SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014

 

2015 - 2018 - 2021

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XXVII Thường Niên B
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: St 2, 18-24

"Cả hai nên một thân thể".

Trích sách Sáng Thế.

Chúa là Thiên Chúa phán: "Ðàn ông ở một mình không tốt. Ta hãy tạo dựng cho nó một nội trợ giống như nó". Sau khi lấy bùn đất dựng nên mọi thú vật dưới đất và toàn thể chim chóc trên trời, Thiên Chúa dẫn đến trước mặt Ađam để coi ông gọi chúng thế nào, và sinh vật nào Ađam gọi, thì chính đó là tên nó. Ađam liền đặt tên cho mọi súc vật, chim trời và muông thú. Nhưng Ađam không gặp một người nội trợ giống như mình.

Vậy Thiên Chúa khiến cho Ađam ngủ say, và khi ông đang ngủ, Người lấy một xương sườn của ông, và đắp thịt lại. Thiên Chúa làm cho chiếc xương sườn đã lấy từ Ađam trở thành người đàn bà, rồi dẫn đến Ađam. Ađam liền nói: "Bây giờ đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi người nam mà ra". Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 127, 1-2. 3. 4-5. 6

Ðáp: Nguyện Chúa chúc phúc cho chúng con hết mọi ngày trong đời sống chúng con! (x. c. 5).

Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn được an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Ðáp.

2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn như chồi non của khóm ô-liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. - Ðáp.

3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết kính sợ Chúa. Nguyện Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn. - Ðáp.

4) Và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con. Nguyện xin bình an đến trên đất Israel. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Dt 2, 9-11

"Ðấng thánh hoá và những người được thánh hoá, tất cả đều do một nguồn gốc".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, Ðấng trong một thời gian bị hạ xuống kém các Thiên Thần, là Ðức Giêsu, chúng ta thấy Người được triều thiên vinh quang và danh dự vì cuộc tử nạn của Người, để nhờ ơn Thiên Chúa, Người chịu chết thay cho mọi người. Quả vậy, thật là thích hợp việc Chúa là nguyên nhân và cùng đích mọi vật, đã dẫn đưa nhiều con cái đến vinh quang và đã lấy cuộc khổ nạn mà làm cho Ðấng đem lại ơn cứu rỗi được hoàn hảo. Vì chưng, Ðấng thánh hoá và những người được thánh hoá, tất cả đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người không hổ thẹn gọi họ là anh em.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 17, 17

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật". - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 10, 2-12

"Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, những người biệt phái đến gần và hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?" Người đáp: "Môsê đã truyền cho các ông thế nào?" Họ thưa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị". Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: "Chính vì sự cứng lòng của các ông, mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Như thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".

Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: "Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng và lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình".

{Bấy giờ người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó". Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.}

Ðó là lời Chúa.

 

 

Image result for Mk 10, 2-12

 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 


Chủ đề "sự sống" của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh vẫn được tiếp tục phản ảnh qua Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XXVII tuần này, một "sự sống" được thể hiện qua tình trạng hiệp nhất nên một nơi đời sống vợ chồng.

 

Bài Phúc Âm của Thánh ký Marcô hôm nay chất chứa câu trả lời dứt khoát của Chúa Giêsu về bản chất bất khả phân ly của đời sống hôn nhân gia đình, của ơn gọi vợ chồng, một khẳng định cho vấn đề được "những người biệt phái đến gần và hỏi thử Chúa Giêsu rằng: 'Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?'".

 

Vì là vấn đề được đặt ra để "hỏi thử Chúa Giêsu" mà "những người biệt phái" giữ luật (dù theo hình thức) đã có thể thấy được cái hóc búa của vấn đề nơi chính bản thân của họ nên mang ra như vừa để thử thách Chúa vừa để gỡ rối cho chính họ là thành phần vốn thông luật. Ở chỗ, nếu Chúa Giêsu trả lời là "được phép ly dị" thì họ bảo Người chủ trương ngược lại với dự án thần linh của Thiên Chúa ngay từ ban đầu về hôn nhân, nếu Người nói "không được phép ly dị" thì Người bị cho là chống lại luật của Moisen. 

 

Bởi thế, theo sự khôn ngoan của mình và để thuyết phục thành phần đối phương nham hiểm, Chúa Giêsu đã hỏi ngược lại họ như sau: "'Môsê đã truyền cho các ông thế nào?' Họ thưa: 'Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị'". Căn cứ vào câu trả lời này của họ, Chúa Giêsu đã vạch ra cho họ thấy lý do tại sao Moisen lại cho phép ly dị là một thứ phép ngay từ ban đầu chẳng hề có: 

 

"Chính vì sự cứng lòng của các ông, mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Như thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".

 

Lời Chúa Giêsu khẳng định không có vấn đề ly dị ngay từ ban đầu nơi dự án thần linh của Thiên Chúa đối với đời sống hôn nhân đã được Bài Đọc 1 xác nhận ở đoạn 2 của Sách Khởi Nguyên, trong đó bao gồm cả lý do tại sao có nam có nữ và nguồn gốc của người nữ cùng ơn gọi hôn nhân:

 

Trước hết, vì con người được dựng nên không phải chỉ là hình ảnh thần linh của Thiên Chúa ở chỗ duy nhất trên trần gian này, như Ngài là Thiên Chúa duy nhất vậy, mà còn tương tự như Ngài ở chỗ hiệp thông nữa. Bởi thế, con người duy nhất cũng là con người đầu tiên này vẫn chưa trọn vẹn: "ở một mình không tốt", cho dù chung quanh con người có hết mọi sự thuộc về con người mà vẫn không xứng hợp với con người nên không thể hiệp thông với con người:

 

"Chúa là Thiên Chúa phán: 'Con người ở một mình không tốt. Ta hãy tạo dựng cho nó một nội trợ giống như nó'. Sau khi lấy bùn đất dựng nên mọi thú vật dưới đất và toàn thể chim chóc trên trời, Thiên Chúa dẫn đến trước mặt con người để coi con người gọi chúng thế nào, và sinh vật nào con người gọi, thì chính đó là tên nó. Con người liền đặt tên cho mọi súc vật, chim trời và muông thú. Nhưng con người không gặp một người nội trợ giống như mình.

 

Cho đến khi con người nhận thấy được chính bản thân của mình là những gì xuất phát từ bản thân họ chứ không phải từ bất cứ sự gì bên ngoài:

 

"Vậy Thiên Chúa khiến cho con người ngủ say, và khi con người đang ngủ, Người lấy một xương sườn của con người, và đắp thịt lại. Thiên Chúa làm cho chiếc xương sườn đã lấy từ con người trở thành người đàn bà, rồi dẫn đến con người. Con người liền nói: 'Đây mới là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi con người mà ra'. Vì thế, người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể".

 

Cảm nghiệm bản thân mình này nơi con người cũng rất đúng với tâm lý tự nhiênỞ chỗ, khi con người đang ở vào tuổi dậy thì, thời điểm con người đang muốn biết mình là ai, như thể thiếp đi trong một giấc ngủ say, thì đồng thời lại là thời điểm con người bắt đầu biết yêu thương, cho đến khi họ gặp được đối tượng yêu thương thì gắn bó với đối tượng ấy, như thể chính bản thân của con người, như thể tìm thấy được chính bản thân mình nơi đối tượng yêu, đến độ họ không thể sống mà không có đối tượng yêu là bản thân của họ ấy: "Vì thế, người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể".

