|
Đức Thánh Cha
Phanxicô:
Vị Giáo Hoàng
Vào Đời Cách Mạng
Đức Thánh Cha Phanxicô đối thoại với một nhân vật bỏ đức tin Công Giáo
nhưng chưa hoàn toàn vô thần
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch
Dẫn nhập của người dịch Việt ngữ:
Ông Eugenio Scalfari, sáng lập viên Nhật Báo La Repubblica hôm Thứ Ba
24/9/2013 đă gặp gỡ Đức Thánh Cha Phanxicô vào lúc 3 giờ chiều tại nơi
cư ngụ của ngài là Nhà Thánh Matta, (như được chính ông ghi chú ngay
trong bài ông viết về cuộc phỏng vấn này ở khoảng gần đầu của bài viết).
Sau cuộc gặp gỡ ngoài dự tưởng của ḿnh ấy, chính v́ sáng lập tờ nhật
báo nổi tiếng ở Ư quốc này đă thuật lại toàn bộ buổi gặp gỡ bất ngờ và
hiếm quí ấy bằng tiếng Ư, bài viết đă được Kathryn Wallace dịch sang Anh
ngữ và phổ biến ngày 1/10/2013 với tựa đề
"Giáo Hoàng: Giáo Hội sẽ thay đổi ra sao"
trên trang mạng điện tử của tờ nhật báo
http://www.repubblica.it/cultura/2013/10/01/news/pope_s_conversation_with_scalfari_english-67643118/.
Đây là cuộc phỏng vấn thứ ba trong giáo triều mới hơn 6 tháng của Đức
Thánh Cha Phanxicô, sau cuộc phỏng vấn với thành phần kư giả truyền
thông trên chuyến bay từ Ba Tây về lại Rôma trong tháng 7/2013, và với
linh mục ở Ư đại diện tập đoàn tạp chí Ḍng Tên trên thế giới trong
tháng 8/2013. Tuy nhiên, cuộc phỏng vấn lần thứ ba trong Tháng 9/2013
này hầu như hoàn toàn khác hẳn với 2 lần trước, v́ nó có tính cách đối
thoại với nhau về niềm tin và trao đổi với nhau về chung lănh vực tôn
giáo cũng như riêng hiện t́nh của Giáo Hội Công Giáo một cách tâm t́nh
hơn là trịnh trọng hỏi thưa. Tất cả có 52 vấn đề (do người dịch tự thêm
số vào từng chỗ cho rơ ràng) đă được hai bên trao đổi và chia sẻ chung
riêng dài ngắn, thứ tự như sau (những chỗ được in đậm theo đúng nguyên
bản).
Căn cứ
vào nội dung của cuộc phỏng vấn lần này, theo người dịch, chúng ta thấy
được một Đức Thánh Cha Phanxicô - Vị Giáo Hoàng
Vào Đời Cách Mạng. Ngài "vào đời" ở chỗ ngài muốn sống
với dân, gần dân và cho dân, bao gồm tất cả mọi thành phần, tội nhân
cũng như bỏ đạo, và ngài "cách mạng" ở chỗ ngài nỗ lực để chung
Giáo Hội và riêng Ṭa Thánh Rôma cùng các đấng bậc chủ chiên trên thế
giới đừng lạm dụng chức vị và quyền bính để hưởng thụ mà trái lại hăy
như ngài theo gương vị Mục Tử Nhân Lành "đến không phải để được phục vụ
mà là phục vụ và hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho nhiều người"
(Mathêu 20:28), "đến cho chiên đưoọc sống và được sống viên măn" (Gioan
10:10).
1- Đức Giáo Hoàng Phanxicô đă nói với tôi rằng: "Sự dữ trầm trọng nhất
trong các sự dữ đang gây khốn đốn cho thế giới trong những ngày này đó
là nạn thất nghiệp của giới trẻ và t́nh trạng cô đơn của giới già. Giới
già cần được chăm sóc và cảm thông; giới trẻ cần việc làm và niềm hy
vọng nhưng chẳng có cả hai thứ này, và vấn đề ở đây là họ thậm chí không
t́m kiếm hai thứ này nữa. Họ đă bị hiện tại chà đạp. Ông nói cho tôi
biết đi: ông có thể sống quằn quại dưới sức nặng của hiện tại hay chăng?
Mà lại thiếu hồi niệm về quá khứ và không mong nh́n về tương lai bằng
việc xây dựng một cái ǵ đó, như một tương lai, một gia đ́nh hay sao?
Ông có thể tiếp tục sống như thế hay chăng? Đối với tôi, đó là vấn để
khẩn trương nhất Giáo Hội đang phải đối diện".
2- Tôi thưa Đức Thánh Cha rằng
vấn đề này phần lớn là vấn đề về chính trị và kinh tế của các quốc gia,
của các chính quyền, của các đảng phái chính trị, của các hiệp hội mậu
dịch.
"Ông nói đúng đấy thế nhưng nó cũng liên quan đến cả Giáo Hội nữa, thật
vậy, đặc biệt đến cả Giáo Hội nữa, v́ t́nh trạng này không gây tổn
thương đến thân thể mà thôi c̣n đến hồn thiêng nữa. Giáo Hội cần phải
cảm thấy ḿnh có trách nhiệm đối với cả linh hồn lẫn thể xác".
3- Thưa Đức Thánh Cha, Đức
Thánh Cha nói rằng Giáo Hội cần phải cảm thấy có trách nhiệm. Như thế
tôi có được kết luận rằng Giáo Hội không nhận thức thấy vấn đề này và v́
thế Đức Thánh Cha mới phát động trách nhiệm theo chiều hướng ấy phải
không?
"Hầu như nhận thức đă có đó nhưng vẫn chưa đủ. Tôi muốn hơn thế nữa. Nó
không phải chỉ là vấn đề chúng ta đang phải đương đầu mà là một vấn
đề khẩn trương nhất và thảm thương nhất".
Cuộc gặp gỡ với Đức Giáo Hoàng Phanxicô đă diễn ra hôm Thứ Ba tại nhà
của ngài ở Nhà Thánh Matta, trong một căn pḥng nhỏ trống trơn, với một
cái bàn và 5-6 cái ghế, với một bức tranh trên tường. Cuộc phỏng vấn này
theo sau cú điện thoại tôi sẽ không bao giờ quên được bao lâu tôi c̣n
sống.
Đó là vào lúc hơn 2 rưỡi chiều. Điện thoại của tôi reo lên và bằng một
giọng run run, người thư kư của tôi nói với tôi rằng: "Tôi nhận được
điện thoại của Đức Giáo Hoàng. Tôi sẽ chuyển ngài cho ông ngay đây".
Đang c̣n bàng hoàng th́ tôi đă nghe thấy tiếng của Đức Thánh Cha ở đầu
giây bên kia: "Xin chào nhé, Giáo Hoàng Phanxicô đây". "Kính chào Đức
Thánh Cha", tôi thưa lại rồi tiếp: "Tôi sửng sốt v́ tôi đâu ngờ là ngài
gọi cho tôi". "Tại sao lại quá ngỡ ngàng chứ? Ông đă viết cho tôi một
bức thư yêu cầu gặp riêng tôi mà. Tôi cũng có ư muốn ấy, thế nên tôi gọi
để làm hẹn với ông đây. Để tôi coi sổ nhé: Tôi không thể hẹn vào Thứ Tư
hay Thứ Hai, Thứ Ba có tiện cho ông không?
Tôi trả lời là được đấy
"Thời điểm hơi kỳ đấy, 3 giờ chiều, ông có bằng ḷng hay chăng? Bằng
không tôi sẽ đổi sang ngày khác". "Kính thưa Đức Thánh Cha, thời điểm
ấy được đấy". "Vậy là chúng ta đồng ư nhé: Thứ Ba ngày 24 vào lúc 3 giờ
chiều. Ở Nhà Thánh Matta. Ông cần phải đi vào qua
lối cửa ở Sant'Uffizio
nghe".
Tôi không biết kết thúc cú điện thoại này ra sao và tự nhiên tôi nói
rằng: "Tôi có thể ôm lấy ngài (embrace) qua điện thoại hay chăng?" "Được chứ, tôi
cũng ôm ông nữa (hug). Rồi chúng ta sẽ làm thế khi gặp nhau, chào ông".
