SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I:
Is 35, 4-7a
"Tai người điếc sẽ mở ra và người
câm sẽ nói được".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Các ngươi hãy nói với những tâm hồn
xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các ngươi đến để
phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các ngươi.
Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và
tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và
người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối
nước sẽ chảy nơi đồng vắng. Ðất khô cạn sẽ trở thành ao hồ, và hoang
địa sẽ trở nên suối nước.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 145, 7. 8-9a. 9bc-10
Ðáp: Linh
hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa! (c. 2a)
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Thiên Chúa trả lại quyền lợi
cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa
cứu gỡ những người tù tội. - Ðáp.
2) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù,
Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa
yêu quý các bậc hiền nhân. Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. -
Ðáp.
3) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ
côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ
làm vua tới muôn đời, Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự
đời này sang đời khác. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Gc 2, 1-5
"Không phải Thiên Chúa đã chọn
người nghèo để hưởng nước Người đó sao?"
Trích thư Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em thân mến, anh em là những người
tin vào Ðức Giêsu Kitô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh em đừng thiên
vị. Giả sử trong lúc anh em hội họp, có người đi vào, tay đeo nhẫn
vàng, mình mặc áo sang trọng; lại cũng có người nghèo khó đi vào, áo
xống dơ bẩn, nếu anh em chăm chú nhìn người mặc áo rực rỡ mà nói:
"Xin mời ông ngồi chỗ danh dự này". Còn với người nghèo khó thì anh
em lại nói rằng: "Còn anh, anh đứng đó", hoặc: "Anh hãy ngồi dưới bệ
chân tôi". Ðó không phải là anh em xét xử thiên vị ở giữa anh em và
trở nên những quan xét đầy tà tâm đó sao?
Anh em thân mến, xin hãy nghe: Không
phải Thiên Chúa chọn người nghèo trước mắt thế gian, để nhờ đức tin,
họ trở nên giàu có và được hưởng nước Người đã hứa cho những kẻ yêu
mến Người đó sao?
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 1, 14 và 12b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin
hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống
đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 7, 31-37
"Người làm cho kẻ điếc nghe được và
người câm nói được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô,
qua Siđon, đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem
một kẻ câm điếc đến cùng Người và xin Người đặt tay trên kẻ ấy.
Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi
nước miếng vào lưỡi anh ta. Ðoạn ngước mặt lên trời, Người thở dài
và bảo: "Effetha!" (nghĩa là "Hãy mở ra!"), tức thì tai anh ta mở
ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng. Chúa Giêsu
liền cấm họ đừng nói điều đó với ai. Nhưng Người càng cấm, thì họ
càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục mà rằng: "Người làm
mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói
được!"
Ðó là lời Chúa.
“Không phải Thiên Chúa chọn người nghèo
trước mắt thế gian, để nhờ đức tin, họ trở nên giàu có và được hưởng
nước Người đã hứa cho những kẻ yêu mến Người đó sao?”
Đúng thế, theo dự án thần linh vô cùng khôn ngoan huyền diệu đầy yêu
thương của mình, Thiên Chúa quả thực đã, đang và sẽ mãi mãi không
thôi tiếp tục đường lối tỏ mình ra của NgàI, ở chỗ: “chọn người
nghèo trước mắt thế gian”, thành phần bất hạnh, về thể lý (tàn tật
như nạn nhân câm điếc trong bài Phúc Âm hôm nay, hay bần cùng như
trong Bài Đọc 2 hôm nay), về tâm lý (khù khờ, yếu đuối, khó tính khó
nết) hay luân lý (hoang đàng, khô đạo, tội lỗi), chẳng là gì trước
mặt thế gian, bị thế gian khinh bỉ, bỏ rơi hay đán áp hoặc lạm dụng.
Bởi
vì Thiên Chúa là Đấng Hóa Công và Quan Phòng Thần Linh thấu suốt mọi
sự, biết được tạo vật được mình dựng nên hơn ai hết. Ngài biết được
họ thế nào, chung bản tính loài người, cũng như riêng từng con người
một. Ngài biết họ cần đến Ngài và không thể sống mà không có Ngài;
ngược lại, có thể nói Ngài cũng cần đến họ, không thể không có họ,
để tỏ tình yêu thương nhưng không và vô đối của Ngài ra, nơi những
bất toàn, bất xứng và bất lực của họ, cho họ nhờ đó mà nhận biết
Ngài để được sống, được hiệp thông thần linh với Ngài.
Đó
là lý do chúng ta thấy cả Bài Đọc 1 lẫn bài Đáp Ca hôm nay đã chất
chứa tất cả những gì về một Vị Thiên Chúa Cứu Độ, một Vị Thiên Chúa
Toàn Năng, một Vị Thiên Chúa yêu thương:
Bài Đọc 1: “Các
ngươi hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ! Này
đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu
thoát các ngươi. Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc
sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ
nói được, vì nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối nước sẽ chảy
nơi đồng vắng. Ðất khô cạn sẽ trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở
nên suối nước”.
Bài Đáp Ca:
1) Thiên Chúa trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những
người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội.
2) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù, Thiên Chúa giải thoát những kẻ
bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân. Thiên
Chúa che chở những khách kiều cư.
3) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn
đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời, Sion hỡi,
Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác.
Ở trong Bài Phúc Âm, qua Con của mình là Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa
còn tỏ ra chăm sóc cho từng người, cho từng trường hợp: Từng người
đây là ở chỗ Người đã chữa lành cho “một
kẻ câm điếc được
người ta mang đến cùng Người và xin Người
đặt tay trên kẻ ấy”;
Và từng trường hợp đây là ở chỗ: “Người
đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước
miếng vào lưỡi anh ta. Ðoạn ngước mặt lên trời, Người thở dài và
bảo: ‘Effetha!’ (nghĩa là ‘Hãy mở ra!’), tức thì tai anh ta mở ra,
và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng”.
Thật là tuyệt vời. Quyền toàn năng và tình yêu thương của Thiên Chúa
được dịp tỏ ra nơi nạn nhân câm điếc trong Bài Phúc Âm hôm nay. Phần
bản thân của nạn nhân cũng đâu có ngờ rằng chính tật nguyền câm điếc
bất hạnh hoàn toàn ngoài ý muốn của mình lại có ngày chẳng những
được chữa lành như thế, mà còn nhất là được trở thành dịp tốt cho
Thiên Chúa tỏ mình ra, cho vinh quang của Thiên Chúa được tỏ hiện,
nơi chính bản thân nạn nhân cũnh như cho cả cộng đồng dân chúng của
nạn nhân nữa, những người đưa nạn nhân đến với Vị Thiên Chúa nhập
thể là Chúa Giêsu Kitô.
Tuy nhiên, Thiên Chúa lợi dụng tất cả mọi
sự nơi loài người tạo vật của Ngài để tỏ mình ra, nhất là nơi những
bất hạnh và khốn cùng của họ, không phải chỉ để khoe khoang, trổ tài
mình là một Vị Thiên Chúa vô cùng toàn năng, làm gì cũng được, mà là
để cho loài người nhận biết Ngài, tin tưởng vào Ngài mà được sống,
một sự sống thần linh của Ngài và với Ngài, một sự sống viên mãn làm
cho họ không thể không loan truyền về Ngài. Đó là lý do bài Phúc Âm
hôm nay đã kết thúc ở chi tiết như thế này:
“Chúa Giêsu liền cấm họ đừng nói điều đó với ai. Nhưng Người càng
cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục mà
rằng: ‘Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và
người câm nói được!’"
Ở Bài Đọc 2, Thánh Giacôbê cũng đã ám chỉ đến sự sống thần linh viên
mãn này khi ngài khẳng định rằng thành phần “nghèo
hèn” được “Thiên Chúa
chọn” là những con người sẽ được “trở
nên giàu có và được hưởng nước Người đã hứa cho những kẻ yêu mến
Người”. Tuy nhiên, vị thánh tác giả này còn nhấn mạnh đến một
chi tiết bất khả thiếu nơi thành phần nghèo hèn được Thiên Chúa chọn
để tỏ mình ra nơi họ và cho họ, cũng như qua họ cho cả cộng đồng của
họ nữa, đó là “đức tin”: “để
nhờ đức tin, họ trở nên giàu có và được hưởng nước Người đã hứa cho
những kẻ yêu mến Người”.
Thật vậy, mục đích Thiên Chúa tỏ mình ra là để cho con người nhận
biết Ngài và tin tưởng vào Ngài mà đươc sống, một sự sống thần linh
sung mãn bất tận, chứ không phải một sự sống thể lý, ở chỗ chỉ được
chữa lành về phần xác hay được thoát khỏi những bất hạnh về thể lý ở
đời này thôi. Thái độ và hành động dám làm trái với ý muốn của Chúa
Kitô là Đấng chữa lành cho nạn nhân câm điếc ở cuối bài Phúc Âm hôm
nay dầu sao cũng cho thấy rằng họ nhận biết và tin tưởng vào Người.
Tuy
nhiên, thực tế sống đạo đã phũ phàng cho thấy không thiếu Kitô hữu
thiết tha cầu xin Chúa cho được tai qua nạn khỏi, thậm chí còn hứa
hết điều này đến điều kia với Ngài, thế mà sau khi được như ý, họ đã
mau quên lời họ hứa, và tiếp tục sống như thể không có Thiên Chúa,
tiếp tục sống vô ơn bội nghĩa, coi Chúa như là một phương tiện
(means) của mình hơn là cùng đích (end) của mình.
Thành phần Kitô hữu này chẳng khác gì như 9 người phong cùi vô ơn
(xem Luca 17:11-19), thà đừng được chữa lành thì hơn, bởi chính vì
vô ơn mà ơn họ được chữa lành có thể sẽ trở thành cơ hội để họ phạm
tội mất lòng Chúa hơn, đúng như lời Chúa Giêsu cảnh cáo nạn nhân bất
toại 38 năm được Người chữa lành cho: “Này anh đã được khỏi bệnh.
Đừng phạm tội nữa kẻo phải khốn hơn trước” (Gioan 5:14).
Như thế, có ít nhất là 5 điều căn bản bất
khả thiếu trong việc chúng ta cầu xin Chúa đó là:
1-
Có những điều chúng
ta xin Thiên Chúa, theo ý muốn và nhu cầu của chúng ta, mà chẳng bao
giờ được, lại là việc Thiên Chúa làm ơn cho chúng ta! Chúng ta cần
phải biết ơn Thiên Chúa hơn là trách móc hay bỏ Ngài, chỉ thiệt hại
cho mình hơn là cho Ngài!
2-
Chúng ta chuyên môn
chơi với Chúa kiểu ăn gian, ở chỗ, hầu như chẳng bao giờ chúng ta
làm theo ý Chúa, bởi chúng ta luôn phạm tội mất lòng Chúa, mà chúng
ta cứ đòi Chúa và bắt Chúa phải làm theo ý mình, phải nghe lời mình
cầu xin nghĩa là làm sao?