 

Vấn đề được đặt ra là: thứ nhất, "người nam" ở đây ngay từ ban đầu đâu có cha mẹ mà bỏ, và thứ hai, làm sao "cả hai nên một thân thể" được, cho dù là giao hợp vợ chồng với nhau? 

 

Thật ra, về vấn đề "cả hai nên một thân thể" thì theo tâm sinh lý tự nhiên, người chồng bao giờ cũng yêu thương vợ như là chính thân thể của mình (xem Epheso 5:28), bởi thế khi chồng yêu thương vợ qua tác động giao hợp với vợ chính là tác động nên một thân thể vậy.

 

Tuy nhiên, ở đây, đoạn Thánh Kinh trong Sách Khởi Nguyên này còn ám chỉ Giáo Hội là Nhiệm Thể Chúa Kitô, một thân thể duy nhất có Chúa Kitô là Đầu, một Chúa Kitô là chính "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), đã bỏ Cha trên trời mà xuống ở với loài người để có thể nhờ đó hiệp nhất nên một với loài người như là một ngôi vị duy nhất có hai bản tính, một Giáo Hội xuất thân từ cạnh sườn của Chúa Kitô như đã được tiên báo nơi hình ảnh người nữ xuất thân từ xương sườn của con người đầu tiên vậy

 

Đúng thế, nếu hôn nhân là một mầu nhiệm cao cả liên quan đến Chúa Kitô và Giáo Hội (xem Epheso 5:32), bằng không, hôn nhân sẽ mất hết ý nghĩa, thì như cảm nhận của vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô trong Bài Đọc 2 hôm nay, việc hạ giáng của Chúa Kitô nơi mầu nhiệm nhập thể là để làm cho con người có thể nhờ đó được hiệp thông thần linh với Người và trở nên ruột thịt với Người: 

 

"Anh em thân mến, Ðấng trong một thời gian bị hạ xuống kém các Thiên Thần, là Ðức Giêsu, chúng ta thấy Người được triều thiên vinh quang và danh dự vì cuộc tử nạn của Người, để nhờ ơn Thiên Chúa, Người chịu chết thay cho mọi người. Quả vậy, thật là thích hợp việc Chúa là nguyên nhân và cùng đích mọi vật, đã dẫn đưa nhiều con cái đến vinh quang và đã lấy cuộc khổ nạn mà làm cho Ðấng đem lại ơn cứu rỗi được hoàn hảo. Vì chưng, Ðấng thánh hoá và những người được thánh hoá, tất cả đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người không hổ thẹn gọi họ là anh em".

 

Bài Đáp Ca hôm nay bề ngoài như thể nói về đời sống và hạnh phúc hôn nhân gia đình, nhưng thật ra nói về con người tôn sợ Chúa, sống theo đường lối Chúa thì sinh hoa kết trái phong phú. Nghĩa là nói đến con người ta ở vị thế của một con người, với tư cách làm vợ, cần phải nhận biết tình yêu thương sủng ái của Thiên Chúa Hóa Công và Cứu Chuộc của mình để có thể đáp ứng xứng với tình yêu thương vô cùng nhân hậu của Ngài, nhờ đó có thể sinh hoa kết trái cho Ngài. 

 

1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn được an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. 

2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn như chồi non của khóm ô-liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn.  

3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết kính sợ Chúa. Nguyện Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn. 

4) Và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con. Nguyện xin bình an đến trên đất Israel. 

 

 

 

 

 


Thứ Hai

 

Phụng Vụ Lời Chúa



 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 1, 6-12

"Tin Mừng do tôi rao giảng không phải thuộc về loài người, nhưng là do Ðức Giêsu Kitô mạc khải".

Trích thư Thánh Phalô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, tôi ngạc nhiên thấy anh em thay lòng đổi dạ chóng như thế đối với Ðấng đã kêu gọi anh em thông phần vào ân sủng của Ðức Kitô, để anh em quay sang một tin mừng khác: Tin mừng khác làm gì có, chỉ có những kẻ phá rối anh em và muốn anh em đảo lộn Tin Mừng của Ðức Kitô. Nhưng cho dù chúng tôi, hay một thiên thần nào từ trời đến giảng tin mừng khác với Tin Mừng chúng tôi đã rao giảng cho anh em, thì người đó bị chúc dữ. Như chúng tôi đã nói trước, và giờ đây tôi xin nói lại rằng: Nếu ai trong anh em rao giảng cho anh em Tin Mừng khác hơn điều anh em đã lãnh nhận, thì người đó bị chúc dữ.

Giờ đây, tôi phải làm vừa lòng người ta hay là Thiên Chúa? Nào có phải tôi tìm cách làm vừa lòng người ta sao? Nếu tôi còn làm vừa lòng thiên hạ, thì tôi không phải là đầy tớ của Ðức Kitô.

Anh em thân mến, tôi cho anh em biết rằng Tin Mừng do tôi rao giảng không phải thuộc về loài người, vì tôi không nhận cũng không học với loài người, nhưng là do Ðức Giêsu Kitô mạc khải.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 110, 1-2. 7-8. 9 và 10c

Ðáp: Cho tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 5b).

Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi. - Ðáp.

2) Công cuộc tay Chúa làm ra đều chân thật và công chính, mọi giới răn của Người đều đáng cậy tin. Những giới răn đó được lập ra cho đến muôn ngàn đời, được ban hành một cách chân thành và đoan chính. - Ðáp.

3) Chúa đã gửi tặng ơn giải phóng cho dân Người, để thiết lập lời minh ước tới muôn đời. Danh Người thực là thánh thiện và khả úy. Lời khen ngợi Chúa còn tồn tại tới muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9; Ga 6, 69

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 10, 25-37

"Ai là anh em của tôi?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có một người thông luật đúng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?" Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?" Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?"

Chúa Giêsu nói tiếp: "Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: "Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông".

"Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy".

Ðó là lời Chúa.


Image result for Lk 10, 25-37

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Phụng Vụ Lời Chúa cho Thứ Hai Tuần XXVII Thường Niên hôm nay liên quan đến sự sống đời đời là những gì bất khả phân ly với tính chất đại đồng của tình yêu thương nhau. 

 

Thật vậy, vấn đề được đặt ra trong bài Phúc Âm hôm nay từ "một người thông luật đứng dạy hỏi Chúa Giêsu rằng: 'Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?'", đã được Người trực tiếp khẳng định "Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống", ở chỗ, đúng như câu trả lời của chính nhân vật ấy: "Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". 

 

Nghĩa là muốn được sống đời đời thì phải mến Chúa hết mình và yêu người như chính bản thân mình. "Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: 'Nhưng ai là anh em của tôi?'". Tại sao "người đó muốn bào chữa mình" bằng câu hỏi tiếp theo "ai là anh em của tôi?" Phải chăng vì nhân vật này khó có thể yêu thương bất cứ ai, cùng lắm chỉ yêu thương những ai là ruột thịt của mình, những ai mình thích và những ai thích mình, về phe mình, tức là còn đầy khuynh hướng kỳ thị, còn đầy những thành kiến trong đầu, còn đầy ác cảm với tha nhân v.v.?