Và này tôi đây. Đức Giáo Hoàng đă tiến đến bắt tay tôi, rồi chúng tôi
ngồi xuống. Đức Giáo Hoàng mỉm cười mà nói: "Một số bạn hữu của tôi
biết ông đă nói với tôi rằng ông sẽ hoán cải tôi".
4- Tôi thưa ngài họ nói diễu
thôi. Bạn bè của tôi nghĩ rằng chính ngài là người muốn hoán cải tôi.
Ngài lại mỉm cười và trả lời: "vấn đề dụ giáo
(proselytism)
thật sự là vô nghĩa, nó
chẳng có nghĩa lư ǵ. Chúng ta cần hiểu biết nhau, lắng nghe nhau và cải
tiến kiến thức của ḿnh về thế giới chung quanh chúng ta. Đôi khi, sau
một cuộc gặp gỡ, tôi lại muốn sắp xếp một cuộc gặp gỡ khác, v́ có những
tư tưởng mới nẩy sinh và tôi nhận thấy có những nhu cầu mới. Đó là điều
quan trọng, ở chỗ t́m hiểu con người ta, lắng nghe, khai triển gịng tư
tưởng. Thế giới này được móc nối ngang dọc với nhau bởi những đạo lộ đưa
đến chỗ gần nhau hơn và rời xa nhau, thế nhưng điều quan trọng là ở chỗ
chúng dẫn đến Sự Thiện".
5- Thưa Đức Thánh Cha, phải
chăng chỉ có một nhăn quan về Sự Thiện? Và ai là người ấn định nó là ǵ?
"Mỗi người chúng ta đều có một quan điểm về sự lành và sự dữ. Chúng ta
cần phải khuyến khích con người ta tiến về những ǵ họ nghĩ là Tốt
Lành".
6- Thưa Đức Thánh Cha, ngài đă
viết điều đó trong thư ngài gửi cho tôi. Ngài đă nói rằng lương tâm là
những ǵ tự lập, và ai cũng cần phải tuân theo lương tâm của ḿnh. Tôi
nghĩ rằng đó là một trong những bước tiến can đảm nhất được một vị Giáo
Hoàng thực hiện.
"Tôi xin lập lại điều này ở đây. Hết mọi người đều có ư nghĩ riêng về
lành và dữ và cần phải theo đuổi sự lành và chống trả sự dữ theo quan
niệm của họ. Điều này đủ để làm cho thế giới này trở thành một nơi chốn
tốt đẹp hơn".
7- Giáo Hội có đang làm như thế
hay chăng?
"Có, đó là mục đích cho sứ vụ của chúng tôi: ở chỗ nhận ra các nhu cầu
về thể chất cũng như phi thể chất của con người để cố gắng đáp ứng chúng
bao nhiêu có thể. Ông có biết agape là ǵ không?"
8- Vâng, tôi biết.
"Đó là yêu thương người khác, như Chúa của chúng ta đă dạy. Nó không
phải là việc dụ giáo mà là yêu thương. T́nh yêu thương đối với tha nhân
của ḿnh, yếu tố làm nẩy sinh nên những ǵ giúp cho công ích.
9- Yêu tha nhân như bản thân
ḿnh.
"Đúng là như vậy".
10- Theo giáo huấn của ḿnh,
Chúa Giêsu nói rằng agape, t́nh yêu thương người khác, là cách thức duy
nhất để kính mến Thiên Chúa. Nếu tôi sai xin ngài sửa sai cho tôi.
"Ông không sai. Con Thiên Chúa đă nhập thể nơi linh hồn của con người là
để truyền đạt cảm thức huynh đệ. Tất cả đều là anh em và tất cả đều là
con cái của Thiên Chúa. Abba, như Người đă thưa cùng Cha. Người đă nói
rằng Thày sẽ tỏ cho các con thấy đường lối. Hăy theo Thày các con sẽ
thấy Cha và tất cả các con sẽ là con cái của Ngài rồi Ngài sẽ hân hoan
vui mừng trong các con. Agape, t́nh yêu thương của mỗi người chúng ta
đối với người khác, từ người gần nhất cho đến người xa nhất, thật sự là
đường lối duy nhất được Chúa Giêsu cống hiến cho chúng ta để t́m được
con đường cứu độ và của các Phúc Đức (Beatitudes).
11- Tuy nhiên, như chúng ta đă
nói, Chúa Giêsu bảo chúng ta rằng t́nh yêu thương tha nhân của ḿnh
tương đương với những ǵ chúng ta dành cho bản thân ḿnh. Vậy th́ những
ǵ mà nhiều người gọi là yêu bản thân ḿnh (narcissism) được công nhận
là có giá trị, tích cực, như t́nh yêu thương người khác. Chúng ta đă nói
nhiều về khía cạnh này.
Đức Giáo Hoàng nói: "Tôi không thích chữ yêu bản thân ḿnh, v́ nó bộc lộ
một thứ yêu thương quá đáng dành cho bản thân ḿnh và v́ thế không tốt,
nó có thể gây ra thiệt hại trầm trọng chẳng những cho linh hồn của những
ai bị lây nhiễm mà c̣n cho cả ở nơi mối liên hệ với người khác nữa, với
xă hội mà họ đang sống. Vấn đề thực sự trục trặc là ở chỗ những ai bị
lây nhiễm bởi điều này - nó thực sự là một thứ lệch lạc về tâm thần - là
thành phần có nhiều quyền lực. Thường những ai làm đầu là thành phần yêu
bản thân ḿnh.
12- Nhiều vị lănh đạo trong
Giáo Hội đă từng là thành phần yêu bản thân ḿnh.
"Ông có biết tôi đang nghĩ ǵ về vấn đề này hay chăng? Những vị làm đầu
của Giáo Hội đă thường là thành phần yêu bản thân ḿnh, được tâng bốc và
xúc động trước nịnh thần của ḿnh. Việc nịnh thần này là thứ đồ cùi hủi
của chức vị giáo hoàng".
13- Thứ đồ cùi hủi của chức vị
giáo hoàng, đó là lời thực sự của ngài. Thế nhưng thứ nịnh thần này là
ǵ? Có lẽ ngài ám chỉ đến ṭa thánh chăng?
"Không, đôi khi có các nịnh thần ở ṭa thánh, thế nhưng ṭa thánh nói
chung là vấn đề khác. Nó là những ǵ ở trong quân đội được gọi là văn
pḥng sĩ quan hậu cần (the quartermaster's office), nó quản trị các dịch
vụ giúp cho Ṭa Thánh. Thế nhưng, nó có một nhược điểm, đó là
cái cốt
lơi Vatican
(Vatican-centric). Nó thấy và t́m kiếm ích lợi của Vatican là
những ǵ hầu hết vẫn là những lợi ích trần gian. Quan điểm
cốt
lơi Vatican
này là những ǵ bỏ quên đi thế giới quanh chúng ta. Tôi không có
cùng quan điểm này và tôi sẽ làm mọi sự có thể để thay đổi quan điểm ấy.
Giáo Hội là hay phải trở về với t́nh trạng là một cộng đồng dân Chúa, và
các linh mục, giám mục, có trách nhiệm chăm sóc các linh hồn, cần phải
phục vụ Dân Chúa. Giáo Hội như thế vậy, một từ ngữ không có ǵ khác lạ
với Ṭa Thánh, nơi có phận vụ của riêng ḿnh tuy quan trọng nhưng là để
phục vụ Giáo Hội. Tôi sẽ không thể có trọn vẹn đức tin vào Thiên Chúa
cũng như vào Con của Ngài nếu tôi không được giáo dục trong Giáo Hội, và
nếu tôi không may mắn được ở Á Căn Đ́nh, mà thiếu vắng cộng đồng này
tôi đă không nhận thức được bản thân ḿnh và đức tin của ḿnh".
14- Có phải là ngài đă được ơn
kêu gọi khi c̣n trẻ?
"Không, không trẻ lắm. Gia đ́nh của tôi muốn tôi có một nghề khác, muốn
tôi làm việc, kiếm được một chút tiền bạc. Tôi đă lên đại học. Tôi cũng
có một vị thày là người tôi rất kính trọng và trở thành bạn hữu, cũng là
một người công sản nhiệt thành. Bà thường đọc những tài liệu của Đảng
Cộng Sản cho tôi nghe và đưa chúng cho tôi đọc. Bởi vậy mà tôi cũng biết
được chính quan niệm duy vật ấy. Tôi nhớ rằng bà cũng trao cho tôi bản
tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản Hoa Kỳ bênh vực cho Rosenbergs, một cặp vợ
chồng đă bị lên án tử. Người phụ nữ tôi đang nói đến sau đó đă bị giam
nhốt, hành h́nh và sát hại bởi chính thể độc tài bấy giờ đang cai trị Á
Căn Đ́nh".