3-
Chúng ta có nghĩ
rằng nếu được Chúa ban theo ý nguyện, chúng ta có sống xứng với
những gì Chúa ban hay chăng, có đền đáp cho cân xứng với ơn chúng ta
nhận được hay chăng, hoặc trái lại, chính ơn ban ấy trở thành dịp
tội cho chúng ta?? Nếu vậy thà đừng có thì hơn!
4-
Bởi thế, ơn cần
thiết nhất và căn bản nhất, đáng xin nhất và cần xin nhất, đó là xin
cho mình xứng đáng được ơn Chúa ban và nếu được Chúa thương ban cho
bất cứ một ơn lớn nhỏ nào thì biết dùng ơn Chúa cho nên. Tóm lại,
xin cho chúng ta được nên trọn mọi sự theo Thánh Ý Chúa mà thôi,
nghĩa là hoàn toàn sống với Chúa như một trẻ nhỏ!
5-
Hãy nhớ rằng Thiên
Chúa biết và yêu chúng ta hơn chúng ta biết và yêu mình, Ngài bao
giờ cũng muốn thi ân giáng phúc, và Ngài biết chúng ta cần gì cùng
muốn gì trước khi chúng ta ngỏ lời xin, vậy tất cả những gì chúng ta
cần xin đó là: “nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể
hiện dưới đất cũng như trên trời…” (Mt 6:9-13) Amen!
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) 1
Cr 5, 1-8
"Anh em hãy tẩy trừ men cũ, vì Chiên Vượt Qua của chúng ta là Ðức
Kitô đã hiến tế".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, người ta nghe nói giữa anh em có chuyện tà dâm, thứ
tà dâm mà nơi dân ngoại cũng không có như vậy, là có người lấy vợ
cha mình. Thế mà anh em còn lên mặt kiêu căng, đáng lẽ anh em phải
để tang mà loại trừ khỏi anh em con người làm chuyện đó. Tuy tôi
vắng mặt phần xác, nhưng hiện diện bằng tinh thần, tôi đã tuyên án
kẻ làm chuyện đó, như tôi đang hiện diện, nhân danh Chúa chúng ta là
Ðức Giêsu Kitô, tập họp anh em lại với tâm trí tôi, lấy quyền năng
của Chúa chúng ta, là Ðức Giêsu, tôi trao con người như thế cho
Satan, để xác nó chết đi, hầu cho tâm hồn nó được cứu thoát trong
ngày của Chúa chúng ta, là Ðức Giêsu Kitô.
Việc anh em lên mặt kiêu căng không tốt đâu. Nào anh em chẳng biết
rằng chỉ một dúm men là đủ làm hư cả khối bột đó sao? Anh em hãy tẩy
trừ men cũ, để nên bột mới, như anh em là bánh không men. Vì Chiên
Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế. Vì thế, chúng ta hãy
mừng lễ không phải với men cũ, cũng không phải với men gian tà và
độc ác, nhưng với bánh không men tinh tuyền và chân chính.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 5, 5-6. 7. 12
Ðáp: Lạy
Chúa, xin dẫn con trong đức công minh (c. 9a).
Xướng: 1) Chúa không phải là Chúa tể ưa điều gian ác, kẻ độc dữ
không được cư trú nhà Ngài, đứa bất nhân không thể đứng trước thiên
nhan. Chúa ghét những kẻ làm điều gian ác. - Ðáp.
2) Ngài tiêu diệt những đứa nói man; người độc ác và gian giảo, thì
Chúa ghê tởm không nhìn. - Ðáp.
3) Nhưng hết thảy ai tìm đến Chúa sẽ mừng vui, họ sẽ hân hoan cho
tới muôn đời. Chúa che chở họ, họ sẽ mừng vui bởi Chúa, đó là những
kẻ yêu mến danh Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Pl 2, 15-16
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em
hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 6-11
"Các ông quan sát xem Người có chữa lành bệnh trong ngày Sabbat
không".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào hội đường và giảng dạy. Khi ấy ở
đó có một người tay hữu bị khô bại.
Những
luật sĩ và biệt phái quan sát xem Người có chữa lành người ấy trong
ngày Sabbat không, để có cớ tố cáo Người. Nhưng Người
biết tư tưởng các ông, liền bảo người có tay khô bại rằng: "Ngươi
hãy chỗi dậy mà đứng ra giữa đây". Người đó đứng thẳng dậy. Ðoạn
Chúa Giêsu bảo các ông ấy rằng: "Tôi hỏi các ông, ngày Sabbat được
phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?" Rồi đưa mắt
nhìn mọi người, Chúa bảo người đó rằng: "Ngươi hãy giơ tay ra".
Người ấy giơ ra, và tay người ấy được lành.
Bấy giờ các ông
đầy lòng tức giận, và bàn
định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Lại xẩy ra một trận đụng độ nữa, liên tục, giữa Chúa Giêsu và "những
luật sĩ và biệt phái", thành phần hình như luôn theo dõi nhân
vật Giêsu Nazarét xuất đầu lộ diện một cách hết lạ kỳ hầu như lập
dị rất ư là cấp tiến này, mà "quan sát xem Người có chữa lành
người ấy trong ngày Sabbat không, để có cớ tố cáo Người".
Vì không phải là một con người bình thường, sợ áp lực đám đông và
sợ áp lực quyền thế, Chúa Giêsu tỏ ra làm chủ tình hình, ở chỗ "Người
biết tư tưởng các ông", thậm chí Người còn lợi dụng yếu điểm
của đối phương để hạ gục họ: "Tôi hỏi các ông, ngày Sabbat được
phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?", nhưng
họ vẫn bất chấp cho dù tận mắt chứng kiến thấy phép lạ Người làm "vào
một ngày hưu lễ trong hội đường":
"'Ngươi hãy chỗi dậy mà đứng ra giữa đây'. Người đó đứng thẳng dậy.
... Rồi đưa mắt nhìn mọi người, Người bảo người đó rằng: 'Ngươi hãy
giơ tay ra'. Người ấy giơ ra, và tay người ấy được lành".
Họ chẳng những không bị thuyết phục bởi cả lý lẽ không thể chối cãi
của Người và bởi phép lạ tỏ tường Người làm, trái lại, họ vẫn tiếp
tục ngoan cố, đến độ: "Bấy giờ các ông đầy lòng tức giận, và bàn
định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu".
Việc Chúa Giêsu, Đấng đến để cứu độ con người cả hồn lẫn xác,
cố ý chữa lành cho "một người tay hữu bị khô bại" trong
hội đường "vào ngày hưu lễ" như là một việc hoàn toàn trái
luật hay phạm luật hoặc phá luật của ngày hưu lễ theo quan niệm của
thành phần thông luật và dạy luật trong dân chúng đây, không phải
chỉ để chữa lành thể lý cho nạn nhân bị khô bại ở tay hữu,
nhưng nhất là để nhờ phép lạ và qua phép lạ chữa lành này,
Người khai trí mở lòng cho thành phần vốn sống giả hình, mù quáng,
duy luật, chỉ sống theo chữ nghĩa chết chóc của lề luật hơn là tinh
thần sống động của lề luật là lòng nhân ái.
Sự
kiện Người hầu như liên tục đụng độ với hai thành phần sư phụ trong
dân chúng này nhưng vẫn hết sức nhẫn nại làm cho họ mở mắt ra mà hầu
như bất thành chứng tỏ cho thấy:
một đàng tâm thức duy luật đã trở thành bản chất tự nhiên của họ,
khó lòng, nếu không muốn nói là hầu như bất khả tẩy não, đàng khác,
chính nhờ cái tâm thức cứ mù quáng này của họ mà Chúa Kitô "là ánh
sáng thế gian" (Gioan 12:8), "ánh
sáng thật"
(Gioan 1:9), "ánh sáng chiếu soi trong tăm tối, một thứ tăm tối
không át được ánh sáng"(Gioan 1:5), "nơi Người tiềm ẩn mọi
kho tàng khôn ngoan và thông hiểu" (Colose 2:3), như Thánh
Phaolô đã xác tín và tuyên xưng.
Trong Bài Đọc 1 hôm nay, qua bức thư thứ 1 gửi cho giáo đoàn
Corintô, chúng ta thấy Thánh Phaolô nổi giận và thẳng tay chưa từng
có, khi ngài biết được trong cộng đồng Kitô hữu ở đây do ngài thành
lập mà lại chẳng những xẩy ra một thứ tội
“nơi dân ngoại cũng không có
như vậy, là có người lấy vợ cha mình”, lại “còn lên mặt kiêu
căng”, nghĩa là trơ trẽn vô liêm sỉ và mù tối
hết chỗ nói.
Ngài
chẳng những bảo chung
cộng đoàn này “phải
để tang mà loại trừ khỏi anh em con người làm chuyện đó”,
mà chính bản thân ngài còn dứt khoát nhúng tay vào nữa: “Tuy
tôi vắng mặt phần xác, nhưng hiện diện bằng tinh thần, tôi đã tuyên
án kẻ làm chuyện đó, như tôi đang hiện diện, nhân danh Chúa chúng ta
là Ðức Giêsu Kitô, tập họp anh em lại với tâm trí tôi, lấy quyền
năng của Chúa chúng ta, là Ðức Giêsu, tôi trao con người như thế cho
Satan, để xác nó chết đi, hầu cho tâm hồn nó được cứu thoát trong
ngày của Chúa chúng ta, là Ðức Giêsu Kitô”.
Qua câu này chúng ta thấy quả thật “sự
sống sắng nhà Chúa thêu đốt tôi” (Gioan 2:17) nơi Thánh Phaolô.
Ở chỗ, ngài không thể nào chịu được cái tội quái gở loạn luân xẩy ra
nơi cộng đoàn Kitô hữu của Chúa Kitô, và con người phạm tội này đáng
bị hủy diệt về phần xác, nhưng cái án phạt xứng với tội phạm ấy là
để cứu lấy linh hồn bất tử của phạm nhân. Ngoài ra, việc nghiêm trị
phạm nhân này còn để thanh tẩy cộng đoàn dân Chúa nữa, như thể tẩy
trừ đi thứ men gương mù gương xấu “đủ
làm hư cả khối bột” là cộng
đoàn dân Chúa.
“Những
luật sĩ và biệt phái quan sát xem Người có chữa lành người ấy trong
ngày Sabbat không, để có cớ tố cáo Người”,
nhưng không làm gì được
Người thì
“đầy lòng tức giận, và bàn
định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu” quả là “men
gian tà và độc ác” được Thánh Phaolô đề cập đến ở cuối Bài Đọc 1
hôm nay, thứ “men gian tà và độc ác” Kitô hữu không thể nào nhiễm
lây hay mắc phải, mà là một thứ “men
tinh tuyền và chân chính” về luân lý xứng với danh phận Kitô hữu
của mình.
Thái độ và lối hành sử nghiêm thẳng
của Thánh Phaolô vì phần
rỗi vô cùng cao quí của các linh hồn phạm nhân
trong Bài Đọc 1 hôm nay đối với kẻ loạn luân Kitô hữu ở một giáo
đoàn có vẻ kiêu căng đã phản ảnh những gì chất
chứa trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúa không phải là Chúa tể
ưa điều gian ác, kẻ độc dữ không được cư trú nhà Ngài, đứa bất nhân
không thể đứng trước thiên nhan. Chúa ghét những kẻ làm điều gian
ác.