 

Có thể là thế. Bởi vậy, Chúa Giêsu đã phải sử dụng một dụ ngôn để cho nhân vật ấy biết "ai là anh em của tôi?", nhờ đó mà noi gương bắt chước: "đi và làm như vậy", sau khi nhân vật này đã nhận xét rất đúng theo câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra để kết thúc dụ ngôn của Người: "'Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?' Người thông luật trả lời: 'Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy'".

 

Vậy "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy" là ai và "người ấy" là người nào? Nếu không phải "người ấy" là "Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết".

 

Và "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy" là ai - theo nhân vật thông luật trả lời thì không phải là "một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua", mà là "một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: 'Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông'". 

 

Vấn nạn của nhân vật thông luật "ai là anh em của tôi", theo dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, không được Chúa Giêsu trả lời đó chính là nạn nhân bị rơi vào tay bọn cướp, mà vấn đề hoàn toàn ngược hẳn lại "ai là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp". 

 

Có nghĩa là, theo kinh nghiệm sống đạo và giao tiếp, bao lâu chúng ta còn đặt vấn đề "ai là anh em của tôi?" là chúng ta còn khuynh hướng kỳ thị, còn kẻ thù, thậm chí là chính những người ruột thịt của chúng ta, bởi chúng ta còn muốn chọn lựa anh em theo ý nghĩ, ý thích và ý muốn tự nhiên thiên lệch đầy vị kỷ của mình, và vì thế chúng ta vẫn còn gặp rất nhiều kẻ thù, rất nhiều đối phương, bất kể người ấy là ai, là thân nhân, ân nhân, thân hữu của mình một thời v.v.

 

Ngược lại, nếu chúng ta coi mình là anh em của mọi người thì sẽ chẳng bao giờ còn kẻ thù, còn đối phương, còn tranh giành, còn ghen ghét, còn đố kỵ v.v. Chúng ta sẽ như Chúa Kitô đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ (xem Mathêu 20:28), sống hòa đồng với mọi người, tiến đến với mọi người, bất kỳ ai, nhất là những con người thấp hèn bé mọn bần cùng khốn khổ trong xã hội, hơn là chờ mọi người đến với mình, hơn là quen thân gắn bó với thành phần giầu sang quyền quí thế lực v.v.

 

Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay đã soi sáng cho người thông luật hỏi Người "ai là anh em tôi?" thấy cái sai lầm trong lập luận và lý lẽ tự nhiên của loài người khi đối xứ với tha nhân, đó là mình phải là anh chị em của tha nhân hơn là bắt tha nhân phải là anh chị em của mình. Tuy nhiên, đối với trần gian thì huấn dụ siêu việt của Người là những gì bất khả chấp, nếu không muốn nói là bất khả thi đối với bản tính tự nhiên và khuynh hướng vị kỷ của con người. Bởi thế, như Thánh Phaolô nhận định trong Bài Đọc 1 hôm nay: "anh em quay sang một tin mừng khác: Tin mừng khác làm gì có, chỉ có những kẻ phá rối anh em và muốn anh em đảo lộn Tin Mừng của Ðức Kitô".

 

Thật vậy, tất cả những gì xuất phát từ Thiên Chúa, từ trên cao, bao giờ cũng chân thật và trọn hảo, giúp thăng hóa con người, giúp con người nên giống Thiên Chúa, và vì thế huấn dụ của Thiên Chúa chính là một tin mừng cứu độ, một mạc khải giải phóng, đến độ vị tông đồ dân ngoại Phaolô đã cương quyết và dám khẳng định một cách không sợ sai lầm rằng cho dù "một thiên thần nào từ trời đến giảng tin mừng khác với Tin Mừng chúng tôi đã rao giảng cho anh em" thì cũng đừng chấp nhận và tin theo, vì ma quỉ hay hiện hình thiên thần sáng láng để cám dỗ con người, bằng cách gợi lên những gì là đúng lý nhất, thiện hảo nhất, lợi ích nhất theo lý lẽ trần gian và hợp với xu hướng vị kỷ và rộng rãi của con người: anh chị em của tôi phải là những người yêu thương tôi, phải là những người tôi yêu thích, hợp với tôi, chứ không phải là những người tôi không có cảm tình, thậm chí lại ác cảm với tôi, là kẻ thù của tôi v.v.

 

Thế nên, cuối cùng, cũng trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô đã khuyên tín hữu giáo đoàn Galata hãy tin vào ngài, vào lời rao giảng của ngài, vì theo ngài tuyệt đối xác tín và hiên ngang mãnh liệt tuyên bố với họ về tất cả những gì ngài rao giảng đều xuất phát từ Thiên Chúa, nên đáng chấp nhận và tuân hành hơn bất cứ điều gì khác, như sau: "Anh em thân mến, tôi cho anh em biết rằng Tin Mừng do tôi rao giảng không phải thuộc về loài người, vì tôi không nhận cũng không học với loài người, nhưng là do Ðức Giêsu Kitô mạc khải".

Bài Đáp Ca hôm nay cũng chất chứa những ý thức thần linh về những gì liên quan đến Thiên Chúa là Đấng vô cùng chân thiện và khôn ngoan, cần loài người nhận biết và đáng loài người tin theo: "Công cuộc tay Chúa làm ra đều chân thật và công chính, mọi giới răn của Người đều đáng cậy tin" (câu 2), "thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi" (câu 1), "Danh Người thực là thánh thiện và khả úy. Lời khen ngợi Chúa còn tồn tại tới muôn đời" (câu 3).

 

 



Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 1, 13-24

"Người đã mạc khải cho tôi biết Con của Người, để tôi rao giảng Người cho dân ngoại".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, anh em nghe nói về đời sống của tôi trước kia, khi theo đạo Do-thái: tôi đã bắt bớ và phá hoại Hội Thánh của Thiên Chúa thái quá. Trong đạo Do-thái, tôi đã vượt hẳn nhiều bạn đồng giống nòi, đồng tuổi với tôi, và tôi nhiệt thành hơn bất cứ ai đối với truyền thống của cha ông tôi.

Nhưng khi Ðấng tách riêng tôi ra từ lòng mẹ, và dùng ơn Người mà kêu gọi tôi, để tôi rao giảng Người trong các dân ngoại, thì không lúc nào tôi bàn hỏi người xác thịt máu huyết, và tôi không lên Giêrusalem để gặp các vị làm tông đồ trước tôi, nhưng tôi đi ngay đến Arabia, rồi lại trở về Ðamas. Ðoạn ba năm sau, tôi mới lên Giêrusalem để gặp Phêrô, và lưu lại với ông mười lăm ngày. Tôi không gặp một tông đồ nào khác, ngoài Giacôbê, anh em của Chúa. Những điều này tôi viết cho anh em, đây trước mặt Thiên Chúa, tôi không nói dối.

Thế rồi tôi đã đi về miền Syria và Cilicia. Nhưng các giáo đoàn của Ðức Kitô ở xứ Giuđêa chưa biết mặt tôi, họ chỉ nghe đồn rằng: "Người xưa kia bắt bớ chúng ta, giờ đây lại rao giảng đức tin mà thuở trước ông muốn bài trừ", và vì tôi, họ ngợi khen Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 138, 1-3. 13-14ab. 14c-15

Ðáp: Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời (c. 24b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con, Ngài biết con lúc con ngồi hay con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con tự đàng xa, khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết, Ngài để ý tới mọi đường lối của con. - Ðáp.