15- Ngài đă bị Chủ Nghĩa Cộng
Sản mê hoặc ở chỗ nào?
"Chủ nghĩa duy vật của bà ta không chi phối nổi tôi. Thế nhưng biết về
nó qua một con người can đảm và chân t́nh là những ǵ hữu ích. Tôi đă
nhận thức được ít điều, một khía cạnh về xă hội mà rồi tôi đă thấy trong
giáo huấn về xă hội của Giáo Hội".
16- Thần học giải phóng, một
thứ thần học đă bị Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyệt thông, đă lan
rộng ở Mỹ Châu La Tinh.
"Phải, nhiều phần tử của nó là người Á Căn đ́nh".
17- Ngài có nghĩ rằng Đức Giáo
Hoàng cần phải chống lại họ hay chăng?
"Chắc chắn là nó đă cống hiến một khía cạnh nào đó về chính trị cho khoa
thần học của họ, thế nhưng nhiều người trong họ là những tín hữu và có
một quan niệm khá về nhân bản".
18- Thưa Đức Thánh Cha, tôi có
thể nói với ngài mấy điều về quá khứ văn hóa của tôi chăng? Tôi đă được
nuôi dưỡng bởi một người mẹ rất ư là Công giáo. Ở vào tuổi 12, tôi đă
thắng một cuộc thi giáo lư được tất cả các giáo phận ở Rôma tổ chức và
tôi đă được một giải của Ṭa Giám Mục Rôma. Tôi rước lễ mỗi Thứ Sáu đầu
tháng, nói cách khác, tôi là một người Công Giáo hành đạo và là một tín
hữu thực sự. Thế nhưng, tất cả đă thay đổi khi tôi lên trung học. Trong
các sách triết lư chúng tôi phải học, tôi đă đọc tác phẩm 'Discourse on
Method - Phương
Pháp Luận' của Descartes và tôi đă bị tác động bởi một
cụm từ mà giờ đây đă trở thành thần tượng, đó là 'tôi nghĩ tưởng nên tôi
hiện hữu'. Như thế th́ cá nhân đă trở thành nền tảng cho việc hiện hữu
của nhân loại, đă trở thành vị thế của tư tưởng tự do.
"Tuy nhiên, Descartes không bao giờ chối bỏ đức tin vào một vị Thiên
Chúa siêu việt".
19- Đúng thế, nhưng ông ta đă
đặt nền tảng cho một thứ nhăn quan rất khác biệt và tôi đă chấp nhận
theo đuổi con đường ấy, một con đường mà sau đó những ǵ tôi đọc cũng
thích hợp như vậy nên đă đưa tôi đến một nơi khác hẳn.
"Tuy nhiên, theo chỗ hiểu biết của tôi, th́ ông là một người vô tín
ngưỡng chứ không phải là một người chống giáo quyền (anti-clerical). Hai
điều này là những ǵ rất khác nhau.
20- Đúng, tôi không phải là
người chống giáo
quyền, nhưng tôi trở thành như thế khi tôi gặp một người
chủ trương duy giáo quyền (clericalist).
Ngài mỉm cười và nói: "Tôi cũng thế khi tôi gặp một người chủ trương duy
giáo quyền th́ tôi đột nhiên trở nên chống giáo quyền. Chủ nghĩa chống
giáo quyền (claricalism) không được phép có liên hệ ǵ với Kitô giáo.
Thánh Phaolô, vị đầu tiên nói với Dân Ngoại, với những người vô đạo, nói
với các tín đồ thuộc các tôn giáo khác, là người đầu tiên đă dạy chúng
ta như thế".
21- Thưa Đức Thánh Cha, tôi có
thể hỏi ngài hay chăng những vị thánh nào ngài cảm thấy gần gủi nhất với
linh hồn của ngài, những vị thánh đă ảnh hưởng đến cảm nghiệm đạo giáo
của ngài?
"Thánh Phaolô là người đă đặt nền tảng cho tôn giáo của chúng và niềm
tin của chúng ta. Ông không thể là một Kitô hữu ư thức mà lại không có
Thánh Phaolô. Ngài đă chuyển dịch giáo huấn của Chúa Kitô thành một cơ
cấu tín lư, đến độ, ngay cả có những thêm thắt của vô vàn tư tưởng gia,
thần học gia và các vị mục tử, vẫn kiên vững và c̣n tồn tại sau hai ngàn
năm. Rồi có các Thánh Âu Quốc Tinh, Thánh Biển Đức, Thánh Thomas và
Thánh Ignatius. Tất nhên là Thánh Phanxicô. Tôi có cần phải giải thích
lư do tại sao hay chăng?
Phanxicô - tôi muốn gọi ngài như thế v́ chính bản thân vị Giáo Hoàng
này đă đề nghị thế qua cách ngài nói năng, cách ngài mỉm cười, nơi những
lần ngài lấy làm lạ lùng hô lên và hiểu được... - nh́n tôi như thể
phấn khích tôi đặt ra những câu hỏi thậm chí gây hổ thẹn và làm lúng
túng hơn nữa cho những ai đang dẫn dắt Giáo Hội. Vậy tôi hỏi ngài rằng:
ngài đă giải thích tầm quan
trọng của Thánh Phaolô và vai tṛ thánh nhân thực hiện, thế nhưng tôi
muốn biết ai trong những vị được ngài liệt kê cảm thấy gần linh hồn ngài
hơn? (22)
"Ông đang yêu cầu tôi xếp hạng, thế nhưng những thứ phân loại là những
ǵ dành cho các môn thể thao hay cho những thứ giống như thế. Tôi có thể
nói với ông về tên tuổi của những cầu thủ túc cầu đệ nhất ở Á Căn Đ́nh.
Thế c̣n các vị thánh th́..."
23- Họ nói đùa cợt với bọn bất
lương, ngài biết câu tục ngữ này?
"Đúng thế. Nhưng tôi không muốn tránh né câu hỏi của ông, v́ ông
không yêu cầu tôi xếp hạng tầm quan trọng về văn hóa và tôn giáo của các
vị mà là ai gần gũi nhất với tâm hồn của tôi. Vậy tôi có thể nói là
Thánh Âu Quốc Tinh và Phanxicô.
24- Không phải là Thánh
Ignatius à, vị thành lập ḍng mà ngài thuộc về hay sao?
"Theo những lư do dễ hiểu th́ Thánh Ignatius là vị thánh tôi biết hơn
các vị khác. Ngài đă thành lập Hội Ḍng của chúng tôi. Tôi xin nhắc ông
rằng Đức Hồng Y Carlo Maria Martini cũng từ ḍng này mà ra, một người
rất thân thiết với tôi cũng như với ông. Các tu sĩ Ḍng Tên đă và đang
là yếu tố nẩy nở - không phải là yếu tố duy nhất nhưng có lẽ là yếu tố
tác dụng nhất - của thế giới Công Giáo về văn hóa, giáo huấn, công cuộc
truyền giáo, ḷng trung thành với Đức Giáo Hoàng. Thế nhưng, Thánh
Ignatius, vị sáng lập Hội Ḍng này, cũng là một nhà cải cách và một thần
bí gia. Nhất là một thần bí gia".
25- Vậy ngài có nghĩ rằng các
thần bí gia đă từng là thành phần quan trọng đối với Giáo Hội hay chăng?
"Họ là thành phần chính yếu. Một tôn giáo không có các thần bí gia chỉ
là một thứ triết lư".
26- Ngài có ơn gọi thần bí hay
chăng?
"Ông nghĩ sao?"
27- Tôi không nghĩ như thế.