2) Ngài tiêu diệt những đứa nói man; người độc ác và gian giảo, thì
Chúa ghê tởm không nhìn.
3) Nhưng hết thảy ai tìm đến Chúa sẽ mừng vui, họ sẽ hân hoan cho
tới muôn đời. Chúa che chở họ, họ sẽ mừng vui bởi Chúa, đó là những
kẻ yêu mến danh Ngài.
Thứ
Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) 1 Cr 6, 1-11
"Anh em có việc kiện tụng nhau, và
đem đến trước mặt người ngoại".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, làm sao trong anh em
có người dám đem việc bất bình với kẻ khác ra thưa kiện trước mặt kẻ
gian ác, chứ không trước mặt các thánh? Hay anh em lại không biết
các thánh sẽ phán xét thế gian này sao? Và nếu anh em có quyền phán
xét thế gian, thì anh em không xứng đáng xét xử những việc rất nhỏ
mọn như thế sao? Anh em lại không biết chúng ta sẽ phán xét các
thiên thần sao, phương chi là các việc đời này?
Vậy nếu anh em phải kiện cáo nhau về
những việc đời này, anh em lại cắt đặt những người không đáng kể
trong Hội thánh mà xét xử sao? Thật là một điều nhục cho anh em mà
tôi phải nói như vậy. Chớ thì trong anh em không có người nào khôn
ngoan có thể xét xử giữa anh em sao? Nhưng khi có việc kiện cáo giữa
anh em với nhau mà lại đem đến trước mặt người ngoại ư? Nguyên việc
anh em kiện tụng nhau, cũng đã là một lỗi rồi. Tại sao anh em không
đành chịu một chút bất công? Tại sao anh em không đành chịu một chút
thiệt thòi? Trái lại chính anh em ăn ở bất công và lừa đảo, mà lại
xử như thế với chính anh em mình. Hay anh em lại không biết rằng:
những kẻ gian ác sẽ không được hưởng nước Thiên Chúa sao? Anh em chớ
lầm tưởng: những kẻ gian dâm, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, xấu nết,
loạn dâm, trộm cắp, tham lam, say sưa, vu khống hay bóc lột đều
không được hưởng nước Thiên Chúa đâu.
Xưa kia trong anh em đã có ít người
như vậy. Nhưng anh em đã được rửa sạch, đã được thánh hoá, đã được
công chính hoá, nhân danh Chúa chúng ta là Ðức Giêsu Kitô, và trong
Thánh Thần của Thiên Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 149, 1-2. 3-4. 5-6a và 9b
Ðáp: Chúa
yêu thương dân Người (c. 4a).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca
mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel
hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân; con cái Sion hãy hân hoan vì
vua của họ. - Ðáp.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người.
Hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu
thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. -
Ðáp.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh
quang. Hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời
hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Pl 2, 15-16
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích
trữ lời ban sự sống. Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa
thế gian. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 12-19
"Suốt đêm, Người cầu nguyện, Người
chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu lên
núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng
ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông
đồ: Ðó là Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê,
Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê
con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông
Giacôbê và Giuđa Iscariốt là kẻ phản bội.
Người đi xuống với các ông, và dừng
lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ
dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải
Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh
tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất
cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một
sức mạnh chữa lành mọi người.
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Theo Phúc Âm của Thánh ký Luca từ Thứ Hai đầu Tuần XXII Thường Niên
tới nay, thì sau khi đụng độ với dân làng của Người ngay lần Người
vừa xuất đầu lộ diện (trong bài Phúc Âm Thứ Hai tuần trước), sau khi
kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên (trong bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước), và
sau 4 lần đụng độ với thành phần luật sĩ với biệt phái (theo các bài
Phúc Âm Thứ Năm, Thứ Sáu, Thứ Bảy tuần trước và Thứ Hai tuần này),
hôm nay, Thứ Ba Tuần XXIII Thường Niên, bài Phúc Âm Thánh Luca mới
thuật lại biến cố Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ, thành phần, như
sẽ thấy ở các bài Phúc Âm ngay sau đó trong tuần này, sẽ đặc
biệt được Người huấn luyện để các vị xứng đáng trở nên thành phần
chứng nhân tiên khởi của Người và là nền tảng của Giáo Hội
sẽ được Người thiết lập.
Chính vì tính cách quan trọng của công cuộc tuyển chọn này mà
Phúc Âm đã thuật lại rằng: "Đức
Giêsu đi lên núi
cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên
Chúa. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và
gọi là Tông Đồ".
Chỉ
có 12 tông đồ mà Chúa Giêsu Con Thiên Chúa hằng sống đã phải
thâu đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa là Cha của Người cũng chính
là Đấng sai Người. Chắc bấy giờ Chúa Giêsu chưa có hay chưa đủ 72
môn đệ. Nhưng con số môn đệ theo Người bấy giờ chắc cũng phải trên
12 người, trong đó có cả một số không được Người tuyển chọn bấy giờ,
chẳng hạn như 2 chàng Giuse và Matthia là những người đã ở với Người
ngay từ đầu như các vị khác, trong đó chàng Matthia là vị sau
này được chọn thay cho tông đồ Giuđa Íchca (xem Tông Vụ 1:21-26).
Như thế, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Thiên Chúa không phải để xem
có nên tuyển chọn 12 tông đồ hay chăng, một việc bất khả thiếu theo
khuôn mẫu 12 chi tộc Israel trong Cựu Ước như chính Thiên Chúa đã
thực hiện, vì Dân Tân Ước được hình thành theo khuôn mẫu của Dân
Cựu Ước và Dân Cựu Ước được nên trọn nơi Dân Tân Ước. Danh sách 12
tông đồ được Phúc Âm hôm nay liệt kê như sau: "Đó
là ông Simôn mà Người gọi là Phêrô, rồi đến ông Anrê, anh của ông ;
sau đó là các ông Giacôbê, Gioan, Philípphê, Batôlômêô, Mátthêu,
Tôma, Giacôbê con ông Anphê, Simôn biệt danh là Quá Khích, Giuđa con
ông Giacôbê, và Giuđa Ítcariốt, người đã trở thành kẻ phản bội".
Chúa Giêsu cầu nguyện trước hết là để hội ý với Cha của Người về
những ai trong số thành phần môn đệ của Người bấy giờ xứng đáng trở
thành 12 tông đồ trụ cột cho Giáo Hội Người sẽ thiết lập cho đến tận
thế. Có thể lúc ấy Người cũng cầu nguyện để lĩnh ý Cha của Người
về đường lối huấn luyện thành phần tông đồ nồng cốt này, về sứ vụ
chứng nhân thừa sai của các vị trong tương lai, về vai trò quản trị,
giảng dạy và thánh hóa của các vị được thừa kế bởi hàng giáo phẩm
sau này.
Tóm lại, trong đêm nguyện cầu này của mình, Chúa Giêsu có thể đã có
một viễn ảnh về riêng Giáo Hội Người sẽ thiết lập để làm bí tích
cứu độ cho toàn thể nhân loại.
Thế nhưng, sở dĩ "Người
đã (phải) thức
suốt đêm cầu nguyện", cầu
nguyện lâu đến như vậy, phải chăng là vì Người cầu nguyện cho từng
người môn đệ sẽ trở thành tông đồ của Người, trong đó đặc biệt có 2
người môn đệ cần đến lời cầu nguyện của Người hơn cả là một môn đệ
Simon Phêrô sau này sẽ chối Người 3 lần mà Người vẫn tiếp tục tin
tưởng đặt làm thủ lãnh tông đồ đoàn, và một Giuđa Íchca sau này sẽ
phản nộp Người. Bấy giờ Người cũng có thể nghĩ đến người môn đệ được
Người yêu thương cách riêng là Gioan, nhất là đến một đệ nhất môn đệ
hoàn hảo của Người là Mẹ Maria, vị sẽ thay Người chăm sóc các
tông đồ sau khi Người về Trời vì Mẹ là Mẹ của Giáo Hội.
Ở cuối bài Phúc Âm hôm nay chúng ta còn thấy một hình ảnh đặc
biệt khác nữa, liên quan đến chính việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12
tông đồ, đó là "Đức
Giêsu đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng.
Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền
Giuđê, Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xiđôn đến để
nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật".
Phần cuối bài Phúc Âm hôm nay quả thực đã cho thấy việc Chúa Giêsu
tuyển chọn 12 tông đồ là để cùng Người phục vụ toàn thể nhân loại, ở
chỗ: "Đức
Giêsu đi xuống cùng với các ông". Và
hành động "đi xuống" này chỉ xẩy ra sau hành động đi lên: "Đến
sáng, Người kêu các môn đệ lại" với
Người bấy giờ đang ở trên núi cầu nguyện vừa xong. Có nghĩa là các
vị môn đệ trở thành tông đồ này phải có một đời sống vươn lên với
Người và sống như Người, ở chỗ sống trổi vượt trên trần gian, các vị
mới có thể làm chứng cho Người như "ánh sáng thế gian", như "một
thành xây trên núi không thể nào khuất được nữa" (Mathêu 5:14).
Tuy nhiên, địa điểm dừng lại của hành động sau khi đi "lên núi"
"Đức
Giêsu đi xuống cùng với các ông" đây,
như Phúc Âm cho thấy "ở
một chỗ đất bằng", chứ
không phải ở một thung lũng hay ở đồng bằng hoặc trong sa mạc. Nghĩa
là ở một nơi lưng chừng núi, có thể hiểu là ở sườn núi, một tầm
mức không cao không thấp, vừa tầm với dân chúng, nhờ đó họ có thể "đến
để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật".
Trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô, qua Thư 1 gửi Giáo đoàn
Corinto, đã khẳng định, huấn dụ và
cảnh giác
về việc kiện cáo nhau trong nội bộ
Kitô hữu với nhau:
1-
Trước
hết ngài khẳng định rằng
Kitô hữu không nên kiện cáo trong ở tòa đời: “Nguyên
việc anh em kiện tụng nhau, cũng đã là một lỗi rồi”;
2-
Sau nữa ngài huấn dụ rằng thà chịu thiệt còn hơn kiện cáo nhau trước
tòa đời: “Tại
sao anh em không đành chịu một chút thiệt thòi?;
3-
Sau hết ngài cảnh giác thành phần kiện cáo thường là những Kitô hữu
gian manh bất chính: “Trái
lại chính anh em ăn ở bất công và lừa đảo, mà lại xử như thế với
chính anh em mình.
Anh em lại không biết rằng: những kẻ gian ác sẽ không được hưởng
nước Thiên Chúa sao?”
Tuy nhiên, ngài cuối
cùng vừa khẳng định vừa cảnh giác về số phận của những Kitô hữu gian
ác trong lối sống mà lại còn kiện cáo nhau đòi công bằng ở tòa đời
như thế này:
“Anh em chớ lầm tưởng: những kẻ gian dâm,
thờ ngẫu tượng, ngoại tình, xấu nết, loạn dâm, trộm cắp, tham lam,
say sưa, vu khống hay bóc lột đều không được hưởng nước Thiên Chúa
đâu. Xưa kia trong anh em đã có ít người như vậy. Nhưng anh em đã
được rửa sạch, đã được thánh hoá, đã được công chính hoá, nhân danh
Chúa chúng ta là Ðức Giêsu Kitô, và trong Thánh Thần của Thiên Chúa
chúng ta”.