2) Chính Ngài đã nặn ra thận tạng con, đã dệt ra con trong lòng thân mẫu. Con ngợi khen Ngài đã tạo nên con lạ lùng như thế, vì công cuộc của Ngài thực diệu huyền. - Ðáp.

3) Linh hồn con, Chúa hoàn toàn biết rõ, thể chất con không giấu nổi mắt Ngài, lúc con được cấu tạo hình hài trong nơi kín đáo, lúc con được dệt thân ở chỗ đất sâu. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 14cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 10, 38-42

"Martha rước Người vào nhà mình. Maria đã chọn phần tốt nhất".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy Chúa Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với".

Nhưng Chúa đáp: "Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện (quá). Chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Lk 10, 38-42

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

Hôm nay, Thứ Ba Tuần XXVII Thường Niên, Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca thuật lại sự kiện về việc Chúa Giêsu ghé vào thăm gia đình 3 chị em Matta, Maria và Lazarô, và được người chị cả tiếp đón nồng hậu, nhưng rất tiếc bà chị lại đã tỏ ra ghen tị với người em gái của mình trước mặt Chúa Giêsu:

 

"Khi ấy Chúa Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thiết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: 'Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với'. Nhưng Chúa đáp: 'Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện (quá). Chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất'".

 

Thật ra Chúa Giêsu không trách Matta về việc phục vụ cần thiết của chị, cho bằng trách chị "lo lắng bối rối về nhiều chuyện", đến độ trở thành bất an, được bộc lộ qua thái độ và ngôn ngữ có tính cách ghen tị với em của chị: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với".

 

Nếu chị cứ âm thầm làm tất cả những gì cần thiết như chị cảm thấy để ân cần tiếp đãi vị đại khách của gia đình chị là Chúa Giêsu, với một tâm hồn hoàn toàn yêu mến Thày và yêu thương các em trong nhà, sẵn sàng chịu thiệt để cho chúng thay mình đang bận làm việc gần gũi tiếp chuyện với Thày, thì chị đâu có bị khiển trách như thế. 

 

Tuy nhiên, qua lời chị ghen tị với em của chị như thế mới thấy được rằng chính chị cũng muốn được gần gũi với Chúa Giêsu như em của chị. Đó là lý do có những lúc hoạt động không còn giờ cầu nguyện, tâm hồn vẫn có thể khao khát Chúa, vẫn có thể cầu nguyện bằng chính lòng khao khát của mình, miễm là đừng coi thường cầu nguyện khi có giờ và chỉ vì thích hoạt động mà bỏ cầu nguyện khi có thể.

 

Phải, sống nội tâm và bằng an, sống vì Chúa và cho tha nhân là "sự cần duy nhất mà thôi", bằng không tất cả mọi hoạt động của chúng ta, cho dù lành thánh mấy chăng nữa, cho dụ thiện ích mấy chăng nữa, cũng có thể trở thành dịp tội cho con người hoạt động, cuối cùng họ chỉ mất công vô ích mà thậm chí hoạt động còn trở thành nguy hiểm cho tâm hồn của họ nữa. 

 

Như thế, có thể nói Matta là biểu hiệu cho đời sống hoạt động, còn Maria biểu hiệu cho đời sống cầu nguyện: "Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất". Căn cứ vào giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay qua sự kiện Matta-Maria này, chúng ta thấy: 1- đời sống nội tâm cầu nguyện là chính yếu và cần trước hết và trên hết; 2- có biết lắng nghe tiếng Chúa bằng đời cầu nguyện mới có thể làm theo ý Ngài khi hoạt động, bằng không lúc đầu làm vì Chúa cuối cùng làm cho mình, nên mới có những cạnh tranh và ganh tị...

 

Một tâm hồn tiêu biểu có một đời sống nội tâm cũng như hoạt động hơn ai hết trong số thành phần tông đồ chứng nhân tiên khởi của Chúa Kitô và cho Chúa Kitô, phải kể đến vị tông đồ dân ngoại Phaolô: về hoạt động - ngài là một vị thừa sai truyền giáo không ai bằng; về nội tâm - ngài là người đã được đưa lên tầng trời thứ ba (xem 2Corinto 12:2), đến độ đã nên một với Chúa Kitô, Đấng sống trong ngài (xem Galata 2:20).

 

Cho dù quá khứ của ngài có chống lại Giáo Hội Chúa Kitô, như ngài đã tự thú trong Bài Đọc 1 hôm nay: "anh em nghe nói về đời sống của tôi trước kia, khi theo đạo Do-thái: tôi đã bắt bớ và phá hoại Hội Thánh của Thiên Chúa thái quá. Trong đạo Do-thái, tôi đã vượt hẳn nhiều bạn đồng giống nòi, đồng tuổi với tôi, và tôi nhiệt thành hơn bất cứ ai đối với truyền thống của cha ông tôi".

 

Tuy nhiên, một khi bất ngờ được tuyển chọn và sai đi thì ngài đã: "Ðấng tách riêng tôi ra từ lòng mẹ, và dùng ơn Người mà kêu gọi tôi, để tôi rao giảng Người trong các dân ngoại, thì không lúc nào tôi bàn hỏi người xác thịt máu huyết, và tôi không lên Giêrusalem để gặp các vị làm tông đồ trước tôi, nhưng tôi đi ngay đến Arabia, rồi lại trở về Ðamas... Các giáo đoàn của Ðức Kitô ở xứ Giuđêa chưa biết mặt tôi, họ chỉ nghe đồn rằng: 'Người xưa kia bắt bớ chúng ta, giờ đây lại rao giảng đức tin mà thuở trước ông muốn bài trừ', và vì tôi, họ ngợi khen Thiên Chúa".

 

Đối với lòng thương xót Chúa thì không có gì là đáng bị loại trừ, tất cả đều trân quí trước nhan Ngài, thậm chí Ngài còn sử dụng những yếu hèn và tội lỗi của chính con người để tỏ ra quyền năng và tình yêu thương vô cùng nhân hậu của Ngài, đến độ Ngài có thể biến dữ thành lành cho chính con người tội lỗi, như nơi trường hợp của Thánh Phaolô trong Bài Đọc 1 hôm nay, một vị tông đồ dân ngoại có thể vang lên những ý thức và tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay, rất thích hợp với cá nhân của mình như sau:

 

1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con, Ngài biết con lúc con ngồi hay con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con tự đàng xa, khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết, Ngài để ý tới mọi đường lối của con.

2) Chính Ngài đã nặn ra thận tạng con, đã dệt ra con trong lòng thân mẫu. Con ngợi khen Ngài đã tạo nên con lạ lùng như thế, vì công cuộc của Ngài thực diệu huyền.

3) Linh hồn con, Chúa hoàn toàn biết rõ, thể chất con không giấu nổi mắt Ngài, lúc con được cấu tạo hình hài trong nơi kín đáo, lúc con được dệt thân ở chỗ đất sâu.

 


 

 

 

Thứ Tư


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 2, 1-2. 7-14

"Các đấng đã nhận biết ơn đã ban cho tôi".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, mười bốn năm sau, tôi lại lên Giêrusalem cùng với Barnaba và có đem Titô theo. Tôi đã theo ơn mạc khải mà lên đó, và tôi đã trình bày với các đấng đó về Tin Mừng mà tôi rao giảng nơi các dân ngoại, tôi bàn hỏi riêng với những bậc vị vọng, vì e rằng mình đang bôn tẩu hoặc đã bôn tẩu luống công chăng.

