GIÁO HỘI HIỆN THẾ
"Ở đây, trước sự hiện diện của quí vị, tôi kêu gọi toàn thể cộng đồng quốc tế,
như tôi thực hiện với các chính quyền trong cuộc, hãy làm các việc cụ thể để
mang lại hòa bình và bảo vệ tất cả những ai là nạn nhân của chiến tranh và bách
hại, bị đẩy ra khỏi nhà cửa của mình và quê hương xứ sở của mình"
ĐTC Phanxicô - Sứ Điệp Mừng Tân Niên ngỏ cùng Ngoại Giao Đoàn ở Vatican
Thứ Hai 12/1/2015
Dẫn nhập của người dịch:
Cho dù tối hôm nay (giờ Rôma), chuyến tông du 8 ngày, 12-19/1/2015, đến Sri
Lanka và Phi Luật Tân bắt đầu, nhưng theo truyền thống hằng năm, vị lãnh đạo
Quốc Đô Vatican là Đức Giáo Hoàng, vào Thứ Hai tuần thứ hai đầu năm, vẫn gặp gỡ
ngoại giao đoàn của gần 200 quốc gia có liên hệ ngoại giao với Tòa Thánh.
Trong bài ngỏ cùng ngoại giao đoàn năm 2015 này, người đọc sẽ thấy hầu như không
một biến chuyển nào trên thế giới trong năm 2014 thoát khỏi ánh mắt quan tâm
của vị giáo hoàng đương kim Phanxicô của chúng ta, chẳng hạn ở những miền nóng
bỏng nhất như Trung Đông, Syria và Iraq; ở Phi Châu như Nigeria, Lybia, Cộng Hòa
Trung Phi, Sudan, the
Horn of Africa và Cộng Hòa Dân Chủ Congo. Ngoài ra ngài cũng lưu ý tới Ý quốc,
tới Triều Tiên cả hai miền Nam Bắc, tới Sri Lanka và Phi Luật Tân là hai quốc
gia ngài sắp tông du. Chưa hết, ngài cũng đề cập tới hai vụ thảm sát mới xẩy
ra ở Pakistan
(tháng 12/2014) và Paris Pháp quốc (đầu năm 1/2015), rồi đến cả Ukraine. Chưa
hết, kèm theo chiến tranh và bạo động còn có nạn dịch Ebola ở các nước như Liberia,
Sierra Leone and Guinea nữa.
Theo ngài, tất cả những gì xẩy ra tiêu cực trên thế giới hiện nay, liên quan đến
chiến tranh và bạo lực, nhất là tình trạng nô lệ hóa con người, như ngài đã đề
cập đến trong Sứ
Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 1/1/2015 của
ngài, đều xuất phát từ thứ "văn hóa thải trừ - throwaway culture", một thứ văn
hóa đã xẩy ra từ hồi Hài Nhi Giêsu giáng sinh ở Belem và ngày nay được thể hiện
rất rõ ràng nơi thành phần di dân, di tản, tị nạn, thành phần già lão, tàn tật,
giới trẻ, và chính cơ cấu gia đình.
Tuy nhiên, tình hình có vẻ bi quan của thế giới hiện nay cũng vẫn có những dấu
hiệu hy vọng, liên quan đến một thứ văn hóa mà ngài hằng kêu gọi và
phát động, đó là "thứ văn hóa gặp gỡ - thứ culture of encounter", như ngài đã
thực sự chứng kiến thấy được qua các chuyến tông du của ngài trong năm 2014,
chẳng hạn ở Albania, ở Thổ Nhĩ Kỳ, ở Jordan, ở Lebanon, hay nơi biến cố mới xẩy
ra vào đầu năm 2015, đó là việc nối lại bang giao giữa Hoa Kỳ và Cuba sau hơn 50
năm Cuba bị Hoa Kỳ cấm vận.
Hướng về tương lai, ngài hy vọng thứ văn hóa hội ngộ này sẽ được thể hiện nơi
các biến cố quan trọng trong năm 2015 nữa, như ở tình hình của nước Venezuela,
như việc thỏa thuận về nguyên tử giữa Iran và Nhóm 5+1, như việc Hoa
Kỳ có ý định dẹp bỏ các trại giam Guantanamo, như hai tiến trình quan trọng liên
quan đến Các Mục Đích Phát Triển Khả Trợ và Hiệp Ước Thay Đổi Khí Hậu.