Những
gì được Thánh Phaolô khẳng định và cảnh báo trong Bài Đọc 1 hôm nay,
nghĩa là những huấn dụ kihôn ngoan của ngài, những huấn dụ trọn lành
của ngài, chứng tỏ ngài đã được Chúa Kitô đưa lên núi cao, thậm chí
lên tới tầng trời thứ ba, nơi ngài được thây và được nghe những gì
chưa từng cảm nghiệm, hoàn toàn vượt trên tầm mức trần tục tự nhiên,
nhờ dó, như 12 môn đệ đặc biệt trở thành tông đồ trong Phúc Âm hôm
nay, thành phần đươc chiêm ngưỡng Nước Trời đang ở giữa các vị là
Chúa Kitô, các vị mới có đủ tư cách và khả năng là những vị chứng
nhân tiên khởi của Chúa Kitô..
Để rồi, như 12 vị tông đồ khác cùng Chúa Kitô xuống núi hạ sơn hành
hiệp, ngài đã có được những minh thức thần linh, được tỏ hiện qua
những huấn dụ khôn ngoan trọn lành ngài ban phát để chữa lành tâm
hồn dân chúng đáng thương hơn là đáng luận phạt bởi đời sống tầm
thường trần tục xấu xa gian ác của họ, giúp họ cũng được công chính
hóa như bản thân ngài, một con người đã từng là một anh chàng biệt
phái vẫn tự phụ mình là công chính cho tới khi bị Chúa Kitô quật
ngã, và mở mắt ra mới thấy mình lầm lạc đáng thương..
Đó là lý do chúng ta mới thấy được niềm
vui cùng với tất cả nỗi hân hoan chúc tụng nơi tâm tình của Bài Đáp
Ca hôm nay:
“vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến
thắng vẻ vang”.
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy
vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng
vui vì Ðấng tạo tác bản thân; con cái Sion hãy hân hoan vì vua của
họ.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người. Hãy hát mừng Người với cây
đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho
kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh
quang. Hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời
hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc
I: (Năm
II) 1 Cr 7, 25-31
"Ngươi bị ràng buộc với vợ ư? Ngươi
đừng tìm cách tháo gỡ. Ngươi không còn ràng buộc với vợ ư? Ngươi
đừng tìm cưới vợ nữa".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, về những người đồng
trinh, tôi không có lời Chúa truyền dạy nào, nhưng tôi đã được Chúa
thương, nên tôi cho ý kiến như một người đáng tin cậy. Vậy tôi nghĩ
rằng đó là một điều tốt theo nhu cầu hiện tại. Phải, người ta ở vậy
quả là một điều tốt. Ngươi bị ràng buộc với vợ ư? Ngươi đừng tìm
cách tháo gỡ. Ngươi không còn bị ràng buộc với vợ ư? Ngươi đừng tìm
cưới vợ nữa. Nhưng nếu ngươi cưới vợ, ngươi chẳng có tội gì. Và nếu
kẻ đồng trinh kết bạn, thì chẳng có tội gì. Nhưng những người thể
ấy, sẽ chuốc lấy khốn khổ vào thân. Phần tôi, tôi muốn cho anh em
tránh được điều đó.
Anh em thân mến, tôi nói cùng anh em
điều này là: Thời giờ vắn vỏi; còn có cách là những ai có vợ, hãy ăn
ở như không có; những ai than khóc, hãy ăn ở như không than khóc;
những kẻ hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những người mua sắm,
hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời này, hãy ăn ở như
không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian này đang qua đi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 44, 11-12. 14-15. 16-17
Ðáp: Xin
hãy nghe, thưa nương tử, hãy coi và hãy lắng tai (c. 11a).
Xướng: 1) Xin hãy nghe, thưa nương tử,
hãy coi và hãy lắng tai, hãy quên dân tộc và nhà thân phụ, để Ðức
Vua Người sủng ái dong nhan: chính Người là Chúa của cô nương, hãy
phục vụ Người. - Ðáp.
2) Tất cả huy hoàng là nàng công chúa
đi vào cung nội, áo nàng dệt bằng những sợi chỉ vàng. Bận áo gấm sặc
sỡ, nàng được dẫn tiến Ðức Vua, theo sau nàng là những cô trinh nữ
bạn bè, họ cũng được bệ kiến long nhan. - Ðáp.
3) Họ bước đi trong niềm hân hoan vui
vẻ, tiến vào trong cung điện Ðức Vua. Người sẽ có con nối gót tiên
vương liệt vị, và phong họ làm quan trên cả sơn hà. - Ðáp.
Alleluia: Ep 1, 17-18
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa Cha của
Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được sáng
suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi
chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 20-26
"Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn
cho các ngươi là kẻ giàu có".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn các
môn đệ và nói:
"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo
khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là
những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các
ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui
cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét,
trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ các ngươi như kẻ bất
lương, ngày ấy các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần
thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối
xử với các tiên tri y như thế.
"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu
có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là
kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các
ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc.
Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha
ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả".
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Từ
hôm nay, Thứ Tư Tuần XXIII Thường Niên, cho đến hết Thứ Bảy tuần
này, Giáo Hội chọn đọc đoạn 6 của Phúc Âm Thánh ký Luca, đoạn về Bài
Giảng Sống Thương Xót của Chúa Giêsu, nhưng chỉ có gần 1 đoạn 6 ngắn
gọn hơn của Thánh ký Mathêu (dài tới 3 đoạn, từ đầu đoạn 5 đến
hết đoạn 7).
Tuy nhiên, nội dung của cả hai Phúc Âm cũng giống nhau, ở chỗ: 1-
Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Người hơn là dạy chung dân chúng, và ở
chỗ: 2- Chúa Giêsu muốn cho thành phần môn đệ của Người, nhất là các
tông đồ, phải "nên trọn lành như Cha của các con ở trên trời
là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48), tức là phải biết "cảm thương
như Cha của các con là Đấng thương xót" (Luca 6:36).
Thật vậy, bài giảng trọn lành (theo Thánh Mathêu) cũng là bài giảng
thương xót (theo Thánh Luca), được Chúa Giêsu giảng dạy cho riêng
các môn đệ của Người hơn là cho chung dân chúng. Bởi thế, trong bài
Phúc Âm hôm nay, ngay mở đầu, Thánh ký Luca đã viết một chi tiết rất
quan trọng như sau: "Khi ấy, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn các môn đệ
và nói".
Người đã nói những gì? Trong bài Phúc Âm theo Thánh ký Luca hôm nay,
trước hết, Chúa Giêsu đã nói về bốn điều lành được Người khẳng định
là "phúc", cho dù trái với lý lẽ tự nhiên, và bốn cái dữ mà
Người xác quyết là "khốn", bất chấp bản chất tốt lợi của
chúng, trong khi đó ở Phúc Âm Thánh ký Mathêu (đầu đoạn 5) chỉ có 8
Mối Phúc Thật, hoàn toàn không có 4 sự dữ tiêu cực như trong Phúc Âm
của Thánh ký Luca hôm nay.
Trước hết là bốn điều lành được Người khẳng định là "phúc":
"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của
các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các
ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải
khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì
Con Người mà các ngươi bị người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng,
và loại trừ như kẻ bất lương, ngày ấy các ngươi hãy hân hoan và reo
mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính
cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế".
Sau nữa là bốn cái dữ mà Người xác quyết là "khốn":
"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được
phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được đầy đủ no nê, vì
các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui
cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi các
ngươi được mọi người ca tụng, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử
như vậy với các tiên tri giả".
Chúng ta thấy cái tương phản hoàn toàn với nhau một cách nẩy
lửa giữa 4 điều lành và 4 cái dữ trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca
hôm nay, thứ tự như sau:
1- "Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó" >< "Khốn cho
các ngươi là kẻ giàu có";
2- "Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói
khát" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ đã được đầy đủ no
nê";
3- "Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc
lóc" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười";
4- "Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người các ngươi bị người
ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng, và loại trừ như
kẻ bất lương" >< "Khốn cho các ngươi khi các ngươi được mọi
người ca tụng".
Thật ra, 4 cái Người gọi là "khốn" này, tự bản chất của
chúng, không có gì là xấu, nhưng nếu con người vốn thiên về tự nhiên
và hưởng thụ chúng có thể trở thành "dịp tội" nơi họ và cho họ,
khiến họ, nhất là thành phần theo Chúa, thành phần sống trọn lành
hơn, thành phần chứng nhân của Người, bị hòa đồng với thế gian và
biến mất trong thế gian, đến độ có thể trở thành phản chứng Kitô
giáo, thành những tiên tri giả hay kitô giả, như vẫn thấy xẩy ra
trong lịch sử Giáo Hội, đặc biệt là trong thời đại mà nhiều người
cho là tận thế đến nơi rồi đây.
Một điển hình có thể áp dụng một cách cụ thể vào cái "khốn" cho
những ai "no nê" đó là những ai thích thưởng thức loại bữa ăn "all
you can eat / ăn tha hồ mặc sức". Thật vậy, để có thể "ăn thả
dàn, ăn mặc sức" những gì mình thích, nhiều món mình thích mà giá
cũng không mắc lắm hay cũng đáng, người ta, trước hết phải nhịn ăn
trước đó để có sức mà thưởng thức tối đa. Cái đói trước bữa ăn
này đã là một cái "khốn" đầu tiên. Thế rồi, cái đói trong bữa ăn
kiểu này nữa, đó là một khi ăn món này nhiều thì các món còn lại
cũng ngon không thể ăn nhiều được nữa, tiếc tiền, đó là cái "khốn"
thứ hai. Cái "khốn" thứ ba đó là sau khi ăn xong cái bụng sao mà nó
nặng nề khó chịu quá sức. Chưa hết, cái "khốn" cuối cùng và là cái
"khốn" nguy hiểm nhất đó là bị cao mỡ, vì đã ăn quá nhiều tôm hùm
hay cua là những hải sản mắc tiền hiếm quí.
Trái lại, cũng thế, 4 điều được Chúa Giêsu gọi là "phúc" đây, tự
bản chất của chúng, quả thực là dữ, là xấu, là bất lợi, khiến con
người bản tính vốn vướng mắc nguyên tội cảm thấy bất hạnh, nên họ
bao giờ cũng hoàn toàn muốn tránh né hay được giải thoát. Thế nhưng,
với thành phần sống đức tin và vượt thoát, sống gần
với Đấng đã đến để phục vụ hơn hưởng thụ (xem Mathêu 20:28), sống
chứng nhân cho Đấng đã sống thân phận mục nát của hạt lúa miến trong
lòng đất (xem Gioan 12:24), thì những cái bất hạnh ấy lại trở thành
phương tiện siêu thoát của họ và cứu độ trần gian.
