóa "Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" với “sự sống”, “sự sống đời đời”: "Sự sống đă trở nên hữu h́nh... sự sống đời đời đă ở nơi Cha và đă trở nên hữu h́nh cho chúng ta" (1Jn 1:2), nên v́ thế đă khẳng định rằng: "Thiên Chúa đă ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống này ở nơi Con của Ngài. Ai có Con là có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa th́ không có sự sống" (1Jn 5:11-12).

 

Sự sống thần linh nơi "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" đây chính là ư thức thần linh về Cha của Người, như chính Người khẳng định một cách nào đó qua những câu sau đây: "Không một ai đă từng thấy Cha - chỉ có duy Đấng từ Thiên Chúa mà đến đă thấy Cha. Tôi bảo đảm với quí vị rằng ai tin th́ có sự sống đời đời. Tôi là bánh sự sống" (Jn 6:46-48); "Như Cha của Tôi là Đấng có sự sống đă sai Tôi, và Tôi có sự sống bởi Cha thế nào, th́ ai ăn Tôi sẽ có sự sống bởi Tôi như vậy" (Jn 6:57); "Vậy quí vị biết Tôi và quí vị biết được gốc gác của Tôi ư? Sự thật đó là Tôi không tự ḿnh mà đến. Tôi được sai đến bởi Đấng có quyền sai phái và Ngài là Đấng quí vị không biết. Tôi biết Ngài v́ chính từ Ngài mà Tôi đến: Ngài đă sai Tôi" (Jn 7:28-29); "Vấn đề ở đây đó là quí vị đang muốn sát hại Tôi, một người đă nói với quí vị về sự thật mà Tôi đă nghe được từ Thiên Chúa..." (Jn 8:40); "Nếu Tôi nói rằng Tôi không biết Ngài th́ Tôi cũng không hơn ǵ quí vị - chỉ là một kẻ dối trá thôi! Phải, Tôi biết rơ về Ngài và Tôi tuân giữ lời của Ngài" (Jn 8:55); "Ai thấy Thày là thấy Cha... Các con chẳng lẽ không tin rằng Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày hay sao?" (Jn 14:9-10).

 

Và để có thể thông ban sự sống thần linh cho loài người nói chung và Giáo Hội nói riêng, "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" đă phải thông ban Thánh Linh của chính bản thân đầy Thánh Linh của Người, v́ Thánh Linh mới là Đấng thấu suốt mọi sự, kể cả thâm cung của Thiên Chúa (x Rm 2:10), bởi "xác thịt th́ sinh xác thịt, Thần Linh th́ sinh thần linh" (Jn 3:6), tức là con người phàm nhân không thể nào biết được "Thiên Chúa là thần linh" (Jn 4:24) nếu không có chính Thần Linh của Ngài hay nếu không được Ngài thông ban Thần Linh của Ngài cho. V́ Thánh Linh "là Đấng ban sự sống" (Kinh Tin Kính), sự sống thần linh, kiến thức thần linh về Thiên Chúa như thế, mà "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" đă minh định vai tṛ bất khả thiếu của Thánh Linh như sau: "Khi Người đến, là Thần Chân Lư, Ngài sẽ dẫn các con vào tất cả sự thật. Ngài sẽ không tự ḿnh mà nói, nhưng chỉ nói những ǵ Ngài nghe thấy và sẽ loan truyền cho các con những ǵ sẽ đến. Làm như vậy, Ngài sẽ tôn vinh Thày v́ Ngài sẽ lănh nhận từ Thày những ǵ Ngài thông đạt cho các con. Tất cả những ǵ Cha có đều thuộc về Thày. Đó là lư do Thày đă nói rằng Ngài sẽ thông đạt cho các con những ǵ Ngài sẽ lănh nhận từ Thày" (Jn 16:13-15). "Tất cả những ǵ Cha có đều thuộc về Thày" đây tức là "Người Con này là phản ánh của vinh quang Cha, là hiện thân của bản thể Cha" (Heb 1:3), và "Ngài sẽ thông đạt cho các con những ǵ Ngài sẽ lănh nhận từ Thày" đây nghĩa là Thánh Thần là Thần Chân Lư sẽ tỏ "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" ra cho chung Giáo Hội cũng như cho riêng Kitô hữu, làm cho Người lớn lên trong họ cho đến khi Người đạt đến tầm vóc viên trọn của Người (x Eph 4:13,15), nhờ đó, họ có thể trở thành chứng nhân trung thực và sống động của và cho "Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".