"Ông có lẽ đúng đấy. Tôi ái mộ các thần bí gia; Thánh Phanxicô cũng vậy
ở nhiều khía cạnh trong đời sống của ngài, thế nhưng tôi không nghĩ là
tôi có ơn gọi này, và v́ thế chúng ta cần phải hiểu được ư nghĩa sâu xa
của từ ngữ ấy. Con người thần bí làm sao để bản thân thoát khỏi hoạt
động, khỏi các sự kiện, khỏi các mục tiêu và thậm chí khỏi cả sứ vụ mục
vụ mà vươn lên cho tới chỗ hiệp thông với các Phúc Đức. Đó là những giây
phút ngắn ngủi nhưng lại tràn đầy trọn cuộc sống".
28- Điều ấy đă bao giờ xẩy ra
cho ngài hay chưa?
"Hiếm lắm. Chẳng hạn, vao lúc mật nghị hồng y bầu tôi làm Giáo Hoàng.
Trước khi tôi chấp nhận tôi đă xin phép được
dành ra ít phút trong căn
pḥng sát với bao lơn nh́n xuống Quảng Trường Thánh Phêrô.
Đầu của tôi
hoàn toàn trống rỗng và tôi đă bị bao chiếm bởi một nỗi lo âu cả thể. Để
tránh khỏi nỗi lo âu này và thư giăn tôi đă nhắm mắt lại và không nghĩ
ǵ hết, thậm chí nghĩ đến
cả
việc từ chối chấp nhận trách vụ này, như tiến
tŕnh phụng vụ cho phép. Tôi đă nhắm mắt lại và tôi không c̣n bất cứ lo
âu hay xúc động nào nữa. Bỗng chốc tôi cảm thấy ḿnh tràn đầy một thứ
ánh sáng rạng ngời. Nó kéo dài trong chốc lát nhưng đối với tôi nó dường
như rất lâu. Thế rồi ánh sáng này mờ dần, tôi bật người dậy và tiến vào
căn pḥng là nơi các vị hồng y đang chờ tôi và trên bàn đặt sẵn nghi
thức chấp thuận. Tôi đă kư vào đó, Đức Hồng Y xử lư cũng kư vào đó, rồi
sau đó ở ngoài bao lơn có tiếng tuyên bố 'Habemus Papam - Chúng ta đă có
giáo hoàng'".
29- Chúng tôi thinh lặng một chút, rồi tôi nói: chúng
ta đang nói về các vị thánh mà ngài cảm thấy gần gũi nhất với tâm hồn
của ngài và chúng ta đă nói tới Thánh Âu Quốc Tinh. Ngài sẽ nói cho tôi
biết lư do tại sao ngài cảm thấy rất gần gũi với thánh nhân?
"Ngay cả đối với vị tiền nhiệm của tôi th́ Thánh Âu Quốc Tinh cũng là
một điểm qui chiếu. Vị thánh này đă trải qua nhiều thăng trầm trong đời
sống của ḿnh và đă thay đổi chủ trương về tín lư của ḿnh mấy lần.
Thánh nhân cũng có những lời nói khó nghe đối với người Do Thái là những
ǵ tôi không bao giờ đồng ư. Ngài đă viết nhiều sách và cuốn
tôi nghĩ cho thấy cái thâm tâm tri thức và thiêng liêng của thánh nhân
là cuốn 'Tự Thú', trong đó cũng cho thấy một số điều về thần bí, thế
nhưng thánh nhân không phải, như nhiều người nghĩ, là một thứ tiếp nối
của Thánh Phaolô. Thật vậy, thánh nhân thấy Giáo Hội và đức tin ở những
cách thức rất khác với Thánh Phaolô, có lẽ v́ khoảng cách 4 thế kỷ giữa
vị này với vị kia".
30- Thưa Đức Thánh Cha, đâu là
điểm khác biệt?
"Đối với tôi, nó nằm ở hai khía cạnh quan trọng. Thánh Âu Quốc Tinh cảm
thấy bất lực trước tính chất bao la của Thiên Chúa cũng như trước những
công việc mà một Kitô hữu và một vị giám mục cần phải hoàn thành. Thật
vậy, ngài chắc chắn là không bất lực, thế nhưng ngài đă cảm thấy rằng
linh hồn của ḿnh bao giờ cũng kém cỏi hơn là ngài mong muốn và cần nó
phải là. V́ vậy ân sủng do Chúa ban phát như là một yếu tố căn bản của
đức tin. Của đời sống. Của ư nghĩa cuộc đời. Ai không được ân sủng tác
động có thể là một người, như họ nói, không có khiếm khuyết và không
biết sợ hăi, nhưng họ sẽ không bao giờ như một con người được ân sủng
tác động. Đó là minh thức của Thánh Âu Quốc Tinh".
31- Ngài có được ân sủng tác
động hay chăng?
"Không ai có thể biết điều này. Ân sủng không thuộc về nhận thức, nó là
một thực chất ánh sáng trong linh hồn của chúng ta, không phải là kiến
thức hay lư trí. Ngay cả lúc ông không nhận thức cũng có thể được ân
sủng tác động.
32- Dù không có đức tin hay
sao? Dù không phải là một tín hữu hay sao?
"Ân sủng liên quan đến linh hồn".
33- Tôi không tin linh hồn.
"Ông không tin linh hồn thế mà ông vẫn có linh hồn".
34- Thưa Đức Thánh Cha, ngài đă
nói rằng ngài không hế có ư muốn hoán cải tôi và tôi không nghĩ rằng
ngài sẽ thành công đâu?
"Chúng ta không thể nào biết được điều ấy, thế nhưng tôi không hề có ư
định như thế".
35- C̣n Thánh Phanxicô th́ sao?
"Thánh nhân là con người cao cả, v́ ngài có hết mọi sự. Ngài là một con
người muốn làm nhiều sự, muốn xây dựng, ngài đă lập một ḍng tu cùng các
lề uật của nó, ngài là một con người lưu động và là một nhà truyền giáo,
một thi sĩ và là một vị tiên tri, ngài là một con người thần bí. Ngài
thấy sự dữ trong con người của ngài và loại trừ nó. Ngài yêu chuộng
thiên nhiên, thú vật, một mảng trên băi cơ và chím bay trên trời. Thế
nhưng, trên hết ngài yêu thương con người, trẻ em, người già, nữ giới.
Ngài là một gương mẫu sáng chói nhất về t́nh yêu thương nhau là những ǵ
chúng ta đă nói đến trước đây".
36-
Đức Thánh Cha nói đúng, ngài đă
diễn tả tuyệt vời. Thế nhưng tại sao không vị tiền nhiệm nào của ngài đă
từng chọn danh hiệu này? Và tôi cũng tin rằng sau ngài sẽ không c̣n ai
khác chọm danh hiệu ấy.
"Tôi không biết điều đó, chúng ta đừng suy đoán về tương lai. Đúng thế,
không vị nào chọn danh hiệu này trước tôi. Ở đây chúng ta đụng đến một
vấn đề của các vấn đề. Ông có dùng nước ǵ chăng?"
Cám ơn ngài, có lẽ là một ly nước lạnh.
Ngài đứng lên, mở cửa ra và xin ai đó ở lối vào mang đến cho 2 ly nước
lă. Ngài hỏi tôi có uống cà phế chăng, tôi thưa không. Nước được mang
đến. Vào lúc kết thúc cuộc nói chuyện của chúng tôi, ly nước của tôi hết
sạch nhưng của ngài th́ vẫn c̣n nguyên. Ngài thông giọng xong rồi bắt
đầu nói tiếp.
"Thánh Phanxicô muốn có một ḍng hành khất và một ḍng lưu động. Những
nhà truyền giáo là thành phần muốn gặp gỡ, lắng nghe, giúp đỡ, truyền bá
đức tin và t́nh yêu. Nhất là t́nh yêu. Và ngài đă mơ tưởng về một Giáo
Hội nghèo khổ biết chăm sóc người khác, lănh nhận sự trợ giúp về vật chất
và sử dụng vật chất để hỗ trợ người khác mà không quan tâm đến ḿnh. Thế
rồi từ dó tám trăm năm đă trôi qua và thời gian đă thay đổi, thế nhưng
lư tưởng của một vị truyền giáo về một Giáo Hội nghèo vẫn c̣n giá trị
hơn nữa. Đó vẫn là một Giáo Hội được Chúa Giêsu và các môn đệ của Người
rao giảng".