Thật thế, 4 thứ phúc và 4 thứ khốn được Chúa Kitô đề cập đến trong
Bài Phúc Âm hôm nay là ở nơi lòng con người như vậy, chứ không phải
ở nơi chính sự vật khách quan, vì chúng chỉ là những phương tiện cần
có để sống động và phục vụ. Đó là lý do vị tông đồ dân ngoại Phaolô,
qua thư 1 gửi giáo đoàn Corinto, đã phân định về các mối liên hệ
trần gian như sau:
“Phải, người ta ở vậy quả là một điều tốt.
Ngươi bị ràng buộc với vợ ư? Ngươi đừng tìm cách tháo gỡ. Ngươi
không còn bị ràng buộc với vợ ư? Ngươi đừng tìm cưới vợ nữa. Nhưng
nếu ngươi cưới vợ, ngươi chẳng có tội gì. Và nếu kẻ đồng trinh kết
bạn, thì chẳng có tội gì”.
Tuy nhiên, theo chủ quan, và kinh nghiệm thấy được, ngài vẫn cảm
thấy thương cảm với thành phần “đồng trinh kết bạn” vì theo ngài “những
người thể ấy, sẽ chuốc lấy khốn khổ vào thân”. Chính vì thế,
vì lợi ích thiêng liêng cho Kitô hữu của mình, ngài đã thành thật
bày tỏ: “Phần
tôi, tôi muốn cho anh em tránh được điều đó”.
Để rồi, ngay sau đó, ở cuối Bài Đọc hôm nay, ngài đã phấn khích một
giải pháp dung hòa, nhờ đó, Kitô hữu nào cũng có thể áp dụng thực
hành trong bậc sống và hoàn cảnh sống của họ, một giải pháp có thể
nói là sống ở thế gian mà không thuộc về thế gian, một giải
pháp sống vì Chúa và cho Chúa hơn là vì mình và cho mình,
như sau:
“Anh em thân mến, tôi nói cùng anh em điều này là: Thời giờ vắn vỏi;
còn có cách là những ai có vợ, hãy ăn ở như không có; những ai than
khóc, hãy ăn ở như không than khóc; những kẻ hân hoan, hãy ăn ở như
không hân hoan; những người mua sắm, hãy ăn ở như không có gì; những
ai dùng sự đời này, hãy ăn ở như không tận hưởng, vì chưng bộ mặt
thế gian này đang qua đi”.
Bài Đáp Ca hôm nay đã khéo léo diễn tả một cách rất chính xác về
những tâm hồn sống nội tâm như
”tất cả huy hoàng là nàng công chúa đi vào cung nội” (câu 2),
những tâm hồn
sống nội tâm đến độ có thể nói
không gì có thể chi phối được họ, lấy mất được tình trạng bình an
sâu xa tự tại của họ, trong khi
“họ bước đi trong niềm hân
hoan vui vẻ, tiến vào trong cung điện Ðức Vua” (câu 3), Đấng
“sủng
ái dong nhan” của họ (câu 1).
Thứ Năm
Ngày 8/9 - Lễ Sinh Nhật Ðức Trinh Nữ Maria
(Trích Thần Đô Huyền Nhiệm)
Ngày mồng tám tháng chín, thánh nữ Anna hiểu rằng bà sắp sinh Người
Con bà hằng ước nguyện. Bà xấp mình cầu xin Thiên Chúa chúc phúc cho
con mình. Lúc đó, Mẹ Maria được Chúa cho xuất thần rất cao cả, không
thấy được mình sinh vào trần gian như thế nào. Lúc ra khỏi cơn xuất
thần ấy, Mẹ đã thấy mình đẹp đẽ nằm trên tay thân mẫu mình. Thánh nữ
Anna được gìn giữ khỏi mọi đau đớn thông thường nơi các bà mẹ sinh
con, bà dâng lên Thiên Chúa lời nguyện rằng: "Lạy Đấng Sáng Tạo mọi
loài, con xin dâng Chúa người con mà con vừa được lòng lành Chúa ban
cho. Con xin cảm tạ Chúa. Xin Chúa định đoạt cho mẹ con con theo ý
Chúa. Con xin chúc tụng Chúa muôn đời. Con là một kẻ bất xứng, xin
dạy con biết cách nuôi nấng người con của Chúa".
Thiên Chúa trả lời trong lòng bà, là bà cứ cư xử như mọi người Mẹ cư
xử với con mình, đừng tỏ ra một niềm tôn kính nào bề ngoài, cứ tôn
kính trong tâm hồn là đủ. Nhưng phải hết sức cẩn trọng và yêu đương.
Các thiên thần hầu cận Mẹ, cùng với vô số thiên thần khác tháp tùng,
đến tỏ niềm tôn kính Mẹ. Họ hát lên một khúc ca thiên đàng, rồi bắt
đầu phục vụ Mẹ. Lần đầu tiên Mẹ nhìn thấy họ dưới hình người. Mẹ mời
họ ca tụng Chúa với Mẹ và nhân danh Mẹ.
Đức tổng thiên thần Gabrien được Thiên Chúa sai đến báo cho các
thánh ở u ngục biết tin mừng Mẹ sinh ra, một tin mừng làm các ngài
hoan hỉ và tri ân vô ngần.
Tất cả những sự việc đó qua đi rất mau chóng. Thiên Chúa đã thực
hiện nơi Mẹ Maria nhiều sự việc rất lạ lùng khác nữa. Việc đầu tiên
là sai các thiên thần rước Mẹ lên thiên đàng. Các ngài chỉnh đốn
hàng ngũ thành một cuộc khải hoàn long trọng, vừa rước Mẹ lên cao
vừa ca hát cho tới trước uy nghi Thiên Chúa. Mẹ xấp mình thờ lạy
Chúa.
Ngôi Lời nâng Mẹ lên, đặt bên hữu mình. Lĩnh nhận nhiều mạc khải
mới, tất cả các tài năng của Mẹ tăng triển thêm. Mẹ được nhìn thấy
thần tính Thiên Chúa tỏ ra ở một góc độ tuyệt vời. Bừng cháy nhiệt
tâm cho danh Chúa cả sáng, Mẹ nái xin Thiên Chúa mau thi hành đơn
Nhập Thể để cứu chuộc thế gian. Thiên Chúa đoan quyết với Mẹ là ước
nguyện ấy của Mẹ sắp được thực hiện.
Sau đó, Thiên Chúa Ba Ngôi tỏ cho các thiên thần biết rằng từ đời
đời Ngài đã tác tạo cho Mẹ và cho Ngôi Con danh hiệu Maria và Giêsu.
Trong hai danh hiệu đó, Ngài được thỏa lòng hoàn toàn. Rồi Ngài
phán: "Danh hiệu Maria phải được hiển vinh lạ thường. Những ai thành
thực sốt sắng kêu cầu danh hiệu ấy sẽ được ban nhiều ân sủng. Những
ai kính cẩn đọc lên sẽ được ủi an. Mọi người đều tìm được trong danh
hiệu ấy phương dược trị liệu bệnh tật mình; được ánh sáng soi đường;
được kho tàng cứu giúp sự túng nghèo. Danh hiệu Maria làm run sợ hoả
ngục và đạp nát đầu cựu xà Satan".
Chính Chúa đặt danh hiệu ấy cho Mẹ. Mẹ đón nhận với những lời ca
ngợi lạ lùng. Lúc Thiên Chúa đọc danh hiệu ấy lên, các thiên thần
đều phủ phục, bái chào, hát lên thánh ca tán tụng, nhất là những vị
mang biểu hiệu danh hiệu ấy càng nhiệt liệt tán tụng hơn. Sau đó,
cũng các Thiên Thần đã rước Mẹ lên trời lại rước Mẹ xuống đặt trên
tay Thánh Nữ Anna nhưng bà không hề biết gì về sự mẹ vắng mặt. Trong
lúc đó, bà được ơn xuất thần, biết được nhiều sự kiện cao cả về chức
phẩm Mẹ Thiên Chúa.
Tám ngày sau, rất đông thiên thần từ trời xuống, mang theo một biểu
ngữ sáng láng, ghi danh hiệu Maria. Họ nói với Thánh Nữ Anna phải
mau kíp đặt tên ấy cho Con bà. Bà đi nói với Thánh Gioan Kim. Ông bà
liền tổ chức một bữa tiệc thịnh soạn, mời bà con thân thuộc và một
tư tế đến dự. Trong niềm trịnh trọng hân hoan, ông bà đặt tên rất
dịu dàng Maria cho Con Rất Thánh của mình. Các thiên thần lại tấu
lên một khúc nhạc tuyệt vời, chỉ có hai mẹ con bà Anna được thưởng
thức. Hạnh phúc cho trái đất biết bao, vì đã có Mẹ Đấng Cứu Chuộc.
Lời Mẹ nhắn nhủ:
Con hay gắng noi gương Mẹ trong việc Mẹ đã làm suốt đời Mẹ từ khi Mẹ
sinh ra. Lúc ngày mới bắt đầu, Mẹ sấp mình dưới chân Chúa, ca tụng
Chúa vì những ưu phẩm vô cùng của Ngài, rồi nhìn nhận chủ quyền
tuyệt đối của Ngài trên vạn vật. Mẹ cũng cảm tạ Chúa vì Ngài đã kéo
Mẹ ra khỏi hư vô. Mẹ hoàn toàn phó thác dâng mình cho Ngài, để Ngài
định đoạt về Mẹ tùy ý Ngài muốn trong ngày, cũng như trong suốt cuộc
sống của Mẹ. Mẹ cầu xin Ngài cho Mẹ biết được những gì đẹp lòng Ngài
để Mẹ chu toàn. Mẹ xin Ngài hướng dẫn, ban phép lành và chúc phúc
cho hết mọi việc Mẹ làm. Mẹ còn nhắc đi nhắc lại những hành vi đó
nhiều lần trong ngày.
Càng thực tâm nhiệt thành tôn kính danh hiệu rất dịu ngọt của Mẹ,
con càng đi trên đường của Mẹ. Con nên biết rằng Thiên Chúa đã ban
cho Danh Hiệu ấy không biết bao nhiêu là ân sủng và đặc ân. Mẹ không
thể nghĩ đến hay nghe đọc đến Danh Hiệu ấy mà lại không dâng lời cảm
tạ Chúa. Cho nên Mẹ quyết định làm những việc cả thể cho Chúa là
Đấng đã ban cho Mẹ Danh Hiệu quí báu ấy.
Phụng Vụ Lời Chúa theo ngày
Bài Ðọc
I: (Năm
II) 1 Cr 8, 1b-7, 11-13
"Anh em làm tổn thương lương tâm
yếu đuối của họ, là anh em phạm đến Ðức Kitô".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, sự thông thái làm cho
người ta ra kiêu căng, còn lòng yêu thương thì xây dựng. Nếu ai
tưởng mình biết điều gì, thì kẻ ấy chưa biết mình phải biết đúng
cách. Nhưng nếu ai yêu mến Thiên Chúa, thì kẻ ấy được Thiên Chúa
nhận biết. Còn về đồ ăn đã cúng tế cho các ngẫu tượng, chúng ta biết
ngẫu tượng ở thế này là hư vô, và chẳng có Chúa nào khác ngoài một
Thiên Chúa. Vì chưng, dù trên trời dưới đất, có những vị được người
ta gọi là thần, (thật ra người ta cho rằng có nhiều thần nhiều
chúa), nhưng đối với chúng tôi, chỉ có một Thiên Chúa là Cha, bởi
Người mà mọi sự đều có và chúng ta phải quy về Người. Và có một Chúa
là Ðức Giêsu Kitô, nhờ Người mà có mọi sự, và cũng nhờ chính Người
mà có chúng ta. Nhưng không phải mọi người đều có sự thông biết, vì
cho đến nay, còn có ít kẻ giữ thói quen thờ ngẫu thần, nên họ ăn của
cúng tế cho ngẫu tượng, và lương tâm họ vốn yếu đuối, nên ra nhơ
nhớp.