 

 

 

 

Nếu "Đức Kitô" là tột đỉnh của mạc khải thần linh liên quan đến Cựu Ước, th́ "Con Thiên Chúa hằng sống" là tất cả mạc khải thần linh liên quan đến Tân Ước, v́ nơi Người, chung nhân loại và riêng Giáo Hội chẳng những thấy được dung nhan vô cùng nhân hậu đáng kính mến của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất mà c̣n nhờ Người đạt tới tầm vóc viên trọn của thân phận làm người được dựng nên theo h́nh ảnh thần linh và tương tự thần linh.

 

Nếu "Đức Kitô" liên quan đến "Chúa của con" nơi lời tuyên xưng của tông đồ Tôma trước Đấng Phục Sinh, một vị Chúa đă chiến thắng tội lỗi và sự chết bằng Cuộc Vượt Qua của Người, th́ "Con Thiên Chúa hằng sống" liên quan đến "Thiên Chúa của con" cũng trong lời tuyên xưng của tông đồ Tôma, một người "Con Thiên Chúa hằng sống", "Đấng là Tiên Khởi và Cùng Tận và là Đấng đang sống. Ta đă từng chết nhưng nay Ta đang sống - muôn thuở muôn đời" (Rev 1:17-18).

 

Nếu "Đức Kitô" liên quan đến thực tại "Thày là sự sống lại" (Jn 11:25) th́ "Con Thiên Chúa hằng sống" liên quan đến thực tại "Thày là sự sống" (ibid.). Và nếu "Đức Kitô" liên quan đến việc "Thày đến cho chiên được sự sống" (Jn 10:10) th́ "Con Thiên Chúa hằng sống" liên quan đến t́nh trạng "sự sống viên măn" (ibid.) hơn nơi thành phần chiên là Giáo Hội được Người yêu thương chăn dắt.

 

Nếu “Đức Kitô” Thiên Sai liên quan đến Dân Do Thái, v́ Người là tột đỉnh của mạc khải thần linh Cựu Ước trong gịng Lịch Sử Cứu Độ của dân tộc được tuyển chọn làm Dân Chúa này, th́ “Con Thiên Chúa hằng sống” liên quan đến Dân Ngoại nói chung và Giáo Hội nói riêng, v́ Người là tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa, Vị Thiên Chúa đă nhập thể và vượt qua bằng nhân tính loài người của Ngôi Lời.

 

Nếu “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần (Redemptor Hominis), nhưng lại xuất phát từ gịng dơi Dân Do Thái (x Jn 4:22), một dân tộc cho đến nay vẫn mong đợi Đấng Thiên Sai của họ, v́ họ không công nhận “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” nơi lời tuyên xưng của tông đồ Phêrô hay của Matta (x Jn 11:27) cũng là những người Do Thái như họ. Nếu dân Do Thái chỉ mong đợi một Đấng Thiên Sai đầy quyền lực về chính trị và trần thế th́ một khi họ đang làm cho cả khối Ả Rập Hồi Giáo quanh họ phải nể mặt về lực lượng quân sự như hiện nay th́ không biết họ có c̣n mong đợi Đấng Thiên Sai nữa chăng, hay cho đến khi nào chính họ bị thống trị bởi quân thù của họ…

 

Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đă đến trong thế gian (x Jn 11:27) và ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế (x Mt 28:20) – con thờ lạy Chúa, con kính mến Chúa, con cảm tạ Chúa, con xin lỗi Chúa, con cầu khẩn Chúa, con khao khát rước Chúa - nhờ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, Mẹ của Chúa cũng là Mẹ của chúng con. Amen.