Trái lại, khi các đấng ấy thấy rằng tôi được uỷ nhiệm rao giảng Tin Mừng cho người không chịu cắt bì, cũng như đã uỷ nhiệm cho Phêrô rao giảng cho những người đã chịu cắt bì, (vì Ðấng đã ban cho Phêrô làm Tông đồ cho những người đã chịu cắt bì, cũng đã ban cho tôi làm Tông đồ lo cho các dân ngoại), và khi đã nhận biết ơn đã ban cho tôi, thì Giacôbê, Kêpha và Gioan, là những vị được kể như cột trụ, đã bắt tay tôi và Barnaba, tỏ tình thông hảo. Thế là chúng tôi đi sang các dân ngoại, còn các đấng thì đi đến với những người đã chịu cắt bì. Bấy giờ chúng tôi chỉ còn phải nhớ đến những người nghèo khổ, và đó là chính điều tôi đã định tâm thi hành.

Nhưng khi Kêpha đến Antiôkia, tôi đã phản đối ông ngay trước mặt, vì ông làm điều không phải. Vì chưng trước khi mấy người bên Giacôbê đến, thì ông vẫn dùng bữa với những người dân ngoại, nhưng khi những người ấy đến, thì ông lẩn lút và tự lánh mặt đi, bởi sợ những người thuộc giới cắt bì. Những người Do-thái khác đều giả hình như ông, thậm chí cả Barnaba cũng bị lôi cuốn theo sự giả hình của họ. Nhưng khi thấy họ không thẳng thắn sống theo chân lý Tin Mừng, tôi đã nói với Kêpha trước mặt mọi người rằng: "Nếu ông là Do-thái, mà còn sống theo thói người dân ngoại, chứ không theo thói người Do-thái, thì lẽ nào ông bắt ép người dân ngoại phải theo thói người Do-thái sao?

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 116, 1. 2

Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).

Xướng: 1) Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người! - Ðáp.

2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng ta thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 4, 4b

Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 11, 1-4

"Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông". Người nói với các ông: "Khi các con cầu nguyện, hãy nói:

"Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Lk 11, 1-4

 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 


Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, Thứ Tư Tuần XXVII Thường Niên, tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, chẳng những liên tục về bố cục theo đoạn và câu mà còn liên tục về cả nội dung của hai bài Phúc Âm này nữa. Ở chỗ, nếu bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến đời sống nội tâm thì bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến tinh thần cầu nguyện.

 


Đúng thế, Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay thuật lại rằng: "Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: 'Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông'".

 


Thánh ký Luca không cho chúng ta biết rõ tên của người "môn đệ" nào trong 12 tông đồ hay trong 72 môn đệ đã xin Người dạy cho chung các vị cầu nguyện, mà là cầu nguyện theo kiểu của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả dạy cho các môn đệ của ngài. Chúng ta có thể suy đoán, người "môn đệấy một là Tông Đồ Anrê hai là Tông Đồ Philiphê, hai môn đệ của vị tiền hô này đã đến xem chỗ Người ở, ba là Nathanael / Bartholomeo và bốn là Simon / Phêrô là 2 người được hai vị đến trước và về rủ đến sau (xem Gioan 1:35-51).

 

 

Chúng ta ở đây không biết Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã dạy các môn đệ cầu nguyện của ngài như thế nào mà môn đệ này đã cảm thấy hay đến độ xin Chúa Giêsu dạy cho họ như thế hay hơn thế. Chỉ biết rằng, đích thân Chúa Giêsu đã đáp ứng lời yêu cầu chính đáng của người môn đệ đại diện ấy bằng cách cống hiến cho môn đệ của mình công thức cầu nguyện cùng Cha của Người như sau:

 

 

"Khi các con cầu nguyện, hãy nói: 'Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ'".

 

 

Chúng ta cũng không biết kinh nguyện trên đây của Chúa Giêsu có phải là chính tâm nguyện chính yếu và liên lỉ của Người đối với Cha của Người, những tâm nguyện được Người bộc phát và bày tỏ ra cùng Cha của Người mỗi lần Người cầu nguyện cùng Cha của Người hay chăng? Nhưng chúng ta chắc chắn một điều rằng nếu những lời cầu nguyện ấy không phải là những gì hay nhất, tuyệt vời nhất và đẹp lòng Cha của Người nhất, vì không ai biết Cha Người bằng Người, thì Người đã không dạy cho các môn đệ của Người, không dạy cho chúng ta.

 

 

Thế nhưng, nếu cho rằng những lời cầu ấy là chính tâm nguyện của Chúa Giêsu ấp ủ đối với Cha của Người thì phần "nguyện" đầu của lời cầu mà chúng ta vẫn gọi là Kinh Chúa Dạy hay Kinh Lạy Cha này là những gì có thể khả chấp: "Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến", nhưng còn phần "xin" sau đó dường như không hợp với Người, không xứng với Người, Đấng không cần những vấn đề thuộc hạ giới này của loài thuần nhân như chúng ta: "Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ". 

 

 

Tuy nhiên, ở đây, Chúa Kitô cầu nguyện với tư cách là một Con Người, (chứ không phải với tư cách là một Vị Thiên Chúa), một Con Người cầu nguyện thay con người, cầu nguyện với con người và cầu nguyện cho con người.

 

 

Vì là Con Người, Người cũng cần "xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày" là biết làm theo và chu toàn ý muốn Cha là Đấng đã sai Người (xem Gioan 4:34).

 

 

Vì Người là Đấng gánh tội trần gian và đền tội cho trần gian mà Người cũng xin Cha "tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con", ở chỗ tha nợ cho Người cũng là tha nợ cho đồng loại tội nhân của Người, như Người đã tha nợ cho những kẻ lầm lẫn không biết việc mình làm khi ra tay sát hại Người (xem Luca 23:34).

 

 

Vì là Đấng đã hóa thân làm người, cũng có ý muốn riêng theo bản tính loài người mà Người cũng "xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ" là khuynh hướng luôn tìm theo ý riêng mình hơn là ý muốn của Thiên Chúa, một ý muốn tối cao nhưng vô cùng oan khiên khắc nghiệt của Thiên Chúa đối với ý riêng của con người.

 

 

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, qua Thư gửi giáo đoàn Galata, Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy hai sự kiện liên quan đến Kinh Lạy Cha. Phần đầu của Kinh Lạy Cha liên quan đến chính bản thân ngài, và phần cuối của Kinh Lạy Cha liên quan đến Tông Đồ Phêrô.

 

 

Trước hết, phần đầu của Kinh Lạy Cha là phần "nguyện": "nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến". Bởi thế, tuy được chính Chúa Kitô trực tiếp tỏ mình ra cho ngài, ngài vẫn không thể coi thường hay qua mặt "những vị được kể như cột trụ" của Giáo Hội sơ khai ở Giêrusalem bấy giờ, trái lại, như ngài tự thú trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay, vì sợ theo ý riêng mình mà "tôi bàn hỏi riêng với những bậc vị vọng, vì e rằng mình đang bôn tẩu hoặc đã bôn tẩu luống công chăng.... và khi đã nhận biết ơn đã ban cho tôi, thì Giacôbê, Kêpha và Gioan, là những vị được kể như cột trụ, đã bắt tay tôi và Barnaba, tỏ tình thông hảo".