Và tại sự thông biết của ngươi, mà
người anh em yếu đuối phải hư đi, người anh em mà Ðức Kitô đã chết
cho. Và làm tổn thương lương tâm yếu đuối của họ, là anh em phạm đến
Ðức Kitô. Vì thế, nếu thức ăn làm cho người anh em tôi vấp phạm, thì
tôi sẽ không ăn thịt cho tới muôn đời, kẻo làm cho người anh em tôi
vấp phạm.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 138, 1-3. 13-14ab. 23-24
Ðáp: Lạy
Chúa, xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời (c. 24b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và
biết rõ con, Ngài biết con lúc con ngồi, khi con đứng. Ngài hiểu
thấu tư tưởng con từ đàng xa. Khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài
thấy hết; Ngài để ý tới mọi đường lối của con. - Ðáp.
2) Chính Ngài đã nặn ra thận tạng con,
đã dệt ra con trong lòng thân mẫu. Con ngợi khen Ngài đã tạo nên con
lạ lùng như thế, vì công cuộc của Ngài thực diệu huyền. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin dò xét con và nhận
biết lòng con; xin thử thách con và biết tỏ tư tưởng con. Xin Chúa
nhìn coi hoặc giả con đi đường bất chính, và xin hướng dẫn con trong
đường lối đời đời. - Ðáp.
Alleluia: 2 Cr 5, 19
Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa ở
trong Ðức Kitô đã giải hoà thế gian với Người, và đã đặt lời giải
hoà trên môi miệng chúng tôi. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 27-38
"Các con hãy tỏ lòng thương xót như
Cha các con hay thương xót".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ
thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ
nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả
con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì
con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai
lấy gì của con, thì đừng đòi lại.
Các con muốn người ta làm điều gì cho
các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ
yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng
yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho
các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như
vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì
còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi
vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng.
Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn
và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy
giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao, vì Người nhân
hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác.
Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các
con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán;
đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ
được thứ tha. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu
hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì
các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Tiếp tục đề tài sống trọn lành hay sống cảm thương với các môn đệ,
nhất là với thành phần 12 vị vừa được tuyển chọn làm tông đồ của
mình, Chúa Giêsu đã đi thẳng và đi ngay vào những gì chính yếu nhất
và thiết yếu nhất Người muốn nói với các vị và muốn các vị sống như
vậy.
Thật thế, ngay sau khi mở màn như một dạo khúc cho bài huấn dụ trọn
lành cũng là bài huấn dụ về lòng cảm thương này, một dạo khúc bao
gồm 4 "phúc" hạnh và 4 "khốn" nạn tương phản nhau, một
dạo khúc đã được Chúa Giêsu tài tình hòa âm cho hai bè hát xung khắc
nhau, nhưng một khi trình diễn với tất cả hồn sống của mình
thì chính ca sĩ mới cảm thấy thấm thía hơn bao giờ hết, nhất là khi
hát đến các phiên khúc chính yếu và các kết thúc của bản thánh ca
thương xót huyền diệu siêu vời này.
Bản Thánh Ca Thương Xót này, mà điệp khúc là phần hòa âm hai bè "phúc/khốn" đầy
tính chất giằng co nhức nhối, có tất cả 2 phiên khúc và 2 đoạn
kết thứ tự được liệt kê như sau:
Bài Thánh Ca Thương Xót - Phiên khúc thứ nhất:
"Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc
phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu
khống mình. Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo
ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì
con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại".
Bài Thánh Ca Thương Xót - Phiên khúc thứ hai:
"Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho
người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân
nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và
nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa
gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai
vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những
người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại
sòng phẳng".
Bài Thánh Ca Thương Xót - Đoạn tạm kết:
"Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không
trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các
con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội
bạc và những kẻ gian ác".
Bài Thánh Ca Thương Xót - Đoạn tận kết:
"Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét
đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi
bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được thứ tha. Hãy ban
tặng, thì các con sẽ tặng lại; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn,
đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu
nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".
Tất cả nội dung và ý nghĩa của bản Thánh Ca Thương Xót này, tức là
tột đỉnh của bản Thánh Cha Trọn Lành này đều được cô đọng ở
chung đoạn tổng kết và ở riêng câu đầu của đoạn tổng kết ấy, đó
là: "các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ".
Mà "nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ" ở chỗ
nào, nếu không phải, cũng trong đoạn tổng kết, ở 4 thái độ thứ tự
là: 1- "Ðừng xét đoán", 2- "Ðừng kết án", 3- "Hãy tha thứ" và 4-
"Hãy ban tặng".
Trong 4 thái độ để phản ảnh lòng nhân từ của Cha trên trời xót
thương nhân loại vừa được tóm kết trên đây, có 2 thái độ mang tính
cách tránh những gì là tiêu cực: 1- "Ðừng xét đoán", 2- "Ðừng kết
án", và 2 thái độ có tính cách thực hiện những gì là tích cực: 3-
"Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng".
1- "Ðừng xét đoán" và 2- "Ðừng
kết án": bởi vì, "Thiên Chúa không sai Con
Ngài đến thế gian để luận án thế gian nhưng là để thế gian nhờ Người
mà được cứu độ" (Gioan 3:16). Bởi vậy, những ai muốn "thương
xót như Cha thương xót", nhất là thành phần môn đệ của Chúa
Kitô được Người tuyển chọn làm chứng nhân cho Người, cũng "đừng
xét đoán" và "đừng kết án".
3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy
ban tặng": bởi vì, "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến
ban Người Con duy nhất của Ngài, để ai tin vào Người thì không phải
chết ("tha thứ") nhưng được sự sống đời đời ("ban
tặng")" (Gioan 3:16). Bởi vậy, những ai muốn "thương xót như
Cha thương xót", nhất là thành phần môn đệ của Chúa Kitô được
Người tuyển chọn làm chứng nhân cho Người, cũng "hãy tha thứ"
và "hãy ban tặng", ở chỗ vừa "tha thứ" vừa "ban
tặng" đúng như phiên khúc 1 đã khuyên dạy: "(Tha Thứ) - Ai vả
con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì
con cũng đừng cản nó lấy áo trong. (Ban Tặng) - Ai xin, thì
con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại".
Giáo huấn của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay là giáo huấn sống
trọn lành, sống đức ái trọn hảo, ở chỗ quan tâm đến tha nhân hơn bản
thân mình, thậm chí coi tha nhân hơn mình, hy sinh tất cả vì lợi ích
của tha nhân. Đó là lý do trong thư 1 gửi giáo đoàn Corinto ở Bài
Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô đã khẳng định một điều chí lý cả về tâm
lý lẫn tu đức như sau:
“Anh em thân mến, sự thông thái làm cho người ta ra kiêu căng, còn
lòng yêu thương thì xây dựng”.
Chính Thánh Phaolô là vị thông hiểu hơn ai hết về thế giới siêu
linh, đã cảnh giác thành phần hiểu biết mà không sống đức ái trọn
hảo, như ngài chia sẻ như sau:
“Và tại sự thông biết của ngươi, mà người anh em yếu đuối phải hư
đi, người anh em mà Ðức Kitô đã chết cho. Và làm tổn thương lương
tâm yếu đuối của họ, là anh em phạm đến Ðức Kitô. Vì thế, nếu thức
ăn làm cho người anh em tôi vấp phạm, thì tôi sẽ không ăn thịt cho
tới muôn đời, kẻo làm cho người anh em tôi vấp phạm”.
Những con người sống đức ái trọn hảo là thành phần có một kiến thức
tối thượng, bởi, như Thánh Phaolô xác quyết trong cùng Bài Đọc 1 hôm
nay:
“ai yêu mến Thiên Chúa, thì
kẻ ấy được Thiên Chúa nhận biết”, đúng như những
gì được diễn tả trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con, Ngài biết con lúc con
ngồi, khi con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con từ đàng xa. Khi con
bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết; Ngài để ý tới mọi đường lối của
con.
2) Chính Ngài đã nặn ra thận tạng con, đã dệt ra con trong lòng thân
mẫu. Con ngợi khen Ngài đã tạo nên con lạ lùng như thế, vì công cuộc
của Ngài thực diệu huyền.
3) Lạy Chúa, xin dò xét con và nhận biết
lòng con; xin thử thách con và biết tỏ tư tưởng con. Xin Chúa nhìn
coi hoặc giả con đi đường bất chính, và xin hướng dẫn con trong
đường lối đời đời.
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) 1 Cr 9, 16-19. 22b-27
"Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả
mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nếu tôi rao giảng Tin
Mừng, thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu
cầu đối với tôi. Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.
Giả như nếu tôi tự ý đảm nhận việc ấy, thì tôi có công; nhưng nếu
tôi bị ép buộc, thì tôi phải làm trọn nghĩa vụ đã giao phó cho tôi.
Vậy thì phần thưởng của tôi ở đâu? Khi rao giảng Tin Mừng, tôi đem
Tin Mừng biếu không, tôi không dùng quyền mà Tin Mừng dành cho tôi.
Mặc dầu tôi được tự do đối với tất cả
mọi người, tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người, hầu thu hút được
nhiều người hơn. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm
cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin
Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng. Anh em không biết
rằng những kẻ chạy trong vận động trường, thì mọi người đều chạy
nhưng chỉ có một người đoạt giải đó sao? Cũng vậy, anh em hãy chạy
sao để đoạt được giải. Mọi tay đua đều phải kiêng cữ đủ điều, và
những kẻ ấy kiêng cữ để đoạt lấy triều thiên hay hư nát, còn chúng
ta, chúng ta nhắm đoạt triều thiên không hay hư nát.
Phần tôi cũng chạy như thế, chứ không
phải chạy lẩn quẩn; tôi đấu võ, không phải như đấm vào không khí,
nhưng tôi chế ngự thân xác, bắt nó tùng phục tôi, kẻo lỡ ra tôi
giảng dạy cho kẻ khác, mà chính tôi phải bị loại ra chăng.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 83, 3. 4. 5-6. 12
Ðáp: Ôi
Chúa thiên binh, khả ái thay cung điện của Ngài (c. 2).
Xướng: 1) Linh hồn tôi khát khao và
mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Thiên Chúa. Tâm thần và thể xác tôi
hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa trường sinh. - Ðáp.
2) Ðến như chim sẻ còn kiếm được nhà,
và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để làm nơi ấp ủ con mình, cạnh bạn thờ
Chúa. Ôi Chúa là Thiên Chúa thiên binh, ôi Ðại Vương và Thiên Chúa
của con. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi
nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa tới muôn đời. Phúc thay người được
Chúa nâng đỡ, họ tiến lên ngày càng thêm hăng hái. - Ðáp.