37- Kitô hữu các người giờ đây
đă trở thành thiểu số. Ngay cả ở Ư quốc là nơi vốn được cho là khu sân
sau của giáo hoàng. Thành phần Công Giáo sống đạo, theo một số thăm ḍ,
th́ ở vào giữa khoảng từ 8 đến 15 phần trăm. Những ai nói rằng họ là
Công giáo thế nhưng thực sự là không, ở vào khoảng chừng độ 20%. Trên
thế giới có một tỉ người Công giáo hay hơn, nếu cộng với các giáo hội
Kitô khác con số lên trên một tỉ rưỡi, thế nhưng dân số trên hành tinh
này là 6 hay 7 tỉ người. Chắc chắn là nhiều Kitô hữu trong các người,
nhất là ở Phi Châu và Mỹ Châu Latinh, thế nhưng các người vẫn là một
thiểu số.
"Chúng tôi bao giờ cũng vậy, thế nhưng vấn đề ngày nay không phải là ở
chỗ đó. Cá nhân tôi, tôi nghĩ rằng là một thiểu số thực sự là một sức
mạnh. Chúng ta cần phải trở nên một thứ dậy men của đời sống và của t́nh
yêu thương, và thứ dậy men này hoàn toàn nhỏ hơn là cả đống trái cây,
bông hoa và cây cối là những ǵ được xuất phát từ nó. Tôi tin rằng tôi
đă nói là đích điểm của chúng ta không phải là việc dụ giáo mà là lắng
nghe các nhu cầu, các ước muốn và các thứ bất măn, nỗi thất vọng, niềm
hy vọng. Chúng ta cần phải phục hồi lại niềm hy vọng cho giới trẻ, giúp
đỡ giới già, hướng về tương lai, truyền đạt t́nh yêu. Hăy trở nên nghèo
khó trong thành phần nghèo khó. Chúng ta cần bao gồm cả thành phần bị
loại trừ và rao giảng ḥa b́nh. Công Đồng Chung Vatican II, được hứng
khởi bởi Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và Gioan, đă quyết định nh́n về tương
lai bằng một tinh thần tân tiến và cởi mở trước nền văn hóa tân tiến.
Các vị Nghị Phụ của Công Đồng này biết rằng vấn đề cởi mở với văn hóa
tân tiến là ở chỗ nhắm đến vấn đề đại kết tôn giáo và đối thoại với
thành phần vô tín ngưỡng. Thế nhưng, sau đó chiều hướng này lại rất ít
được thực hiện. Tôi th́ thấp kém mà lại tham vọng thực hiện một cái ǵ
đó".
38- Cũng v́ xă hội tân tiến
khắp thế giới, tôi tự động chen vào, đang trải qua một giai đoạn khủng
hoảng sâu xa, chẳng những về kinh tế mà c̣n về xă hội và tinh thần nữa.
Mở đầu cho cuộc gặp gỡ của chúng ta ngài đă diễn tả một thế hệ bị đè bẹp
dưới sức nặng của hiện tại. Ngay cả chúng tôi là thành phần vô tín
ngưỡng cũng cảm thấy sức nặng hầu như về nhân văn này. Đó là lư do tại
sao chúng tôi muốn đối thoại với thành phần tín hữu cũng như với những
ai tiêu biểu nhất đại diện cho họ.
"Tôi không biết tôi có phải là đệ nhất trong số những ai đại diện cho họ
hay chăng, thế nhưng Đấng Quan Pḥng đă đặt tôi làm đầu Giáo Hội và Giáo
Phận của Thánh Phêrô. Tôi sẽ làm những ǵ tôi có thể để hoàn thành sứ vụ
đă được ủy thác cho tôi".
39- Chúa Giêsu, như ngài đă
vạch ra, đă nói: Các con hăy yêu thương tha nhân như bản thân ḿnh. Ngài
có nghĩ rằng điều này đă xẩy ra hay chăng?
"Tiếc thay, chưa. Tính vị kỷ đă từng gia tăng và t́nh yêu thương những
người khác đă bị tụt giảm".
40- Vậy th́ đó là đích điểm
chung của chúng ta: ít là làm cân bằng cái cường độ của hai thứ t́nh yêu
này. Giáo Hội của ngài có sẵn sàng và được trang bị để thực hiện cộng
việc này hay chưa?
"Ông nghĩ sao?"
41- Tôi nghĩ
vấn đề yêu thích quyền lực trần
thế vẫn c̣n mănh liệt ở bên trong các bức tường của Vatican cũng như nơi
cấu trúc về tổ chức của toàn thể Giáo Hội. Tôi nghĩ rằng vấn đề về cơ
cấu nổi nang hơn giới nghèo, hơn Giáo Hội truyền giáo mà ngài muốn thấy.
"Thật vậy, nó là như thế đó, và trong lănh vực này th́ ông không thể
nào làm phép lạ được đâu. Xin cho tôi được nhắc nhở với ông rằng ngay cả
Thánh Phanxicô vào thời điểm của ngài cũng đă phải thực hiện những cuộc
thương thuyết lâu dài với hàng giáo phẩm Rôma và Giáo Hoàng để luật lệ
của ḍng ngài được chuẩn nhận. Dần dần th́ ngài cũng được phê chuẩn thế
nhưng với những thay đổi và dung ḥa quan trọng".
42- Thế ngài có theo đường lối
ấy hay chăng?
"Tôi không phải là Phanxicô Assisi và tôi không có sức mạnh và thánh đức
của ngài. Thế nhưng tôi là vị Giám Mục ở Rôma và là Giáo Hoàng của thế
giới Công Giáo. Việc đầu tiên tôi đă quyết định đó là chỉ định một nhóm
8 vị hồng y làm cố vấn của tôi. Không phải là thành phần nịnh thần mà là
những người khôn ngoan mới thông cảm được những cảm giác của tôi. Đó là
việc khởi đầu của một Giáo Hội với một tổ chức không chỉ từ trên xuống
dưới mà c̣n theo hàng ngang nữa. Khi Đức Hồng Y Martini nói về việc tập
trung vào các công đồng và thượng nghị th́ ngài biết được là thời gian
bao lâu và khó khăn ra sao nếu theo chiều hướng ấy. Mềm mỏng nhưng mạnh
mẽ và kiên cường".
43- C̣n chính trị th́ thế nào?
"Tại sao ông lại hỏi tôi chứ? Tôi đă nói rằng Giáo Hội sẽ không xen
vô chính trị mà.
44- Thế nhưng mới mấy ngày trước
đây ngài đă kêu gọi người Công giáo tham gia cả dân sự lẫn chính trị.
(Biệt chú của người dịch Việt ngữ: ở
đây nhân vật phỏng vấn ĐTC muốn nhắc đến bài ngài giảng trong thánh lễ ở
Nhà Thánh Matta ngày 16/9/2013, xin xem lại ở cái link sau đây:
http://www.thoidiemmaria.net/TDM2013/GHHT/DTCPhanxico-NhungMauBanhVun.htm)
"Tôi không chỉ ngỏ lời với những người Công giáo mà c̣n với tất cả mọi
người thành tâm thiện chí. Tôi nói rằng chính trị là hoạt động quan
trọng nhất trong các hoạt động về dân sự và có lănh vực hành động riêng
mà không phải là lănh vực của tôn giáo. Các cơ cấu chính trị tự nó là
trần thế và hoạt động ở những phạm vi độc lập. Tất cả các vị tiền nhiệm
của tôi đă nói giống như nhau, ít là qua nhiều năm nay, bằng những giọng
điệu khác nhau. Tôi tin rằng những người Công Giáo tham gia chính trị là
thành phần cưu mang các thứ giá trị về tôn giáo của họ nơi ḿnh, thế
nhưng họ có một nhận thức trưởng thành và chuyên môn trong việc áp dụng
chúng. Giáo Hội sẽ không bao giờ vượt ra ngoài công việc bày tỏ và gieo
rắc các thứ giá trị của ḿnh, ít là bao lâu tôi c̣n đây".
45- Thế nhưng điều này không
luôn xẩy ra với Giáo Hội.