 

 

Sau nữa, phần cuối của Kinh Lạy Cha là phần "xin": "lương thực hằng ngày" "chớ để sa chước cám dỗ", phần liên quan đến Tông Đồ Phêrô, vị lãnh đạo Giáo Hội sơ khai bấy giờ, trước mắt vị tông đồ dân ngoại Phaolô, đã cho thấy thái độ "sa chước cám dỗ", ở chỗ, vì "sợ những người thuộc giới cắt bì" Do Thái đã tỏ ra "giả hình", "không thẳng thắn sống theo chân lý Tin Mừng", làm gương mù gương xấu cho những người dưới và cho cả dân ngoại, nên "tôi đã nói với Kêpha trước mặt mọi người rằng: 'Nếu ông là Do-thái, mà còn sống theo thói người dân ngoại, chứ không theo thói người Do-thái, thì lẽ nào ông bắt ép người dân ngoại phải theo thói người Do-thái sao?"

 

 

Cả hai vị đại tông đồ, một cho dân Do Thái là Thánh Phêrô và một cho dân ngoại là Thánh Phaolô, được Giáo Hội mừng chung, ở bậc lễ trọng hằng năm vào ngày 29/6 này, dầu sao cũng là những con người khiếm khuyết, không trước (quá khứ bắt đạo của Thánh Phaolô) thì sau (Thánh Phêrô "giả hình" trong Bài Đọc 1 hôm nay), vẫn không thể bị LTXC loại trừ: "Tình thương Chúa dành cho chúng ta thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời" (Đáp Ca hôm nay câu 2). Trái lại, LTXC còn cố ý sử dụng các vị để tỏ mình ra, khiến các vị nhờ đó mà nhận biết Ngài hơn, và vì thế các vị không thể nào không lên tiếng ngợi khen chúc tụng Ngài: "Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người!" (Đáp Ca hôm nay câu 1)

 

 

 

 

Thứ Năm


Phụng Vụ Lời Chúa

 


Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 3, 1-5

"Anh em đã lãnh nhận Thánh Thần bởi giữ luật hay bởi vâng phục đức tin?"

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Ôi những người Galata vô tâm trí, ai đã mê hoặc anh em bất phục chân lý tỏ bày Ðức Giêsu Kitô trước mặt anh em, Ðấng chịu đóng đinh vào thập giá trong anh em? Tôi chỉ muốn anh em cho biết một điều này: là anh em đã lãnh nhận Thánh Thần bởi giữ luật hay bởi vâng phục đức tin? Chớ thì anh em vô tâm trí đến nỗi anh em đã khởi công theo tinh thần, để rồi giờ đây kết thúc theo xác thịt sao? Anh em đã chịu đựng bao nhiêu chuyện như thế luống công sao, nếu có thể nói là luống công? Vậy Ðấng ban Thánh Thần cho anh em và làm những việc lạ lùng nơi anh em, có phải Người hành động bởi anh em giữ luật hay bởi anh em vâng phục đức tin?

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Lc 1, 69-70. 71-72. 73-75

Ðáp: Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài (c. 68).

Xướng: 1) Chúa đã gầy dựng cho chúng ta một uy quyền cứu độ, trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa. Như Ngài đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa. - Ðáp.

2) Ðể giải phóng chúng ta khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng ta. Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta, và nhớ lại lời thánh ước của Ngài. - Ðáp.

3) Lời minh ước mà Ngài tuyên thệ với Abraham tổ phụ chúng ta rằng: Ngài cho chúng ta được không sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù; phục vụ Ngài trong thánh thiện và công chính, trước tôn nhan Ngài, trọn đời sống chúng ta. - Ðáp.

 

Alleluia: Lc 4, 18-19

Alleluia, alleluia! - Chúa đã sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 11, 5-13

"Các con hãy xin thì sẽ được".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: "Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi anh ấy". Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: "Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được". Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần.

"Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người".

Ðó là lời Chúa. 

 

Image result for Lk 11, 5-13

 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XXVII Thường Niên hôm nay tiếp tục tinh thần cầu nguyện của bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến lòng tin tưởng vào Đấng ban ân sủng cho những ai chân thành thỉnh nguyện. Nguyên văn toàn bài Phúc Âm hôm nay là:

 

"Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thiết đãi anh ấy. Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được. Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần. Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người".

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay chúng ta cảm thấy như thể xin gì được nấy, xin gì cũng được, căn cứ vào lời Chúa vừa thúc giục: 

"Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho", vừa hứa quyết: "Vì hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho".

Có hai lý do để xin gì được nấy, như chiều hướng của bài Phúc Âm cho thấy: trước hết là chỉ cần nhẫn nại kêu xin bằng cách liên tục quấy rầy Chúa: 

"Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần".

 

Lý do chính yếu để được những gì mình xin là tin tưởng vào tấm lòng yêu thương vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng là Cha trên trời bao giờ cũng yêu thương con cái và muốn ban cho con cái những gì tốt nhất và lợi nhất: 

 

"Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người".

 

Tất nhiên, một khi đã sâu xa và đích thực nhận biết Thiên Chúa là Cha nhân lành và hoàn toàn tin tưởng vào Ngài thì con người có thể biết được những gì đẹp lòng Ngài nhất, và chỉ xin những gì đáng xin, cần xin và phải xin mà thôi, nhất là xin cho tha nhân, xin vì đức bác ái yêu thương v.v. như trường hợp được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay:

 

"Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thiết đãi anh ấy".

 

Theo tinh thần của Bài Phúc Âm hôm nay, liên quan đến đức tin khi cầu nguyện và hoa trái cầu nguyện là Thánh Thần được ban cho tâm hồn tin tưởng nguyện cầu, Thánh Phaolô, trong Bài Đọc 1 hôm nay cũng thế, vị tông đồ dân ngoại đã nhắc nhở và nhấn mạnh với Kitô hữu giáo đoàn Galata như vậy về đức tin tuân phục, chứ không phải việc giữ luật của con người, mà họ đã lãnh nhận được Thánh Thần, Vị "Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người", như đã được Chúa Kitô khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay. Thánh Phaolô đã khẳng định bằng các câu nói ở thể nghi vấn được ngài đặt ra cho chính độc giả của ngài suy nghĩ, chấp nhận và tuân hành như sau:

 

"Ôi những người Galata vô tâm trí, ai đã mê hoặc anh em bất phục chân lý tỏ bày Ðức Giêsu Kitô trước mặt anh em, Ðấng chịu đóng đinh vào thập giá trong anh em? Tôi chỉ muốn anh em cho biết một điều này: là anh em đã lãnh nhận Thánh Thần bởi giữ luật hay bởi vâng phục đức tin? Chớ thì anh em vô tâm trí đến nỗi anh em đã khởi công theo tinh thần, để rồi giờ đây kết thúc theo xác thịt sao? Anh em đã chịu đựng bao nhiêu chuyện như thế luống công sao, nếu có thể nói là luống công? Vậy Ðấng ban Thánh Thần cho anh em và làm những việc lạ lùng nơi anh em, có phải Người hành động bởi anh em giữ luật hay bởi anh em vâng phục đức tin?"