4) Vì
Thiên Chúa là thuẫn khiên, thành lũy. Thiên Chúa rộng ban ân sủng
với vinh quang. Ngài không từ chối ơn lành với những ai sống sạch
trong vô tội. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến
Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng
Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 39-42
"Người mù có thể dẫn người mù được
chăng?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ dụ ngôn này: "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại
không sa xuống hố ư? Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ được
giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi.
"Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh
em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi
có thể nói với người anh em: "Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong
con mắt anh", trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt
ngươi. Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã,
rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi".
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXIII Thường Niên, Thánh ký Luca
tiếp tục thuật lại Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu cho các môn đệ
của Người về lòng "cảm thương như Cha thương xót", mô phạm
tối cao của chung nhân loại, của riêng thành phần con cái của Cha
trên trời và nhất là của thành phần môn đệ Chúa Kitô, thành phần
tông đồ làm chứng cho Chúa Kitô.
Ý tưởng chính trong bài Phúc Âm hôm nay đó là câu Chúa Giêsu nói ở
ngay đầu: "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại
không sa xuống hố ư?" Ngay sau câu này, Chúa Giêsu còn thêm một
câu nữa, đó là: "Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ được
giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi", như thế có nghĩa là gì,
câu trước và câu sau có liên hệ gì với nhau chăng?
Tất nhiên một khi Chúa Giêsu đã nói là phải có ý nghĩa của nó, phải
có lý của nó. Phải chăng ở đây Người có ý nói rằng người mù không
thể nào dẫn người mù được, chắc chắn cả hai sẽ lọt xuống hố mà
thôi?
Bởi vậy, con người cần phải học hỏi bởi những người khôn ngoan hơn,
cần được họ dẫn dắt như là những bậc sư phụ của mình, đặc biệt là
Chúa Giêsu, một Đại Sư đệ nhất thiên hạ, là chính "chân lý" (Gioan
14:6), thì mới có thể tránh được lầm lỗi, thất bại, và nếu con người
làm trò tỏ ra biết dễ dạy lắng nghe tuân thủ những gì được các bậc
sư phụ khôn ngoan hướng dẫn thì con người mới có thể đạt tới
chỗ khôn ngoan "hoàn hảo" như bậc thày của mình.
Một trong những trường hợp hay khuynh hướng chứng thực con người
vốn sống mù quáng, đó là con người không "tri kỷ tri bỉ", không biết
mình biết người, như Chúa Giêsu đã nêu lên trong bài Phúc Âm hôm
nay:
"Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt
ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em:
'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh', trong khi chính
ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi. Hỡi kẻ giả hình, hãy
lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ
để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi".
Thật thế, theo tâm lý tự nhiên, thường ai cũng cho mình là hay là
tốt, hiếm người hay ít người tự nhận mình là kém tài kém đức thua
nhiều người khác. Thậm chí miệng nói tôi tài hèn sức mọn, ấy thế mà
không được trọng dụng thì bất mãn, hay thấy ai nổi hơn mình thì chọc
phá tìm cách hạ bệ. Hoặc bị phê bình hay chê trách là choảng lại
liền, hay đổ lỗi cho người khác hoặc cho hoàn cảnh, vì lý do kỹ
thuật v.v.
Với tâm tính đầy tự cao tự đại và nặng tự ái như thế, con người tự
nhiên chẳng những tìm cách bênh vực mình bao nhiêu có thể trong mọi
sự, không muốn bị ai dò xét, không muốn bị người nào bình phẩm
hay đụng chạm tới, ngược lại, họ cứ thích pha mình vào cuộc đời của
người khác, ở chỗ xét đoán người khác, thường là xét đoán xấu hơn là
xét đoán tốt, thậm chí còn tự suy diễn và kết tội người khác, chẳng
những trong lòng của họ mà còn công khai trước cộng đồng của họ
nữa.
Nếu người ta đeo kính râm thì nhìn mọi sự mờ mờ hơn là sáng tỏ thế
nào, thì bản chất con người vốn hướng hạ và hướng xấu, nhất là dễ
tin những điều xấu hơn điều tốt, họ sẽ thấy anh chị em của mình một
cách thiển cận, không rõ ràng, thậm chí còn có khuynh hướng suy bụng
ta ra bụng người nữa - mình xấu thì không ai được tốt hơn. Đó là lý
do nguyên tắc và đường lối sáng suốt khôn ngoan mà Vị Đại Sư dạy
trong bài Phúc Âm hôm nay cần phải được áp dụng: "hãy lấy cái đà
ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái
rác khỏi mắt anh em ngươi".
Chính vì con người rất khó bỏ tật xét đoán tha nhân một cách thiển
cận và ngặt nghèo mà, theo tu đức, vì lòng nhân từ của mình, muốn
cho một tâm hồn nào đó biết mình, nhờ đó họ không dám khinh người
nào nữa, Cha trên trời hay sử dụng chiêu "các con lấy đấu nào
mà đong cho ai thì sẽ bị đong lại cho đấu ấy" (Mathêu 7:2).
Cái đấu ấy cũng có thể là chính lòng thương xót: "Ai có lòng xót
thương ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được thương xót vậy" (Mathêu
5:7).
Cha trên trời hay sử dụng chiêu "các con lấy đấu nào mà đong cho
ai thì sẽ bị đong lại cho đấu ấy" (Mathêu 7:2) bằng cách để cho
người xét đoán xấu cho anh chị em mình bị người khác xét đoán xấu y
như vậy hay hơn vậy nữa. Nếu nạn nhân bị người khác đong trả cho đấu
mà họ đong cho người khác, bấy giờ, tâm hồn thiện chí thấy được
Thiên Chúa thật tốt lành, đã sử dụng chính những xét đoán xấu của
người khác để làm cho họ mở mắt ra không dám xét đoán xấu cho ai
nữa, trái lại, hoàn toàn thông cảm với mọi người hơn trước, không
dám khinh thường một ai.
Huấn dụ của Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay là
“hãy lấy cái đà ra khỏi mắt
mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt
anh em ngươi", đã được
Thánh Phaolô triệt để áp dụng vào chính bản thân đóng vai trò tong
đồ của ngài, như chính ngài đã tự thú ở cuối Bài Đọc 1 hôm nay:
“tôi
chế ngự thân xác, bắt nó tùng phục tôi, kẻo lỡ ra tôi giảng dạy cho
kẻ khác, mà chính tôi phải bị loại ra chăng”.
Ngài đã bắt thân xác của ngài, hay bắt khuynh hướng tự nhiên nghiêng
chiều về thế gian chỉ muốn hưởng thụ và về bản thân vị kỷ luôn tìm
vinh vang, ở chỗ, như ngài tiết lộ trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay:
“Anh em thân mến, nếu tôi rao giảng Tin Mừng, thì không phải để làm
cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi. Vô phúc cho
tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng…. Mặc dầu tôi được tự do đối
với tất cả mọi người, tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người, hầu thu
hút được nhiều người hơn. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi
người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi
làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng”.
Những
tâm hồn chỉ biết thân phận mình hơn là bận tâm lưu ý đến những gì là
tiêu cực nơi anh chị em mình, theo thành kiến và chủ quan của mình,
chỉ muốn mình là anh chị em của mọi người hơn là bắt mọi ngưòi phải
là anh chị em của mình, có thể nói họ
“khát
khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Thiên Chúa…
sống sạch trong vô tội”,
như được đề cập đến trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Linh hồn tôi khát khao và mòn mỏi, mong
vào hành lang nhà Thiên Chúa. Tâm thần và thể xác tôi hoan hỉ tìm
đến cùng Thiên Chúa trường sinh.
2) Ðến như chim sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để
làm nơi ấp ủ con mình, cạnh bạn thờ Chúa. Ôi Chúa là Thiên Chúa
thiên binh, ôi Ðại Vương và Thiên Chúa của con.
3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa
tới muôn đời. Phúc thay người được Chúa nâng đỡ, họ tiến lên ngày
càng thêm hăng hái.
4) Vì Thiên Chúa là thuẫn khiên, thành
lũy. Thiên Chúa rộng ban ân sủng với vinh quang. Ngài không từ chối
ơn lành với những ai sống sạch trong vô tội.
Ngày 9/9 - Thánh Phêrô Claver, linh mục
Thánh Phêrô Claver sinh năm 1580 tại Verdu, nước Tây Ban Nha, trong
một gia đình nghèo. Nhờ một ân nhân, ngài được đi học. Năm 16 tuổi,
ngài học văn chương và triết lý tại Barcelona. Năm 22 tuổi, ngài gia
nhập Dòng Tên tại Tarragona. Năm 24 tuổi, ngài được gởi đến học viện
Montesion của Dòng tại thành phố Palma, trên đảo Mallorca ở Địa
Trung Hải. Tại đây, Tại đây, học viên trẻ Phêrô Claver kết thân với
tu huynh gác cổng là thánh Anphong Rodriguez. Vị tu huynh thánh
thiện đã thấy được khao khát cháy bỏng muốn phục vụ Chúa Kitô và
những người nghèo khổ nơi học viên này, nên đã khuyến khích anh đi
truyền giáo ở Nam Mỹ.
Sau khi hoàn tất chương trình thần học tại Barcelona, Phêrô Claver
được bề trên cho phép đi Nam Mỹ. Năm 1610, ngài đến Cartagena,
thường được gọi là chợ nô lệ, miền bắc nước Colombia, để sống và
chết với người da đen bị bán làm nô lệ. Sau khi thụ phong linh mục,
ngài làm Năm Tập Ba, rồi khấn lần cuối với lời khấn phụ suốt đời làm
nô lệ cho người da đen: “TÔI PHÊRÔ CLAVER, MÃI MÃI LÀ NÔ LỆ CỦA
NHỮNG NGƯỜI ETHIÔPI”.
Thời ấy, người Châu âu da trắng thường đến Châu Phi dùng vũ lực bắt
người da đen dồn xuống tàu đem qua Châu Mỹ bán cho các chủ đồn điền.
Được tin một chiếc tàu nô lệ sắp đến, ngài chờ sẵn ở cảng. Tàu vừa
cập bến, ngài xuống giúp đỡ những người đau yếu, bệnh tật, thiếu ăn,
thiếu mặc… Tiếp đến, ngài ở bên cạnh họ khi họ bị dồn vào những khu
tập trung và bị đem bán như súc vật. Rồi khi họ đã được ông chủ nào
đó mua về làm nô lệ, ngài thăm viếng, bênh vực khi họ bị đối xử bất
công. Ngài kiên trì trong công việc bác ái này suốt 40 năm trời, cho
đến khi ngài bệnh tật và qua đời ngày 8.9.1654. Ngài rửa tội cho
khoảng 100 ngàn người, phần lớn trong số họ là người da đen. Ngài
được gọi là Thiên sứ hòa bình của thành phố Cartagena.