"Hầu như không bao giờ xẩy ra. Là một tổ chức Giáo Hội thường bị chi
phối bởi chủ nghĩa thời gian tính (temporalism) và nhiều phần tử cùng
với các vị lănh đạo Công Giáo thâm niên vẫn cảm thấy như vậy. Thế nhưng
bây giờ để tôi hỏi ông một vấn đề, đó là ông, một người đời không tin
Thiên Chúa vậy th́ ông tin ǵ? Ông là một nhà văn và là một nhà tư
tưởng. Ông tin cái ǵ, ông cần phải có một thứ giá trị nổi bật nào đó
chứ. Đừng trả lời tôi bằng chữ nghĩa như thành tín, kiếm t́m, nhăn quan
về công ích, tất cả mọi nguyên tắc và giá trị quan trọng thế nhưng đó
không phải là những ǵ tôi muốn hỏi. Tôi muốn hỏi ông rằng ông nghĩ yếu
tính của thế giới này là ǵ, thật sự là của vũ trụ này. Dĩ nhiên là ông
cần phải tự hỏi ḿnh, như mọi người khác, chúng ta là ai, chúng ta
từ đâu mà đến, chúng ta đang đi về đâu. Ngay cả trẻ em cũng đặt những
vấn nạn này. C̣n ông th́ sao?
46- Tôi cám ơn ngài về vấn nạn
này. Câu trả lời đó là: tôi tin Sự Hữu (Being), tức là tin
một thứ mô thể (the tissue) từ
đó xuất phát ra các h́nh thể (forms), các cơ thể (bodies).
C̣n tôi th́ tin Thiên Chúa, không phải là một Thiên Chúa Công Giáo,
chẳng có thứ Thiên Chúa Công giáo... Có Thiên Chúa và tôi tin Chúa Giêsu
Kitô, tin việc Ngài nhập thể. Chúa Giêsu là sư phụ của tôi và là mục tử
của tôi, c̣n Thiên Chúa, Một Người Cha, Bố của tôi (Abba), là ánh sáng
và là Đấng Hóa Công. Đó là Sự Hữu của tôi. Ông có nghĩ rằng chúng ta có
xa cách nhau lắm hay chăng?"
(Biệt chú của người dịch bản
Việt ngữ: Ở đây và đến đây, chúng ta thấy ĐTC từ câu 45 bất
ngờ đă bắt đầu thay đổi t́nh thế và trở thành nhân vật làm chủ t́nh thế. Ở chỗ,
ngài đặt những câu hỏi rất quan trọng đối với nhân vật đă từng là một
tín hữu Công giáo nhiệt thành, nhưng bị ảnh hưởng của triết gia toán học
Descartes, dù không hoàn toàn trở thành vô thần – atheism, nhưng, căn cứ
vào câu trả lời 46 trên đây của ông, ông cũng trở thành phiếm thần –
pantheism theo Phong Trào Tân Thời – New Age Movement, như một kẻ chủ
trương bất khả thần tri – gnosticism, thành phần đang thịnh hành ở Tây
phương, nhất là ở Âu Châu được ĐTC Biển Đức XVI đặc biệt quan tâm, vị
giáo hoàng thần học gia về Lời liên quan đến sự thật, đến đức tin và lư
trí, đến luật tự nhiên và quyền tự do, như ngài đă nhiều lần bày tỏ,
nhất là trong chuyến tông du Cuba 23-28/3/2012 và Đức quốc 22-25/9/2011:
1- Về sự thật: “Chúng ta đang chứng kiến thấy một t́nh trạng lạnh nhạt
gia tăng đối với tôn giáo trong xă hội, một t́nh trạng coi vấn đề sự
thật như là một cái ǵ đó trở ngại cho việc thực hiện quyết định, nên
thay vào đó đặt ưu tiên cho những quan tâm có tính chất thực dụng” - Đáp
từ nghênh đón ở Bellevue Castle, Berlin, Thứ Năm 22/9/2011; 2- Về thành
phần bất khả thần tri: “Những người bất khả thần tri, thành phần liên lỉ
quan tâm tới vấn đề về Thiên Chúa, những người mong muốn có được một con
tim tinh tuyền nhưng chịu khổ v́ tội lỗi của ḿnh, th́ gần với Nước
Thiên Chúa hơn là những tín hữu có đời sống đức tin h́nh thức và là
những người coi Giáo Hội như là một cơ cấu thuần túy, không để cho Giáo
Hội chạm đến con tim của họ, hay để cho đức tin chạm đến con tim của họ”
- Bài Giảng cho Thánh Lễ ở Touristic airport, Freiburg im Breisgau
Chúa Nhật 25/9/2011).
47- Chúng ta xa cách nhau ở việc
nghĩ tưởng, nhưng giống nhau như là những con người, bị tác động một
cách vô thức bởi các bản năng của chúng ta là những ǵ biến thành những
thôi thúc, những cảm thức và ư muốn, tư tưởng và lư lẽ. Chúng ta giống
nhau ở chỗ đó.
"Thế nhưng ông có thể định nghĩa cái mà ông gọi là Sự Hữu được không?
48- Sự Hữu là một
cơ cấu của năng lực (a fabric of
energy). Thứ năng lực hỗn độn nhưng bất hoại và là những hỗn tạp muôn
đời. Những h́nh thể xuất phát từ năng lực này khi năng lực này tiến đến
chỗ bùng phát. Những thứ h́nh thể ấy đều có định luật riêng của chúng,
đều có những vùng từ trường của chúng (magnetic fields), những yếu tố
hóa chất của chúng (chemical elements), những ǵ tụ hợp lại một cách
ngẫu nhiên, tiến hóa rồi dần dần tàn rụi nhưng năng lực của chúng vẫn
không bị tiêu hủy. Con người có lẽ là loài vật duy nhất có
được ư nghĩ,
ít là ở hành tinh và thái dương hệ của chúng ta đây. Tôi đă nói rằng họ
bị thúc đẩy bởi các bản năng và ước muốn thế nhưng tôi xin nói thêm là
họ cũng chất chứa nơi bản thân ḿnh một thứ vang vọng, một thứ âm dội,
một ơn gọi của hỗn loạn.
"Thôi được rồi. Tôi không muốn ông cống hiến cho tôi một bản tổng lược
triết lư của ông và những ǵ ông nói với tôi đă đủ cho tôi rồi. Theo
quan điểm của tôi th́ Thiên Chúa là ánh sáng chiếu soi tăm tối, cho dù
ánh sáng này không làm tan biến đi bóng tối, và một tia của ánh sáng
thần linh ở trong mỗi người chúng ta. Trong bức thư tôi viết cho ông (được
người dịch Việt ngữ trích lại nguyên bản Anh ngữ ở ngay dưới bài phỏng
vấn này để làm tài liệu), ông nhớ lại những ǵ tôi nói là
những thứ h́nh thái (species) của chúng ta sẽ kết thúc nhưng ánh sáng
của Thiên Chúa sẽ không cùng, và tới bấy giờ ánh sáng này sẽ bao chiếm
tất cả mọi linh hồn và nó sẽ trở thành tất cả trong mọi người".
49- Phải, tôi nhớ rơ lắm. Ngài
nói rằng: "Toàn thể ánh sáng này sẽ ở trong tất cả mọi linh hồn", thứ
ánh sáng - nếu tôi có thể nói thế - cống hiến một h́nh ảnh về nội tại
tính (immanence) hơn là siêu việt tính (transcendence).
"Siêu việt tính này tồn tại v́ ánh sáng ấy, là tất cả trong mọi sự, siêu
việt hơn vũ trụ và các h́nh thái nó ở trong vào giai đoạn ấy. Thế nhưng,
trở về với hiện tại. Chúng ta đă thực hiện được một bước tiến trong cuộc
đối thoại của chúng ta. Chúng ta đă quan sát thấy rằng trong xă hội và
trên thế giới là nơi chúng ta đang sống tính vị kỷ đă gia tăng hơn là
t́nh yêu thương người khác, và con người thiện tâm cần phải hoạt động,
mỗi người theo sức lực và chuyên môn của ḿnh, để làm sao cho t́nh yêu
thương người khác gia tăng cho đến khi nó quân b́nh và có thể qua mặt
t́nh yêu bản thân ḿnh".
50- Thế là chính trị lại nhập
cuộc.
"Đúng thế. Theo tôi, tôi nghĩ rằng cái được gọi là chủ nghĩa duy tự do
thả lỏng chỉ khiến kẻ mạnh trở nên mạnh hơn và kẻ yếu thành yếu hơn,
cùng loại trừ thành phần bị loại trừ nhất. Chúng ta cần có được tự do
cao cả, không kỳ thị, không mị dân (demagoguery) và nhiều yêu thương.
Chúng ta cần đến các qui luật tác hành, và nếu cần cũng cần đến cả việc
can thiệp trực tiếp của nhà nước để chỉnh đốn lại những thứ quá chênh
lệch bất khả chấp".
51- Thưa Đức Thánh Cha, ngài
thật là một con người có đức tin cao cả, được ân sủng tác động, được
thúc đẩy bởi ước muốn hồi sinh
một giáo hội mục vụ, một giáo hội truyền giáo cần được đổi mới và không
trần tục. Thế nhưng, căn cứ vào cách thức ngài nói và theo những ǵ tôi
hiểu th́ ngài là và sẽ là một vị giáo hoàng cách mạng. Vừa là một tu sĩ
Ḍng tên, vừa là một con người của Thánh Phanxicô, một kết hợp có lẽ
chưa bao giờ thấy trước đây. Thế rồi ngài thích
"The Betrothed" của Manzoni, Holderlin, Leopardi và nhất là của
Dostoevsky, cuốn phim "La Strada" và "Prova d'orchestra" của Fellini,
"Open City" của Rossellini và cả cuốn phim của Aldo Fabrizi.
"Tôi thích những cuốn phim ấy v́ tôi đă xem chúng với cha mẹ của tôi khi
tôi c̣n là một đức nhỏ".
52- Ngài là thế đó.
Xin cho tôi đề nghị 2 cuốn phim
mới ra ḷ được không? "Viva la libertà" và những cuốn phim về Fellini
của Ettore Scola. Tôi bảo đảm ngài sẽ thích chúng.
Tôi nói, về vấn đề năng lực,
ngài biết rằng khi tôi ở vào tuổi 20, tôi đă bỏ ra một tháng rưỡi trời
cho một cuộc tĩnh tâm với các vị tu sĩ Ḍng Tên hay chăng? Đảng Nazi bấy
giờ đang ở Rôma và tôi đă đào ngủ khỏi việc phục vụ trong quân đội. Tội
ấy đáng bị phạt bằng một án tử h́nh. Các tu sĩ Ḍng Tên đă che giấu tôi
với điều kiện là chúng tôi thực hiện một cuộc tĩnh tâm suốt thời gian họ
giấu kín chúng tôi.
"Thế nhưng phải chăng không thể nào chịu được một tháng rưỡi trời tĩnh
tâm hay sao?" ngài đặt vấn nạn, tỏ ra ngỡ ngàng và lấy làm thích thú.
Tôi sẽ nói cho ngài biết hơn nữa vào lần tới.
Chúng tôi ôm lấy nhau. Chúng tôi bước lên bậc cầu thang ngắn để ra cửa.
Tôi nói với Đức Giáo Hoàng rằng ngài không cần tiễn đưa tôi nhưng ngài
ra hiệu gạt đi. "Chúng ta cũng sẽ bàn đến vai tṛ của nữ giới trong Giáo
Hội. Hăy nhớ rằng Giáo Hội (la
chiesa) là nữ giới".
Và nếu ngài thích, chúng ta c̣n có thể nói về Pascal, tôi muốn biết ngài
nghĩ ǵ về tâm hồn cao cả này.
"Gửi đến toàn thể gia đ́nh của ông phép lành của tôi nhé và xin họ cầu
nguyện cho tôi với. Xin hăy nghĩ đến tôi, thường nghĩ đến tôi nghe".
Chúng tôi bắt tay nhau và ngài đứng đó với 2 ngón tay giơ lên ban phép
lành. Tôi vẫy tay chào ngài qua cửa sổ.
Đó là Giáo Hoàng Phanxicô. Nếu Giáo Hội trở nên như ngài và trở nên
những ǵ ngài muốn Giáo Hội là th́ sẽ có một cuộc đổi đời.
Pope
Francis' Letter to the Founder of "La Repubblica" Italian Newspaper
Vatican City, September
11, 2013 (Zenit.org)
| 34275 hits
Here is the translation of the letter sent
by Pope Francis to the founder of “La Repubblica” Italian newspaper
Eugenio Scalfari in response to several questions made by him in various
articles. The Holy Father addresses both Mr. Scalfari and non-believers.
* * *
Dear Doctor Scalfari,
It is with great cordiality, although only
in broad lines, that with this letter I would like to respond to your
letter, addressed to me on July 7 in the pages of La Reppublica, with a
series of your personal reflections , which you then enriched on the
pages of the same daily on August 7.
I thank you, first of all, for the
attention with which you read the encyclical Lumen fidei. The intention
of my beloved Predecessor, Benedict XVI, who conceived it and to a great
extent wrote it, and which I inherited with gratitude, is directed not
only to confirm in the faith in Jesus Christ those who recognize
themselves in it, but also to arouse a sincere and rigorous dialogue
with those whom, like you, describe themselves “a non-believer for many
years interested and fascinated by the preaching of Jesus of Nazareth.”
Therefore, it seems to me that it is
nothing other than positive, not only for us individually but also for
the society in which we live, to pause to dialogue on a reality as
important as the faith is, which calls to preaching and to the figure of
Jesus. I think there are, in particular, two circumstances that today
render this dialogue right and proper and precious. Moreover, as noted,
it constitutes one of the principal objectives of Vatican Council II,
desired by John XXIII and the ministry of Popes that, each one with his
sensibility and contribution, from then to today has followed in the
track traced by the Council.
The first circumstance – as recalled in
the initial pages of the encyclical – stems from the fact that, in the
course of the centuries of modernity, we have witnessed a paradox: the
Christian faith, whose novelty and incidence on the life of man since
the beginning were expressed in fact through the symbol of light, was
often referred to as the darkness of superstition that is opposed to the
light of reason. Thus between the Church and the culture of Christian
inspiration, on one hand, and the modern culture of Enlightenment stamp,
on the other, there has been incommunicability. Moreover the time has
come, and the Vatican in fact inaugurated the season, of an open
dialogue without preconceptions, which opens the doors for a serious and
fecund meeting.
The second circumstance, for one who seeks
to be faithful to the gift of following Jesus in the light of faith,
stems from the fact that this dialogue is not a secondary accessory of
the existence of the believer: it is, instead, a profound and
indispensable expression. In this connection, allow me to quote an
affirmation of the encyclical, which in my opinion is very important:
because the truth witnessed by faith is that of love – it is underlined
-- “it is clear that the faith is not intransigent, but grows in
coexistence that respects the other. The believer isn’t arrogant; on the
contrary, truth makes him humble, knowing that, more than our possessing
it, it is truth that embraces and possesses us. Far from stiffening us,
the certainty of the faith puts us on the way, and makes possible
witness and dialogue with everyone” (n. 34). This is the spirit that
animates the words that I write to you.
For me, faith is born from the encounter
with Jesus. A personal encounter, which has touched my heart and given
direction and new meaning to my existence. But at the same time an
encounter that was made possible by the community of faith in which I
have lived and thanks to which I found access to the intelligence of
Sacred Scripture, to new life that, as gushing water, flows from Jesus
through the Sacraments, to fraternity with everyone and at the service
of the poor, true image of the Lord. Believe me, without the Church I
would not have been able to encounter Christ, also in the awareness that
the immense gift that faith is is kept in the fragile earthen vessels of
our humanity.
Now, it is precisely beginning from here,
from this personal experience of faith lived in the Church, that I feel
at ease in listening to your questions and in seeking, together with
you, the ways through which we might, perhaps, begin a segment of the
way together.
Forgive me if I do not follow step by step
the arguments you propose in the editorial of July 7. It seems to me
more fruitful, if not more congenial, to go in a certain sense to the
heart of your considerations. I won’t even enter into the explanatory
way followed by the encyclical, in which you perceive the lack of a
section dedicated specifically to the historical experience of Jesus of
Nazareth.
To begin, I observe only that an analysis
of this kind isn’t secondary. It is, in fact, by following the logic
that guides the unfolding of the encyclical, pausing our attention on
the meaning of what Jesus said and did and thus, in a word, on what
Jesus was and is for us. The Letters of Paul and the Gospel of John, of
which particular reference is made in the encyclical, are constructed,
in fact, on the solid foundation of the messianic ministry of Jesus of
Nazareth, which reached its decisive culmination in the Pasch of Death
and Resurrection.
Therefore, one must be confronted with
Jesus, I would say, in the concreteness and roughness of his event, as
is narrated especially by the oldest of the Gospels, that of Mark. One
sees then that the “scandal” that the word and practice of Jesus caused
around him stem from his extraordinary “authority”: a word, this is,
that attests from the Gospel of Mark, but which isn’t easy to render in
Italian. The Greek word is “exousia,” which literally refers to that
which“comes from being,” which is. It’s not about something exterior or
forced, therefore, but of something that emanates from within and that
imposes itself. Jesus, in fact, strikes, breaks, innovates beginning
with – He himself says so – from his relationship with God, called
familiarly Abba, who gives Him this “authority” so that he will exercise
it in favor of men.
So Jesus preaches “as one who has
authority,” heals, calls the disciples to follow him, forgives … all
things that, in the Old Testament, are of God and only of God. The
question that return most in Mark’s Gospel is: “Who is he who …?” and
which refers to Jesus’ identity, is born from witnessing an authority
that is different from that of the world, an authority that is not aimed
at exercising power over others, but of serving them, of giving them
liberty and the fullness of life. And this to the point of putting at
stake one’s own life, to the point of experiencing incomprehension,
betrayal, rejection, to the point of being condemned to death, of
sealing the state of abandonment on the cross. But Jesus remains
faithful to God, to the end.
And it is precisely then – as the Roman
centurion exclaimed at the foot of the cross in Mark’s Gospel – that
Jesus shows himself paradoxically as the Son of God! Son of a God that
is love and that wishes with all His being that man, every man,
discover himself and also live as His true son. This is, for the
Christian faith, the certificate of the fact that Jesus is risen: not to
triumph over those who rejected him, but to attest that the love of God
is stronger than death, the forgiveness of God is stronger than any sin,
and that it is worthwhile to spend one’s life, to the end, witnessing
this immense gift.
The Christian faith believes this: that
Jesus is the Son of God who came to give his life to open to all the way
of love. Because of this you are right, egregious Doctor Scalfari, when
you see in the Incarnation of the Son of God the foundation of the
Christian faith. Tertullian already wrote “caro cardo salutis,” the
flesh (of Christ) is the foundation of salvation. Because the
Incarnation, namely, the fact that the Son of God came in our flesh and
shared our joys and sorrows, the victories and defeats of our existence,
to the cry of the cross, living everything in love and fidelity to Abba,
attests to the incredible love that God has for every man, the
inestimable value that he gives him. Because of this, each one of us is
called to make his own the look and the choice of love of Jesus, to
enter into his way of being, of thinking and acting. This is the faith,
with all the expressions that are described unfailingly in the
encyclical.
Always in the editorial of July 7, you ask
me in addition how to understand the originality of the Christian faith
in as much as it is founded on the Incarnation of the Son of God, in
regard to other faiths that gravitate instead around the absolute
transcendence of God.
The originality, I would say, lies
precisely in the fact that the faith makes us participate , in Jesus, in
the relationship that He has with God who is Abba and, in this light,
the relationship that He has with all other men, including enemies, in
the sign of love. In other words, Jesus’ offspring, as presented by the
Christian faith, is not revealed to mark an insurmountable separation
between Jesus and all others: but to tell us that, in Him, we are all
called to be children of the one Father and brothers among ourselves.
The singularity of Jesus is for communication, not for exclusion.
Of course from this also follows – and it
isn’t something small – the distinction between the religious sphere and
the political sphere which is sanctioned in “giving to God what is God’s
and to Caesar what is Caesar’s,” affirmed clearly by Jesus and on which,
laboriously, the history of the West was built. In fact, the Church is
called to sow the leaven and the salt of the Gospel, and this is the
love and mercy of God that reaches all men, pointing out the celestial
and definitive goal of our destiny, whereas civil and political society
has the arduous task of articulating and embodying in justice and
solidarity, in law and in peace, an ever more human life. For one who
lives the Christian faith, this does not mean fleeing the world or
seeking hegemony, but service to man, to the whole of man and to all
men, beginning from the fringes of history and keeping awake the sense
of hope that drives one to do good despite everything and always looking
to the beyond.
You also ask me, in conclusion of your
first article, what we should say to our Jewish brothers about the
promise made to them by God: has it all come to nothing? Believe me,
this is a question that challenges us radically as Christians, because,
with the help of God, especially since Vatican Council II, we have
rediscovered that the Jewish people are still for us the holy root from
which Jesus germinated. In the friendship I cultivated in the course of
all these years with Jewish brothers in Argentina, often in prayer I
also questioned God, especially when my mind went to the memory of the
terrible experience of the Shoa. What I can say to you, with the Apostle
Paul, is that God’s fidelity to the close covenant with Israel never
failed and that, through the terrible trials of these centuries, the
Jews have kept their faith in God. And for this, we shall never be
sufficiently grateful to them as Church, but also as humanity. They,
then, precisely by persevering in the faith of the God of the Covenant,
called all, also us Christians, to the fact that we are always waiting,
as pilgrims, for the Lord’s return and, therefore, that we must always
be open to Him and never take refuge in what we have already attained.
So I come to the three questions you put
to me in the article of August 7. It seems to me that, in the first two,
what is in your heart is to understand the attitude of the Church to
those who don’t share faith in Jesus. First of all, you ask me if the
God of Christians forgives one who doesn’t believe and doesn’t seek the
faith. Premise that – and it’s the fundamental thing – the mercy of God
has no limits if one turns to him with a sincere and contrite heart; the
question for one who doesn’t believe in God lies in obeying one’s
conscience. Sin, also for those who don’t have faith, exists when one
goes against one’s conscience. To listen to and to obey it means, in
fact, to decide in face of what is perceived as good or evil. And on
this decision pivots the goodness or malice of our action.
In the second place, you ask me if the
thought, according to which no absolute exists and therefore not even an
absolute truth but only a series of relative or subjective truths, is an
error or a sin. To begin with, I will not speak, not even to one who
believes, of “absolute” truth, in the sense that absolute is what is
inconsistent, what is deprived of any relationship. Now truth, according
to the Christian faith, is the love of God for us in Jesus Christ.
Therefore, truth is a relationship! So true is it that each one of us
also takes up the truth and expresses it from him/herself: from his/her
history and culture, from the situation in which he/she lives, etc. This
doesn’t mean that truth is variable or subjective, quite the opposite.
But is means that it is given to us always and only as a way and a life.
Did not Jesus himself say: “I am the Way, the Truth, and the Life”? In
other words, truth being altogether one with love, requires humility and
openness to be sought, received and expressed. Therefore, it’s necessary
to understand one another well on the terms and, perhaps, to come out of
the tight spots of opposition … absolute, to pose the question again in
depth. I think that this is today absolutely necessary to initiate that
serene and constructive dialogue that I hoped for at the beginning of
this my response. In the last question you ask me if, with the
disappearance of man on earth, the thought will also disappear that is
able to think of God. Certainly, man’s greatness lies in his being able
to think of God. And that is in being able to live a conscious and
responsible relationship with Him. However, the relationship is between
two realities. God – this is my thought and this is my experience, but
how many, yesterday and today, share it! – is not an idea, even though
very lofty, fruit of man’s thought. God is reality with a capital “R.”
Jesus reveals it – and lives the relationship with him – as a Father of
goodness and infinite mercy. Hence, God doesn’t depend on our thought.
Moreover, even when the life of man on earth should finish – and for the
Christian faith, in any case, this world as we know it is destined to
fail --, man won’t stop existing and, in a way that we don’t know, also
the universe created with him. Scripture speaks of “new heavens and a
new earth” and affirms that, in the end, in the where and when that is
beyond us, but towards which, in faith, we tend with desire and
expectation, God will be “all in all.” Egregious Doctor Scalfari, I thus
conclude my reflections, aroused by what you wished to communicate to me
and ask me. Receive it as the tentative and provisional but sincere and
confident answer to the invitation to escort you in a segment of the
road together. Believe me, the Church despite all the slowness, the
infidelities, the errors and sins she could have committed and can still
commit in those that accompany her, has no other sense or end but that
of living and witnessing Jesus: He who was sent by Abba “to preach good
news to the poor, to proclaim release to captives, and recovering of
sight to the blind, to set at liberty those who are oppressed, to
proclaim the acceptable year of the Lord” (Luke 4:18-19).
With fraternal closeness,
Francis
[Translation by ZENIT]
http://www.zenit.org/en/articles/pope-francis-letter-to-the-founder-of-la-repubblica-italian-newspaper
|
|