Theo chiều hướng liên quan đến hai thứ văn hóa, văn hóa thải trừ và văn hóa hội
ngộ được vị giáo hoàng tác giả đề cao, sau đây là một số trích đoạn nguyên
văn tiêu biểu, theo người dịch cần lưu ý trong bài nói dài của Đức Thánh Cha
Phanxicô ngỏ cùng ngoại giao đoàn của các quốc gia có bang giao với Tòa Thánh
Thứ Hai 12/1/2015.
ĐTC Phanxicô: Diễn Từ ngỏ cùng Ngoại Giao Đoàn Chư Quốc
(đoạn mở đầu chào hỏi và cám ơn)
Hôm nay tôi muốn lập lại một lời rất thân thương với chúng ta, đó là bình an!
Nó đến với chúng ta từ lời loan báo của đạo binh các thiên thần vào đêm Giáng
Sinh (xem Luca 2:14) như là một tặng ân quí báu của Thiên Chúa, đồng thời cũng
là một thứ trách nhiệm của cá nhân cùng xã hội đòi chúng ta phải dấn thân và
quan tâm. Thế nhưng, cùng
với bình an, hình ảnh về cảnh tượng Giáng Sinh cho chúng ta thấy một thực tại
thảm thương khác, đó là thực tại bị loại trừ. Ở
một số những tiêu biểu về hình ảnh, cả ở Đông phương lẫn Tây phương - tôi
nghĩ đến hình ảnh của họa sĩ Andrej Rublev về cảnh Giáng Sinh rạng ngời chẳng
hạn - Con
Trẻ Giêsu được thấy không nằm trong một máng cỏ mà là trong một ngôi mộ.
Hình ảnh này, một hình ảnh có mục đích liên kết hai lễ chính yếu của Kitô giáo
là Giáng Sinh và Phục Sinh, cho thấy rằng niềm hân hoan chấp nhận cuộc hạ sinh
mới này là những gì bất khả phân ly với tất cả thảm kịch của cuộc đời Chúa
Giêsu, với tình trạng nhục nhã và bị loại trừ của Người, thậm chí dẫn đến cái
chết trên thập tự giá.
Chính các tình tiết Giáng Sinh cho chúng ta thấy tấm lòng cứng cỏi của một nhân
loại khó mà chấp nhận Con Trẻ này. Ngay
từ ban đầu Người đã bị loại trừ, bị bỏ rơi trong lạnh lẽo, buộc phải sinh ra
trong chuồng bò lừa vì không có chỗ trong quán trọ (xem
Luca 2:7). Nếu đó
là cách thức Thiên Chúa đã bị đối xử thì trường hợp của rất nhiều anh chị em của
chúng ta còn đến thế nào! Tất
cả chúng ta đều có thái độ loại trừ; nó làm cho chúng ta thấy tha nhân của chúng
ta không phải như là anh chị em cần được chấp nhận mà là thành phần không
xứng đáng lưu ý tới, thành phần đối thủ, hay một ai đó cần phải bị khuất phục
theo ý muốn của chúng ta. Đó là một tâm thức dung dưỡng thứ "văn hóa thải trừ -
throwaway culture" bất chấp mọi sự và bất cần người nào: thiên nhiên tạo vật,
con người, ngay cả chính Thiên Chúa. Nó gây ra cho nhân loại đầy những đớn đau
và liên lỉ bị rách nát bởi đủ mọi thứ căng thẳng và xung đột.
Tiêu biểu cho thứ văn hóa này, như trình thuật Phúc Âm về thời thơ ấu của Chúa
Giêsu cho thấy, đó là Vua
Herôđê.
Cảm thấy quyền bính của mình bị đe dọa bởi Con Trẻ Giêsu, ông đã
truyền lệnh sát hại tất cả mọi trẻ em ở Bêlem.
Chúng ta nghĩ ngay đến Pakistan,
nơi mà một tháng trước đây, hơn 100 trẻ em bị thảm sát một cách dã man không thể
nào tưởng tưởng nổi.
Tôi muốn lập lại những lời chia buồn của tôi với gia đình của các em và hứa tiếp
tục cầu nguyện cho nhiều người vô tội bị mất mạng sống của mình.
Chiều kích cá nhân bị loại trừ không thể nào không gắn liền với chiều kích xã
hội, một thứ văn hóa loại trừ cắt đứt những liên hệ sâu xa nhất và đích thực
nhất của nhân loại, dẫn đến chỗ làm rạn nứt xã hội và gây ra bạo lực cùng chết
chóc. Chúng
ta thấy chứng cớ đau thương về tình trạng này nơi các biến cố được tin tức hằng
ngày tường trình, nhất là những cuộc sát hại thê thảm xẩy ra ở Paris mấy ngày
vừa qua.
Những người khác "không còn được coi là các hữu thể có cùng phẩm giá, như anh
chị em cùng một nhân tính, mà là như các đồ vật" (Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình
Thế Giới 8/12/2014, đoạn 4). Bị mất đi tự do của mình, con người trở thành
nô lệ cho các kiểu khoái thú mới nhất, hay cho quyền lực, tiền bạc, hoặc ngay cả
cho các hình thức lệch lạc về tôn giáo. Đó là những thứ nguy hiểm tôi đã vạch ra
trong Sứ Điệp cho Ngày Thế Giới Hòa Bình mới đây của tôi, một sứ điệp liên
quan đến vấn đề của muôn vàn hình thức nô lệ ngày nay. Tất cả những hình thức nô
lệ ấy đều xuất phát từ một con tim băng hoại, một con tim không thể nhận biết và
và hành thiện, không theo theo đuổi hòa bình.
Chúng ta cảm thấy buồn thảm khi thấy các hậu quả thảm thương của tâm thức loại
trừ này cũng như của "văn hóa nô lệ" này (ibid.2) nơi hiện tượng tràn lan
xung đột khôn cùng. Như
là một thế chiến thực sự đánh đấm một cách phân mảnh, các hậu quả ấy, dù ở các
hình thức khác nhau và mức độ dữ dội khác nhau, gây ảnh hưởng đến một số
miền đất trên thế giới, bắt đầu ở
Ukraine gần kề, nơi đã trở thành một khấu trường đấu tranh thê thảm.
Tôi hy vọng rằng nhờ đối thoại mà các nỗ lực đang được thực hiện để chấm dứt các
thứ thù hận sẽ được đúc kết, và các phe trong cuộc sẽ bắt đầu nhanh bao nhiêu có
thể, theo tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế mới, tiến bước trên con đường
tin tưởng nhau và hòa giải huynh đệ, để chấm dứt cuộc khủng hoảng hiện nay.
(đoạn
về Trung Đông...)
Trung Đông đang bị đan kết một cách bi thảm với các cuộc xung đột đã kéo dài quá
lâu khác, kèm theo các âm hưởng ghê rợn gây ra bởi hiện tượng khủng bố bảo
thủ tràn lan ở Syria và Iraq. Hiện
tượng này là hậu quả của thứ văn hóa thải trừ đang được áp dụng cho Thiên Chúa.
Chủ nghĩa bảo thủ tôn giáo, ngay cả trước khi loại trừ con người bằng những cuộc
sát hại kinh hoàng khủng khiếp, đã loại trừ chính Thiên Chúa, biến Ngài thành
một thứ bình phong thuần ý hệ.
Trước cái hung hãn bất chính như vậy, cái hung hãn cũng tấn công cả thành phần
Kitô hữu và các nhóm sắc dân cùng tôn giáo khác trong miền - Yazidis chẳng hạn -
cần phải nhất trí đáp ứng, một đáp ứng, trong khuôn khổ của lề luật quốc tế, có
thể chấm dứt những hành động bạo lực tràn lan, phục hồi tình trạng hòa hợp và
chữa lành các vết thương sâu xa đang bị các cuộc xung đột gây ra. Ở đây,
trước sự hiện diện của quí vị, tôi kêu gọi toàn thể cộng đồng quốc tế, như tôi
thực hiện với các chính quyền trong cuộc, hãy làm các việc cụ thể để mang lại
hòa bình và bảo vệ tất cả những ai là nạn nhân của chiến tranh và bách hại,
bị đẩy ra khỏi nhà cửa của mình và quê hương xứ sở của mình.
Trong bức thư được viết trước Giáng Sinh một chút, tôi đã tìm cách bày tỏ lòng
gắn bó của tôi và lời hứa nguyện cầu của tôi đối với tất cả mọi cộng đồng Kitô
hữu ở Trung Đông. Chứng từ của họ là một chứng từ quí báu của niềm tin và lòng
can đảm, vì họ đóng một vai trò trọng yếu như là những tiểu công viên hòa bình,
hòa giải và phát triển ở những xã hội dân sự họ sống. Một
Trung Đông không có Kitô hữu sẽ trở thành một Trung Đông bị trầy trụa và què
cụt! Bằng
việc thiết tha xin cộng đồng quốc tế đừng tỏ ra dửng dưng trước tình trạng này,
tôi hy vọng rằng các vị lãnh đạo tôn giáo, chính trị và trí thức, nhất là những
ai thuộc cộng đồng tín hữu Hồi giáo, sẽ lên án tất cả mọi thứ dẫn giải bảo thủ
và cực đoan về tôn giáo đang cố gắng biện minh cho các hành động bạo động như
vậy.
(đoạn
về Nigeria với hiện tượng bắt cóc...)
(đoạn
về một số nước ở Phi Châu ...)
Chúng ta cũng không thể bỏ qua sự kiện là các
cuộc chiến tranh còn bao gồm cả một tội ác ghê gớm khác nữa, đó là tội ác hiếp
dâm. Đây
là một xúc phạm trầm trọng nhất đến phẩm giá của nữ giới, thành phần chẳng những
bị tấn công về thể xác mà còn cả về tinh thần nữa, với hậu quả là một thứ chấn
thương khó phai nhòa kèm theo các tác dụng về xã hội nữa. Buồn thay, ngoài tình
trạng chiến tranh, còn có rất ư là nhiều người phụ nữ cho đến ngày nay vẫn còn
là nạn nhân của bạo lực.
Hết mọi cuộc xung đột và chiến tranh đều là những gì tiêu biểu cho thứ văn hóa
loại bỏ, vì sự sống của con người bị các kẻ nắm quyền lực cố ý chà đạp.
Tuy nhiên, cái
thứ văn hóa đó còn trở thành dồi dào hơn bởi những hình thức tinh khéo xảo quyệt
của việc loại trừ.
Trước hết tôi nghĩ đến cách thức mà người
bệnh được chữa trị; họ thường bị loại trừ và cho ra rìa như những người phong
cùi trong Phúc Âm. Trong
số những người phong cùi như thế thuộc thời đại của chúng ta đây, chúng ta có
thể kể đến những nạn nhân gây ra bởi hiện tượng Ebola vừa mới bùng phát một cách
khủng khiếp, nhất là ở Liberia,
Sierra Leone và Guinea, đã cướp mất trên 6 ngàn mạng sống.... (ngài
cám ơn thành phần phục vụ viên và kêu gọi trợ giúp nhân đạo để chống lại dịch
bệnh này).
Cùng với các sinh mạng bị thải trừ bởi chiến tranh và dịch bệnh, còn có những
mạng sống của nhiều người tị nạn và của những ai di tản nữa.
Một lần nữa, thực tại này có thể được cảm nhận bởi việc suy nghĩ về
giai đoạn thiếu thời của Chúa Giêsu, một suy nghĩ cho thấy một hình thức khác
của nền văn hóa thải trừ là những gì tác hại đến những mối liên hệ gây đổ vỡ cho
xã hội. Thật vậy, vì tính chất bạo tàn của Hêrôđê mà Thánh Gia buộc phải thoát
nạn sang Ai Cập, và chỉ có thể trở về mấy năm sau đó (xem mathêu 2:13-15). Hậu
quả duy nhất của những tình trạng xung đột mới được diễn tả đó là trường hợp của
bao ngàn người bỏ chạy khỏi quê cha đất tổ của họ. Có
những lúc họ lìa bỏ không phải để tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn mà là bất
cứ một tương lai nào, vì ở lại có nghĩa là nắm chắc cái chết. Biết
bao là người đã bỏ mạng trong các cuộc hành trình ghê rợn này, thành phần nạn
nhân của những kẻ ác ôn côn đồ bất nhân và tham lam?
Tôi nêu vấn đề này lên trong chuyến viếng thăm gần đây của tôi ở Quốc Hội Âu
Châu, bằng cách nhấn mạnh rằng: "chúng
ta không thể để cho vùng Địa Trung Hải trở thành một bãi tha ma rộng lớn" (Address
to the European Parliament,
Strasbourg, 25 November 2014). Còn
một sự kiện báo động nữa ở chỗ nhiều người di dân, đặc biệt ở Mỹ Châu, là thành
phần trẻ em đơn độc chẳng có ai theo kèm, lại càng nguy hiểm và cần chăm sóc,
chú trọng và bảo vệ hơn nữa.
(đoạn
về thành phần di dân...)
(đoạn
về thành phần di tản và tị nạn, già lão, tàn tật và giới trẻ...)
Thế rồi cả chính gia đình nữa không phải là không thường xuyên bị coi là những
gì có thể phế thải, gây ra bởi tình trạng tràn lan của thứ văn hóa cá nhân và vị
kỷ, thứ văn hóa tác hại đến những mối liên hệ của con người và dẫn đến chỗ mức
sinh sản bị giảm sút một cách thê thảm, cũng như bởi việc lập pháp có lợi cho
các hình thức khác nhau của việc chung sống xác thịt hơn là việc nâng đỡ
thích đáng cho gia đình vì phúc lợi của toàn thể xã hội.
Trong số các nguyên nhân của những thực tại này đó là một mẫu thức toàn cầu hóa
là những gì bình địa hóa các thứ khác biệt và thậm chí còn loại trừ cả các nền
văn hóa, chặt đứt chúng khỏi những yếu tố hình thành nên căn tính của từng dân
tộc và tạo nên một di sản thiết yếu cho việc phát triển lành mạnh về xã hội. Trong
một thế giới xám xịt vô danh bất dạng thì chẳng có gì khó hiểu là có nhiều người
cảm thấy khó khăn và chán nản như thể thật sự mất đi cái cảm quan là mình đang
sống động. Tình
trạng bi thảm này còn trở nên trầm trọng hơn bởi cuộc khủng hoảng liên tục về
kinh tế nữa, cuộc khủng hoảng nuôi dưỡng tính chất bi quan và tình trạng xung
khắc về xã hội. Tôi đã có thể thấy được các tác dụng của nó ngay ở Rôma đây, nơi
tôi gặp gỡ nhiều người trong hoàn cảnh thử thách cũng như trong các cuộc hành
trình khác nhau tôi thực hiện trong Ý quốc.
(đoạn
về Ý quốc...)
(đoạn
về giới trẻ liên quan đến chuyến tông du Nam hàn...)
(đoạn
về chuyến tông du Sri Lanka và Phi Luật Tân cùng hai miền Nam bắc triều Tiên...)
Dầu sao đi nữa, vào dịp mở đầu cho một tân niên, chúng ta không muốn cái nhìn
của chúng ta thấm đậm bi quan yếm thế hay những thiếu sót và khuyết điểm của lúc
này đây. Chúng ta cũng cần phải tạ ơn Thiên Chúa về các tặng ân và phúc lành
Ngài đã ban xuống trên chúng ta, về những cơ hội được đối thoại và gặp gỡ mà
Ngài ban cho chúng ta, cũng như về các hóa trái hòa bình Ngài đã làm cho chúng
ta có thể hoan hưởng.
(đoạn
về văn hóa gặp gỡ liên quan đến các chuyến tông du Albania, Thổ Nhĩ Kỳ, Jordan
và Labanon...)
(đoạn
về Hoa Kỳ và Cuba, Venezuela, Iran và Nhóm 5+1, Hoa Kỳ và Nhà Tù Guantanamo...)
Vào ngày 6 tháng 8 năm 1945, nhân loại đã chứng kiến thấy một trong những tai
họa kinh khủng nhất trong lịch sử của mình. Vì đó là lần đầu tiên, một cách mới
mẻ và chưa từng thấy, thế
giới đã cảm nghiệm được tất cả mãnh lực của quyền năng hủy hoại của con người.
Từ tro bụi của cái thảm
họa vô vàn là Thế Chiến Thứ Hai ấy đã
vươn lên giữa các quốc gia một ước vọng mới muốn đối thoại và gặp gỡ, những gì
tác động nên Tổ Chức Liên Hiệp quốc là một cơ cấu năm nay chúng ta sẽ kỷ niệm 70
năm. Trong chuyến viếng thăm của mình ở Tổng Hành Dinh Liên Hiệp quốc 50 năm
trước đây, vị tiền nhiệm của tôi là Đức Phaolô VI, đã nhận định rằng: "máu
của bao nhiêu triệu con người ta, vô vàn những khổ đau chưa từng thấy, những
cuộc tàn sát vô nghĩa và các thứ hủy hoại kinh hoàng đã phấn khích việc thỏa
thuận liên kết quí vị lại với bằng bằng một lời thề hứa cần phải thay đổi tương
lai của thế giới này: không bao giờ còn chiến tranh nữa, không bao giờ tái diễn
chiến tranh nữa! Chính hòa bình, hòa bình, cần phải hướng dẫn định mệnh cho các
dân nước của toàn thể nhân loại" (Address
to the United Nations,
New York, 4 October 1965).
(đoạn
về các tiến trình Nghị Sự Phát Triển Hậu 2015...)
(đoạn
kết chào chúc bình an...)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch (kèm theo nhan đề và những chỗ nhấn
mạnh tự ý)