Với lòng yêu mến và ao ước phục vụ Chúa Giêsu và các linh hồn, cha
Phêrô Claver luôn tâm niệm bốn nguyên tắc: Nỗ lực tìm kiếm và nhận
ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi sự, hoàn toàn tuân phục bề
trên, làm mọi sự cho vinh danh Thiên Chúa hơn và nỗ lực bằng mọi giá
để giúp cho các linh hồn được ơn cứu độ. Cha cũng luôn tự nhắc mình
và các bạn của cha rằng: “Chúng ta phải nói với họ bằng đôi tay
trước khi nói với họ bằng miệng lưỡi của chúng ta.”
Ngài được Đức Thánh Cha Lêô XIII tuyên thánh năm 1888 và được Hội
Thánh biểu dương như một Phanxicô Xavier của người da đen. Ngài được
đặt làm quan thầy các xứ truyền giáo cho người Châu Phi; ngài còn là
quan thầy cho xứ Colombia.
http://dongten.net/noidung/14806
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) 1
Cr 10, 14-22a
"Chỉ có một bánh, nên chúng ta tuy
nhiều, cũng chỉ làm thành một thân xác".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, anh em hãy xa lánh sự
thờ lạy các ngẫu tượng. Tôi muốn nói với những người biết điều! Ðiều
tôi tuyên bố, anh em hãy xét thử! Chén chúc tụng mà chúng ta cầm lên
chúc tụng Chúa, chẳng phải là thông hiệp với Máu Chúa Kitô sao? Tấm
bánh mà chúng ta bẻ ra, chẳng phải là thông phần vào Mình Chúa đó
sao? Bởi vì chỉ có một bánh, mà tất cả chúng ta đều thông phần vào
một bánh đó, nên chúng ta tuy nhiều, cũng chỉ làm thành một thân
xác. Anh em hãy xem Israel về phần xác: Nào những kẻ ăn của tế lễ,
chẳng phải là thông phần vào bàn thờ sao?
Vậy nói thế nghĩa là gì? Tôi nói, của
lễ dâng lên ngẫu tượng có là cái gì đâu? Hay ngẫu tượng có là cái gì
đâu? Nhưng các dân ngoại tế lễ, là tế lễ cho ma quỷ, chứ không phải
cho Thiên Chúa. Nhưng tôi không muốn anh em giao kết với ma quỷ. Anh
em không thể uống cả chén của Chúa, cả chén của ma quỷ được. Anh em
không thể thông phần vừa vào bàn tiệc Chúa, vừa vào bàn tiệc ma quỷ
được. Hay là chúng ta muốn chọc tức Chúa?
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 115, 12-13. 17-18
Ðáp: Lạy
Chúa, con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ (c. 17a).
Xướng: 1) Tôi lấy gì dâng lại cho
Chúa, để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi? Tôi sẽ lãnh chén
cứu độ, và tôi sẽ kêu cầu danh Chúa. - Ðáp.
2)
(Lạy Chúa,) con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ
kêu cầu danh Chúa. Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt
toàn thể dân Ngài. - Ðáp.
Alleluia:
x. Cv 16, 14b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin
hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. -
Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 43-49
"Tại sao các con gọi Thầy "Lạy
Chúa, lạy Chúa", mà không thi hành điều Thầy dạy bảo?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có
cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây.
Người ta không hái trái vả nơi bụi gai, và người ta cũng không hái
trái nho nơi cây dâu đất. Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng tốt
của lòng mình, và kẻ xấu phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của nó, vì
lòng đầy thì miệng mới nói ra. Tại sao các con gọi Thầy: "Lạy Chúa,
lạy Chúa", mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng
Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành. Thầy sẽ chỉ cho các con
biết người ấy giống ai. Người ấy giống như người xây nhà: ông ta đào
sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà,
cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá.
Trái lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống như người xây
nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào
nhà, nó liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề".
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần XXIII Thường Niên, là phần kết của
những lời Chúa Giêsu huấn dụ các môn đệ của Người về đời sống trọn
lành bằng Lòng Thương Xót như Cha trên trời, cho dù bài Phúc Âm hôm
nay không trực tiếp đến chủ đề chính yếu ấy. Tuy nhiên, không phải
vì bài Phúc Âm hôm nay không trực tiếp đến chủ đề chính yếu ấy mà
Chúa Giêsu không nói đến như một phần bất khả thiếu của tất cả những
gì Người muốn huấn dụ thành phần môn đệ của Người, bằng không, bài
huấn dụ quan trọng này có thể sẽ trở thành vô bổ.
Chủ ý Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở trong bài Phúc Âm hôm nay đó là
hãy đem những gì Người truyền dạy ra thực hành chứ đừng nghe xuông
thì chẳng bổ ích chi: "Tại sao các con gọi Thầy: 'Lạy Chúa, lạy
Chúa', mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng
Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành".
Qua câu vừa có tính cách chất vấn (khúc đầu) vừa có tính cách
khẳng định (khúc cuối) này, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ vừa
nghe xong chủ đề sống lòng thương xót như Cha trên trời rằng: nếu
các con coi Thày là Thày của các con thì các con hãy thi hành những
gì Thày đã truyền dạy cho các con, như thế các con mới chứng tỏ các
con quả thực là môn đệ của Thày và thật sự muốn theo Thày.
Không biết khi nói câu này, Chúa Giêsu có nghĩ đến một trong thành
phần 12 tông đồ được Người tuyển chọn sau cả một đêm cầu nguyện cùng
Thiên Chúa là Giuđa Íchca hay chăng? Bởi vì, nếu người tông đồ được
liệt kê cuối cùng này đem những gì Người truyền dạy ra thực hành thì
người tông đồ đáng thương này đã không đi đến chỗ phản nộp Người.
Phải chăng đó là lý do ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã
nêu lên nguyên tắc "trong sao ngoài vậy" và đường lối "xem quả biết
cây" để thấy được chân tướng của những ai có thực hành lời Người hay
chăng và họ để cho lời của Người tác dụng nơi họ hay chăng:
"Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có cây nào xấu
mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không
hái trái vả nơi bụi gai, và người ta cũng không hái trái nho nơi cây
dâu đất. Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng tốt của lòng mình,
và kẻ xấu phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của nó, vì lòng đầy thì
miệng mới nói ra".
Đường lối xem quả biết cây như thế không phải chỉ liên quan đến
thiên nhiên nơi loại thảo mộc mà còn liên quan đến chính vấn đề khôn
ngoan và công sức của con người nữa, như trong việc con người có
biết xây nhà trên nền tảng vững chắc hay không. Chúa Giêsu đã so
sánh thành phần nghe lời của Người mà đem ra thực hành hay không đem
ra thực hành như sau:
"Người ấy (Người
thực hành lời Chúa) giống như người xây nhà: người ấy đào sâu và
đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng
không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá. Trái
lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống như người xây nhà
ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào nhà, nó
liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề".
Nếu ở câu đầu bài Phúc Âm hôm nay, khi nói đến nguyên tắc "trong sao
ngoài vậy" và đường lối "xem quả biết cây" có thể Chúa Giêsu đã
nghĩ đến tông đồ Giuđa Íchca thế nào, thì trong câu Phúc Âm cuối
bài này, Chúa Giêsu cũng có thể đã nghĩ đến tông đồ Phêrô sẽ được
Người đổi tên là "đá", một người môn đệ cho dù sau này
có lỡ chối bỏ Người, nhưng tự bản chất rất chân tình và nhiệt tình,
luôn đơn sơ dễ dậy lắng nghe và thực hành lời của Người, như bài
Phúc Âm Thứ Năm tuần trước về mẻ cá lạ cho thấy, vẫn được Người đặt
làm nền tảng cho Giáo Hội Người thiết lập (xem Mathêu 16:18).
"Đá"
liên quan đến tên gọi "Phêrô, con là đá" (Mathêu 16:18) ở đây
có một ý nghĩa thiêng liêng hơn là tự nhiên. Thật vậy, theo tự nhiên
thì đã là đá thì tự bản chất của nó phải cứng rắn và vững chắc, bằng
không không phải là đá, như đã là ánh sáng thì phải chiếu soi, bằng
không không phải là ánh sáng. Nhưng "đá" được Chúa Giêsu sử
dụng để làm nền tảng cho Giáo Hội Người thiết lập đây lại bao gồm
2 đặc tính hoàn toàn tương phản nhau, ở chỗ vừa cứng lại vừa mềm:
mềm ở bản chất của con người lãnh đạo tông đồ đoàn mang tên
Simon này, và cứng ở lòng tin tưởng của ngài nơi Đấng đã kêu gọi và
tuyển chọn ngài. Đó là lý do Chúa Giêsu đã nhắn nhủ ngài rằng:
"Simôn,
Simôn ơi, kìa Satan đã xin được sàng tất cả các con như người ta
sàng gạo. Thế nhưng Thầy đã cầu nguyện cho con để con không bị mất
lòng tin. Phần con, một khi đã trở lại, con hãy kiên cường củng cố
cho anh em của con" (Luca
22:31-32).
Huấn
dụ của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay, một huấn dụ Người
khuyên các môn đệ của Người sau bài giảng về phúc đức trọn lành, đó
là các vị hãy khôn ngoan áp dụng giáo huấn của Người, chứ đừng nghe
biết vậy. Bởi vì chỉ có những gì Người truyền dạy mới chân thật và
trọn lành, khiến những ai thực hành sẽ được công chính hóa, được nên
giống Người, xứng đáng là thành phần chứng nhân của Người.
Thành phần không theo giáo huấn của Chúa
Kitô, mà là theo sự khôn ngoan thế gian thì chẳng khác nào như chiều
theo khuynh hướng tôn thờ ngẫu tượng giả dối theo nhân tạo, thay vì
thông hiệp sự sống với Chúa Kitô:
“Chén chúc tụng mà chúng ta cầm lên chúc tụng Chúa, chẳng phải là
thông hiệp với Máu Chúa Kitô sao? Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra, chẳng
phải là thông phần vào Mình Chúa đó sao? Bởi vì chỉ có một bánh, mà
tất cả chúng ta đều thông phần vào một bánh đó, nên chúng ta tuy
nhiều, cũng chỉ làm thành một thân xác”.
Kinh nghiệm tu đức cũng cho thấy tâm hồn nào
thực hành Lời Chúa và sống Lời Chúa thì được hiệp thông thần linh
với Chúa, nhất là khi rước Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Trái lại, tâm
hồn nào hằng ngày rước Mình Máu Thánh Chúa Kitô mà không thực hành
Lời Chúa và sống Lời Chúa thì như bị tẩu hỏa nhập ma, ở chỗ, chính
miệng lưỡi rước lấy Mình Máu Thánh Đấng vô cùng nhân hậu lại trở
thành phương tiện nói hành nói xấu anh chị em mình. Đời sống đạo của
họ chẳng khác nào được xây trên cát, có thể sụp đổ bất cứ lúc nào.
Và vì thế họ cũng chẳng thể nào có được tam tình của Bài Đáp Ca hôm
nay:
1) Tôi lấy gì dâng lại cho Chúa, để đền
đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi? Tôi sẽ lãnh chén cứu độ, và
tôi sẽ kêu cầu danh Chúa.
2) (Lạy Chúa,) con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con
sẽ kêu cầu danh Chúa. Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước
mặt toàn thể dân Ngài.