 

 

Nếu con người ta giúp đỡ nhau đôi khi vì bất đắc dĩ, không muốn bị phiền toái, như Chúa Giêsu đã đề cập đến trong Bài Phúc Âm hôm nay, và "nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người", mà Người ban một cách hết sức yêu thương chứ không phải vì bất đắc dĩ, vì bị phiền hà, thì không lạ gì Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay đã không thể nào không vang lên lời chúc tụng ngợi khen vị Thiên Chúa cứu độ của dân mình: "Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài" (câu họa), bằng tất cả ý thức thần linh có được về Ngài ở 3 câu xướng như sau:

 

 

1) Chúa đã gầy dựng cho chúng ta một uy quyền cứu độ, trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa. Như Ngài đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa.

2) Ðể giải phóng chúng ta khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng ta. Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta, và nhớ lại lời thánh ước của Ngài.

3) Lời minh ước mà Ngài tuyên thệ với Abraham tổ phụ chúng ta rằng: Ngài cho chúng ta được không sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù; phục vụ Ngài trong thánh thiện và công chính, trước tôn nhan Ngài, trọn đời sống chúng ta. 

 


 

 

Thứ Sáu

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 3, 7-14

"Những ai cậy dựa vào đức tin, sẽ được chúc phúc với Abraham, con người tin tưởng".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, anh em hãy nhận biết rằng: những ai cậy dựa vào đức tin, thì họ là con cái của Abraham. Thực Kinh Thánh thấy trước rằng Thiên Chúa sẽ dùng đức tin làm cho các dân ngoại được công chính, nên đã tiên báo cho Abraham rằng: "Nơi ngươi tất cả dân ngoại sẽ được chúc phúc". Vậy những ai cậy dựa vào đức tin sẽ được chúc phúc với Abraham, con người tin tưởng.

Thực ra, những người cậy dựa vào lề luật, họ mắc phải điều vô phúc, vì có lời chép rằng: "Vô phúc những ai không trung thành với những điều ghi trong Sách Luật, để thi hành những điều đó". Ðàng khác, không ai được công chính hoá trước mặt Chúa bởi lề luật, đó là điều hiển nhiên, vì lẽ rằng: "Người công chính sẽ sống bởi đức tin". Lề luật không căn cứ ở đức tin, nhưng là "Ai thực hành những khoản ấy, sẽ nhờ đó mà được sống".

Ðức Kitô đã cứu chuộc chúng ta khỏi điều vô phúc của lề luật, bởi Người đã vì chúng ta, biến thành điều vô phúc, như lời chép rằng: "Hễ ai bị treo trên cây gỗ, đều là vô phúc", để phúc lành của Abraham được chuyển tới các dân ngoại trong Ðức Giêsu Kitô, hầu chúng ta nhờ đức tin mà lãnh nhận Thánh Thần Chúa đã hứa".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 110, 1-2. 3-4. 5-6

Ðáp: Cho tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 5b).

Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi! - Ðáp.

2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Người muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi. - Ðáp.

3) Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Người, cho tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước. Chúa tỏ cho dân Người thấy công cuộc quyền năng của Người, hầu ban cho họ được phần sản nghiệp của chư dân. - Ðáp.

 

Alleluia: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời, và vinh quang trên các tầng trời! - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 11, 15-26

"Nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, (lúc Chúa Giêsu trừ quỷ), thì có mấy người trong dân chúng nói rằng: "Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ". Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống.

Nhưng Người biết ý của họ, liền phán: "Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.

"Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tán hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán.

"Khi thần ô uế ra khỏi người nào, thì nó đi dông dài những nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng không tìm được, nên nó nói rằng: "Ta sẽ trở lại nhà ta, nơi ta đã ra đi". Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được quét sạch và sắp đặt ngăn nắp. Bấy giờ nó đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và tình trạng sau cùng của người ấy trở nên tệ hại hơn trước".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Lk 11, 15-26


Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Sáu Tuần XXVII Thường Niên hôm nay cách bài Phúc Âm hôm qua chỉ có một câu duy nhất, đó là câu "Chúa Giêsu trừ một quỉ câm, và khi tên quỉ này bị khu trừ thì người câm nói được. Thấy thế đám đông tỏ ra bàng hoàng kinh ngạc" (Luca 11:14). 

 

Tuy nhiên, giữa lúc hầu hết dân chúng chứng kiến thấy thế thì đều tỏ ra bàng hoàng kinh ngạc như vậy, cũng còn có một số người vẫn nhất định không tin bằng những dẫn giải lệch lạc hay tiếp tục đòi hỏi hơn thế nữa theo ý của họ rồi mới chịu tin, như bài Phúc Âm hôm nay kể tiếp: "thì có mấy người trong dân chúng nói rằng: 'Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ'. Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống".

 

Trước thái độ thách thức của một thiểu số con người cứng lòng tin này, Chúa Giêsu đã nhẫn nại cho họ thấy những dẫn giải của họ là sai lầm, hoàn toàn mâu thuẫn, khi Người lấy gậy ông đập lưng ông, lấy chính lập luận của họ để bẻ gẫy họ, khiến họ cứng họng, ở chỗ: 

 

"Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".

 

Phải, Chúa Giêsu đã chẳng những vạch ra cho những con người cứng lòng tin này thấy cái mâu thuẫn đầy thành kiến của họ mà còn từ đó cho họ thấy dấu chỉ thời đại về Nước Thiên Chúa ở ngay sự kiện Người trừ quỉ câm bấy giờ nữa: "Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi". 

 

Nếu theo nguyên tắc "Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán", như Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, thì những kẻ dẫn giải sai lầm về sự kiện trừ quỉ câm của Người trong bài Phúc Âm là thành phần nghịch với Người, đồng thời cũng vì thế mà trở thành những kẻ "phân tán" hay cũng gọi là thành phần thọc gậy bánh xe hay thành phần phá đám. 

 

Đoạn cuối cùng của Bài Phúc Âm hôm nay cũng rất đáng chú ý, bởi vì nó hình như liên quan đến chính bản thân của con người được Chúa Giêsu trừ quỉ cho:

 

"Khi thần ô uế ra khỏi người nào, thì nó đi dông dài những nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng không tìm được, nên nó nói rằng: 'Ta sẽ trở lại nhà ta, nơi ta đã ra đi'. Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được quét sạch và sắp đặt ngăn nắp. Bấy giờ nó đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và tình trạng sau cùng của người ấy trở nên tệ hại hơn trước".

 

Ở đây chúng ta có thể áp dụng vào trường hợp của thành phần tân tòng được trừ quỉ nhờ Phép Rửa lúc họ được thanh tẩy khỏi nguyên tội, hay trường hợp của thành phần được trừ quỉ nhờ quyền năng tha tội của Thiên Chúa trong tòa giải tội, hoặc trường hợp của những tâm hồn được trừ quỉ bởi ân sủng dồi dào nhờ một cuộc tĩnh tâm tuyệt vời nào đó v.v

 

Thế nhưng, trong tiến trình tiến đức và hành trình đức tin, nhất là gặp những giai đoạn khô khan nguội lạnh, các đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu, (là những gì không bao giờ bị tiêu diệt hoàn toàn trong con người dù họ đã được lãnh nhận Phép Rửa, đã được thánh hóa), bấy giờ chúng như bừng tỉnh sau một thời gian thiếp ngủ trước tác dụng của ân sủng thần linh nơi tâm hồn tân tòng hay mới hòa giải hoặc mới tĩnh tâm sốt sắng về, như nằm chờ thời cơ, lại bắt đầu được dịp tái hoành hành và tung hoành còn dữ dội hơn trước nữa, khiến tình trạng tâm hồn ấy trở nên khốn đốn hơn bao giờ hết. 

 

Chính vì thế, muốn tránh được tình trạng khốn đốn này, đến độ trở thành mù quáng như thành phần lệch lạc mâu thuẫn trong bài Phúc Âm, nhờ đó con người mới có thể nhận biết mạc khải thần linh của Thiên Chúa, nhận biết những gì được tỏ ra cho họ, như Nước Trời ở giữa họ và đến với họ, họ cần phải sống đức tin, theo tác động của Thánh Linh là Đấng đã được ban cho họ và ở trong họ, như vị tông đồ dân ngoại Phaolô đã nhắc nhở và kêu gọi Kitô hữu giáo đoàn Galata trong Bài Đọc 1 cho năm chẵn hôm nay thế này: 

 

"Anh em hãy nhận biết rằng: những ai cậy dựa vào đức tin, thì họ là con cái của Abraham. Thực Kinh Thánh thấy trước rằng Thiên Chúa sẽ dùng đức tin làm cho các dân ngoại được công chính, nên đã tiên báo cho Abraham rằng: 'Nơi ngươi tất cả dân ngoại sẽ được chúc phúc'. Vậy những ai cậy dựa vào đức tin sẽ được chúc phúc với Abraham, con người tin tưởng... Ðức Kitô đã cứu chuộc chúng ta khỏi điều vô phúc của lề luật, bởi Người đã vì chúng ta, biến thành điều vô phúc, như lời chép rằng: 'Hễ ai bị treo trên cây gỗ, đều là vô phúc', để phúc lành của Abraham được chuyển tới các dân ngoại trong Ðức Giêsu Kitô, hầu chúng ta nhờ đức tin mà lãnh nhận Thánh Thần Chúa đã hứa".

 

 

Chính vì nền tảng của đức tin đó là vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, vị Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho dân được Ngài tuyển chọn trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ là vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, ngoài Ngài ra không còn một chúa tể nào khác, mà câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay mới chất chứa tất cả niềm tin tưởng vào Ngài bằng lời tuyên xưng:  "Cho tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước". Ở chỗ: "Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi" (câu xướng 2), và "Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Người... Chúa tỏ cho dân Người thấy công cuộc quyền năng của Người, hầu ban cho họ được phần sản nghiệp của chư dân".

 

 

 


Thứ Bảy


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 3, 22-29

"Tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, Thánh Kinh đã giam giữ mọi loài dưới ách tội lỗi, để nhờ lòng tin vào Ðức Giêsu Kitô mà lời hứa được ban tặng cho những kẻ tin.

Nhưng trước khi đức tin chưa đến, thì chúng ta bị giam giữ dưới ách lề luật, để mong chờ đức tin sẽ được tỏ hiện. Bởi thế, lề luật là thầy dạy đưa chúng ta đến cùng Ðức Kitô, để nhờ đức tin, chúng ta được công chính hoá. Nhưng một khi đức tin đã đến, chúng ta không còn ở dưới quyền thầy dạy nữa. Bởi chưng, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô. Vì chưng, tất cả anh em đã chịu phép rửa tội trong Ðức Kitô, nên anh em đã mặc lấy Ðức Kitô. Nay không còn phân biệt người Do-thái và Hy-lạp, người nô lệ và tự do, người nam và người nữ: vì tất cả anh em là một trong Ðức Giêsu Kitô. Nhưng nếu anh em thuộc về Ðức Kitô, thì anh em là dòng dõi Abraham, những kẻ thừa tự như lời đã hứa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 104, 2-3. 4-5. 6-7

Ðáp: Tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).

Xướng: 1) Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. Hãy tự hào vì danh thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. - Ðáp.

2) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết. - Ðáp.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những người được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 1, 14 và 12b

Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 11, 27-28

"Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ cất tiếng nói rằng: "Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!" Nhưng Người phán rằng: "Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn".

Ðó là lời Chúa.

Image result for Lk 11, 27-28

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XXVII hôm nay phải nói là bài Phúc Âm ngắn nhất trong các bài Phúc Âm cho phần phụng vụ lời Chúa. Vì bài Phúc Âm này chỉ có 2 câu vắn gọn mà thôi:

 

"Khi ấy, Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ cất tiếng nói rằng: 'Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!' Nhưng Người phán rằng: 'Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn'".

 

Qua 2 câu ngắn ngủi của bài Phúc Âm này, Thánh ký Luca thuật lại cho chúng ta biết về sự kiện có một người đàn bà nghe thấy Chúa Giêsu giảng dạy thì bị cảm kích nên đã lên tiếng ngợi khen mẹ của nhà đại giảng thuyết có phúc vì đã được cưu mang ngài và cho ngài bú, thế nhưng chính vị đại giảng thuyết gia này đã đính chính về cái phúc thật mẹ của Người có được không như người đàn bà ấy tưởng nghĩ.

 

Thật vậy, Chúa Giêsu có ý đề cao mẹ của Người về hạnh phúc thật nơi Mẹ không phải chỉ ở tm mức thể lý là "cưu mang" Người và cho Người "" mớm như một người mẹ bình thường, mà trên hết và trước hết ở chỗ Mẹ đã "nghe và giữ lời Thiên Chúa", bằng không Mẹ đã vĩnh viễn không xứng đáng làm Mẹ của Người và có khả năng làm Mẹ của Người, Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Đấng đến không phải để làm theo ý của mình mà là ý của Đấng đã sai Người (xem Gioan 6:38)

 

Thật vậy, Mẹ Maria đầy ân phúc đã chẳng những được Thiên Chúa ở cùng, được làm Mẹ Con Đấng Tối Cao, làm Mẹ Con Thiên Chúa (xem Luca 1:28,32,34), mà còn đầy ân phúc vì đã tin (xem Luca 1:45), đã xin vâng (xem Luca 1:38), "đã theo Con Chiên đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới" (Khải Huyền 14:4), cho tới khi đứng bên Thánh Giá với con mình (xem Gioan 19:25). 

 

Trong khi Bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến hạnh phúc thật của chung những ai tin tưởng bằng cách lắng nghe và giữ Lời Chúa, điển hình nhất là người mẹ của Chúa Giêsu, người mẹ "có phúc vì đã tin" (Luca 1:45), hơn là được cưu mang và cho Con Thiên Chúa làm người bú mớm theo định luật tự nhiên về thể lý, thì trong Thư gửi giáo đoàn Galata ở Bài Đọc 1 cho năm chẵn hôm nay, vị tông đồ dân ngoại Phaolô cũng tiếp tục chủ đề đức tin của ngài, đức tin mới là chính yếu, chứ không phải là lề luật hay việc giữ lề luật, (như người mẹ theo định luật tự nhiên trong vai trò làm mẹ phải cưu mang và cho con mình bú), khi ngài nhắc nhở họ rằng: "Tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô. Vì chưng, tất cả anh em đã chịu phép rửa tội trong Ðức Kitô, nên anh em đã mặc lấy Ðức Kitô. Nay không còn phân biệt người Do-thái và Hy-lạp, người nô lệ và tự do, người nam và người nữ: vì tất cả anh em là một trong Ðức Giêsu Kitô".

 

Thật vậy, chỉ có những tâm hồn nào sống đức tin chân chính mới có được cảm nghiệm thần linh về Thiên Chúa, nhờ đó họ cũng mới có thể lên tiếng kêu gọi như Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay:

 

 

1) Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. Hãy tự hào vì danh thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui.

2) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những người được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu.