SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014

 

2020

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XXVII Thường Niên Năm A và Chẵn 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Is 5, 1-7

"Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Israel".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Tôi sẽ ca tặng người yêu bài hát của cô bác tôi về vườn nho.

Người tôi yêu có một vườn nho trên đồi xinh tươi. Người rào giậu, nhặt đá, trồng cây chọn lọc, xây tháp giữa vườn, lập máy ép trong vườn, và trông mong nó sinh quả nho, nhưng nó lại sinh toàn nho dại.

Vậy giờ đây, hỡi dân cư Giêrusalem và người Giuđa, hãy luận xét giữa ta và vườn nho ta. Nào còn việc gì phải làm cho vườn nho ta mà ta đã không làm? Sao ta trông mong nó sinh quả nho, mà nó lại sinh quả nho dại!

Giờ đây ta tỏ bày cho các ngươi biết ta sẽ làm gì đối với vườn nho ta: Ta sẽ phá hàng rào, để nó bị tàn phá, sẽ phá tường để nó phải bị giầy đạp. Ta sẽ bỏ nó hoang vu, không cắt tỉa, không vun xới; gai góc sẽ mọc lên, và ta sẽ khiến mây không mưa xuống trên nó. Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Israel, và người Giuđa là chồi cây Chúa vui thích. Ta trông mong nó thực hành điều chính trực, nhưng đây toàn sự gian ác. Ta trông mong nó thực hành đức công bình, nhưng đây toàn là tiếng kêu oan.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 79, 9 và 12. 13-14. 15-16. 19-20

Ðáp: Vườn nho của Chúa là nhà Israel (c. Is 5, 7a).

Xướng: 1) Từ Ai-cập Chúa đã mang về một gốc nho. Chúa đã đuổi chư dân đi để ương trồng nó. Nó vươn ngành ra cho tới nơi biển cả, vươn chồi non cho tới chỗ đại giang. - Ðáp.

2) Tại sao Ngài phá vỡ hàng rào, để bao khách qua đường đều lảy hái nó, để lợn rừng xông ra tàn phá, và muông thú ngoài đồng dùng nó làm cỏ nuôi thân? - Ðáp.

3) Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại; từ trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành nho mà Ngài đã củng cố cho mình. - Ðáp.

4) Chúng con sẽ không còn rời xa Chúa nữa. Chúa cho chúng con được sống, và chúng con ca tụng danh Ngài. Lạy Chúa thiên binh, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Pl 4, 6-9

"Thiên Chúa bình an sẽ ở cùng anh em".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô.

Vả lại, hỡi anh em, những gì là chân thật, trong sạch, công chính, là thánh thiện, đáng yêu chuộng, danh thơm tiếng tốt, là nhân đức, là luật pháp đáng khen, thì anh em hãy tưởng nghĩ những sự ấy. Những điều anh em đã học biết, đã lãnh nhận, đã nghe và đã thấy nơi tôi, anh em hãy đem những điều đó ra thực hành, thì Thiên Chúa bình an sẽ ở cùng anh em.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 21, 33-43

"Ông sẽ cho người khác thuê vườn nho".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông hãy nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh, đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa. Ðến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi. Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: "Ðứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó". Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết. Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào?" Các ông trả lời, "Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi".

Chúa Giêsu phán: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh: "Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc. Ðó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta!" Bởi vậy, Tôi bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái".

Ðó là lời Chúa.

Commentaries on the Daily Gospel of the Mass - TOGETHER WITH GOD'S WORD  Commentaries on the Gospel by Kay Murdy
Matthew [21:33-43,45-46] The Parable of the Tenants - YouTube

 


Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

Thiên Chúa dại mà khôn - con người khôn mà dại

 

 

 

Nếu đọc bài Phúc Âm của Chúa Nhật XXV và XXVI Thường Niên Năm A chúng ta còn thấy Thiên Chúa còn có lý hay chí lý, ở chỗ trả công cho thợ thuê làm vườn nho chẳng những theo công bằng mà còn theo lòng quảng đại của mình, và ở chỗ những ai tội lỗi ăn năn trở lại đáng được thương xót hơn những kẻ tự cho mình là công chính, thì đọc bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVII Thường Niên Năm A hôm nay chúng ta thấy ông chủ vườn nho, (vẫn cứ vườn nho ở cả 3 bài Phúc Âm cho 3 Chúa Nhật liền: XXV, XXVI và XXVII, rồi cũng cùng một thành phần được Chúa Giêsu nói với là "các trưởng tế và các kỳ lão trong dân"), hình như "bất thường" làm sao rồi ấy.  

 

Đúng thế, theo tự nhiên, ai trong chúng ta biết là nguy hiểm mà còn dám xông vào làm, nhào vào chỗ chết hay chăng, nếu không phải là liều lĩnh, mà nếu đã biết chắc rằng thế nào cũng thất bại và bị hại mà còn cứ nhất định liều mạng cho đến cùng thì thật là khùng điên chứ không phải là khờ khạo dại dột nữa. Không phải hay sao trong trường hợp của "ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho". Ở chỗ nào?  

 

Ở chỗ, ông đã "sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi", và sau hai phái đoàn đầy tớ của ông (ám chỉ các vị tiên tri trong Cựu Ước) được ông sai đến đều bị "những người làm vườn nho bắt: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác", ông lại càng như điên lên, bất chấp nguy hiểm, bất chấp của quí nhất của mình là chính đứa con duy nhất của mình, (ám chỉ Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô), cứ sai đến cho bọn làm vườn nho hung dữ này (ám chỉ thành phần "các trưởng tế và các kỳ lão trong dân" thuộc Hội Đồng Đầu Mục Do Thái) ăn tươi nuốt sống, chẳng khác gì như "Thiên Chúa đã không dung tha cho Con Một của Ngài, một đã phó nộp Người vì tất cả chúng ta" (Roma 8:32).  

 

Tuy nhiên, ở đây và chính ở đây chúng ta mới thấy được Lòng Thương Xót Chúa là gì và ra sao! Lòng Thương Xót Chúa là bất chấp tất cả sự dữ để có thể biến sự dữ thành sự lành, ở chỗ, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định ở cuối bài Phúc Âm hôm nay: "Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc. Ðó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta!" Nghĩa là chính bọn thợ làm vườn nho hung ác này đã không ngờ rơi vào bàn tay quan phòng thần linh của Thiên Chúa, Đấng hoàn toàn không hề đụng đến tự do của họ, không hề ngăn cản tự do của họ, hoàn toàn để họ có cơ hội để thực hiện ý nghĩ khôn ngoan nhất của họ: "Ðứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó".  

 

Thế mà Đấng làm chủ lịch sử loài người như Ngài vẫn thực hiện được dự án thần linh cứu độ vô cùng khôn ngoan và toàn thiện của Ngài nơi Con của Ngài là Lời Nhập Thể, Đấng đã chẳng những hoàn tất sứ vụ Thiên Sai của Người đối với dân Do Thái theo huyết nhục trần gian của Người, mà còn, đối với toàn thể loài người tội lỗi, hiện thực vai trò Cứu Thế của Người theo nhân tính Người mặc lấy, đúng như lời Ngài đã tự hứa với hai nguyên tổ ngay sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15).  

 

Thật vậy, nếu "vườn nho của Chúa là nhà Israel", đúng như câu họa của bài Đáp Ca hôm nay, thì quả thật Thiên Chúa đã quá ư là chăm sóc cho dân Do Thái được Ngài nhưng không tuyển chọn qua Tổ Phụ Abraham của họ. Đến độ, như Ngài đã đặt vấn đề trong Bài Đọc một hôm nay qua miệng của tiên tri Isaia rằng: "Nào còn việc gì phải làm cho vườn nho ta mà ta đã không làm?" Nào là "rào giậu, nhặt đá, trồng cây chọn lọc, xây tháp giữa vườn, lập máy ép trong vườn", để làm gì, nếu không phải để "trông mong nó sinh quả nho", "nhưng nó lại sinh toàn nho dại", đó là những tội ngoại tình (bỏ vị Thiên Chúa chân thật của mình mà đi) tôn thờ các ngẫu tượng do họ tạo ra (điển hình là bò vàng trong sa mạc) và tà thần của dân ngoại (như thời Vua Solomon chiều theo 700 thê và 300 thiếp của vua). 

 

Chính trong tình trạng phải hứng chịu hậu quả do chính mình gây ra như thế, đến độ họ dám trêu ngươi chọc giận Thiên Chúa khiến Ngài phải ra tay, như Ngài đã phán trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Ta sẽ phá hàng rào, để nó bị tàn phá, sẽ phá tường để nó phải bị giầy đạp. Ta sẽ bỏ nó hoang vu, không cắt tỉa, không vun xới; gai góc sẽ mọc lên, và ta sẽ khiến mây không mưa xuống trên nó", để nhờ đó giúp cho họ nghĩ lại mà trở về với Ngài, như tâm tình của chính Thánh Vịnh 79 ở Bài Đáp Ca hôm nay: 

 

1) Từ Ai-cập Chúa đã mang về một gốc nho. Chúa đã đuổi chư dân đi để ương trồng nó. Nó vươn ngành ra cho tới nơi biển cả, vươn chồi non cho tới chỗ đại giang.

2) Tại sao Ngài phá vỡ hàng rào, để bao khách qua đường đều lảy hái nó, để lợn rừng xông ra tàn phá, và muông thú ngoài đồng dùng nó làm cỏ nuôi thân?

3) Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại; từ trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành nho mà Ngài đã củng cố cho mình.

4) Chúng con sẽ không còn rời xa Chúa nữa. Chúa cho chúng con được sống, và chúng con ca tụng danh Ngài. Lạy Chúa thiên binh, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống.  

 

Theo Bài Phúc Âm hôm nay Thiên Chúa là chủ vườn nho "rào dậu chung quanh (ám chỉ các lề luật của Ngài), đào hầm ép rượu (ám chỉ thử thách đức tin Ngài gửi đến) và xây tháp canh (ám chỉ Đền Thờ là nơi Chúa ngự giữa dân Ngài), đoạn ông cho tá điền thuê (ám chỉ thành phần lãnh đạo dân Chúa nói chung), rồi đi phương xa (ám chỉ tin tưởng vào thành phần tá điền được Ngài chọn lựa và ủy thác cho nhiệm vụ canh tác vườn nho dân Ngài)".  

 

Thế nhưng, lòng tin tưởng của chủ vườn nho vào đám tá điền là thành phần "các trưởng tế và các kỳ lão" được Chúa Giêsu đang nói tới và nhắm tới đây đã bị phản bội bởi thái độ lộng hành phản loạn theo lòng tham lam của họ: "Ðứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó" mà họ đã "bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết". Đúng như những gì đã xẩy ra với chính bản thân Con Thiên Chúa làm người sau này khi Người bị thuộc hạ của Hội Đồng Đầu Mục Do Thái sai đến bắt Người từ Vườn Cây Dầu để giải ra khỏi khu vườn này đến cho các vị để bị các vị lên án tử cho Người và dùng tay dân ngoại Roma để đóng đanh Người vào thập tự giá trên Đồi Canvê:   

 

Hành động tìm bắt và sát hại Người Con duy nhất của ông chủ vườn nho là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ chỉ vì lòng tham của họ muốn "chiếm lấy gia tài của đứa con thừa tự", ở chỗ Hội Đồng Đầu Mục Do Thái bấy giờ, qua thượng tế Caipha, đã nhân danh Thiên Chúa để khủng bố Con của Ngài: "Nhân danh Thiên Chúa Ta truyền cho ngươi phải nói ngươi có phải nói cho chúng ta biết: ngươi có phải là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa không?" (Mathêu 26:63). 

 

Quả đã hoàn toàn ứng nghiệm đúng như lời Chúa Giêsu đã báo trước cho họ là "Tôi ra đi, quí vị sẽ tìm Tôi nhưng quí vị sẽ chết trong tội lỗi của quí vị. Nơi Tôi đi quí vị không thể nào đến được (Chúa có ý nói họ sẽ không thể nào hiểu được, không thể nào chấp nhận Đấng Thiên Sai cứu được người khác mà không thể tự cứu lấy bản thân mình). Quí vị sẽ chết trong tội lỗi của mình nếu quí vị không tin vào Tôi" (Gioan 8:21,24). 

 

"Ðức Giêsu trả lời: 'Chính ngài nói đó. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến'. Bấy giờ vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: 'Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Ðấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?' Họ liền đáp: 'Hắn đáng chết!'" (Mathêu 26:64-66) 

 

Họ có ngờ đâu "chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc", ở chỗ, chính biến cố Người bị họ sát hại vì Thánh Danh Thiên Chúa, bởi họ cho rằng họ không giết một "Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), mà họ chỉ giết một con người thuần túy mà dám cả gan "phạm thượng": "Ngài chỉ là một con người lại cho mình ngang hàng với Thiên Chúa" (Gioan 10:33).  

 

Tất cả Lịch Sử Cứu Độ nơi Dân Do Thái nhờ đó đã đạt tới tột đỉnh nơi Chúa Kitô Vượt Qua vào "thời điểm viên trọn" (Galata 4:4) của Người, thời điểm Người thiết lập vương quốc yêu thương và sự sống của Người sau khi Người sống lại từ trong cõi chết để tiêu diệt tội lỗi và sự chết, một vương quốc mà Người đã tiên báo ở cuối bài Phúc Âm hôm nay là "Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái", đó là thành phần dân ngoại làm nên Giáo Hội được Người thiết lập và "ở cùng cho đến tận thế" (Mathêu 28:20), thành phần được Vị Tông Đồ Dân Ngoại trong Bài Đọc 2 hôm nay khuyên dạy giáo đoàn Philiphê sống xứng đáng với Nước Thiên Chúa đã được trao cho họ để trổ sinh hoa trái: "Hỡi anh em, những gì là chân thật, trong sạch, công chính, là thánh thiện, đáng yêu chuộng, danh thơm tiếng tốt, là nhân đức, là luật pháp đáng khen, thì anh em hãy tưởng nghĩ những sự ấy".

 

 

Thánh PHANXICÔ ASSISI
(1181 - 1226)

Ngày 04-10

 

ĐTC Biển Đức XVI về 

Thánh Phanxicô Khó Khăn  

 

 

Phanxicô sống nghèo, một chọn lựa đạo đời

Có người cho Phanxicô Atxidi là một kẻ đấu tranh "bảo vệ môi sinh" đầy mơ mộng, một số khác lại coi ngài như một người làm cách mạng nhiều tình cảm. Tuy nhiên, đem các tình huống hiện đại áp đặt vào hoàn cảnh quá khứ là một việc luôn luôn nguy hiểm. Muốn rút một bài học từ những kinh nghiệm đi trước cũng đòi hỏi nhiều thận trọng. Có lẽ ý kiến cuả những người từng quen biết Phanxicô, sẽ trung thực với chính xác hơn. Họ gọi ngài là Altar Christus : giống như Chúa Kitô, Phanxicô gắn chặt với thần giới và đồng thời nhập thể sâu xa vào xã hội của thời đại ngài, bởi một chọn lựa tự thân có suy tính; chọn lựa vừa có tính Kitô giáo, vừa có tính xã hội.

Đức Nghèo Phan sinh không có nguồn gốc nào khác và không cần tìm đâu khác lời giải thích về bản chất và các đặc tính của nó. Không cần thuật lại cả tiểu sử của Phanxicô, chỉ cần suy nghĩ sơ qua về một số giai đoạn cũng đủ thấy sự hoà hợp không thể tách rời của 2 khía cạnh : bám chặt nguồn cội Kitô giáo và thấm nhập xã hội của đức Nghèo như Phanxicô đã sống. Sự liên kết chặt chẽ và cần thiết ấy tuy thế vẫn hàm chứa ưu tiên hiển nhiên về phía chọn lựa Kitô giáo. Ưu tiên vì trổi vượt về giá trị cũng như vì có trước. Xác định điều này không phải là cưỡng ép hay bóp méo lịch sử Phanxicô. Việc gắn bó với Chúa Kitô là bước khởi đầu dẫn ngài đến chỗ noi gương Chúa và bao hàm việc từ bỏ bản thân và từ bỏ thế giới, trước khi được quay trở về thế giới với một tư thế tự do. Phanxicô trước tiên đi đến cùng Chúa Kitô và qua Chúa, đến cùng các người nghèo.Rồi những người nghèo lại lôi cuốn ngài đi với họ về với Chúa trong một tác động qua lại trong đó yếu tố nhân loại được cuốn hút bởi yếu tố thần linh, cứu cánh chủ yếu của Phanxicô.

Về sự chọn lựa sống nghèo của Phanxicô, khó tìm được điểm qui chiếu đạo đức nào các trước Tân Ước. Cậu con trai của ông Phêrô Bênađônê đã được giáo dục theo hướng thực tiễn, như đối với phần đông con cái các thương gia Ý vào những ngăm 1200. Nền học vấn chắc không đến nỗi quá sơ sài, và phải châm chước phần nào tĩnh từ "dốt nát" mà Phanxicô tự gắn cho mình cách hài hước. Chúng ta không biết rõ sự hiểu biết của ngài về Thánh Kinh ra sao; chắc lúc khởi đầu nó cũng giống như của đa số quần chúng kitô hữu, nghĩa là cơ bản đại khái. Có thể Phanxicô đã bổ túc số vốn hiểu biết ấy, nhưng bằng cách nào ? Qua những con đường nào ngài tiếp thu được tấm gương từ bỏ và chấp nhận đau khổ trong tinh thần đền tội của Job hay của người đàn bà nghèo tiếp đón Elia ? Ngài có biết đến đức Nghèo trong tinh thần của những "anawin"(người nghèo) trong Cựu Ước không ? Ít ra kinh nghiệm từ bỏ thế gian của các vị đan sĩ và ẩn tu, phát xuất từ những truyền thống lâu đời, vẫn hiện rõ ở thời ngài, qua đó có thể thấy được các nguyên tắc khơi nguồn. Đời sống nghèo của các vị ẩn sĩ tại Grandsont (Grăngsông) , Việc họ từ khước mọi sở hữu, tự ý chấp nhận cảnh sống bấp bênh và hạ mình đi khất thực chỉ mới xảy ra trước đó một thế kỷ. Trào lưu này tiếp tục gợi hứng cho nhiều việc làm mới. Môi trường Phanxicô lớn lên tất nhiên phải chịu ảnh hưởng của cuộc canh tân đời sống kinh sĩ dựa vào một truyền thống Kinh Thánh mạnh mẽ, cũng như không thể dửng dưng trước các chủ trương và khát vọng của một Joachim de Flore (Gioa-kim Phơ-lo), hoặc mạnh mẽ hơn nưa, các trào lưu sống nghèo nảy sinh tại Buesca, Milanô và tại Lyon. Chắc chắn các cuộc hành trình buôn bán của thân phụ Phanxicô cùng đồng nghiệp qua nước Pháp tất mang về âm hưởng khác thường của những lời giảng của Pierre Valdès (Pie-rơ Van-đơ) một giáo dân, không có uỷ quyền của Giáo Hội,  nhưng say mê sống nghèo. Valdès lại tự nhận học được toàn thể Kinh Thánh.

Tuy nhiên có những cớ vững chắc cho biết linh đạo giáo dân đang phát triển thời đó cảm hứng chính từ Phúc âm và sách Công Vụ. Đó là trường học đích thực để  đào tạo Phanxicô. Kể quá thường nếu kể lại việc Phanxicô luôn nhắc nhở đến Lời Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy từ bỏ tất  cả, hãy thoát ly gia đình, không nhận gì làm sở hữu dù là hai áo hay một nơi ở chắc chắn, không một đảm bảo nào về của ăn hàng ngày. Từ lý tưởng "sống  theo cách các tông đồ" được đề cao trở lại từ  hơn một thế kỷ, Phanxicô đã tiếp thu việc phó thác tuyệt đối cho Chúa Quan phòng. Các môn đệ của Phanxicô đã bàn cãi vô tận về bản chất đức Nghèo của Chúa Kitô mà chúng ta cần bắt chước.  Hình như với Phanxicô việc bắt chước ấy nằm ở chỗ noi theo thái độ của Con Người hoàn toàn đặt mình dưới quyền điều động của Cha Người. Phanxicô không đưa vào đây một nhận định tri thức nào, vì  ngài  còn khuyên các bạn đồng hành hãy tránh những thoả mãn của học vấn và ngài cảnh cáo họ trước những "hiểu biết  hư từ". Như vậy người viết sử có quyền chăng để nghĩ rằng nguồn mạch Kinh Thánh của Phanxicô là chính Phúc âm và ngài đã nhờ vào tác động liên tục của ân sủng nên có thể lãnh hội những gì huyết thống và xác thể không dạy được và chỉ được tỏ ra cho những  kẻ khiêm hạ ? Quả thực, nếu có thể kể Phanxicô vào số những người qua bao thế hệ ao ước được "trần trụi bước theo Chúa Kitô trần trụi" (mudus nudum Christum sequi), thì cũng không thể coi ngài là kết quả tất yếu của một môi trườngđạo đức. Linh đạo của ngài xem như phát xuất từ một trực giác nhận được  ngay nơi Đấng ngài cố tâm bước theo. Các cuộc đối thoại của Phanxicô với Chúa Kitô trên Thánh giá mà tiểu sử ghi lại nên hiểu theo nghĩa này. Chính sự chiêm ngắm Chúa Kitô trên thánh giá tại nhà nguyện San Đamianô đã khơi nguồn cho việc ngài trở lại. Theo tiểu sử có một lần Chúa Giêsu nói với Phanxicô : "Phanxicô ơi, con điên rồi !" Phanxicô đã trả lời : "Lạy Chúa, con chưa điên bằng Chúa ?" Bởi vậy động lực đích thực của sự chọn lựa sống nghèo của Phanxicô đó là được tự do bước theo Thầy mình.

Sau này việc bắt chước Chúa Giêsu được đề ra thành lý tưởng cho cả giáo dân. Đối với Phanxicô, việc bắt chước này thể hiện bằng các dấu đinh. Ở đây, không phải chỗ để bàn đến các công cuộc nghiên cứu, có cả nghiên cứu y học, liên quan đến sự kiện này, tuy nhiên vẫn cần xác định động lực thúc đẩy Phanxicô bắt chước Chúa Kitô. Không bao giờ Phanxicô có cao vọng thành một "Chúa Kitô khác" như các hạnh tích hay gán cho ngài. Theo nguồn Kinh Thánh, có lẽ phải nói Phanxicô muốn bước theo chân Chúa Kitô  hơn là bắt chước Chúa. Đấng, Phanxicô muốn bắt chước, có lẽ đúng hơn là Gioan Tẩy Giả trong công việc khiêm tốn đi dọn đường. Phanxicô cũng muốn giữ vai trò của người sứ giả tiền hô. Ngài muốn ở chỗ rốt cùng và ai muốn đồng hành với ngài phải chấp nhận trở thành một người "anh em hèn mọn". Ý muốn phục vụ trong khiêm tốn thể hiện ở 2 điểm : thứ nhất ngài không muốn tiến đến chức linh mục vì như vậy sẽ ở hàng đầu trong số những người cộng sự của Chúa Kitô ; thứ hai ngài luôn tuân phục đấng mà vào thời đức Innôxensiô III, người ta đã quen gọi là vicarius Christi, đấng đại diện Chúa Kitô, nghĩa là Đức Giáo hoàng.

Cuộc hôn phối của Phanxicô với THANH BẦN TIỂU THƯ có mục đích nguyên thuỷ là chuẩn bị người nghèo đón nhận Tin Mừng mà họ là người thừa kế ưu tiên. Qua đó, chọn lựa sống nghèo về mặt xã hội được ghép vào chọn lựa thiêng liêng.

Việc làm này không phải riêng gì của Phanxicô. Nhiều thế hệ đan sĩ và ẩn sĩ đã từ bỏ sở hữu, từ bỏ bản thân để được sẵn sàng đáp ứng ơn thánh và để tiến đến sự hiệp nhất biến thể với Thiên Chúa. Trước Phanxicô, Pierre de Elois (Pie-rơ Ê-loa) khuyên trở nên "một người nghèo giưã những người nghèo", nhưng lời mời gọi không phải là một ý tưởng mới lạ, nó dựa vào vô số những thử nghiệm khởi xướng trong thế kỷ XII. Tuy nhiên, chưa có ai thử cổ động trong Giáo Hội một phong trào giáo dân sống tập thể và tự ý nghèo giưã những người nghèo. Câu quả quyết này dựa trên cơ sở vững chắc. Phanxicô đúng là cổ động, khơi dậy một phong trào, một trào lưu chuyển động, chưa phải là một cơ chế có qui định hẳn hoi. Phanxicô kỵ các thứ cơ chế, không phải vì tính  thực tế - điều này người ta thường cho rằng ngài không có - và nhất là vì một cảm thức rất nhạy bén đối với bản chất của sứ điệp phúc âm. Việc tổ chức trước sau gì cũng phải làm. Trước Phanxicô, chỉ mới  có những cố gắng nhất thời để sống nghèo tập thể, tan rã ngay khi mất đi người khởi xướng hoặc để cho các khung có sẵn của tổ chức giáo hội thu hồi. Số phận của nhóm Fontervrault (Phong-tơ-vrô) bị sát nhập vào các cơ cấu đan viện truyền thống khi Robert dAbrissel  mất là một trường hợp điển hình của việc "thu hồi" này. Mặc dầu kính trọng các dòng đan tu hiện có, Phanxicô không bao giờ chấp nhận sát nhập phong trào của ngài vào các dòng ấy hay nhận theo một luật nào của họ. Hình như Phanxicô đã linh cảm trước việc các môn đệ sẽ phải đương đầu với nguy cơ bị môi trường đồng hoá, như ngày trước, thánh Bernard (Bê-na-đô) đối diện với tài sản đất đai của các tu sĩ ở Gluny. Phanxicô cũng đã có thể thấy sự lạc hậu của các công thức cũ, không còn thích hợp để giải quyết các vấn đề mới, giống như thánh Dominique (Đa-Minh) khi chứng kiến sự thất bại của các phái đoàn tu sĩ Xi-tô truyền giáo tại xứ theo bè rối Cathare (Ca-ta - Thanh giáo). Ngược lại, ngài cũng nhìn ra lý do thất bại của sáng kiến đầy thiện chí lúc ban đầu, nhưng quá nôn nóng, và có lẽ bị hiểu lầm của Pierre Valdès. Phong trào này thiếu một ít chất khiêm tốn và tự biến nhẹ nhàng mà Phanxicô đã biết gia giảm vào công cuộc ngài khởi xướng. Qua đây ta thấy tất  cả tầm quan trọng của sự hội ngộ bất ngờ - có thể nói không thể hiểu, ngoài sự can thiệp của Thần Khí - giưã sáng kiến đầy lý tưởng của vị Thánh Nghèo với óc tổ chức năng động của đức Innôxensiô III. Để vị giáo hoàng này thuận theo thỉnh nguyện của Phanxicô và Đa-minh cho phép thi hành tu luật mới, trái với qui định do Công đồng Latêranô IV mới đưa ra, và để Phanxicô chấp nhận một bản luật cho phong trào của mình, cả hai phía đều phải cùng có một ý chí muốn thích nghi việc loan báo Tin Mừng cho người nghèo theo hoàn cảnh mới.

Nhưng người nghèo và hoàn cảnh mới nói ở đây như thế nào?  Để hiểu rõ sự đa dạng, chúng ta hãy xem kỹ giai đoạn cuối đời của thánh Phanxicô : gần kề sự chết ngài có thể có một cái nhìn toàn diện về kinh nghiệm sống của mình. Trong bản luật 1221 ngài bày tỏ một tấm lòng yêu thương đối với "tất  cả mọi trẻ sơ sinh và nhi đồng, người giàu và người nghèo, vua chúa và quan quyền, thợ thủ công và nông dân, tớ và chủ, tất  cả mọi trinh nữ, người goá bụa và người có gia đình, tất  cả mọi thiếu niên và trẻ đang lớn, thanh niên và phụ lão, người khoẻ và người bệnh, tất  cả mọi dân tộc, sắc dân, mọi ngôn ngữ, mọi quốc gia và mọi người trên khắp cùng trái đất". Người ta dễ đoán đàng sau một bức hoạ như thế các điều kiện và các vấn đề xã hội của đầu thế kỷ XIII mà Phanxicô đã quan tâm đến như những  thời điểm.

Phanxicô không loại trừ ai khỏi nhiệm cuộc cứu rỗi. Đối với ngài hết thảy một cách nào đó đều là người nghèo xét về mặt tinh thần. Giàu sang vật chất, quyền hành là những nhược điểm; học thức là một nguồn sinh kiêu ngạo; sức khoẻ là một tình trạng bấp bênh. Nhưng tình thương đối với những người thuộc hạng khốn cùng nhất dựa trên một nền thần học đích thực về đức Nghèo được canh tân ở thời trước. Hoàn toàn đặt  căn bản trên sự quan tâm của Chúa Kitô đối với người nghèo và trên việc Ngài đã biến đổi mọi đau khổ nên giá trị cứu rỗi, tình trạng nghèo khó được quan niệm, ít ra trên mặt lý thuyết như một cơ hội lập công đức cho người nghèo và cho người làm ơn. Một trong những hệ luận của nguyên lý này là sự đồng hoá người nghèo với chính Chúa Giêsu, người nghèo là  hình ảnh của Chúa. một hệ luận khác là việc nhìn nhận một vị trí, một chức năng trong lãnh vực thiêng liêng và xã hội cho người nghèo. Họ có một sứ vụ cứu chuộc giống như những người cầu nguyện.

Không phải giảm giá trị của Phanxicô khi liên hệ quan niệm nghèo khó của ngài ở cả 2 mặt xã hội và đạo đức với các suy từ của 2 hay 3 thế hệ trước đó lẫn đương thời. Các biến đổi xã hội, kinh tế, chính trị, tri thức lúc ấy đã kiện toàn ỏ một số điểm chủ yếu các nguyên lý chúng ta vừa gặp. Chúng ta xét đặc biệt 2 khía cạnh để hiểu thái độ của Phanxicô đối với người nghèo: Khía cạnh thứ nhất liên quan đến công bình, khía cạnh thứ hai liên quan đến bác ái. Các thánh phụ như Chrysostome, Basile, Grégoire de Nysse và Grégoire de Nazianne, không quên Grêgôriô Cả, trình bày bố thí như một bổn phận công bình, nhưng qua những suy tư của Pierre Lombard, Suguscio và Guillaume dAuxerre, người ta đã xác định thành công-thức các quyền lợi của người nghèo, bao gồm cả quyền ăn trộm khi túng quẫn. Quan niệm của Phanxicô vê việc sử dụng của cải đời này thừa kế chủ trương công nhận các quyền lợi của người nghèo trong luật pháp. Quả vậy, Richard dAnglais viện đến Lex Rhodia, đã quả quyết rằng trong hoàn cảnh cùng khốn mọi sự đều thành của chung, ai cũng có quyền hưởng dùng. Lúc ấy Phanxicô chưa đầy 15 tuổi.

Vào cùng thời kỳ này, việc thăng tiến người nghèo theo quan điểm Kitô giáo lại thực hiện thêm một bước đúng đường lối Phúc âm. Người túng thiếu không phải chỉ là người chủ nợ ưu tiên của xã hôị, xét theo luận chứng pháp lý. Những suy tư của một Rupert de Deutz, của một Pierre de Elois và của một Alain de Lille đạt tới một chiều sâu và một mức tế nhị phi thường. Công Đồng Latêranô IV sẽ dựa vào những khuyến dụ của họ mà đưa ra những chỉ thị cho các vị giải tội để giáo dục lương tâm. Không còn nặng phân tích từng trường hợp bố thí, xét theo bản chất và  xuất xứ, số lượng, tỉ lệ trên lợi tức của người cho và tư cách của người nhận. Pierre le Chantre tuyên bố : "Không nên xét cá nhân người nghèo". Pierre de Elois  khẳng định : "Bố thí không được kể giới hạn". Raoul Ardent còn đi xa hơn và quả quyết : "Việc bố thí phải gây một mức độ thiếu thốn nơi người cho" - ông đề nghị một thứ bố thí cam kết gọi là eleomosyra negotialis, và kể ra thí dụ người thợ đóng giày dành cho người nghèo lợi tức một ngày lao động. Mọi hạng người trong xã hội đều được mời gọi noi gương việc trao tặng có liên hệ bản thân như vậy, mỗi người tuỳ theo lương tâm mình. Lấy của bản thân, nếu không phải chính  bản thân mà trao tặng, không phân biệt người nhận, không kể giới hạn, để đạt tới mức toàn hảo ấy, phải là vị thánh Nghèo. Là tất  cả cho mọi người, ngài đáp ứng được các vấn đề của thời đại ngài. Sự chọn lựa sống nghèo về mặt xã hội của  Phanxicô cốt yếu ở chỗ ấy, nó phản ứng chống lại tất  cả mọi hình thức áp bức, nhất là những áp bức làm tổn thương hạng người hèn kém nhất, vì qua họ là phạm đến chính Chúa Kitô.

Vào những năm 1200 khoảng cách từ những nguyên tắc quảng đại và những suy tư cao siêu đến thực tế đời sống không phải nhỏ. Cố nhiên ngay từ giưã thế kỷ XII sự phát triển đời sống thiêng liêng nơi chính hàng ngũ giáo dân khởi đầu 100 năm trước đã đem lại một thứ "cách mạng về bác ái". Những của di chúc theo lòng đạo và những quỹ từ thiện của tư nhân  cũng như của các xứ đạo đã tạo được một hệ thống phân phát của   bố thí và những trạm xá tiếp nối công việc những tổ chức từ thiện của các đan viện. Cùng lúc  việc áp dụng danh xưng pauperes Christi, trước đây dành cho các đan sĩ, cho người cùng khổ tiêu biểu cho một mức độ chuyển biến tư tưởng. Tuy nhiên lòng xót thương chiếu cố với ít nhiều thái độ  kẻ cả, đôi khi còn che giấu sự gớm ghiếc hay khinh bỉ, vẫn thông thường chú trọng đến những người nghèo theo nghĩa truyền thống: người thiếu thốn, tàn tật, bệnh hoạn, trẻ con, người goá bụa, già cả, suy nhược thể chất hay tinh thần. Nhưng có nhiều bất hạnh khác phát sinh từ các thay đổi trong xã hội. Phanxicô không phải là người độc nhất ở thời ấy nhận ra các nỗi thống khổ này và qua đấy có một quan niệm rộng rãi hơn về sự nghèo khó. Jacques de Vitry, một người ái mộ Phanxicô, một nhà giảng thuyết thời danh, làm đến giám mục thành Arc và Hồng y, coi là nghèo: "những người kiếm ăn hằng ngày bằng sức lao động của hai bàn tay và chẳng còn gì sau khi ăn". Còn Dominique (Đa-minh) người gần cùng chí hướng với Phanxicô, coi là nghèo: "bất cứ ai vì thiếu phương tiện phải lệ thuộc người khác trong xã hội". Vậy những người đương thời quan tâm nhiều nhất đến sự thống khổ nhân loại đã biết bao gồm cả những công nhân có đồng lương không đủ sống, những người thất nghiệp, những người sống bên lề hoặc vì bị hắt hủi hoặc vì tự ý tách rời. Do đó tính chất độc đáo của Phanxicô không nằm ỏ một quan niệm trí thức về nghèo khó nhưng ở cách ngài đáp ứng các thách đố của thời đại đối với người nghèo. Nói rằng ngài không chờ cho người nghèo đến nhờ cậy, hoặc ngài đã đến với họ, đều quá đơn giản. Cái mới mẻ thực sự là Phanxicô đã ở luôn với họ và đã tìm cách giúp họ nhận ra giá trị của chính họ bằng một sứ điệp chống nghèo đói nhân danh một chiến thắng trên nghèo đói. Việc ngài làm là công bố phẩm giá của người nghèo cho chính họ, không những vì họ là hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô, nhưng bởi vì Chúa Giêsu đã yêu thương con người họ. Đây là ý nghĩa thâm sâu của việc ngài hôn người phung hủi.

Cử chỉ yêu thương này đáp lại thách đố là quan niệm khinh bỉ của người đời và nên cho họ một gương mẫu. Sự chọn lựa sống nghèo trên mặt xã hội của Phanxicô được làm bằng những cử chỉ như thế. Nhận đương đầu với một thách đố không chỉ là một hành vi tự hào vì tự hào hay phản kháng, nhưng còn là một khích động và một đề nghị, một lời mời gọi, một hành vi chủ yếu tích cực. Con một thương gia cỡ quốc tế, Phanxicô biết rõ hơn ai hết các cơ hội làm giàu do việc gia tăng lưu thông tiền tệ mang lại; mặc dầu các hình thức tín dụng thương mại còn ở bước đầu, một nhà tư sản trẻ tuổi của nước Ý có thể thấy được các hậu quả, đặc biệt việc cho vay nặng lãi, bị Giáo Hội lên án nhưng vẫn thông dụng dưới những hình thức giả dạng.

Các quyến rũ của tiền bạc, Phanxicô đã từng hưởng thụ như người ta hưởng sung sướng trong xã hội tiêu thụ ở thế kỷ XX. Ngài đã đương đầu với thách đố ấy sau khi đọc được lời Phúc âm lên án tội tham lam, bằng cách lột bỏ cả quần áo trước đám đông quần chúng giưã quảng trường, một việc gây tai tiếng lớn đối với một con cái nhà khá giả.

Phanxicô đã từng nếm qua bạo lực. Được cha cho một bộ võ phục đẹp giống như một hiệp sĩ mà con nhà trưởng giả nào cũng mơ trở thành,- Phanxicô rắp tâm lên đường chinh chiến tại miền Nam nước Ý. Ngài đã bỏ ý định, đem áo giáp biếu một hiệp sĩ nghèo đến độ không sắm được cho xứng địa vị. Sau này vị thánh Nghèo cấm các bạn đồng hành không được mang khí giới. Điều ngài bác bỏ hơn cả là việc dùng sự vật cách bất công, do đó ngài quan tâm lấy hoà giải thay cho vũ lực, nhất là trong các cuộc tranh chấp  giưã các đô thị nước Ý, chẳng hạn cuộc tranh chấp giưã thành Atxidi với Pêrusia thành phố lân cận.

Sự thách đố của quyền lực, Phanxicô không những chỉ biết dưới hình thức sức mạnh của khí giới chém giết, tuy xảy ra nhiều nhưng không trường kỳ; hình thức chủ yếu là sự áp bức hằng ngày của các tầng lớp thống trị, các thứ sưu cao thuế nặng, các nỗi hàm oan không được minh xử. Người phải hứng chịu các thứ đó là những nông dân hay những người thợ thủ công. Phanxicô đã cùng lao động với những người ấy, làm với họ, khi giúp gặt hái khi làm thợ hồ.

Sự thách đố của thái độ quần chúng khinh bỉ những người bên lề, Phanxicô gặp nơi cách đối xử khắc nghiệt đối với những cô gái giang hồ cũng như đối với một lớp trẻ kém may mắn, đôi khi bị hất hủi là tự ý nổi loạn. Những việc như chuyến đi thảm hại  năm 1212 của nhóm "Thập tự quân thiếu niên" bị bọn chủ tàu tham tiền bỏ rơi trên đảo Sardaigne thay vì chở tới Cận Đông  đủ khiến cho Phanxicô cảnh giác. Ngài qui tụ tuổi trẻ và hướng bầu nhiêt huyết của họ về Chúa.

Một thách đố khác : lạc thú, giác quan mà Phanxicô đã một thời ngả theo. Y phục thô sơ, ăn uống đạm bạc, nơi ở bấp bênh luôn thay đổi, những buổi thức đêm cầu nguyện và những cuộc hành trình giảng đạo là những đáp ứng dứt khoát.

Kiến thức cũng là một thách đố, vào thời mà ở Bôlônha, Pari, Oc-fo và Salamanco, các việc đại học đang bước đầu khởi xướng công cuộc hoà hợp các hiểu biết khá phong phú của các học viện có trước với những sở đắc của khoa học cổ Hy lạp. Trào lưu này Phanxicô cũng không theo, ngài không nhận cho mình một thứ giàu sang của tâm hồn và tinh thần nào khác thứ phú túc của Lời Chúa. Hơn thế nữa,  vị thánh Nghèo còn cưỡng lại sức hấp dẫn của sự thăng tiến xã hội qua việc tiến chức giáo sĩ, nhờ đó có thể có nhiều dễ dãi để làm việc tông đồ. Nhưng nếu ngài từ khước điều ấy, không phải để chống đối thể chế Giáo Hội, không bao giờ ngài bài bác hay kết án mặc dầu hàng giáo sĩ địa phận có nhiều thiếu sót và nhiều vị giám mục lơ là việc bổn phận đến độ Đức Giáo hoàng Inôxensiô III  phải trách là "những con chó câm không biết sủa". Đối với Phanxicô, ngay cả những linh mục có tư cách không xứng đáng vẫn còn đặc tính thánh hiến không thể mất của chức vụ. Phanxicô tôn trọng cơ chế, tuy trách cứ người làm sai nhưng không kết án. Gắn bó với Giáo Hội bằng tất  cả tâm tình, vị thánh Nghèo ao ước  Giáo Hội được như thế nào ?  Ngài không ao ước một Giáo Hội gồm toàn những người thanh khiết, vì mặc dầu đầy lý tưởng ngài hiểu rõ tính người ta. Ngài thấy nơi cộng đồng Kitô hữu một đám đông bất toàan, nhưng tất  cả mọi thành phần đều nằm trong ý định thánh hoá của Thiên Chúa, trong số đó người nghèo là hàng ngũ tiên phong vì ít vướng bận do đó sẵn sàng hơn. Qua đây một thách đố khác được đáp ứng thành công, thách đố của chủ nghĩa thanh giáo nhị nguyên. Phanxicô là phản đề tiêu biểu chống lại chủ nghĩa ấy.

Nghèo như Phanxicô Atxidi chọn và yêu mến không phát sinh từ một sự khinh bỉ hay chống báng thiên nhiên bị coi là ô uế. Ngược hản lại. Tiếc là các Truyện ký đã tô điểm quá đáng sự nhạy cảm của Phanxicô trước thiên nhiên. Lối đánh động tâm tình của "Những cánh hoa đơn" và của các hoạ phẩm đạo đức làm nhạt đi chất cương nghị hiếm có vào thời Trung cổ trong lòng ngưỡng mộ của Phanxicô đối với thiên nhiên. Khi ca ngợi vạn vật, ngài chúc tụng toàn bộ công trình cuả Thiên Chúa, đồng thời  cũng thấy tất  cả vạn vật là để cho mọi người cùng hưởng. Không có điều ác biệt lập tự tồn, chỉ có điều ác phát xuất từ tính ích kỷ của con người và nghèo đói phát xuất từ sự phân phối của cải không công bằng.

Như thế Phanxicô không có lý do nào để thoát ly cộng đồng nhân loại. Trái lại. Ngài muốn ở trong thế gian mà không thuộc về thế gian. Thách đố tối hậu này bao gồm mọi thách đố khác. Cái mới nổi bật nhất trong xã hội Tây phương thời đó là sự phát triển các đô thị. Ở thế kỷ XII, những bậc trí giả như Rubert de Deutz và thánh Bênađô đã tố cáo các đô thị là hang ổ mọi giống tội : tham lam, kiêu ngạo, dâm dật, vô tín.  Sang thế kỷ XIII, các ngài sẽ nói sao? Ở Pari, cha xứ của Neuilly sur Marne, là Foulque ra sức hoạt động để phục hồi phẩm giá cho các cô gái giang hồ. Ở Rôma, đức Innôxensiô III lập nhà thương Đức Chúa Thánh Thần để tiếp nhận trẻ em bị bỏ rơi. Ở Toulouse, bè rối Ca-ta (Thanh Giáo) hoành hành và trong các đô thị nước Ý đầy dẫy tệ nạn cho vay  nặng lãi. Phanxicô có chỉ thị rõ ràng. Ngài đặt các môn đệ vào môi trường thành thị, nhưng không ở trung tâm thành phố. Các cộng đoàn phan sinh đầu tiên ở những khu ngoại ô, nơi người nghèo sinh sống. thời mới, giải pháp mới. Các đan viện Biển Đức chọn môi trương nông thôn, nơi duy nhất có hoạt động trước thế kỷ XII. Đô thị nấy sinh từ sự sung túc của thương mại và thủ công. Phanxicô đặt các anh em khất thực của ngài gần các đô thị, ở giưã những người hèn kém và túng thiếu, tuy không bỏ những người khác. Sự chọn lựa thật rõ ràng. Nó duy trì được những lời dạy thường tồn của Phúc âm, đồng thời đáp ứng được những điểm của thời đại. Một cách nghịch lý, sự chọn lựa ấy vừa có tính cách trường cửu, vừa có tính chất Kitô giáo vừa có tính chất xã hội./.

Tác giả : Michel Kollat

Dịch giả : Nguyễn Gia Thịnh.

Thánh Phanxicô sống tình huynh đệ

 

Nguyễn Phước viết theo Eloi Leclerc, Francois, l’homme fraternel 

Thành phố Assisi nằm ở trung tâm nước Ý, toạ lạc trên dãy hoành sơn Subasio, bên dưới là đồng bằng Ombria. Thành phố được xây dựng ở đó như để đón nhận và phản chiếu tất cả ánh sáng từ trời toả xuống và từ đất chiếu lên… 

Chính tại thành phố nhỏ bé thời trung cổ này, Phanxicô thành Assisi chào đời năm 1181.  

Là con trai một thương nhân buôn vải giàu có, cậu bé được đặt tên là Gioan vào ngày nhận phép rửa tội. Nhưng khi ông Phêrô Bênađônê, cha cậu từ nước Pháp trở về sau một một chuyến buôn, ông đã đổi tên cậu bé thành Phanxicô (Francesco – chú bé người Pháp). 

Chàng trai Phanxicô tham gia rất sớm vào thương nghiệp của gia đình. Chàng kiếm được rất nhiều tiền và cũng phung phí một cách ngông cuồng trong các lễ hội với bạn bè. Họ tôn phong chàng là “ông vua tuổi trẻ vàng son” thành phố Assisi. Chàng khôn khéo trong việc buôn bán, tao nhã và lịch thiệp trong giao tiếp, đồng thời chàng còn là một người bạn vui tính. Chàng có tất cả mọi thứ để có thể gặt hái thành công trong cuộc sống.  

KHỞI ĐẦU MỘT ƠN GỌI 

1. Ơn hoán cải 

 Phanxicô ôm ấp những hoài bão lớn. Năm 16 tuổi, chàng mơ ước vinh quang binh nghiệp và khao khát trở thành một hiệp sĩ. Năm 18 tuổi, chàng gia nhập quân đội công xã và tham chiến chống lại thành phố láng giềng thù nghịch là Pêrudia. 

Nhưng chàng bị bắt làm tù binh, một năm sau mới được trở về Assisi với một tấm thân tàn tạ. Chàng ngã bệnh. Đó là giai đoạn cô đơn và phản tỉnh trong cuộc đời chàng. Thánh Bonaventura viết: “Chúa đã dùng những chuỗi ngày đau ốm để chuẩn bị tâm hồn Phanxicô đón nhận ơn Thánh linh” (Đại truyện 1,2).  

Tuy thế Phanxicô vẫn tiếp tục theo đuổi mộng công danh. Năm 1204, Gauthier de Brienne một tướng lãnh của đạo quân Đức Giáo hoàng, chiêu mộ quân tình nguyện. Phanxicô sắm sửa một chiến bào lộng lẫy để ra đi. 

Trong đêm khuya, chàng chiêm bao thấy mình ở trong một lâu đài sang trọng: một người thiếu nữ đẹp đứng giữa các vũ khí. Có tiếng gọi chàng và hứa cho chàng tất cả những gì chàng thấy. Lạ thay, những vũ khí đều mang hình thánh giá. Phanxicô không cần tìm ý nghĩa sâu xa. Chàng cắt nghĩa theo mộng công danh mà chàng đang theo đuổi. Một lâu đài - những vũ khí - một hiền thê trẻ đẹp, đó chẳng phải là điều chàng ao ước sao! Và Phanxicô hăng hái lên đường tới Spoletô, một thành phố cách Assisi chừng 40 cây số. 

Đêm hôm đó, chàng lại nghe có tiếng hỏi trong giấc mơ: 

- Ai có thể cho ngươi nhiều hơn, ông chủ hay tôi tớ? 

- Thưa là chủ. 

- Vậy sao ngươi bỏ chủ mà theo tớ? 

- Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì? 

- Hãy trở về Assisi rồi ngươi sẽ biết phải làm gì. 

Phanxicô ý thức rằng cho tới bấy giờ, Thiên Chúa đã chỉ giữ một vai trò thứ yếu trong cuộc đời chàng. Đời chàng đã ngập tràn những ước nguyện, những dự định trần thế đến nỗi không còn chỗ cho Chúa, Đấng có quyền, như một lãnh chúa, đòi hỏi con người từ bỏ những ước nguyện và dự định riêng để phụng sự Ngài cách vô diều kiện. Và từ nội tâm đến cử chỉ bên ngoài, Phanxicô bắt đầu trở về với Chúa. 

Sáng hôm sau, không chút ngần ngại, Phanxicô lên ngựa trở về Assisi trước những con mắt ngạc nhiên của dân thành. 

Nhưng bây giờ chàng phải làm gì? Ai sẽ nói cho chàng biết? Để đón nhận sứ mạng mới, Phanxicô thường trốn bạn bè, đi tìm thanh vắng trong những hang hốc và những ngôi thánh đường đổ nát, chẳng hạn nhà nguyện Thánh Đamianô. Tại đó, chàng đã cầu nguyện hằng giờ trước ảnh tượng Chúa Kitô theo kiểu Byzantin.  

Những ngày dài trong thinh lặng và cầu nguyện đã làm cho Phanxicô ý thức rằng muốn nghe theo tiếng Chúa và chiêm ngắm Người, trước hết phải từ bỏ những cái mà ngày xưa chàng khao khát tìm kiếm và phải yêu mến những điều mà theo khuynh hướng tự nhiên chàng lấy làm gớm ghiếc. Đó là ý nghĩa của sự trong sạch mà sau này Ngài đã dạy cho anh em: 

“Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa. Người thật sự có tâm hồn trong sạch là người khinh chê của cải trần thế, tìm kiếm gia nghiệp thiên quốc và không ngừng thờ phượng, nhìn ngắm Chúa là Thiên Chúa hằng sống chân thật với lòng thanh trí sạch” (Hn 16). 

Một dịp xảy tới: Một hôm vừa ra khỏi Assisi, Phanxicô gặp một người phung cùi, mang thứ bệnh ghê tởm nhất và bị mọi người sợ nhất. Khi thấy người cùi đến gần, Phanxicô đã thúc ngựa chạy nhanh để tránh mặt. Nhưng chính lúc ấy, dường như có một bàn tay nào đó kìm dây cương ngựa lại khiến chàng phải trực diện với bệnh nhân. Lúc này chàng mới nhận ra sự biến dạng khủng khiếp trên thân thể con người đang chống nạng lê bước tới chàng: môi bị ăn mòn, mũi chỉ còn một lỗ hổng khủng khiếp. Một mùi hôi thối xông lên làm chàng ngạt thở. Tuy khó chịu, nhưng chàng vẫn cảm thấy bị thúc bách tiến về phía người cùi. Khi đến nơi, chàng nhảy xuống và đưa cho người cùi tất cả số tiền mang theo nơi mình. Thấy bàn tay lở loét, chàng muốn quay đi. Nhưng cuối cùng, chàng đã cúi xuống và hôn lên bàn tay rùng rợn ấy. Đó là chiến thắng đầu tiên của chàng hiệp sĩ. Không một chứng tá nào quí hơn là chính tâm sự của Phanxicô: 

“Chúa đã ban cho tôi, tu sĩ Phanxicô, ơn bắt đầu cuộc đời hoán cải như thế này: Khi còn sống trong tội lỗi, mỗi lần thấy người phung, tôi lấy làm ghê tởm lắm. Nhưng chính Chúa đã dẫn tôi đến với họ và tôi đã tỏ lòng thương xót họ. Khi xa cách họ, điều đối với tôi trước kia là ghê tởm đã trở thành dịu ngọt cho tôi trong tâm hồn cũng như thể xác” (DC 1-3). 

Phanxicô đã sống một cảm nghiệm dịu ngọt trong tình thân ái đối với Chúa. Chàng khám phá ra người cùi là anh em của mình. Kể từ ngày đó, chàng hay tới giúp việc cho những bệnh nhân cùi. 

Giây phút quyết định đã đến: một ngày kia, đang quì trước thánh giá ở gian cung thánh nhà nguyện Thánh Đamianô, ánh mắt Phanxicô đăm đăm nhìn lên Đức Kitô, ánh mắt Đức Kitô đăm đăm nhìn Phanxicô: “Thiên Chúa tối cao và vinh hiển đến chiếu rọi vào cõi tối tăm trong tâm hồn tôi…” Chàng chợt nghe một tiếng nói. Tiếng ấy vọng xuống từ thánh giá hay vọng lên từ tâm hồn chàng: “Phanxicô, con không thấy Nhà của Ta đổ nát sao? Hãy đi và sửa lại cho Ta”. Một làn sóng sự sống, một dòng nước tình yêu xâm chiếm con tim Phanxicô.

Thế rồi, dòng nước tình yêu ấy đã cuốn hút chàng đi tu sửa các nhà nguyện và đến với những người bần cùng: bấy giờ chàng mạnh dạn đến với người phong cùi, thăm viếng các trại phong và tận tình chăm sóc họ. Thế giới của chàng đã nghiêng về phía những người bị loại trừ, bé nhỏ và nghèo hèn. 

Ông Phêrô Bênađônê không thừa nhận cậu con trai nữa. Ông không hiểu, nên ông không chấp nhận sự biến chuyển đang làm thay đổi người con của ông. Thất vọng và xấu hổ vì cậu con trai thường lui tới trại phong, ông giận tím mặt khi nghe biết chàng đã bán một kiện vải để lấy tiền tu sửa một ngôi nhà thờ hoang tàn. Ông đòi lại số tiền. Phanxicô bị triệu hồi ra trước toà án Đức Giám mục Assisi. Tại đây, Phanxicô đã làm một cử chỉ bất ngờ: sau khi trả lại tất cả số tiền cho thân phụ, chàng cởi luôn quần áo, trao trả cho ông và trước mặt Đức Giám mục và mọi người, chàng nói: “Xin tất cả mọi người hãy nghe: xưa nay tôi vẫn gọi ông Phêrô Bênadônê là cha tôi, nhưng từ nay, tôi sẽ thong dong mà thốt lên: Lạy Cha chúng con ở trên trời”. 

Kể từ lúc ấy, Phanxicô hoàn toàn tự do. Chàng khoác một tấm áo thô hèn và lên đường ra đi, quay lưng với tiền bạc, quyền thế và công danh mà chàng chảng quan tâm dính bén hơn bụi đường: chàng chìm ngập một cách huyền nhiệm trong luồng khí ca tụng. Khi mấy anh cướp trấn lột chàng trên núi, chàng thản nhiên tuyên bố: “Tôi là sứ giả của Đức Vua cao cả”. Nơi chàng, Tin mừng nghèo khó song hành với Tin mừng lời tụng ca. 

Chàng sống cuộc đời ẩn dật 2 năm, đi xin của bố thí như một người hành khất. Vâng lệnh Đức Kitô truyền dạy tại nhà nguyện thánh Đamianô, chàng bắt tay sửa chữa nhiều nhà nguyện hư nát vùng ngoại ô thành phố Assisi như nhà nguyện thánh Đamianô, nhà nguyện thánh Phêrô và nhà nguyện Đức Bà các thiên thần hay còn gọi là nhà nguyện Đức Maria Porziuncola. 

2. Tiếng gọi Tin mừng  

Thế rồi một ngày kia, ngài vào cung thánh nhà nguyện Đức Mẹ Porziuncola tham dự thánh lễ và nghe đọc bài Tin mừng Đức Giêsu sai các môn đệ đi truyền giáo: “Anh em hãy ra đi, Thầy sai anh em đi như chiên giữa bầy sói. Anh em đừng đem theo vàng bạc, tiền của… Vào nhà nào, anh em hãy nói: ‘chúc bình an cho nhà này’.” Đó là một khai sáng cho tâm trí Phanxicô. Ơn gọi của ngài đã được mặc khải. Ngài sung sướng kêu lên: “Đó là điều tôi ao ước, đó là điều tôi tìm kiếm!” Ngài sẽ đi vào thế giới như các môn đệ đã được Thầy sai đi, “không vàng, không bạc”, hoàn toàn trần trụi; và cũng như các môn đệ, ngài loan báo hoà bình: hoà bình của Đấng Mêsia, sự giải hoà giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau. Trong một thế giới xâu xé, ngài sẽ là một sứ giả kiến tạo hoà bình. 

Một dự phóng táo bạo trong tinh thần đơn sơ. Bước theo lý tưởng Tin mừng, Phanxicô sẽ tuyệt giao với hệ thống chính trị-tôn giáo thời đại của ngài, thậm chí ngài cũng không biết rõ điều đó: với quyền lãnh chúa của giáo hội cũng như với các cuộc thánh chiến và thập tự chinh. Ngài sẽ khai mở một con đường mới trong một Giáo Hội, vì sở hữu nhiều tài sản - các toà giám mục và đan viện -, nên đã trở thành phong kiến và lãnh chúa. 

3. “Chúa đã ban cho tôi các anh em”  

Nói cho đúng, Phanxicô không hề mơ tưởng thiết lập một hội dòng tu trì hay cải cách Giáo hội. Ngài chỉ muốn đi theo sát Đức Kitô. 

Tuy nhiên, nhiều thanh niên trưởng giả thành phố Assisi như Bênađô Quintavalê, Phêrô Catanê đã bị gương sáng của ngài thu hút và đến với ngài rất sớm. Phanxicô tiếp nhận họ như những anh em được Chúa gởi đến. Đó là khoảnh khắc hệ trọng trong cuộc đời ngài. Bởi lẽ đó là giây phút bắt đầu cuộc mạo hiểm phan sinh đúng nghĩa. Từ đó về sau, chính trong huynh đệ đoàn mà ngài sống lý tưởng Tin mừng.  

Việc đầu tiên của ngài là cùng với mười một anh em tiên khởi đi triều yết Đức Giáo hoàng và đệ trình dự phóng tin mừng. Phanxicô nói với anh em: “Này anh em, tôi thấy Chúa muốn cho cộng đoàn chúng ta đông dần, vì tình yêu của Ngài. Chúng ta hãy đi gặp Mẹ thánh chúng ta là Giáo hội Roma. Chúng ta hãy bày tỏ cho Đức Giáo hoàng biết điều mà Thiên Chúa đã thực hiện giữa chúng ta, để chúng ta tiếp tục công việc đã được khởi sự theo ý và mệnh lệnh của Ngài” (Truyện ký Ba người bạn, 46).  

Sự táo bạo của dự phóng không khỏi làm cho Đức Innôxentê và giáo triều ái ngại: “Phanxicô và anh em sẽ sống thế nào nếu không có sở hữu và lợi tức?” Đàng khác, thời kỳ ấy đã có nhiều giáo phái viện dẫn lý tưởng Tin mừng và nhân danh lý tưởng nghèo khó để công kích Giáo Hội! Giáo triều đang suy tính, thì Đức Hồng y Jean de Saint-Paul, bạn của Đức Cha Guido, Giám mục địa phận Assisi, lên tiếng can thiệp: “Nếu chúng ta từ chối và xem như một điều mới mẻ và kỳ lạ lời xin của người nghèo này là sống theo Phúc âm, thì chúng ta phản nghịch với Phúc âm. Cho rằng theo đuổi sự trọn lành Phúc âm là một điều mới mẻ, điên cuồng hay kỳ lạ, tức là lăng mạ Chúa Kitô, vì Ngài là tác giả của Phúc âm” (Đại truyện 3,9). Lời nói đó đã gây một ấn tượng sâu sắc trong giáo triều. Đức Hồng y đã đánh một cú mạnh vào cái khôn ngoan của loài người. Trong một câu ngắn ngủi, Ngài đã tóm tắt một cách rõ ràng bản chất của phong trào Phan sinh: Noi giữ Phúc âm Đức Giêsu Kitô. Sau khi nghe Phanxicô giải thích thêm về lòng từ bi của Chúa không bao giờ bỏ rơi những kẻ quyết sống nghèo khó, Đức Giáo hoàng liền chấp thuận: “Anh em hãy ra đi, và xin Chúa ở với anh em. Anh em hãy rao giảng đời đền tội cho mọi người theo như Chúa soi sáng. Khi Thiên Chúa tăng số và tăng ơn lành cho anh em, thì hãy lấy làm vui mừng và nhớ cho Cha biết. Cha sẽ ban cho nhiều điều khác nữa và sẽ an tâm giao phó cho nhiều trách nhiệm khác quan trọng hơn” (1 Cel 33). Trước hôm đó, Ngài cũng đã thấy trong một giấc mộng: Đền thờ Laterano sắp sụp đổ; nhưng một người nghèo kia, thân hình bé nhỏ và yếu ớt đưa vai ra đỡ và dựng lại. Đức Giáo hoàng Innôxentê nhận ra con người bé nhỏ đó chính là Phanxicô Assisi. Ngài chuẩn y Luật dòng do Phanxicô đã trình và cho phép đi giảng, tuy đó mới còn là việc chuẩn y bằng miệng. Ngài còn muốn có thời gian để nhìn xem cây non này sẽ đưa lại những hoa quả như thế nào. Hồng y Jean de Saint Paul tự tay cắt vòng tóc trên đầu Phanxicô và các anh em của người như dấu hiệu công nhận của Giáo hội. 

Anh em tràn ngập niềm vui, lên đường trở về Assisi. Anh em dừng chân tại Rivô Tortô, trú ngụ trong một túp lều chật chội và bỏ hoang bên một dòng suối. 

Thế là đời sống của anh em bắt đầu: sống nghèo triệt để, nhưng cũng hân hoan trong tình huynh đệ và trong tiếng ca ngợi khen Chúa. Để kiếm sống, anh em tự nguyện làm công trong nhà dân chúng và đảm nhận những công việc thấp hèn. Một vài anh em chăm sóc cho bệnh nhân phong cùi. Tất cả anh em đều chỉ có một mối ưu tư trở nên người xây dựng hoà bình. Số lượng anh em không ngừng phát triển. Anh em rời Rivô Tortô và đến cư trú giữa một rừng cây trong cánh đồng Assisi, chung quanh nhà nguyện Đức Mẹ Porziuncola. 

MỘT PHONG TRÀO HUYNH ĐỆ 

Đó là mùa xuân của Tin mừng. Trong một xã hội xáo trộn bởi sự phát triển kinh tế, làm mồi cho những xung đột xã hội, Phanxicô khai mở những con đường huynh đệ. 

Huynh đoàn tiên khởi đã khai sinh nhiều huynh đoàn khác. Người ta thấy nở rộ hầu như khắp nơi trên đất nước. Đó là mùa xuân thật sự của Tin mừng. Số anh em tăng lên hàng trăm, rồi hàng ngàn; và toả lan khắp châu Âu.  

Động lực thu hút các thanh niên và người trẻ đến với nếp sống ấy chính là tình huynh đệ. Ngay đức nghèo cũng được xem như một con đường của tình huynh đệ. Phanxicô nói: “Không một anh em nào có quyền thống trị, nhất là trên anh em mình. Không ai được gọi là tu viện trưởng… Bất cứ anh em ở đâu, khi gặp nhau hãy tỏ ra là anh em cùng một gia đình”. 

Đó quả là một sự mới mẻ lạ lùng trong Giáo Hội thời ấy. Các giám mục trong giáo phận, các viện phụ trong đan viện thực tế là những lãnh chúa phong kiến, hành xử quyền bính trần thế thật sự trên dân chúng một vùng lãnh địa. 

Còn anh em không có đan viện, nhà thờ hay đất đai. Buổi đầu, anh em trú ngụ trong những nơi may mắn gặp được bên ngoài thành phố. Ban ngày, anh em hoà nhập vào dân chúng, làm thuê làm mướn chỗ này chỗ nọ. Anh em nuôi sống bằng công việc tay chân hay bằng của bố thí. Một vài anh em dấn thân vào việc rao giảng. Anh em rảo qua làng này đến làng khác; và đến bất cứ nơi nào, anh em cũng tỏ ra là những sứ giả xây dựng hoà bình. 

“Lạy Chúa, xin dùng chúng con như khí cụ hoà bình… để chúng con đem yêu thương vào nơi oán thù… đem hiệp nhất vào nơi bất hoà”. 

1. Hoà bình và ngợi khen 

Hoà bình mà anh em loan báo có tên gọi là tình huynh đệ. Nói cho đúng, hoà bình đó không gì khác hơn là sự chiếu toả của tình huynh đệ giữa anh em. Anh em muốn chia sẻ tình huynh đệ ấy cho mọi người. 

Đó cũng là sự hiệp thông trong lời ngợi khen Chúa. Thánh Phanxicô rất nhấn mạnh điểm này. Ngài mong muốn anh em là những con người của lời ngợi khen và thờ phượng. Chính ngài làm gương cho anh em. Ngài thường xuyên rút lui vào ẩn viện cô tịch cùng với vài anh em dành trọn nhiều ngày để ngợi khen và thờ phượng Chúa; sau đó ngài mới trở lại cuộc đời hành hương của sứ giả hoà bình. 

Cuộc đời ngài gắn liền với những ẩn viện cô tịch: Carceri, Celle, San Urbano, Pogio-Bustone, Fonte-Colombo, Greccio, La Verna… 

2. Ơn gọi Clara 

Sự thành công của huynh đoàn mới khai sinh không chỉ giới hạn trong nam giới. Nó lan toả đến giới nữ rất sớm. Thật vậy, lý tưởng Tin mừng của Phanxicô đã chóng gây nên một âm hưởng sâu đậm trong con tim một thiếu nữ đài các ở thành phố Assisi. Thiếu nữ ấy tên Clara, 18 tuổi. 

Chẳng có gì tiên liệu Clara sẽ gặp Phanxicô và thấu hiểu ngài. Cô kém ngài 12 tuổi, gia đình cô lại thuộc tầng lớp xã hội cổ kính, phong kiến và lãnh chúa, cô thừa hưởng một nền giáo dục uyên bác và hứa hẹn một cuộc hôn nhân vương giả. Cô không hề có một tuổi trẻ tinh nghịch như Phanxicô. Không lâu trước khi thành lập công xã, thành phố Assisi bị xáo trộn, gia đình cô lánh nạn sang thành phố láng giềng Pêrudia. 

Trở về Assisi vài năm sau đó, cô nghe đồn đãi chàng trai trưởng giả đã từ bỏ tất cả, gia đình, của cải, quyền thế để đi theo Đức Kitô nghèo khó. Nhất là cô đã nghe chàng giảng tại vương cung thánh đường Assisi. Cô cảm kích sâu xa trước lời lẽ đơn sơ và nóng bỏng còn vang vọng trong tâm hồn cô như một lời mời gọi. Từ lúc ấy, cô mong muốn gặp chàng. Cùng với môt bạn gái, cô tìm gặp chàng để thỉnh ý về ơn gọi của mình. Nhận thấy cô có một tâm hồn tinh tuyền và dũng cảm, Phanxicô khuyến khích cô tận hiến cho Chúa. Và cô đã quyết định. 

Chiều ngày lễ Lá năm 1212, Clara khoác một bộ áo lộng lẫy nhất, kín đáo ra khỏi nhà và vội vã tiến về nhà nguyện Đức Mẹ Porziuncola, tại đây Phanxicô và anh em đang đứng đợi. Cô trút bỏ trang phục lông lẫy và khoác tấm áo đền tội. Trước tiên, cô được đưa đến đan viện thánh Phaolô, dòng nữ Biển Đức. Vài tuần sau, cô chuyển đến sống tại nhà nguyện thánh Đamianô. Lập tức, nhiều thiếu nữ thượng lưu, trong đó có cô em gái Anê, đã nối gót theo cô, sống cuộc đời Tin mừng trong nghèo khó và ngợi khen. Cũng như huynh đoàn của anh em, huynh đoàn các chị gia tăng rất nhanh chóng. 

3. Dòng Phan sinh Tại thế 

Ngay từ những bước đầu trên đường đi giảng, Phanxicô đã có một sức hấp dẫn mãnh liệt trên quần chúng. Qua ngài, Thiên Chúa trở thành gần gũi hơn, thế giới siêu nhiên trở thành thực tế hơn. Số người tự nguyện đoạn tuyệt trần gian, sống đời đền tội ngày một thêm đông đảo. Phanxicô không thể thâu nạp tất cả, nhất là những người còn phải chu toàn nhiệm vụ làm cha, làm mẹ, thực hiện ý Chúa ngay trong hoàn cảnh, địa vị mình ở đời. Nhưng Phanxicô không nỡ để cho những thành tâm thiện chí ấy mai một đi giữa chợ đời huyên náo. Ngài vẫn nghĩ cách đem lại cho họ một phương thế tu thân lập đức thích hợp với hoàn cảnh của họ. 

Năm 1216, sau lúc ngài giảng xong, dân chúng thành Canara muốn bỏ hết mọi sự để theo ngài. Ngài khuyên: “Anh chị em không nên vội vàng như thế, tôi hứa sẽ giải quyết cho anh chị em”. 

Trong lúc chờ đợi, bất cứ ở nơi nào, hễ có bóng một Tu viện dòng Hèn mọn, Dòng Nhất, cũng như Dòng Nhì là ở đó có một số anh chị em giáo hữu thường liên lạc mật thiết và chịu ảnh hưởng sâu rộng. Các anh chị em này, tuy ở giữa thế gian, nhưng vẫn cố noi theo cuộc đời đền tội và lý tưởng khó nghèo. Họ xa lánh cuộc đời xa hoa, dành thì giờ và đem tiền của giúp đỡ người nghèo, góp phần vào hoạt động tông đồ của dòng Anh em Hèn mọn. 

Thế là quây quần chung quanh những Tu viện chính thức, một đoàn thể, tuy chưa có tổ chức gì, nhưng cùng chung một lối sống, một tinh thần. Giữa các giáo hữu thường, họ đã thành một nhóm chiến sĩ ưu tú có ảnh hưởng tốt. Họ góp sức chung lưng, thực hiện những công cuộc từ thiện như lập bệnh xá, lập dưỡng đường, mở những ngày tĩnh tâm cầu nguyện, len lỏi vào mọi tầng lớp khuyến khích những người khô khan nguội lạnh hay sa đà truỵ lạc trở về với Chúa. 

Tuy chưa có gì là chính thức, nhưng họ đã nghiễm nhiên thành những tu sĩ ở thế gian, theo đuổi một lý tưởng rõ rệt, thực hiện lý tưởng bằng một đời sống nhặt nhiệm và bằng những hoạt động tông đồ bác ái.  

4. Sự lớn nhanh của huynh đoàn 

Nhận thấy các huynh đoàn anh em cũng như chị em gia tăng, thánh Phanxicô chỉ biết tạ ơn Thiên Chúa vì mùa xuân Tin mừng đến trong Giáo Hội. Vâng, ngài vẫn thích nói “Thiên Chúa thật là Đấng Thiện Hảo, là nguồn mạch mọi điều thiện hảo”. Ngài đã thấy Chúa chiếu toả trên anh em “ánh quang huy hoàng” như ánh mặt trời. 

Mỗi năm, vào dịp lễ Ngũ Tuần, anh em trong mỗi tỉnh dòng tề tựu tại một nơi quy định để cử hành tu nghị. Những cuộc gặp gỡ đó là thời gian thiết yếu trong đời sống anh em. Anh em cầu nguyện chung với nhau, chia sẻ kinh nghiệm và “với sự trợ giúp của những đại biểu ngay chính và đức độ”, anh em hoạch định dự phóng đời sống. 

Vì số anh em mỗi ngày một gia tăng, thánh Phanxicô không thể đích thân tham dự mọi cuộc tu nghị tỉnh dòng. Do đó, ngài quyết định triệu tập toàn thể anh em về tham dự Tổng Tu nghị tại nhà nguyện Đức Mẹ Porziuncola nằm trên cánh đồng Assisi, nơi khai sinh huynh đoàn tiên khởi.  

5. Chiều kích thế giới 

Luồng sinh khí huynh đệ đã từng nâng tâm hồn Phanxicô lên cao không thể dừng lại nơi đó, nhưng đã luôn luôn thúc đẩy ngài đi xa hơn nữa, hướng đến một tình huynh đệ đại đồng. Ngài mơ ước quy tụ tất cả mọi người trong một mối dây hiệp thông như thế và ngài đã thâu họp tất cả trong tình yêu Thiên Chúa. 

Như triết gia P. Ricoeur nhận xét, ngài ước mong “biến đổi mọi sự thù nghịch thành tình huynh đệ, vào trong sự hiệp nhất của tạo thành”. 

Thời bấy giờ, thế giới hiển nhiên phân chia thành hai khối lớn khép kín, hai khối đối địch: một bên là thế giới Kitô giáo và bên kia là hồi giáo. Giữa hai khối là thánh chiến, là thập tự chinh. Địa điểm gây bất hoà và tranh chấp đích thị là Thánh địa, nơi Đức Kitô đã sống và chịu đau khổ vì nền hoà bình thế giới. 

Thánh Phanxicô không muốn chấp nhận sự đổ vỡ đó. Vì thế, ngài phác hoạ dự án xây dựng một nhịp cầu giữa hai khối, liên kết hai bên trong tình huynh đệ. Phanxicô quyết định lên đường sang Cận Đông để gặp vua hồi giáo nước Ai cập và để mang sứ điệp Tin Mừng và huynh đệ vào điểm nóng ấy. Một giấc mộng điên rồ. Cuối tháng sáu năm 1219, thánh Phanxicô lên tàu tại cảng Ancône hướng về cảng Acre và Damiette. Phanxicô bạo dạn tới gặp Vua Hồi giáo: Melek-el-Kamel. Nghe Phanxicô giảng, vị này tỏ ra nhiều thiện cảm, và mời thánh nhân lưu lại trong triều đình. Nhưng thấy công trình giảng dạy không đưa lại kết quả nào, Phanxicô xin rút lui. Sau đó Ngài sang Đất Thánh: trong nhiều tháng Ngài thăm viếng quê hương Chúa Cứu Thế, sống đời chiêm niệm. 

6. Sự nghèo khó triệt để  

Thật hết sức trớ trêu! Trong khi ngài đang nỗ lực làm trung gian hoà bình giữa thập tự quân và vua hồi giáo, một sứ giả đến từ nước Ý báo cho ngài biết trong khi ngài vắng mặt, nội bộ huynh đoàn đã bất hoà trầm trọng và các anh em thân cận của ngài đang khổ tâm.  

Đây là sự thất bại trên mọi chiến tuyến. Hoạ vô đơn chí, đôi mắt viêm nhiễm vì mặt trời nóng bỏng nay khiến ngài hầu như mù loà và rất đau đớn. 

Tổn thương trong tâm hồn cũng như trong thân xác, ngài trở về nước Ý trong thảm hại. Ngài tìm gặp những anh em lạc lối. 

Ngài tạm thời rút lui vào một ẩn viện cô tịch. Đó là giây phút đen tối nhất trong cuộc đời ngài. Ngài không còn biết rõ Thiên Chúa chờ đợi gì nơi ngài. Ngài có cảm tưởng người ta muốn giật ngài ra khỏi Hội Dòng và lôi kéo ngài xa rời ơn gọi ban đầu. Bấy giờ, ngài cảm nghiệm những giây phút bất an, buồn phiền và cả sự nổi giận nội tâm.  

Cơn khủng hoảng ấy, càng trầm trọng hơn vì bệnh tật, quả là một thử thách nghiêm trọng. Thiên Chúa đợi ngài ở đấy. Thánh Phanxicô được mời gọi tiến tới một sự trần trụi tối thượng, một sự nghèo khó triệt để. Một sự nghèo khó không chỉ liên quan đến của cải vật chất, nhưng đụng chạm đến bản chất thâm sâu nơi con người. 

Bên trong con người có một ý muốn chiếm hữu, bởi đó con người chiếm làm của riêng điều thiện hảo mình thực hiện và vênh vang vì nó. Không phải vô cớ mà trong suốt các thư văn, thánh Phanxicô tố giác cái ý muốn khiến chúng ta tự xưng là thầy và chủ nhân các điều thiện chúng ta làm; không phải vô cớ mà ngài nhận thấy trong sự bối rối và tức giận những dấu chỉ chắc chắn của sự chiếm hữu thầm kín ấy. Chính ngài đã có kinh nghiệm đó; ngài có kinh nghiệm về cơn cám dỗ bối rối và tức giận. Và Chúa đã chỉ cho ngài biết ngài phải truất hữu chính công trình của ngài – đó là huynh đoàn mà ngài nhiệt tâm gầy dựng – để chính mình trở thành công trình của Thiên Chúa: “Hỡi con người nhỏ bé, thấp hèn và dốt nát, hãy nói cho ta biết vì sao người khổ tâm như thế? Ai đã gieo trồng hội dòng anh em? Chẳng phải ta sao? Ta đã chọn ngươi là kẻ đơn sơ và dốt nát để ngươi và anh em ngươi biết rằng chính ta sẽ chăm sóc cho đoàn chiên của ta. Vậy ngươi chớ buồn phiền nữa” (Truyện ký Pêrudia 86) 

Thánh Phanxicô tin tưởng lời Chúa. Và với đức tin của người nghèo, ngài trao phó hoàn toàn Hội Dòng cũng như bản thân trong bàn tay Thiên Chúa (“Lạy Chúa con, Lạy Chúa con, Chúa là ai? Và con là ai?) Yêu và yêu nhiều đều chưa đủ. Phải học trở nên nghèo khó trong tình yêu, nhất là trong tình yêu. Không chiếm hữu sự gì. Không chiếm hữu người nào. Bấy giờ, tình yêu mới đạt tới đỉnh trọn lành. 

7. Bình an tái lập 

Hội Dòng không còn là việc của ngài, nhưng là việc của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Thiên Chúa, như thế là đủ. Ngay từ lúc đó, thánh Phanxicô cởi mở trọn vẹn cho Thánh Thần của Chúa. Một luồng gió bình an và thanh thản xâm chiếm ngài. Tất cả con người ngài bắt đầu toả rạng huy hoàng như ánh mặt trời sau cơn giông bão. 

Thánh Phanxicô trở thành con người tươi sáng. Không gì có thể tách rời ngài khỏi tình yêu của Đấng Tạo Hoá. 

Và này đây, ngài cảm thấy chan chứa một năng động mới, ngài tâm sự cùng các bạn đường: “Cho đến bây giờ, chúng ta chưa làm được gì, chúng ta hãy bắt đầu làm một cái gì đi nào”. 

Kỳ thực thì không phải làm việc này hay việc nọ, nhưng là để cho Thánh Thần Chúa hoạt động trong chúng ta. 

Theo năm tháng, sức khoẻ Phanxicô yếu dần… Nhưng trước máng cỏ Giáng Sinh ở Greccio, trong ẩn viện La Verna hay trong cộng đoàn, chính con người hoà bình và huynh đệ ấy tiếp tục cất lên Bài Ca Anh Mặt trời và say mê chiêm ngưỡng Đức Kitô. 

8. Năm dấu thánh 

Vào khoảng tháng 8 năm 1224, hai năm trước khi từ giã cõi đời, Phanxicô lên núi La Verna. Tại nơi đây, ngài đắm chìm trong việc chiêm ngưỡng cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Cuộc khổ nạn xuất hiện trong tâm trí ngài như một mặc khải về Tình yêu vô biên hằng thôi thúc trọn cả con người ngài. Ngài cảm thấy nẩy sinh trong lòng một nỗi khao khát vời vợi muốn kết hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Ngài cầu nguyện như thế này: “Lạy Chúa, ước gì mãnh lực nồng cháy và dịu dàng của tình yêu Chúa chiếm ngự tâm hồn con và giải thoát tâm hồn con khỏi mọi sự dưới bầu trời này, để con chết vì yêu Tình yêu của Chúa, như Chúa đã chết vì yêu tình yêu của con”. 

Thế rồi vào một buổi sáng – vào dịp lễ suy tôn Thánh Giá – trong khi ngài cầu nguyện trên sườn núi, ngài thấy từ trời xuất hiện một thực thể có cánh, một thực thể bằng lửa và ánh sáng: thần Xêraphim có sáu cánh chói ngời như trong thị kiến của ngôn sứ Êdêkien. Đó là một trong các thực thể bất tử chầu chực trước ngai Thiên Chúa và là sự chiếu toả vinh quang của Người. Nhưng điều lạ lùng là những thực thể vinh quang và sáng ngời ấy cũng đau khổ: tay chân đều bị đâm thâu. 

Trước thị kiến ấy, tâm hồn thánh Phanxicô như bị chia cắt bởi những tình cảm trái nghịch. Vẻ đẹp của thần Xêraphim và ánh mắt dịu dàng của người làm cho thánh nhân chan chứa niềm vui, nhưng sự đau đớn của đấng chịu đóng đinh đồng thời cũng khiến tâm trí ngài rã rời. Và bỗng nhiên, Đau khổ và Vinh Quang, kết hợp với nhau một cách kỳ lạ trong thị kiến ấy, vồ bắt ngài như một con chim săn mồi. 

Thị kiến vụt tắt. Bấy giờ, cúi mặt xuống, ngài thấy đôi tay và đôi chân đã bị đâm thủng. Vinh quang Thiên Chúa đã chạm đến ngài. Ngài mãi mãi là con người bị đóng đinh.  

Tất cả cuộc đời ngài là một sự chiêm ngưỡng Đức Kitô lâu dài và nồng nàn. Và sự chiêm ngưỡng ấy kết cuộc đã biến đổi ngài hoàn toàn theo hình ảnh Đấng Chịu Đóng Đinh. 

9. Bài Ca Vạn Vật 

Bấy giờ xảy ra một điều bất ngờ: con người mà thiên hạ tưởng đã biến khỏi mặt đất, vì tâm hồn ngài chìm đắm trong Thiên Chúa và thân xác yếu nhược vì các dấu đinh và bệnh tật, con người đó bắt đầu ngồi trên lưng lừa ngang dọc miền Ombria và Marche, đi đến làng này tới làng khác và tha thiết kêu gọi mọi người sống hoà bình, hoà giải, huynh đệ. Như thể ngài được phú ban một năng lực mới.  

Đêm nọ, vì kiệt sức, Người Nghèo nài xin Thiên Chúa dủ thương. Một tiếng nói bên trong đáp lời ngài: “Phanxicô, hãy hân hoan như thể con đã ở trong vương quốc của Ta…” Một ánh sáng rất dịu dàng thấm nhập tâm hồn ngài. Và một nỗi khao khát ngợi khen xâm chiếm con người của ngài. Lời ngợi khen đó mặc lấy vẻ uy nghi của mặt trời, vẻ rực rỡ dịu dàng của tinh tú, đôi cánh của làn gió, sự khiêm nhu của dòng nước, sự nhiệt tâm của ngọn lửa và sự nhẫn nại của trái đất. 

Ánh sáng mặt trời chiếu toả trên Assisi. Phanxicô, nay đã mù loà, ngồi ngay ngắn trên giừơng và cất lên Bài Ca Anh Mặt trời:  

Lạy chúa Trời Cao Cả, 

Đấng nhân hậu toàn năng,  

Ngài xứng đáng lãnh nhận, 

Tiếng ca ngợi hát mừng, 

Danh dự và vinh quang 

Với muôn lời cung chúc! 

Ngợi khen và thánh đức, 

Thật là phải đạo thay, 

Người phàm ai đáng được 

Gọi Danh Thánh của Ngài. 

Muôn lạy Chúa con thờ, con xin ca tụng 

Vì Ngài đã dựng nên muôn loài muôn giống, 

Đặc biệt hơn cả là ông anh mặt trời, 

Để cho có ngày và để sáng soi. 

Anh đẹp tuyệt vời, anh rạng ngời rực rỡ, 

Lạy Chúa Tối Cao, anh là hình ảnh Chúa… 

Và lời ngợi khen bao trùm tất cả tạo thành: chị mặt trăng và tinh tú, anh gió và chị nước, anh lửa và chị Mẹ đất. Quả thật là một bài ca thán phục trước kỳ công của Thiên Chúa: đó cũng là và nhất là bài ca tình huynh đệ đại đồng. Bài ca hoà giải giữa con người với mọi vật và với chính bản thân. Bài ca của con người hoà bình và huynh đệ, nhờ họ mà những thế lực sôi sục trong cuộc sống tìm lại được sự trong sáng nơi suối nguồn và vẻ huy hoàng của ánh sáng. Bài ca của cuộc tạo dựng mới, ngay trong trái tim con người. 

Để hoà giải hiềm khích giữa Đức Giám mục và viên thị trưởng thành phố Assisi, ngài nẩy sinh ý tưởng thêm một tiểu khúc vào Bài Ca Anh Mặt trời:  

“Muôn lạy Chúa con thờ, con xin ca tụng, 

Vì bao người rộng lượng thứ tha 

Bởi lòng yêu mến Chúa:  

Gian khổ yếu đau, chẳng nề hà! 

Lạy Chúa Trời cao cả, 

Phúc thay ai một mực sống hiền hoà, 

Vì Ngài sẽ thưởng triều thiên quý giá.” 

Sức khoẻ ngài ngày càng sa sút. Cuối mùa hè năm 1226, người trở bệnh trầm trọng hơn. Biết mình sắp phải từ giã cõi đời này, ngài sáng tác một điệp khúc thêm vào Bài Ca Anh Mặt trời:  

Con xin ca tụng, muôn lạy Chúa con thờ 

Vì chị chết đang sẵn chờ thân xác, 

Thật trong cõi người ta 

Chẳng ai là thoát được. 

Vô phúc thay kẻ nào, 

Chết còn mang tội ác, 

Nhưng quả là hạnh phúc cho ai 

Khi bất ngờ chị tới 

Đang thi hành ý Chúa miệt mài. 

Vì dầu cái chết thứ hai 

Cũng không tác hại cho đời họ đâu! 

Những ngày đầu tháng mười đã đến. Trở về Porziuncola, thánh Phanxicô sống những giờ phút cuối đời. Chiều ngày mồng 3, ngài xin anh em đem sách Tin Mừng đến và đọc cho ngài nghe đoạn Tin Mừng của thánh Gioan: “Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những người thuộc về mình còn ở thế gian và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). 

Kế đó, thánh Phanxicô xướng thánh vịnh 141: “Con lớn tiếng kêu gào Yavê, sức hèn con đã hầu như suy tàn… xin đưa con ra khỏi chốn ngục tù…” “Cuối cùng, đã đến giờ các mầu nhiệm của Đức Kitô thể hiện nơi ngài, linh hồn ngài hoan hỷ bay bổng lên cùng Thiên Chúa” (1 Cel 121) 

Đó là buổi chiều ngày mồng 3 tháng mười. Ngài vừa 45 tuổi. 

Màn đêm buông xuống trên thành phố Assisi, những ánh sao đầu tiên lấp lánh trên bầu trời. Từ nay ai sẽ mang hoà bình từ trời xuống trái đất? Ai sẽ sống đủ nghèo để trở nên anh em của mọi tạo vật? Ai sẽ nói được như ngài: “Bình an và thiện hảo”? 

 

Thánh Phanxicô đam mê Tin Mừng

Phanxicô được thúc đẩy làm các điều "lạ thường" như thế, bởi vì Chúa đã chọn ngài giữ một vai trò đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Ngài được tách ra khỏi mạng lưới các cơ cấu xã hội Thời kỳ đen tối, để lại đưa Tin mừng Đức Giêsu làm nền tảng cho đức tin của Kitô hữu, và như thế là để xây lại Giáo hội và thế giới. Thánh Phanxicô có niềm đam mê Tin mừng, một đam mê đã thiêu đốt cả con người của ngài và nhờ đó tung ra nhiều ánh lửa để xua tan bóng tối của thời đại ngài. Các ánh lửa ấy đều có tên gọi. Mỗi ánh lửa được lấy từ Tin mừng. Mỗi ánh lửa thắp sáng ít nhất một phần nhỏ của bóng tối. Cộng chung lại, các ánh lửa ấy tạo ra một sức sáng lớn, đủ xua tan mọi phần của bóng tối mãi mãi.

 MỘT DUNG MẠO MỚI CHO CHÚA

Chúa đối với Phanxicô không phải như một nhà độc tài gây khiếp đảm, buộc phải nghe lời nếu không sẽ bị ném xuống hoả ngục. Không phải như vậy. Chúa đối với ngài là một Người rất gần gũi, một người Cha lý tưởng ban cho con cái nam nữ món quà sự sống quý giá, một nhân cách không giống với tạo vật khác, các tài năng để sống và phát triển trong thế giới này, và sự tự do để sử dụng hoặc lạm dụng các tài năng ấy.

Giống như một người cha người mẹ lý tưởng, Chúa luôn sẵn sàng để giúp uốn nắn các điểm gồ ghề, khuyên nhủ trong các chọn lựa khó khăn, an ủi và ban thêm sức mạnh khi các sự việc trở nên xấu đi.

Không lạ gì khi thánh Phanxicô thường trích dẫn câu Kinh thánh sau đây với lòng tín thác hoàn toàn: "Hãy phó thác cho Chúa và Người sẽ lo toan cho ngươi".

NHÂN TÍNH CỦA ĐỨC KITÔ

Không thể nghi ngờ gì về tình thương của thánh Phanxicô đối với Đức Giêsu Kitô. Đây không thể là Đức Giêsu của nhiều bức hoạ cuối thời Trung cổ -- Vị thẩm phán của ngày phán xét chung. Nhưng đây chính là Đức Giêsu thành Bêlem, là một con người thật sự, bởi vì Ngài đồng hoá với mỗi con người; là Đức Giêsu của Bữa Tiệc ly, Đấng tự hiến làm của ăn cho nhân loại đang đói khát phần thiêng liêng; là Đức Giêsu của Đồi Canvê, Ngài đã chết như của lễ hiến dâng để cho mọi người có thể trỗi dậy từ bóng tối của tội lỗi tập thể và tội lỗi cá nhân.

Trong nhân tính của Đức Giêsu, thánh Phanxicô tìm thấy mối dây nối kết với Thiên Chúa của vũ trụ càn khôn. Ngài đã tìm thấy rằng Chúa là Chúa và là Anh em của mọi người chúng ta.

CON ĐƯỜNG TIN MỪNG

Phanxicô quá vui mừng trước khám phá này đến nỗi ngài thấy không có sự gì đáp trả cho cân xứng bằng sự hoán cải toàn diện, sự hoán cải này giống như một câu chuyện tình hơn là sự từ bỏ dứt khoát đời sống cũ của mình.

Lúc ấy, các lời của Đức Giêsu trong Tin mừng tuôn ra ngoài như một lực sống nóng cháy. Đây là niềm cậy trông. Đây là sự sống. Đây là sự giải thoát khỏi mọi quyền lực tối tăm. Đây là vận mạng của cả loài người, và của toàn tạo vật.

Không lạ gì khi Phanxicô kêu lớn tiếng trước niềm vui quá mới mẻ này: "Đây là điều tôi mong mỏi! Đây là điều tôi kiếm tìm! Đây là điều tôi ước ao với trọn tâm trí và linh hồn tôi".

TRỞ NÊN NHƯ ĐỨC KITÔ

Các ước ao ấy dần dần được thực hiện trong cuộc đời thánh Phanxicô. Chẳng hạn lễ Giáng Sinh không chỉ là một biến cố lịch sử. Đức Giêsu không chỉ giáng sinh một lần vào thời xưa, nhưng còn trong thời nay và sau này nữa. Bất cứ ai đón nhận sự sống Tin mừng sẽ đón nhận một đòi hỏi từ Thiên Chúa: Đem Đức Giêsu vào cuộc sống người ấy trong thế giới này.

Với cách nhìn táo bạo như vậy, Phanxicô viết: "Chúng ta là mẹ khi chúng ta mang Chúa trong tâm hồn và thân xác ta, qua một tình yêu và một lương tâm chân thành và tinh tuyền; chúng ta sinh ra Ngài qua cách làm việc thánh thiện, vốn sẽ toả sáng trước người khác như một gương tốt".

TÌNH HUYNH ĐỆ

Trong ánh sáng này, có lẽ câu nói gây xúc động nhất trong Di chúc của Phanxicô là câu ngài dùng để mô tả việc qui tụ các anh em đầu tiên: "Và sau đó, Chúa đã ban cho tôi một số anh em..."

Vào thời ngài, việc phân biệt tầng lớp đã trở nên chặt chẽ. Trong đời tu, các thầy trợ sĩ và nữ tu trợ tá chỉ có quy chế hạng hai. Trong nhân dân, có chủ và tớ, quí tộc và nông dân, người giàu và người nghèo. Sự nghi ngờ và không tin tưởng là chuyện bình thường giữa bạn bè với nhau.

Khi "các anh em" đến với Phanxicô, ngài không nhìn vào các dòng khổ tu, nhưng nhìn vào Tin mừng như niềm cảm hứng cho lối sống mới của anh em. Mọi anh em đều bình đẳng, đều được yêu thương, đều được trợ giúp để khẳng định mình, và đều được mến chuộng.

Nhà viết tiểu sử đầu tiên của Phanxicô, cũng là một nhân chứng, đã mô tả cộng đoàn đầu tiên của ngài như sau: "Khi anh em cùng đến bất cứ nơi nào, hoặc gặp ai trên đường, anh em đều tỏ tình thương thiêng liêng và lòng quyến luyến. Những cái ôm thanh sạch, cảm tình dễ mến, nụ hôn thánh thiện, cuộc nói chuyện vui vẻ, nụ cười đơn sơ, cái nhìn vui tươi...sự đồng ý về mục tiêu, vâng lời sẵn sàng, bàn tay trợ giúp không mệt mỏi, tất cả những điều này đều có nơi anh em".

MỌI TẠO VẬT ĐỀU LÀ ANH EM

Từ tình anh em như vậy, thánh Phanxicô lấy thêm một bước nhảy liều mạng. Trái với những người khác, ngài không giới hạn "tình anh em" vào con người hoặc giới tu sĩ. Tin mừng vang vọng lớn tiếng về việc này.

Ngài sớm lập Dòng nhì dành cho phụ nữ, gọi là Dòng Clara Nghèo. Sau đó, ngài lập ra Dòng ba, gọi là Dòng Phan sinh Tại thế, dành cho các người nam nữ sống Tin mừng theo cách riêng của họ giữa thế gian.

Việc giải thích của ngài về tình huynh đệ theo Tin mừng dẫn ngài đến một mầu nhiệm cao hơn: tình huynh đệ đối với tất cả tạo vật. Nếu các người nam và người nữ là anh chị em với Đức Kitô, Đấng là trưởng tử giữa mọi tạo vật, thì mọi động vật, chim chóc, mặt trời, mặt trăng, gió, lửa, nước, cũng là anh chị em với loài người, vì tất cả đều do Thiên Chúa tạo thành.

Ngài nói với "các chị chim", với "anh sói", và chúng cũng nói chuyện với ngài. Điều này cho thấy dường như Chúa đã tái lập tình trạng ngây thơ vô tội thuở ban đầu, mà ông Adam và bà Eva đã đánh mất. Phanxicô hoàn toàn đi vào mầu nhiệm này, khi ngài sáng tác và hát một trong các bài thơ độc đáo nhất trong lịch sử tôn giáo, đó là Bài ca các Tạo vật. Sự kính trọng của ngài đối với tạo vật vẫn còn gây kinh ngạc cho đến ngày nay, đến nỗi ngài đã được đặt làm Bổn mạng của Môi sinh/Môi trường.

NGHĨA HÈN MỌN

Thánh Phanxicô đã chọn gọi các đồng bạn của ngài là "Anh em hèn mọn". Từ "hèn mọn" chứa một ý nghĩa mà ngày nay chúng ta thường dùng khi nói về các nhóm thiểu số -- tức người nghèo, không quyền lực và không có tiếng nói có trọng lượng. Đối với Phanxicô, hèn mọn có nghĩa là từ bỏ ước muốn quyền lực, danh vọng và quy chế cao trọng. Hèn mọn là muốn trở nên như các anawim của Kinh thánh -- tức người nghèo của Chúa, người không được trợ giúp, người không được bảo vệ, người mà Đức Kitô nói là các người được chúc phúc, vì Nước trời là của họ.

Hèn mọn là một quyết định để phục vụ chứ không phải được phục vụ, một ước muốn sẵn sàng giúp đỡ, nối kết, chia sẻ, đau với người đau, vui với người vui, một quyết định để vượt qua một xu hướng xấu nhất nơi mỗi người -- đó là ước muốn có quyền lực và chỉ huy ngươi khác.

NGHÈO KHÓ

Tài sản, tiền bạc, của cải riêng, và tham muốn ngày càng có thêm vật chất -- đó là những cái mà thánh Phanxicô xem là cản trở cho tình huynh đệ và sự kết hiệp với Chúa. Những người có cuộc sống bị thống trị bởi tiền bạc và những gì tiền bạc có thể mua được, là những người quan tâm đến vật chất hơn là quan tâm đến người khác -- đây là một sự huỷ hoại khủng khiếp cho chương trình của Chúa.

Con người quan trọng hơn tài sản và con người quan trọng hơn mọi vật. Đức nghèo của Phanxicô nhằm chứng minh chính xác rằng ngài chọn nghèo hèn cá nhân, chọn đứng về phía người nghèo, người bị áp bức, người bị bỏ rơi của xã hội.

CẦU NGUYỆN

Việc cầu nguyện, nhất là cầu nguyện chiêm niệm, là quá quan trọng đối với Phanxicô đến nỗi ngài bị cám dỗ mạnh mẽ là nên từ bỏ sứ mạng làm tông đồ cho thế giới, và rút lui vào cuộc sống ẩn tu.

Sứ vụ của ngài, như Chúa đã nói với ngài, là một hướng khác. Nhưng dù Phanxicô sống bất cứ nơi đâu -- trong hang động, nơi chợ búa, trên núi cao hay trong nhà của Đức hồng y, với anh em hay đang lao động hoặc ở một mình - ngài luôn sống tâm tình cầu nguyện: khi thì chiêm niệm, khi thì cầu nguyện tự phát, khi thì chung với anh em, khi thì vừa lao động vừa cầu nguyện.

HOÀ BÌNH

Các nỗ lực can trường của Phanxicô về xây dựng hoà bình đã đi vào huyền thoại: trong tranh chấp giữa người giàu và người nghèo ở Átxidi, giữa Kitô hữu và người Hồi giáo trong thời Thập tự chinh, giữa người quí tộc và nông nô trong các vấn đề đăng ký quân dịch. Điều quan trọng đáng lưu ý là thánh Phanxicô đã được chấp nhận làm người kiến tạo hoà bình, bởi vì chính bản thân ngài là con người hoà bình thực sự.

Ngài nói với các anh em: "Khi anh em rao truyền hoà bình bằng môi miệng, anh em phải có hoà bình chan hoà trong lòng mình trước. Có như vậy, không ai có thể tức giận hoặc nhục mạ anh em, khi anh em rao truyền. Và mọi người sẽ được đánh động bởi sự hoà bình, thiện chí và tình thương, vốn là kết quả của sự tự chế tinh thần của anh em".

KÍNH TRỌNG GIÁO HỘI

Ngoại trừ các lĩnh vực tín lý và luân lý, trong Giáo hội luôn có sự yếu đuối và cả sự sai lầm của con người. Sự yếu đuối của một số thành phần trong Giáo hội thời thánh Phanxicô là lớn lao đến nỗi Giáo hội khó là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa ở giữa nhân loại.

Thời ấy, người ta sợ hãi Giáo hội vì quyền bính chính trị của Giáo hội. Nhiều giáo sĩ sống một đời đầy bê bối và nhiều gương xấu gây vấp phạm.

Chính lúc đó Chúa gọi thánh Phanxicô "Hãy đi xây dựng lại nhà Cha, Giáo hội của Cha mà con thấy đang ngã sụp".

Dưới lớp bụi bẩn mà Giáo hội đã tích tụ trong "Thời kỳ đen tối", thánh Phanxicô tìm thấy ngọn lửa sáng chói, sự nồng ấm vô tận của Tin mừng, vốn được thông chuyển từ Chúa Giêsu đến thánh Phêrô, và từ thánh Phêrô đến các đấng kế vị Ngài cho đến Đức giáo hoàng hiện nay. Ngài luôn nghĩ rằng Giáo hội, mặc dù đôi lúc bất toàn, là người bảo vệ con đường Tin mừng của Chúa Giêsu.

Do đó, ngài bắt đầu rủ từng lớp bụi, để xây lại Giáo hội, lắp hòn đá này đến hòn đá khác, cải hoá người này đến ngươi khác, bằng sự cải cách chứ không bằng nổi loạn. Ngài đã thành công trong khi nhiều người đã thất bại, bởi vì ngài tiếp cận Giáo hội không bằng sự tức giận, nóng nảy, nhưng bằng tình thương và kính trọng Giáo hội.

SỨ MẠNG TÔNG ĐỒ

Thánh Phanxicô nhìn chung quanh mình. Hầu như toàn bộ châu Âu đã tin vào Đức Kitô, mặc dầu nhiều người chỉ là Kitô hữu trên danh nghĩa. Thế giới Hồi giáo sống tách biệt; miền Viễn Đông chưa nghe nói về Chúa. Công tác truyền giáo -- một thách đố Chúa Kitô giao cho các Tông đồ để rao giảng Tin mừng cho mọi dân nước -- dường như không phát triển được bao nhiêu.

Do đó, thánh Phanxicô làm cho các anh em của ngài trở thành các tông đồ mới, và ngài sai cứ hai người một nhóm, như Chúa đã làm, để rao giảng Tin mừng mới được tái khám phá cho phần đất còn lại của châu Âu, châu Phi Hồi giáo và Trung Đông, miền Viễn Đông và các vùng đất chưa được phát hiện.

Nhờ sự sốt sắng như vậy, Phanxicô đã trở nên nhà truyền giáo nước ngoài đầu tiên của thời đại mới.

THÁCH ĐỐ CỦA THÁNH PHANXICÔ

Thế giới đã thay đổi rất nhiều kể từ thời Phanxicô, nhưng buồn thay, nhiều điều kiện và vấn đề tương tự ở thời ngài vẫn còn xuất hiện trong thời đại chúng ta ngày nay.

Hàng triệu lời đề nghị được đưa ra để tìm cách giải quyết các vấn đề ấy, cách thay đổi các điều kiện và cách lay động sự ù lì và chai cứng để đạt đến giải pháp mới.

Phanxicô biết rằng nhiều người không còn được các niềm tin hấp dẫn như một người đang tin vào Chúa, ngài mong họ trở nên người biết quan tâm đến người khác, người biết yêu thương, người sống hoà bình và tin tưởng phó thác. Mỗi người cần trở nên một con người như Đức Giêsu trong thời đại Ngài hoặc như thánh Phanxicô trong thời đại ngài. Một con người như vô số người sống Tin mừng mà chúng ta gọi là các thánh. Một con người như các linh mục, tu sĩ nam nữ, các tín hữu tại thế của Đức Giêsu, họ đang cố gắng trở nên các chứng nhân cho Chúa. Đối với các anh chị em trong đại gia đình của Phanxicô, từ thời nọ đến thời kia, ngài nói rõ với họ: Hãy trở nên con người đặc biệt. Anh chị em cần phải là sách Tin mừng để cho nhiều người khác đọc được.

Roy M. Gasnick, O.F.M.
(Nguyễn Trọng Đa dịch)

 

 

 

 

 


Thứ Hai

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 1, 6-12

"Tin Mừng do tôi rao giảng không phải thuộc về loài người, nhưng là do Ðức Giêsu Kitô mạc khải".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, tôi ngạc nhiên thấy anh em thay lòng đổi dạ chóng như thế đối với Ðấng đã kêu gọi anh em thông phần vào ân sủng của Ðức Kitô, để anh em quay sang một tin mừng khác: Tin mừng khác làm gì có, chỉ có những kẻ phá rối anh em và muốn anh em đảo lộn Tin Mừng của Ðức Kitô. Nhưng cho dù chúng tôi, hay một thiên thần nào từ trời đến giảng tin mừng khác với Tin Mừng chúng tôi đã rao giảng cho anh em, thì người đó bị chúc dữ. Như chúng tôi đã nói trước, và giờ đây tôi xin nói lại rằng: Nếu ai trong anh em rao giảng cho anh em Tin Mừng khác hơn điều anh em đã lãnh nhận, thì người đó bị chúc dữ.

Giờ đây, tôi phải làm vừa lòng người ta hay là Thiên Chúa? Nào có phải tôi tìm cách làm vừa lòng người ta sao? Nếu tôi còn làm vừa lòng thiên hạ, thì tôi không phải là đầy tớ của Ðức Kitô.

Anh em thân mến, tôi cho anh em biết rằng Tin Mừng do tôi rao giảng không phải thuộc về loài người, vì tôi không nhận cũng không học với loài người, nhưng là do Ðức Giêsu Kitô mạc khải.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 110, 1-2. 7-8. 9 và 10c

Ðáp: Cho tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 5b).

Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi. - Ðáp.

2) Công cuộc tay Chúa làm ra đều chân thật và công chính, mọi giới răn của Người đều đáng cậy tin. Những giới răn đó được lập ra cho đến muôn ngàn đời, được ban hành một cách chân thành và đoan chính. - Ðáp.

3) Chúa đã gửi tặng ơn giải phóng cho dân Người, để thiết lập lời minh ước tới muôn đời. Danh Người thực là thánh thiện và khả úy. Lời khen ngợi Chúa còn tồn tại tới muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9; Ga 6, 69

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 10, 25-37

"Ai là anh em của tôi?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có một người thông luật đúng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?" Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?" Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?"

Chúa Giêsu nói tiếp: "Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: "Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông".

"Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy".

Ðó là lời Chúa.

 

Pin on Icons on our websiteCME Limerick & Killaloe: Readings, hymns and sermon ideas for Sunday 14  July 2019, Fourth Sunday after Trinity


Suy Nghiệm Lời Chúa


"Ai là anh em của tôi"? - Một thứ bác ái pro-choice!

 

Phụng Vụ Lời Chúa cho Thứ Hai Tuần XXVII Thường Niên hôm nay liên quan đến sự sống đời đời là những gì bất khả phân ly với tính chất đại đồng của tình yêu thương nhau.  

Thật vậy, vấn đề được đặt ra trong bài Phúc Âm hôm nay từ "một người thông luật đứng dạy hỏi Chúa Giêsu rằng: 'Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?'", đã được Người trực tiếp khẳng định "Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống", ở chỗ, đúng như câu trả lời của chính nhân vật ấy: "Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình".  

Nghĩa là muốn được sống đời đời thì phải mến Chúa hết mình và yêu người như chính bản thân mình. "Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: 'Nhưng ai là anh em của tôi?'". Tại sao "người đó muốn bào chữa mình" bằng câu hỏi tiếp theo "ai là anh em của tôi?" Phải chăng vì nhân vật này khó có thể yêu thương bất cứ ai, cùng lắm chỉ yêu thương những ai là ruột thịt của mình, những ai mình thích và những ai thích mình, về phe mình, tức là còn đầy khuynh hướng kỳ thị, còn đầy những thành kiến trong đầu, còn đầy ác cảm với tha nhân v.v.? 

Có thể là thế. Bởi vậy, Chúa Giêsu đã phải sử dụng một dụ ngôn để cho nhân vật ấy biết "ai là anh em của tôi?", nhờ đó mà noi gương bắt chước: "đi và làm như vậy", sau khi nhân vật này đã nhận xét rất đúng theo câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra để kết thúc dụ ngôn của Người: "'Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?' Người thông luật trả lời: 'Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy'". 

Vậy "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy" là ai và "người ấy" là người nào? Nếu không phải "người ấy" là "Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết". 

Và "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy" là ai - theo nhân vật thông luật trả lời thì không phải là "một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua", mà là "một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: 'Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông'".  

Vấn nạn của nhân vật thông luật "ai là anh em của tôi", theo dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, không được Chúa Giêsu trả lời đó chính là nạn nhân bị rơi vào tay bọn cướp, mà vấn đề hoàn toàn ngược hẳn lại "ai là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp".  

Có nghĩa là, theo kinh nghiệm sống đạo và giao tiếp, bao lâu chúng ta còn đặt vấn đề "ai là anh em của tôi?" là chúng ta còn khuynh hướng pro-choice yêu thương chủ quan tự nhiên như những người "dân ngoại" và "thu thuế" (xem Mathêu 5:46-47) hay "tội lỗi" (Luca 6:33 & 34), nghĩa là yêu thương kiểu kỳ thị, còn kẻ thù, thậm chí là chính những người ruột thịt của chúng ta, bởi chúng ta còn muốn chọn lựa anh em theo ý nghĩ, ý thích và ý muốn tự nhiên thiên lệch đầy vị kỷ của mình, và vì thế chúng ta vẫn còn gặp rất nhiều kẻ thù, rất nhiều đối phương, bất kể người ấy là ai, là thân nhân, ân nhân, thân hữu của mình một thời v.v. 

Ngược lại, nếu chúng ta coi mình là anh em của mọi người thì sẽ chẳng bao giờ còn kẻ thù, còn đối phương, còn tranh giành, còn ghen ghét, còn đố kỵ v.v. Chúng ta sẽ như Chúa Kitô đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ (xem Mathêu 20:28), sống hòa đồng với mọi người, tiến đến với mọi người, bất kỳ ai, nhất là những con người thấp hèn bé mọn bần cùng khốn khổ trong xã hội, hơn là chờ mọi người đến với mình, hơn là quen thân gắn bó với thành phần giầu sang quyền quí thế lực v.v. 

Đó là Phúc Âm của Chúa Kitô, là mạc khải thần linh, là những gì Thiên Chúa muốn chúng ta làm để được rỗi, được nên con cái "Cha trên trời là Đấng Trọn Lành" (Mathêu 5:48) đồng thời cũng là "Đấng xót thương" (Luca 6:36). Đó là lý do, trong Bài Đọc 1 hôm nay, vị tông đồ dân ngoại Phaolô đã căn dặn rất kỹ lưỡng giáo đoàn Galata rằng tất cả những gì ngài đã rao giảng cho họ đều chân thật, từ chính Chúa Kitô:

"Tin Mừng do tôi rao giảng không phải thuộc về loài người, vì tôi không nhận cũng không học với loài người, nhưng là do Ðức Giêsu Kitô mạc khải", họ cần phải nắm vững, bắng không, sẽ bị sai lạc theo "những kẻ phá rối anh em và muốn anh em đảo lộn Tin Mừng của Ðức Kitô", những con người sống theo thế gian và tự nhiên, muốn yêu thương kiểu pro-choice như nhân vật đặt vấn đề "ai là anh em tôi?" trong Bài Phúc Âm hôm nay. Vị tông đồ dân ngoại này còn nghiêm trọng cảnh giác họ rằng:

"Cho dù chúng tôi, hay một thiên thần nào từ trời đến giảng tin mừng khác với Tin Mừng chúng tôi đã rao giảng cho anh em, thì người đó bị chúc dữ. Như chúng tôi đã nói trước, và giờ đây tôi xin nói lại rằng: Nếu ai trong anh em rao giảng cho anh em Tin Mừng khác hơn điều anh em đã lãnh nhận, thì người đó bị chúc dữ".

Bởi đó Bài Đáp Ca hôm nay mới có câu mà thành phần Kitô hữu môn đệ trung thực của Chúa Kitô cần phải lưu tâm và thâm tín về tất cả mạc khải thần linh, về những giáo huấn vô cùng chân thật và trọn hảo để con người có thể được muôn đời hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, như thế này: "Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi".

 

 

Thánh Faustina Kowalska

5/10

St. Faustina - The Catholic Thing

 

TĐCTT Đaminh Maria cao tấn tĩnh biên soạn và chuyển dịch

 


1- Thánh Faustina:
Sứ Giả Thương Xót

 

N

ếu thánh nữ Magarita Maria Alacoque, theo Đức Piô XII, liên quan đến Thánh Tâm Chúa thì Thánh Nữ Maria Faustina người Balan, theo Đức Gioan Phaolô II, người đồng hương với vị thánh này, cũng liên quan tới Lòng Thương Xót Chúa. Thật thế, để có thể hiểu được phần nào vai trò của Thánh Nữ Faustina đối với Lòng Thương Xót Chúa và tại sao cần phải loan truyền Lòng Thương Xót Chúa trong lúc này, chúng ta hãy cùng nhau trở về với chuyến tông du cuối cùng của ĐTC GPII, chuyến tông du lần thứ 8 về Balan của ngài để cung hiến Đền Thờ Chúa Tình Thương Thứ Bảy 17/8/2002.

 

Vấn đề rất đặc biệt ở đây liên quan đến cả việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa và Lòng Thương Xót Chúa, đó là cả hai đều xuất phát từ mạc khải tư, chứ không phải chính thức từ Mạc Khải Thánh Kinh, vẫn biết, khi ban phép thực hành những lòng tôn sùng này về Chúa, văn kiện của các vị Giáo Hoàng đều suy diễn từ Thánh Kinh, và căn cứ trên nền tảng thần học Kitô giáo. Thật vậy, Chúa Giêsu đã hiện ra với 2 nữ tu, đó là Thánh Nữ Magarita Maria Alacoque ở Pháp vào thế kỷ 17, và Thánh Nữ Maria Faustina ở Balan vào tiền bán thế kỷ 20, giữa hai Thế Chiến Thứ I và II, và Người đã tâm sự với các vị về tình yêu của Thiên Chúa và kêu gọi loài người đáp ứng tình yêu của Người, đặc biệt là qua một số việc làm cụ thể hợp với mỗi một thời đại. Vậy, Chúa Giêsu, qua Thánh Nữ Maria Faustina, đã nói về thời đại văn minh của chúng ta những gì và yêu cầu chúng ta thực hiện những điều chi?

 

Chị vào đời ngày 25/8/1905 ở Gogowiec Balan trong một gia đình quê mùa nghèo nàn và đạo hạnh. Chị là người con thứ ba trong 10 người con. Chị được rửa tội và lấy tên Helena ở Nhà Thờ Thánh Casimir giáo xứ Swinice Warckie. Ngay từ thời còn thơ nhi, chị đã nổi bật về lòng yêu chuộng nguyện cầu, làm việc, tuân phục và cảm thương người nghèo khổ. Vào năm 7 tuổi, chị tự thú chị đã nghe được tiếng nói trong tâm hồn kêu gọi chị nên trọn lành hơn (Nhật Ký 7). Chị rước lễ lần đầu vào năm 9 tuổi, năm 1914, sống giây phút một cách rất thấm thía khi nhận thức được sự hiện diện của Vị Khách Thần Linh trong linh hồn của chị. Chị đã đến trường 3 năm. Vào năm 16, kéo dài tới năm 18 tuổi, chị đã rời nhà để đi làm việc với vai trò giữ nhà ở 3 nơi khác nhau: Aleksandrów, Odi và Ostrówek, để kiếm thêm phương tiện hầu hỗ trợ bản thân và giúp đỡ cha mẹ của chị. Trong thời gian chị làm công việc thứ 2 và trước công việc thứ 3, chị đã thử xin vào Dòng Chị Em Đức Mẹ Thương Xót vào Tháng 7 năm 1924, nhưng bất thành.

 

Saint Faustina: Her Early Virtues | The Divine Mercy

 

Đúng thế, giữa năm 1916 và 1918 là 2 năm chị đang làm việc kiếm thêm tiến trợ giúp cho cha mẹ, tức vào năm 17 tuổi, chị đã cảm thấy những rung động đầu tiên của ơn gọi tu trì, và chị đã muốn gia nhập một tu viện nữ, song cha mẹ của chị không cho phép (Nhật Ký 8). Bị từ chối, cuộc đời của chị quay sang trần thế, sống cuộc sống theo tự nhiên, nhưng chị vẫn cảm thấy chẳng có một sự gì làm cho chị no thỏa, như chị tự thú ở Nhật Ký khoản 8. Thế rồi, như chị tự thú, ở Nhật Ký khoản 9, vào chính lần chị tham dự một cuộc nhẩy đầm với mấy chị em, và khi chị bắt đầu nhẩy, chị đột nhiên thấy Chúa Giêsu ở ngay bên cạnh chị, toàn thân trần trụi, đầy những thương tích đớn đau, lên tiếng chất vấn chị rằng: "Cha còn chịu đựng con tới bao lâu nữa, và con còn trì hoãn với Cha cho đến bao giờ đây?" Ngay bấy giờ, nhạc tự nhiên ngưng hết, và chị cũng không còn thấy người nhẩy với chị đâu nữa, chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu và chị thôi, như đã xẩy ra cho người đàn bà ngoại tình chỉ còn lại Chúa Giêsu và bà ta sau khi mọi người muốn ném đá bà bỏ đi hết, như Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại ở đoạn 8 câu 9.

 

Sau đó chị đến ngồi bên người chị của chị, giả vờ như đang bị nhức đầu, rồi chẳng còn ai ở đó thấy chị nữa, chị đã tự động lẩn đi mất, để đến nhà thờ Thánh Stanislaus Kostka. Bấy giờ chỉ có mấy người trong nhà thờ, chị quì xuống trước Thánh Thể xin Chúa thương soi sáng cho chị biết chị phải làm gì. Cũng ở Nhật Ký đoạn 10 này, chị cho biết như thế, rồi chị tự thú tiếp như sau: "Thế rồi con đã nghe thấy những lời này: Hãy đến Warsaw ngay; con sẽ gia nhập tu viện ở đó. Con đã ngưng cầu nguyện và trở về nhà để giải quyết các sự cần phải làm. Con đã tiết lộ cho chị con biết những gì xẩy ra trong linh hồn con bao nhiêu có thể. Con xin chị tạ từ cha mẹ của chúng con, thế là trong bộ y phục duy nhất của mình, ngoài ra chẳng có gì nữa, con đã đến Warsaw".

 

Trong chuyến hành trình đến Warsaw, chị còn gặp trắc trở này nọ nữa (Nhật Ký 11-13). Nhưng cuối cùng, vào ngày 1/8/1925, chị đã trở lại Dòng Chị Em Đức Mẹ Tình Thương ở Warsaw đã tạm từ chối chị lần đầu, để rồi lần này, sau khi gặp Mẹ bề trên, được Mẹ bảo đến cầu nguyện với Chúa của nhà dòng là Chúa Giêsu xem Người có nhận chị không, sau đó, sau khi chị cầu nguyện với Chúa và sau khi nghe chị nói chị đã được Chúa chấp nhận: "Ta chấp nhận; con ở trong Trái Tim Cha" (Nhật Ký 14), Mẹ bề trên liền nói: "Được, nếu Chúa chấp nhận con thì tôi cũng chấp nhận con". Chị đã được nhận vào tu trong và lấy tên là Nữ Tu Mary Faustina. Chị đã ở trong dòng này 13 năm và sống ở một số nhà khác nhau. Chị đã sống ở Kraków, Pock và Vilnius, những nơi chị đã làm việc như một người nấu bếp, một người làm vườn và một người chuyên chở.

 

Theo bề ngoài, không có gì cho thấy chị có một đời sống nội tâm đầy thần bí. Chị nhiệt thành thi hành các công việc của chị và trung thành giữ luật lệ của đời sống tu trì. Chị sống trầm tĩnh, đồng thời lại rất thản nhiên, vui tươi, đầy lòng nhân ái và tình yêu vô tư đối với tha nhân. Mặc dù đời sống của chị có vẻ tầm thường, đơn điệu và u tối, chị đã âm thầm kết hợp hết sức mật thiết với Thiên Chúa.

 

Chính mầu nhiệm Tình Thương Thiên Chúa, một mầu nhiệm chị đã chiêm ngắm nơi lời Chúa, cũng như nơi các hoạt động hằng ngày của đời chị, đã đặt nền tảng cho linh đạo của chị. Tiến trình chiêm niệm này cũng như việc tìm hiểu mầu nhiệm tình thương của Thiên Chúa đã góp phần vào việc phát triển nơi Nữ Tu Mary Faustina thái độ tin tưởng vào Thiên Chúa như một trẻ thơ cùng với thái độ thương xót đối với tha nhân.

 

       Ôi Chúa Giêsu, mỗi một vị thánh của Chúa đều phản ảnh một trong những nhân đức của Chúa; con muốn phản ảnh trái tim cảm thương trắc ẩn của Chúa, một trái tim đầy tình xót thương; con muốn tôn vinh trái tim Chúa. Ôi Chúa Giêsu, xin tình thương của Chúa ghi khắc vào lòng con cũng như vào linh hồn của con như một thứ niêm ấn, và đó là huy hiệu của con đời này và đời sau(Nhật Ký, 1242).

 

Nữ tu Faustina là một nữ tử trung thành của Giáo Hội, một Giáo Hội chị đã mến yêu như một Người Mẹ và là một Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Ý thức được vai trò của mình trong Giáo Hội, chị đã cộng tác với tình thương của Thiên Chúa trong công việc cứu độ các linh hồn hư đi. Để đáp ứng một lời yêu cầu đặc biệt cũng như để theo gương của Chúa Giêsu, chị đã biến cuộc sống của chị thành của lễ hy sinh cho chính mục đích này. Trong đời sống thiêng liêng của mình, chị còn nổi bật về lòng yêu mến Thánh Thể và hết sức tôn sùng Mẹ Tình Thương.

 

Những năm tháng chị sống trong tu viện chất chứa đầy những tặng ân phi thường, như các mạc khải, các thị kiến, được in dấu thánh kín đáo, được tham dự vào Cuộc Khổ Nạn của Chúa, được ơn một lúc ở hai nơi, được biết những gì thầm kín trong linh hồn con người, được ơn nói tiên tri, hay ơn đính hôn và thành hôn thần bí hiếm hoi. Mối liên hệ sống động với Thiên Chúa, với Thánh Mẫu, với các Thiên Thần, với Các Thánh, với các linh hồn trong Luyện Ngục, tức với tất cả thế giới siêu nhiên, trở nên thực hữu như thế giới chị thấy được bằng con mắt giác quan của chị. Mặc dù được trang bị bằng những ân huệ phi thường như thế, Nữ Tu Mary Faustina cũng thừa biết rằng chúng thực sự không làm nên sự thánh thiện. Trong Nhật Ký của mình, chị đã viết:

 

       Không phải là các thứ ân huệ, các thứ mạc khải, các thứ ngất ngây, các thứ tặng ân đổ xuống trên một linh hồn là những gì làm cho linh hồn này nên trọn lành, mà là sự hiệp nhất thân mật của linh hồn với Thiên Chúa. Những tặng ân này được gọi là những thứ trang sức của linh hồn, nhưng không làm nên yếu tính của linh hồn hay sự trọn lành của linh hồn. Sự thánh thiện và trọn lành của con là ở chỗ kết hiệp mật thiết ý muốn của con với ý muốn của Thiên Chúa” (Nhật Ký, 1107).

 

Chúa Giêsu đã chọn Nữ Tu Mary Faustina làm Tông Đồ và làm “Thư Ký” của Tình Thương Người, để chị có thể nói cho thế giới biết về đại sứ điệp của Người. Người nói với chị rằng:

 

       Trong Cựu Ước, Cha đã sai các tiên tri tuyên phán những lời sấm cho dân của Cha. Ngày nay Cha cũng đang sai con mang tình thương của Cha đến cho con người trên khắp thế gian này. Cha không muốn trừng phạt nhân loại đớn đau, song Cha muốn chữa lành nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha” (Nhật Ký, 1588).

 

Sứ vụ của Nữ Tu Mary Faustina đã được ghi lại trong cuốn Nhật Ký của chị là việc chị đã tuân giữ theo lời yêu cầu đặc biệt của Chúa Giêsu cũng như của các cha giải tội của chị. Nơi cuốn nhật ký này, chị đã trung thành ghi lại tất cả những gì Chúa Giêsu mong muốn và diễn tả những lần hội ngộ giữa linh hồn chị và Chúa Giêsu. Người đã nói với chị rằng:

 

       Hỡi Bí Thư cho mầu nhiệm hết sức sâu xa của Cha, con hãy biết rằng công việc của con là viết xuống hết mọi điều Cha tỏ cho con về tình thương của Cha, cho lợi ích của những ai nhờ đọc được những điều ấy sẽ được an ủi trong tâm hồn họ và được lòng can đảm tiến đến với Cha” (Nhật Ký 1693).

 

Tác phẩm của Nữ Tu Mary Faustina đã chiếu sáng một cách phi thường về mầu nhiệm của Chúa Tình Thương. Nó mang lại hân hoan chẳng những cho thành phần chất phác thất học, mà còn cho cả các học giả coi nó như là một nguồn mạch thêm thắt cho công việc nghiên cứu thần học luận lý. Cuốn Nhật Ký này đã được chuyển dịch sang nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau, trong đó có tiếng Anh, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Pháp, Bồ Đào Nha, Ả Rập, Nga, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc và Slovak.

 

Nữ Tu Mary Faustina, bị dày vò bởi chứng lao phổi cũng như bởi vô số khổ đau chị đã chấp nhận như một của lễ hy sinh tự nguyện cầu cho các tội nhân, đã qua đời tại Krakow lúc mới ở vào tuổi 33, hôm 5/10/1938, nổi tiếng về đời sống nội tâm sâu xa và kết hợp nhiệm mầu với Thiên Chúa.

 

Tiến Trình điều tra phong thánh cho chị được bắt đầu vào thời đoạn 1965-1967 ở Krakow, và Tiến Trình Phong Chân Phước cho chị được bắt đầu ở Rôma năm 1968 và chấm dứt vào năm 1992. Vào ngày 18/4/1993, ĐTC GPII đã phong chân phước cho chị, và chị đã trở thành vị Thánh đầu tiên cho thiên kỷ thứ ba khi được ĐTC Gioan Phaolô II tôn phong hôm 30/4 trong Đại Năm Thánh 2000.

 

https://www.vatican.va/news_services/liturgy/saints/ns_lit_doc_20000430_faustina_en.html

 

Đaminh Marai cao tấn tĩnh chuyển dịch và tự thêm thắt các chi tiết phụ thêm cho đầy đủ và rõ ràng hơn)

 

 

 

2- Thánh Faustina: Sứ Mệnh Thương Xót

 

St. Faustina Kowalska - Saints & Angels - Catholic Online

 

Sứ mạng của chị Faustina nhắm vào 3 mục tiêu chính yếu và 4 công việc cụ thể do Chúa muốn chị phải làm liên quan đến.

 

3 Mục Tiêu:

 

Mục tiêu thứ 1: Nhắc nhở thế giới về LTXC, bằng chính những gì Chúa Giêsu mạc khải cho chị về LTXC, những gì liên quan đến sự thật của đức tin chúng ta được mạc khải trong Thánh Kinh về tình yêu nhân hậu Thiên Chúa đối với hết mọi người.

Càng là đại tội nhân càng có quyền đối với tình thương của Cha (Nhật Ký 723)

Cha bị tổn thương đau đớn biết bao khi ang thiện hảo của Cha bị ngờ vực! Những tội bất tin tưởng đả thương Cha nhức nhối nhất”. (Nhật Ký 1076)

Những đại tội nhân thượng hạng hãy đặt niềm cậy tin nơi tình thương của Cha. Họ có quyền tin cậy vào tình thương thăm thẳm của Cha trước các linh hồn khác…Cha không thể trừng phạt dù họ có phạm tội nặng nhất, nếu họ kêu cầu đến ang xót thương của Cha, ngược lại, Cha công chính hoá họ trong tình thương vô tận khôn dò của Cha”. (Nhật Ký 1146)

"Nỗi khốn cùng của con không ngăn trở tình thương Cha. Nỗi khốn cùng của linh hồn càng lớn thì nó càng có quyền đối với tình thương của Cha" (Nhật Ký 1182)

“Ôi nếu tội nhân biết được tình thương của Cha thì họ đã không bị hư đi nhiều đến thế” (Nhật Ký 1396)

Việc hư đi của mỗi linh hồn dìm Cha vào nỗi buồn khổ chết đi được. Con luôn an ủi Cha khi con cầu cho các tội nhân. Lời nguyện cầu đẹp ang Cha nhất là lời cầu nguyện cho các tội nhân ăn năn hoán cải. Lời nguyện cầu này lúc nào cũng được lắng nghe và đáp ứng (Nhật Ký 1397)

"Nếu một linh hồn giống như một thi thể rữa nát, mà theo quan niệm loài người, không còn phục hồi được nữa, mọi sự hoàn toàn đã tiêu tan, thì đối với Thiên Chúa, lại không như vậy. Phép lạ của Tình Thương Thần Linh phục hồi trọn vẹn linh hồn đó. Ôi, bất hạnh biết bao những linh hồn không lợi dụng phép lạ của tình thương Thiên Chúa! Các người sẽ kêu gào vô vọng mà cũng đã quá muộn mất rồi" (Nhật Ký 1448)

"Giữa Cha và con có một vực thẳm vô đáy, một vực thẳm phân chia Tạo Hoá với tạo vật. Thế nhưng, vực thẳm này đã được tình thương của Cha lấp đầy" (Nhật Ký 1576)

Tình thương của Cha hoạt động trong tất cả mọi con tim mở cửa lòng mình ra. Cả tội nhân lẫn chính người đều cần đến tình thương của Cha”. (Nhật Ký 1577)

“Cha xót thương theo đuổi các tội nhân dọc suốt con đường họ đi, và Trái Tim Cha hoan hỉ khi họ trở về với Cha… Cha luôn luôn chờ đợi họ, chú ý lắng nghe tiếng đập của con tim họ…, xem khi nào nó sẽ đập nhịp sống cho Cha? Cha đang nói với họ qua nỗi ray rứt của lương tâm họ, qua những thất bại và khổ đau của họ, qua những ang tố bão bùng, qua tiếng nói của Giáo Hội (Nhật Ký 1728)

Cha chính là tình thương đối với linh hồn thống hối ăn năn” (Nhật Ký 1739)

Các đệ nhất đại tội nhân cũng đạt được tầm mức thánh thiện cao cả, chỉ cần họ tin tưởng vào tình thương của Cha”. (Nhật Ký 1784)

 

Mục tiêu thứ 2: Van nài tình thương Thiên Chúa cho toàn thế giới nhất là cho các tội nhân, bằng việc thực hành những thể thức mới tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa được Chúa Giêsu chỉ vẽ, như việc tôn kính tấm ảnh Lòng Thương Xót Chúa với hàng chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi Chúa, Lễ Chúa Tình Thương được cử hành vào Chúa Nhật Thứ Nhất sau Phục Sinh, lần chuỗi Chúa Tình Thương và cầu nguyện vào Giờ Tình Thương (3 giờ chiều). Chúa Giêsu đã hứa nhiều điều kèm theo những thể thức tôn sùng trên đây, miễn là người ta ký thác cuộc đời của mình cho Thiên Chúa và chủ động thực hành tình yêu thương tha nhân.

 

"Cha muốn con hoàn toàn biến thành tình yêu và nóng hổi như một tế vật tinh tuyền của tình yêu". (Nhật ký 726)

 

“Cha cần con phải trở nên một của lễ toàn thiêu trọn hảo; một của lễ hiến dâng ý muốn. Không có một hy tế nào có thể so sánh được với hy tế này". (Nhất ký 943)

 

“Con phải là phản ảnh sống động của Cha bằng yêu thương và nhân hậu” (Nhật ký 1446)

 

 

Mục tiêu thứ 3: khởi xướng phong trào Tông Đồ Chúa Tình Thương, bằng việc thực hiện việc loan báo và khẩn nài tình thương của Chúa cho thế giới cũng như bằng việc nỗ lực nên trọn lành Kitô giáo, theo những qui lệ được chị Nữ Tu này phác họa. Những qui lệ này đòi tín hữu phải tỏ ra thái độ tin tưởng vào Thiên Chúa như trẻ nhỏ, một thái độ được thể hiện nơi việc làm trọn ý muốn của Ngài, cũng như nơi thái độ xót thương đối với tha nhân của mình. Ngày nay, phong trào này đã có cả hằng triệu triệu người trên khắp thế giới; nó bao gồm cả các viện tu, các tổ chức giáo dân, các hiệp hội, các cộng đồng khác nhau làm Tông Đồ Chúa Tình Thương… 

 

Hỡi Tông Đồ của tình thương Cha, hãy loan báo cho toàn thế giới biết tình thương khôn thấu của Cha. Đừng thất đảm trước những khó khăn con gặp phải khi loan truyền tình thương của Cha. Những khó khăn làm con rất đớn đau này cần phải có để thánh hóa con và như là chứng cớ cho thấy đó là công việc của Cha". (Nhật Ký, 1142).

 

“Hỡi con gái của Cha, con hãy biết điều này: nếu con gắng nên hoàn thiện thì con sẽ thánh hoá được nhiều linh hồn; tương tự như thế, nếu con không chịu nỗ lực trong việc thánh hoá bản thân, nhiều linh hồn vẫn sẽ bất toàn. Nên biết rằng, sự hoàn thiện của họ lệ thuộc ở sự hoàn thiện của con, con sẽ phải gánh phần lớn trách nhiệm đối với những linh hồn này”. (Nhật Ký, 1165)


Ôi Chúa Giêsu, mỗi một vị thánh của Chúa đều phản ảnh một trong những nhân đức của Chúa; con muốn phản ảnh trái tim cảm thương trắc ẩn của Chúa, một trái tim đầy tình xót thương; con muốn tôn vinh trái tim Chúa. Ôi Chúa Giêsu, xin tình thương của Chúa ghi khắc vào lòng con cũng như vào linh hồn của con như một thứ niêm ấn, và đó là huy hiệu của con đời này và đời sau (Nhật Ký, 1242). 

 

4 Công Việc: 1- Ảnh Thương Xót, 2- Lễ Thương Xót, 3- Chuỗi Thương Xót và 4- Dòng Thuung Xót

 

1- Ảnh Thương Xót

 

Vào buổi tối (22-2-1931), lúc con ở trong phòng của con, con đã thấy Chúa Giêsu hiện ra trong chiếc áo trắng. Một bàn tay giơ lên như thể ban phép lành, còn bàn tay kia chạm vào áo ở trước ngực. Từ bên dưới chiếc áo, hơi xích sang một bên ngực, có hai luồng sáng lớn phát ra, một luồng mầu đỏ và một luồng mầu nhạt. Con lặng lẽ dán mắt nhìn Chúa; linh hồn con run sợ, nhưng cũng rất vui. Một lúc sau, Chúa Giêsu nói với con:

                       

       Hãy vẽ một bức ảnh theo mẫu thức mà con nhìn thấy, kèm theo giòng chữ: Giêsu ơi, con tin tưởng nơi Chúa. Cha mong ước bức ảnh này được tôn kính, trước hết, tại nguyện đường của con, sau đó, ở khắp nơi trên thế giới. (Nhật Ký số 47)

                        

       Cha hứa là, linh hồn nào tôn kính bức ảnh này sẽ không bị trầm hư. Cha cũng hứa cho linh hồn thắng được các kẻ thù ngay khi còn sống trên thế gian, nhất là trong giờ lâm tử. Chính Cha sẽ bảo vệ linh hồn như là vinh hiển của riêng Cha. (Nhật Ký số 48)

                   

       Cha muốn bức ảnh này phải được trưng bày nơi công cộng vào ngày Chúa Nhật thứ nhất sau Lễ Phục Sinh. Chúa Nhật này là Lễ Kính Tình Thương. Nhờ Ngôi Lời Nhập Thể, Cha tỏ vực sâu vô đáy của tình thương Cha ra. (Nhật Ký số 88)

 

Có một lần, vị giải tội của con bảo con hỏi Chúa Giêsu về ý nghĩa của hai tia sáng trong bức ảnh, con trả lời với ngài là: "Dạ vâng, con sẽ hỏi Chúa". Đang khi cầu nguyện, con đã nghe thấy trong con những lời này:

                       

       Hai tia sáng biểu hiệu cho Máu và Nước. Tia sáng nhạt là biểu hiệu của Nước, để làm cho các linh hồn nên công chính. Tia sáng đỏ là biểu hiệu của Máu, để ban sự sống cho các linh hồn...

                       

Hai tia sáng này phát xuất từ những thẳm sâu nhất của tình thương êm ái Cha, lúc mà Trái Tim đau thương của Cha bị lưỡi đòng chọc mở ra trên cây Thánh Giá.

                       

Những tia sáng này bao che các linh hồn cho khỏi cơn thịnh nộ của Cha Cha. Phúc cho kẻ nào được ẩn náu trong những tia sáng này, vì bàn tay công thẳng của Thiên Chúa sẽ không giáng xuống trên họ. Cha mong ước ngày Chúa Nhật thứ nhất sau Lễ Phục Sinh là ngày Lễ Kính Tình Thương. (Nhật Ký số 299)

 

2- Lễ Thương Xót 

 

Cha mong có một Lễ Kính Lòng Thương Xót. Cha muốn bức ảnh mà con vẽ bằng cọ này phải được long trọng làm phép vào ngày Chúa Nhật Thứ Nhất sau Lễ Phục Sinh; Ngày Chúa Nhật này phải là ngày Lẽ Kính Tình Thương. Cha ước mong các vị linh mục loan truyền tình thương vĩ đại này của Cha cho các linh hồn những tội nhân. Để tội nhân đừng sợ tiến đến với Cha. Những ngọn lửa tình thương đang nung nấu Cha - bừng bừng muốn toé ra' Cha muốn tuôn đổ những ngọn lửa tình thương này xuống trên các linh hồn ấy. (Nhật Ký số 49)

 

Bài sai và nhiệm vụ của con ở trên trái đất này đó là van xin tình thương cho toàn thế giới. Không một linh hồn nào sẽ được công chính hóa cho tới khi tin tưởng quay về với tình thương của Cha,

       và đó là lý do tại sao Chúa Nhật thứ nhất sau Phục Sinh là Lễ Chúa Tình Thương. (Nhật Ký số 570) 

 

Hỡi con gái của Cha, hãy nói cho toàn thể thế giới biết về tình thương khôn thấu của Cha. Cha mong ước Lễ Kính Tình Thương là một nơi cư trú và náu ẩn cho tất cả các linh hồn, đặc biệt cho các tội nhân khốn nạn. Vào ngày đó, tận đáy vực thăm thẳm của tình thương nhân ái Cha được mở ra. Cha trào đổ cả một đại dương ân sủng trên các linh hồn đến với mạch nguồn tình thương Cha. Linh hồn đi Xưng Tội và Hiệp Lễ sẽ được hoàn toàn thứ tha các tội lỗi và hình phạt. Vào ngày đó, tất cả những bờ đê mà ân sủng tràn qua sẽ vỡ bờ. Đừng có một linh hồn nào lại sợ đến gần Cha, cho dù các tội lỗi của linh hồn có đỏ ngầu. Tình thương của Cha rất vĩ đại, đến nỗi, không có một trí khôn nào, dù của loài người hay của thiên thần, có thể dò thấu được cho đến đời đời kiếp kiếp. Mọi sự hiện hữu đều phát xuất từ những tầng sâu thẳm của tình thương dấu ái nhất của Cha. Mọi linh hồn gắn bó với Cha sẽ chiêm ngắm tình yêu và tình thương của Cha đến muôn đời. Lễ Kính Tình Thương phát hiện từ tận đáy lòng từ ái của Cha. Ước muốn của Cha là lễ này phải được cử hành long trọng vào ngày Chúa Nhật thứ nhất sau lễ Phục Sinh. Nhân loại sẽ không có hoà bình cho đến khi họ quay về với Mạch Nguồn của Tình Thương Cha. (Nhật Ký số 699) 

 

3- Chuỗi Thương Xót

 

“Mỗi lần con vào nhà nguyện, hãy tức khắc nhẩm lời nguyện mà Cha đã dậy con hôm qua.

 

Khi con đọc lời nguyện này xong thì con nghe thấy trong linh hồn con những lời sau đây:

 

“Lời nguyện này sẽ có tác dụng làm nguôi cơn giận của Cha. Con sẽ đọc nó chín ngày, bằng những hạt của chuỗi kinh mân côi, theo cách thức sau đây:

 

“Trước hết, đọc 1 Kinh Lạy Cha, 1 Kinh Kính Mừng và 1 Kinh Tin Kính.

 

“Rồi ở hạt của Kinh Lạy Cha, con hãy đọc những lời sau đây:

           

Lạy Cha Hằng Hữu,

            con dâng lên Cha Mình và Máu,

            Linh Hồn và Thiên Tính của Con chí ái Cha,

            là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con,

            để đền bù tội lỗi chúng con và toàn thế giới.

 

Ở những hạt của Kinh Kính Mừng, con hãy đọc những lời sau đây:

           

Vì cuộc Khổ Nạn đau thương của Người,

            xin Cha thương xót chúng con và toàn thế giới.

 

     “Để kết thúc, con hãy đọc ba lần những lời này:

           

Lạy Thiên Chúa Thánh,

            Đấng Quyền Năng Thánh,

            Đấng Bất Tử Thánh,

            xin thương xót chúng con và toàn thế giới”.

 

  (Nhật Ký 476)

 

"Con đừng ngừng đọc chuỗi kinh mà Cha đã dậy con. Ai lần chuỗi kinh này sẽ nhận được tình thương vĩ đại trong giờ lâm tử. Các vị linh mục hãy khuyên tội nhân đọc chục kinh này như niềm hy vọng cứu rỗi cuối cùng cho họ. Dù tội nhân có cứng lòng đến đâu đi nữa mà đọc chục kinh này, chỉ cần một lần duy nhất thôi, linh hồn ấy sẽ nhận được ơn bởi tình thương vô cùng của Cha. Cha ước mong cả thế giới biết đến tình thương vô cùng của Cha. Cha ước mong ban các ơn ngoài sức tưởng tượng cho những linh hồn tin cậy vào tình thương của Cha". (Nhật Ký số 687)

 

Đang khi con lần chuỗi kinh con đã nghe thấy có tiếng phán:

                       

Ôi, Cha sẽ ban các ơn cao trọng biết bao cho những linh hồn lần chuỗi kinh này; tận đáy tình thương nhân ái của Cha sẽ được khuấy động lên vì những linh hồn lần chuỗi kinh này. Hãy viết ra những lời này, hỡi con gái của Cha. Hãy nói với thế giới về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhận biết tình thương vô hạn của Cha. Đó là dấu hiệu cho  thời gian cuối cùng; sau đó sẽ là ngày công thẳng. Trong lúc còn thời gian, họ hãy chạy đến với mạch nguồn của tình thương Cha; họ hãy sinh lợi từ Máu và Nước chảy ra cho họ. (Nhật Ký số 848)

 

Tuy Chúa Giêsu không xác định rõ giờ giấc để đọc Chuỗi Thương Xót, nhưng Người cũng nhấn mạnh đến 3 giờ chiều, một thời điểm LTXC tỏ mình ra hết nơi Cuộc Tử Giá của Người, một thời điểm LTXC tuôn trào xuống trên toàn thể nhân loại tội lỗi, nơi máu và nước chảy ra, qua cạnh sườn và từ Thánh Tâm bị lưỡi đòng đâm thâu của Người, bởi thế, đó cũng là thời điểm rất thích hợp để lần Chuỗi Kinh Thương Xót vậy, theo thói quen của rất nhiều nhóm LTXC trên thế giới, cách riêng là Việt Nam.

 

Vào lúc 3 giờ chiều, hãy thiết tha van xin tình thương của Cha, đặc biệt là cho các tội nhân; con chỉ cần một chốc lát chìm ngập trong cuộc Khổ Nạn của Cha, nhất là  trong cảnh bị bỏ rơi của Cha vào lúc thương khó. Đây là giờ của tình thương vĩ đại cho cả thế gian. Cha sẽ cho con nhập cuộc sầu đau đến chết được của Cha. Trong giờ này, linh hồn nào vì cuộc Khổ Nạn của Cha mà cầu xin cùng Cha, Cha sẽ không từ chối họ một điều gì...” (Nhật Ký số 1320)   

 

4- Dòng Thương Xót

 

Ngày 30-6-1935. Lúc bắt đầu Thánh Lễ vào buổi sáng hôm sau, con thấy Chúa Giêsu trong tất cả vẻ đẹp vô tả của Người. Người nói cùng con là Người ước mong rằng:

 

"Một Hội Dòng như vậy, (một hội dòng loan truyền tình thương của Thiên Chúa cho thế giới, và bằng những lời cầu nguyện để chiếm lấy tình thương cho thế giới - số 436), phải được thành lập sớm bao nhiêu có thể, và con sẽ sống ở đó với các đồng chí của con. Thần Linh của Cha sẽ là lề luật cho đời sống của con. Cuộc sống của con được khuôn đúc theo cuộc sống của Cha, từ nôi sinh cho đến cuộc tử nạn trên Thánh Giá. Hãy thấm nhuần các mầu nhiệm của Cha, và con sẽ biết được vực thẳm của tình thương Cha đới với các tạo vật cũng như lòng từ ái vô tận của Cha, để con tỏ ra cho thế giới biết. Bằng những lời cầu nguyện của con, con sẽ là trung gian giữa trời và đất". (Nhật Ký số 438).  

 

Theo các chi tiết được thuật lại trong cuốn Nhật Ký của chị thánh, thì hội dòng như Chúa ước mong này, nhờ cố gắng của linh mục giải tội cho chị là cha Sopocko, đã được hình thành vào năm 1941, và ngày 2-8-1955, dòng đã được bản quyền địa phương công nhận là Dòng Chúa Giêsu Kitô Chí Thánh, Đấng Cứu Chuộc Xót Thương. Thế nhưng, nữ sứ giả của Tình Thương của Chúa đã qua đời từ ngày 5-10-1938. Như vậy là chị cũng vẫn hoàn thành sứ vụ thứ 4 của chị qua cha linh hướng của chị.

 

 

3- Thánh Faustina: Sống Đời Thương Xót

 

 

Vì được chọn làm Sứ Giả Thương Xót, và với Sứ Mệnh Thương Xót, nên chính bản thân của Nữ Tu Faustina đã phải Sống Đời Thương Xót, như chính chị thuật lại trong Nhật Ký của chị dưới đây, bao gồm 3 yếu tố thương xót chính yếu sau đây: 1- đêm tối tăm thanh tẩy tâm hồn của chị, 2- bệnh hoạn vừa đớn đau phần xác lại vừa phải chịu đựng bỏ rơi oan ức của chị, và 3- khổ đau phải chịu vì phâầ rỗi của các linh hồn đáng thương.

Đêm tối Thương Xót

Vào cuối năm đầu tập sinh của con, tối tăm phủ kín tâm hồn con. Con chẳng còn cảm thấy an ủi gì nơi việc cầu nguyện nữa; con đã phải cố gắng lắm để thực hiện việc suy ngắm; cơn sợ hãi bắt đầu xâm chiếm con. Vào sâu con người mình con chẳng thấy gì khác ngoài tình trạng hết sức tồi bại. Con vẫn còn có thể thấy được rõ ang sự thánh thiện cao cả của Thiên Chúa. Con không dám ngước mắt lên nhìn Ngài, ngoài việc biến mình thành cát bụi dưới chân Ngài và van xin Ngài xót thương. Linh hồn con ở trong tình trạng như thế gần 6 tháng trời.…

Con không hiểu được những điều con đọc; con đã không thể nào suy ngắm nổi; con cảm thấy rằng lời cầu nguyện của con không làm Chúa hài ang. Con cảm thấy rằng việc con lên Rước Lễ là những gì làm con thậm chí càng xúc phạm đến Chúa hơn…

Con không hiểu được bất cứ điều gì vị giải tội nói với con. Những chân lý đơn giản của đức tin trở thành bất khả thấu triệt đối với con. Linh hồn con quằn quại, không thể tìm thấy ủi an dễ chịu ở bất cứ nơi nào… Có lúc con cảm thấy rất mãnh liệt là con đã bị Thiên Chúa loại trừ. Tư tưởng kinh hoàng này đã rạch nát hồn con; linh hồn con cảm thấy quằn quại của một cuộc tử nạn giữa cơn đau khổ ấy. Con muốn chết đi nhưng không được. Con đã nghĩ rằng cố gắng thực hành nhân đức nào có ích chi; tại sao lại phải hãm mình phạt xác khi tất cả những điều này không làm hài ang Thiên Chúa chứ?...

Tư tưởng kinh sợ bị Thiên Chúa loại trừ thực sự là những gì hành hạ thành phần bị hư đi. Con chạy đến cùng các Thương Tích của Chúa Giêsu và lập lại những lời than thở tin tưởng cậy trông, nhưng những lời ấy lại làm con càng cảm thấy nhức nhối hơn. Con đến trước Thánh Thể và bắt đầu nói chuyện với Chúa Giêsu… Con vẫn chẳng tìm được một chút nhẹ nhõm nào hết…” (Nhật Ký 23)

Một hôm, vừa tỉnh giấc, con đặt mình ở trước nhan Chúa, đột nhiên con cảm thấy ngập đầy những tuyệt vọng. Linh hồn con hoàn toàn tăm tối. Con đã chiến đấu hết sức mình cho tới trưa. Chiều đến, con thực sự cảm thấy sợ hãi một cách khủng khiếp; rã rời cả xác ang. Con đi nhanh về phòng, quì phục xuống trước Tượng Chuộc Tội và bắt đầu than van xin được xót thương. Con cảm thấy xác ang hết hơi cùng sức. Con lăn đùng xuống đất, tâm hồn chới với tuyệt vọng. Con đã chịu đựng những cuộc dằn vặt kinh hoàng này chẳng khác gì cuộc dằn vặt trong hỏa ngục. Con trải qua tình trạng này hết 45 phút đồng hồ. Con muốn đi gặp Mẹ Giáo Tập nhưng lại quá đuối nhược. Con muốn la lên nhưng chẳng còn hơi. May thay có một tập sinh khác vào phòng con. Thấy con bị như thế liền nói với Mẹ Giám Tập. Mẹ đến ngay tức thì. Vừa khi bước vào phòng tôi, mẹ nói rằng: ‘nhân danh đức vâng lời con hãy đứng lên’. Lập tức có một lực gì đó làm con nâng con dậy và con đứng thẳng lên…

Con trở lại với các nhiệm vụ của con như thể con vừa mới ra khỏi ngôi mộ, các giác quan của con được thấm đẫm những gì linh hồn con cảm thấy. Vào giờ phụng vụ ban tối, linh hồn con lại cảm thấy quằn quại trong một cơn tối tăm khủng khiếp. Con cảm thấy rằng con ở trong quyền lực của một Vị Thiên Chúa Công Minh Chính Trực, và con là đối tượng căm phẫn của Ngài…” (Nhật Ký – 24)

Đêm hôm ấy, Mẹ Thiên Chúa đến thăm con, ẵm Hài Nhi Giêsu trong tay Mẹ. Linh hồn con tràn ngập niềm vui, nên con thưa với Mẹ rằng: ‘Mẹ Maria ơi, Mẹ có biết con khổ đau khốn khó kinh hoàng là chứng nào hay chăng?’ Mẹ Thiên Chúa đã trả lời tôi rằng: ‘Mẹ biết con chịu khổ biết là chừng nào, nhưng đừng sợ con nhé. Mẹ chia sẻ với những nỗi khổ đau của con, và Mẹ sẽ luôn làm như thế’. Lập tức linh hồn con lại cảm thấy mạnh mẽ và đầy can đảm; thế nhưng chỉ kéo dài được có một ngày. Dường như hỏa ngục âm mưu tấn công con. Một nỗi thù ghét khủng khiếp bắt đầu bừng lên trong tâm hồn của con, một nỗi thù ghét đối với tất cả những gì là thánh hảo và thần linh. Đối với con cơn dằn vặt thiêng liêng này như số phận kéo dài suốt cả cuộc đời của con. Con đến với Thánh Thể mà nói cùng Chúa Giêsu rằng…” (Nhật Ký – 25)

Thời kỳ tập sinh chấm dứt. Nỗi khổ đau vẫn không giảm thiểu. Tình trạng suy yếu về ang xác đã châm chước cho con khỏi tất cả mọi cuộc tĩnh tâm chung; tức là được thay thế bằng những kinh nguyện bừng lên ngắn tắt. Thứ Sáu Tuần Thánh (16/4/1928) – Chúa Giêsu vồ lấy trái tim con cho vào chính ngọn lửa của tình yêu Người. Điều này xẩy ra vào giờ chầu ban tối. Đột nhiên con được Sự Hiện Diện Thần Linh xâm chiếm làm con quên đi tất cả mọi sự. Chúa Giêsu đã làm cho con hiểu được Người đã phải chịu khổ đau là chừng nào vì con. Tình trạng này kéo dài một thời gian rất ngắn ngủi. Một ước vọng thiết tha – một ước vọng mến yêu Thiên Chúa” (Nhật Ký – 26).

Khấn tạm lần đầu (30/4/1928). Một ước vọng nồng nàn muốn hoàn toàn hủy mình đi cho Chúa bằng một tình yêu chủ động, thế nhưng lại là một tình yêu không thể nào nhận thấy được, cho dù là những chị em gần gũi với con nhất. Tuy nhiên, ngay cả sau khi khấn dòng, tình trạng tối tăm vẫn tiếp tục làm chủ linh hồn con đến gần nửa năm trời. Một lần kia, khi con đang cầu nguyện thì Chúa Giêsu xâm chiếm tất cả hồn con, tăm tối liền tan biến, và con đã nghe thấy trong con những lời này: ‘Con là niềm vui của Cha; con là nỗi hoan lạc của Trái Tim Cha’. Từ bấy giờ con cảm thấy Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh trong tâm hồn; tức là trong chính bản thân con. Con cảm thấy rằng con được tràn ngập ánh ang Thần Linh. Từ đó, linh hồn con được ang mật hiệp ang với Thiên Chúa, như một con trẻ với Người Cha yêu dấu của mình(Nhật Ký – 27).

Bệnh nạn Thương Xót

Ngày 10/3/1938. Tiếp tục cơn khổ đau về phần xác. Con đang ở trên thập giá với Chúa Giêsụ Có lần Mẹ Bề Trên nói với con rằng “này sơ, sơ không tỏ ra bác ái với tha nhân, ở chỗ sơ ăn uống làm sao đó để bị đớn đau và làm phiền đến những người khác trong giờ nghỉ đêm của họ”.  Phải, con chắc một điều là những cơn đau này xẩy ra trong ruột của con không hề do bởi đồ ăn thức uống gì hết. Bác sĩ cũng nói như thế. Những đau đớn này xuất phát từ chính cơ thể, đúng hơn là do Chúa viếng thăm. Tuy nhiên, sau lời nhận định ấy, con quyết chịu đượng âm thầm lặng lẽ, không xin giúp đỡ nữa, vì dù sao cũng chẳng được giúp đỡ gì hết, từ khi con nôn mửa thuốc men đưa cho con uống. Có một lần con đã cố gắng chịu đựng nổi các cuộc tấn công chỉ có Chúa Giêsu biết. Những đớn đau quá dữ dội và trầm trọng đến nỗi làm cho con ngất đị Khi chúng làm cho con lả người đi, và con đầm đìa mồ hôi lạnh thì bấy giờ những cơn đau đớn ấy bắt đầu từ từ hạ xuống. Đôi khi chúng kéo dài tới 3 tiếng đồng hồ hay hơn. Ôi Giêsu ơi, xin cho thánh ý Chúa được nên trọn; con xin chấp nhận hết mọi sự từ tay Chúạ Nếu con chấp nhận những hoan lạc và ngất ngất yêu thương cho đến độ không còn biết gì chung quanh mình nữa thì con cũng cần cũng phải  ưu ái chấp nhận những khổ đau làm cho con ngất lả này nữạ (Nhật Ký – 1633)

Ngày ¼/1938. Một lần nữa hôm nay con cảm thấy tệ. Con bắt đầu lên cơn sốt lả người, và con không thể nào ăn uống gì được. Con muốn có một chút gì bồi bổ để uống, nhưng chẳng có lấy một chút nước nào trong bình. Ôi Giêsu, tất cả những điều này là để xin cho các linh hồn được xót thương… Trong thời gian này, mặc dù con có tỏ những nhu cầu của con ra, con vẫn không bao giờ nhận được bất cứ cái gì bồi bổ để ăn cho dù con có ngỏ ý xin. Con không viết ang chi tiết về những chối từ này, vì đó là các vấn đề tế nhị, khó ang mà tin nổị Thế nhưng Thiên Chúa thậm chí lại muốn những hy sinh như thế.  (Nhật Ký – 1647)

Con sắp xin Mẹ Bề Trên một cái gì đó để ở trong phòng của con để giúp giảm cơn khát ran cổ của con, nhưng trước khi con mở miệng xin thì chính Mẹ đã lên tiếng nói rằng, Này sơ, chúng ta hãy chấm dứt cơn bệnh này dứt khoát cho xong đi, bằng cách này hay cách khác. Sơ sẽ không cần phải trải qua việc chữa trị thường xuyên gì nữạ Vấn đề không thể cứ như thế này lâu hơn nữa». Ít lâu sau, khi ở một mình với Chúa, con thưa cùng Người rằng: «Chúa Kitô ơi con phải làm sao đây? Con cần phải xin Chúa cho con được khỏe mạnh hay chết đi đây? Không nhận được lệnh gì rõ ang, con quì xuống thưa cùng Người rằng: «Xin cho ý Chúa được nên trọn nơi con. Giêsu ơi xin hãy thực hiện nơi con những gì Chúa muốn». Lúc bấy giờ con cảm thấy con hoàn toàn đơn độc, và những cơn cám dỗ khác nhau tấn công con. Thế nhưng con đã tìm thấy bình an và ánh ang trong lời nguyện cầu tha thiết nhất, và con đã hiểu được rằng vị bề trên này chỉ muốn thử con thôi. (Nhật Ký 1648)  

Con không biết làm thế nào điều ấy lại xẩy ra, thế nhưng phòng con đang nằm thật sự là bị bỏ bê. Có những lúc nó chẳng được lau chùi sạch sẽ hơn hai tuần lễ. Thường cũng chẳng có ai đốy lửa lên trong lò sưởi, nên chứng ho của con càng trở nên tệ hơn. Đôi khi con xin đốt lửa lên, có những lúc con không đủ can đảm để xin nữạ Có lần Mẹ Bề Trên đến thăm con, hỏi con có lẽ cần phải sưởi ấm căn phòng lên, con đã thưa Thôi, vì bên ngoài trời đã ấm hơn, và chúng con mở cửa sổ ra (Nhật Ký – 1649)

Khổ giá Thương Xót

Ngày 16/9/1937. Con rất mun làm gi Thánh trước Thánh Th hôm nay. Nhưng Chúa li không mun như thế. Vào lúc 8 gi con cm thy qun qui vi nhng cơn đau đớn d di đến độ con phi lên giường ngay tc khc. Con b git kinh phong đớn đau 3 tiếng đồng h; tc là cho đến 11 gi đêm. Không có mt th thuc nào giúp được con hết, và con nut bt c gì vào con đều ma ra. Có nhng lúc nhng đớn đau khiến con không còn biết gì na. Chúa Giêsu cho con nhn thc được rng nh thế ccon đã được tham d vào cuc kh i ca Người trong vườn Cây Du, và chính Người đã cho phép nhng kh đau này xy ra để đền t Thiên Chúa v nhng con người b sát hi trong bng d ca nhng người m ti li. Con đã tri qua nhng kh đau này cho đến nay là ln th ba. Chúng bao gi cũng bt đầu xy ra vào lúc 8 gi ti và kéo dài cho tới 11 gi đêm. Không có mt th thuc nào có th làm gim bt nhng kh đau y. Đến 11 gi thì chúng t nhiên hết, và by gi con thiếp ng đi. Ngày hôm sau con cm thy rt yếu… Khi con nghĩ rng con có th chu như thế na thì con cm thy ang mình kinh sợ. Thế nhưng con không biết rng con s chu như thế na hay chăng; con để mc điu y cho Chúa. Nhng gì Chúa mun gi ti con s chp nhn cách ngoan ngoãn và mến yêu. Min là con có th cu được dù ch mt con người khi b sát hi nh nhng khổ đau này! (Nhật Ký – 1276)

Ngày 20/2/1938. Hôm nay Chúa nói với con rằng: “Cha cần đến những đau khổ của con để cứu các linh hồn”. Ôi Giêsu ơi, xin hãy thực hiện những gì Chúa muốn nơi con. Con không có can đảm để xin Chúa Giêsu cho được chịu nhiều đau khổ hơn nữa, vì đêm hôm trước con đã chịu khổ quá nhiều đến nỗi con không thể chịu ang được một giọt nữa những gì Chúa Chúa Giêsu đã trao cho con.  (Nhật Ký – 1612)

Hầu như cả đêm con đã bị đớn đau dữ dội đến độ con cảm thấy tất cả ruột gan của con nát bấỵ Con mửa ra thuốc uống vàọ Khi con cúi đầu xuống đất con không còn biết gì nữa, và con cứ ở tư thế đó một hồi, đầu nằm trên đất. Khi tỉnh lại, con thấy toàn ang con đè lên đầu và lên mặt con, và mặt mũi đầy những gì đã mửa rạ Con đã nghĩ đến giờ phút cuối đời của con… Chúa Giêsu muốn khổ đau chứ không phải là cái chết. Ôi Giêsu ơi, hãy làm những gì Chúa muốn nơi con. Ôi các linh hồn, tôi thương mến các hồn biết bao! (Nhật Ký – 1613)

Hôm nay, có một người giáo dân đến thăm, người đã gây cho con nhiều khổ đau và đã lạm dụng lòng tốt của con, miệng lưới đầy những dối trá điêu ngoạ Khi vừa thấy cô ta, tim con như ngừng đập, vì hiện lên trước mắt con tất cả những gì con đã phải chịu đựng bởi cô ta, mặc dù con chỉ cần thốt lên một lời cho thỏa giận. Và con có ý nghĩ là sẽ nói mạnh miệng và lập tức nói ang ta biết sự thật. Thế nhưng, đồng thời được tình thương của Thiên Chúa tác động, con đã quyết định đối xứ với cô ta như Chúa Giêsu hành động trong tư thế của con. Con đã bắt đầu nói nhỏ nhẹ cới cô ấy, và khi cô ta bày tỏ ý muốn nói chuyện riêng với con, lúc bấy giờ, một cách hết sức tế nhị, con đã ang ta biết rõ ang tình trạng đáng buồn trong tâm hồn của cô ta. Con thấy cô ta tỏ ra hết sức cảm động, mặc dù cô ta cố dấu không lộ ra cho con biết. Bấy giờ có một người bước vào, làm câu chuyện tâm tình của chúng con chấm dứt. Cô xin con một ly nước lạnh cùng với hai điều khác mà con đã đồng ý làm. Tuy nhiên, nếu không phải nhờ ơn Chúa thì con không thể nào tác hành như thế đối với cô ta. Khi họ đi khỏi con tạ ơn Chúa về ơn Ngài giúp đỡ con lúc bấy giờ. (Nhật Ký  1694).

Tóm lại, Bài Giảng Lễ Phong Hiển Thánh cho Chân Phước Maria Faustina 30/4/2000, ĐTC Gioan Phaolô II đã nhận định về chị bằng chính lời của chị như sau: "Nữ Tu Faustina Kowalska đã viết trong Nhật Ký của chị như sau: “Tôi cảm thấy đớn đau kinh khủng khi tôi thấy những đớn đau của anh chị em tôi. Tất cả mọi khổ đau của anh chị em tôi đều dội lại nơi trái tim của tôi; tôi ôm ấp nỗi sầu thương của họ trong trái tim tôi đến độ thậm chí nó hủy hoại tôi về thể lý. Tôi muốn tất cả mọi nỗi sầu thương của họ đều đổ xuống trên tôi, để nhẹ gánh cho anh chị em của tôi” (Nhật Ký, trang 365). Đó là mức độ cảm thương được tình yêu dẫn tới, khi lấy tình yêu Thiên Chúa làm mức đo lường của nó”.

 

 

4- Thánh Faustina: Kinh Nguyện Thương Xót

 

 

(để tránh dài dòng thêm ở đây, xin theo dõi ở cái link sau đây:

Tuần Ba Ngày Dọn Mừng Lễ Thánh Faustina Quan Thày TĐCTT)

 

 

 

5- Thánh Faustina: Vị Thánh Thương Xót

 

ĐTC GPII – Bài Giảng Lễ Phong Hiển Thánh cho Chân Phước Maria Faustina 30/4/2000

 

1.         "Confitemini Domino quoniam bonus, quoniam in saeculum misericordia eius"; “Hãy cảm tạ Chúa vì Người thiện hảo; tình yêu của Ngài muôn đời bền vững” (Ps 118:1).  Giáo Hội hát lên như thế trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh, như thể Giáo Hội lãnh nhận trực tiếp từ môi miệng của Chúa Kitô những lời của bài Thánh Vịnh này; từ môi miệng của Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng mang một sứ điệp cả thể của lòng thương xót Chúa và ký thác thừa tác vụ của sứ điệp này cho các Tông Đồ ở trên Căn Thượng Lầu: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thày thế nào Thày cũng sai các con như vậy… Các con hãy nhận lấy Thánh Linh. Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được thứ tha; còn các con cầm tội ai thì tội lỗi của họ vẫn bị ràng buộc” (Jn 20:21-23).

 

Trước khi nói những lời này, Chúa Giêsu đã tỏ đôi bàn tay của Người và cạnh sườn của Người ra. Tức là Người cho thấy những thương tích từ Cuộc Khổ Nạn, nhất là vết thương nơi trái tim của Người, nguồn mạch tuôn tràn triều sóng tình thương cao cả cho nhân loại. Từ trái tim ấy, Nữ Tu Faustina Kowalska, vị chân phước giờ đây chúng ta sẽ gọi là thánh, thấy được hai tia sáng chiếu tỏa và sáng soi thế giới: Chính Chúa Giêsu đã giải thích cho chị biết vào một lần kia rằng: “Hai tia sáng này tiêu biểu cho máu và nước” (Diary, Libreria Editrice Vaticana, p. 132).

 

2.         Máu và nước! Chúng ta liền nghĩ ngay tới chứng từ được nhắc đến trong Phúc Âm Thánh Gioan, vị mà, khi người lính trên đồi Canvê lấy giáo đâm vào cạnh sườn của Người, thấy máu và nước chảy ra từ đó (cf. Jn 19:34). Ngoài ra, nếu máu nhắc nhở đến hy tế Thập Giá và tặng ân Thánh Thể, thì nước, theo tính chất biểu hiệu của Phúc Âm Thánh Gioan, tiêu biểu chẳng những cho Phép Rửa mà còn cho tặng ân Thánh Linh nữa (cf. Jn 3: 5; 4: 14; 7: 37-39).

 

Lòng Thương Xót Chúa vươn tới con người qua trái tim của Chúa Kitô tử giá: Hỡi con gái của Cha, con hãy nói đi Cha là tình yêu và là tình thương hiện thân, Chúa Giêsu đã xin Nữ Tu Faustina như thế (Diary, p. 374). Chúa Kitô tuôn đổ tình thương này trên nhân loại qua việc sai Thần Linh là Ngôi Vị Tình Yêu trong Ba Ngôi. Tình thương không phải là “tên gọi thứ hai” của tình yêu hay sao (cf. Dives in misericordia, n. 7), nếu hiểu theo khía cạnh sâu xa nhất của nó và tính chất dịu dàng nhất của nó, theo khả năng có thể chấp nhận gánh nặng của bất cứ nhu cầu nào, nhất là theo khả năng bao la thứ tha của nó?

 

Hôm nay, niềm hân hoan của tôi thực sự là lớn lao khi trình bày về đời sống và chứng từ của Nữ Tu Faustina Kowalska cho toàn thể Giáo Hội như là một tặng ân của Thiên Chúa ban cho thời đại của chúng taTheo sự Quan Phòng thần linh, đời sống của người con gái khiêm hạ này của Balan hoàn toàn gắn liền với lịch sử của thế kỷ thứ 20, một thế kỷ chúng ta vừa trải qua. Thật vậy, chính vào khoảng giữa hai Thế Chiến 1 và 2 mà Chúa Kitô đã ký thác sứ điệp tình thương của Người cho chị. Những ai con nhớ, những ai chứng kiến thấy và những ai tham dự vào các biến cố của những năm này cùng với những khổ đau khiếp đảm chúng gây ra cho hằng triệu triệu con người mới thấy rõ là sứ điệp tình thương này cần thiết biết bao.

 

Chúa Giêsu đã nói với Nữ Tu Faustina rằng: “Nhân loại sẽ không tìm thấy hòa bình cho đến khi nó tin tưởng quay về với lòng thương xót thần linh” (Nhật Ký, trang 132).  Nhờ việc làm của người tu sĩ Balan này, sứ điệp ấy đã trở thành những gì liên hệ vĩnh viễn tới thế kỷ 20, một thế kỷ cuối cùng của ngàn năm thứ hai và là chiếc cầu sang ngàn năm thứ ba. Đây không phải là một sứ điệp mới mẻ nhưng có thể được coi như một tặng ân được đặc biệt soi động để giúp chúng ta sống lại Phúc Âm Phục Sinh một cách thiết tha hơn nữa, để cống hiến nó như là một tia sáng cho con người nam nữ của thời đại chúng ta.

 

3.         Những năm tháng trước mắt sẽ mang lại cho chúng ta những gì? Tương lai của con người trên trái đất này sẽ như thế nào? Chúng ta không biết được. Tuy nhiên, một điều chắc chắn đó là, cùng với tiến bộ mới, bất hạnh thay, sẽ không thiếu những cảm nghiệm thương đau. Thế nhưng, ánh sáng của lòng thương xót thần linh, một tình thương mà Chúa muốn trở lại một cách nào đó với thế giới qua đặc sủng của Nữ Tu Faustina, sẽ soi chiếu đường đi nước bước cho con người nam nữ của ngàn năm thứ ba.

 

Tuy nhiên, như các vị Tông Đồ đã thực hiện, ngày nay, cả nhân loại nữa cũng phải đón nhận vào căn thượng lầu của lịch sử Chúa Kitô phục sinh, Đấng tỏ cho thấy những vết thương Thập Giá của Người và lập lại rằng:  Bình an cho các con! Nhân loại cần phải làm sao được Vị Thần Linh xuất phát từ Chúa Kitô phục sinh va chạm và thấm nhiễm. Chính vị Thần Linh này là Đấng chữa lành các thương tích của tâm can, dẹp bỏ những thứ chướng ngại làm chúng ta ngăn cách với Thiên Chúa và chia rẽ chúng ta với nhau, đồng thời, phục hồi cho chúng ta niềm vui của tình yêu Chúa Cha và mối hiệp nhất huynh đệ.

 

4.         Bởi vậy chúng ta cần phải chấp nhận toàn thể sứ điệp được gửi tới chúng ta từ lời Chúa trong Ngày Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh này, một ngày từ nay trở đi trong khắp Giáo Hội sẽ được gọi là “Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa. Trong các bài đọc khác nhau, phụng vụ dường như cho thấy đường lối của tình thương, một đường lối mà trong khi tái thiết lập mối liên hệ của mỗi một người với Thiên Chúa cũng kiến tạo những liên hệ mới mẻ của tình đoàn kết huynh đệ giữa nhân loại nữa. Chúa Kitô đã dạy chúng ta rằng “con người không chỉ lãnh nhận và cảm nghiệm tình thương của Thiên Chúa, mà còn được kêu gọi ‘để thực hành tình thương’ với người khác nữa: ‘Phúc cho ai biết xót thương, vì họ sẽ được thương xót’ (Mt 5:7)” (Thông Điệp Giầu Lòng Xót Thương – Dives in misericordia, 14). Người cũng tỏ cho chúng ta biết nhiều đường lối của tình thương, những đường lối chẳng những tha thứ tội lỗi mà còn vươn tới tất cả mọi nhu cầu của nhân loại nữa. Chúa Giêsu đã cúi mình xuống trên hết mọi thứ bần cùng của con người, về cả vật chất lẫn tinh thần.

 

Sứ điệp tình thương của Người tiếp tục vươn tới chúng ta qua bàn tay của Người ôm lấy con người đau khổ. Đó là cách thức Nữ Tu Faustina thấy Người và loan báo Người cho con người ở tất cả mọi châu lục, khi mà, ẩn thân trong tu viện của mình tại £agiewniki ở Kraków, chị đã biến đời mình thành một bản thánh ca tình thương: Misericordias Domini in aeternum cantabo - con sẽ muôn đời ca ngợi tình thương của Chúa

 

5.         Việc phong hiển thánh cho Nữ Tu Faustina có một ý nghĩa đặc biệt, ở chỗ, qua hành động này, hôm nay tôi có ý truyền đạt sứ điệp này cho tân thiên kỷ. Tôi truyền đạt nó cho tất cả mọi dân tộc, để họ học biết hơn nữa dung nhan chân thực của Thiên Chúa và gương mặt thực sự của anh chị em mình.

 

Thật vậy, tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu thương anh chị em của mình là những gì bất khả tách biệt, như Thư Một của Thánh Gioan đã nhắc nhở chúng ta: “Đây là dấu để chúng ta biết rằng chúng ta yêu thương con cái của Thiên Chúa, đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và tuân theo các huấn lệnh của Ngài” (5:2). Ở đây, vị Tông Đồ này nhắc nhở chúng ta về sự thật của tình yêu, cho chúng ta thấy tầm mức của nó cũng như các tiêu chuẩn của nó trong việc tuân giữ các giới răn. 

 

Không dễ gì yêu mến bằng một tình yêu sâu xa, một tình yêu được thể hiện ở chỗ thực sự trao tặng bản thân mình. Tình yêu này chỉ có thể học biệt bằng cách đi sâu vào mầu nhiệm của tình yêu Thiên Chúa. Nhìn Người, hiệp nhất với lòng của Cha, chúng ta có thể nhìn anh chị em chúng ta bằng những con mắt mới mẻ, bằng một thái độ vô vị kỷ và đoàn kết, quảng đại và thứ tha. Tất cả những điều ấy đều là tình thương!

 

Chúng ta đã nghe trong bài đọc thứ nhất hôm nay việc có thể đạt được lý tưởng cho đến độ nhân loại thấm nhập vào mầu nhiệm của ánh mắt nhân hậu này: “Cộng đồng tín hữu đồng tâm nhất trí. Không ai trong họ đòi một cái gì cho mình; trái lại, hết mọi sự được giành làm của chung” (Acts 4:32). Ở đây, tình thương đã cống hiến hình thức cho các mối liên hệ con người và đời sống cộng đồng; nó tạo nên một nền tảng cho việc chia sẻ các phẩm vật. Điều này đã dẫn tới “các hoạt động tình thương” về tinh thần cũng như thể chất. Ở đây, tình thương đã trở thành một đường lối cụ thể của việc là “tha nhân” đối với những người anh chị em thiếu thốn nhất của mình.

 

6.         Nữ Tu Faustina Kowalska đã viết trong Nhật Ký của chị như sau:Tôi cảm thấy đớn đau kinh khủng khi tôi thấy những đớn đau của anh chị em tôi. Tất cả mọi khổ đau của anh chị em tôi đều dội lại nơi trái tim của tôi; tôi ôm ấp nỗi sầu thương của họ trong trái tim tôi đến độ thậm chí nó hủy hoại tôi về thể lý. Tôi muốn tất cả mọi nỗi sầu thương của họ đều đổ xuống trên tôi, để nhẹ gánh cho anh chị em của tôi” (Nhật Ký, trang 365). Đó là mức độ cảm thương được tình yêu dẫn tới, khi lấy tình yêu Thiên Chúa làm mức đo lường của nó.

 

Chính tình yêu này là những gì cần phải thúc đẩy con người ngày nay, nếu họ muốn đương đầu với cuộc khủng hoảng về ý nghĩa cuộc đời, với những thách đố về những nhu cầu đa dạng nhất, và nhất là với nhiệm vụ bênh vực phẩm giá của hết mọi con người. Như thế, sứ điệp tình thương thần linh này cũng bao hàm một sứ điệp về giá trị của hết mọi con người. Mỗi một người đều quí báu trước nhan Thiên Chúa: Chúa Kitô đã hiến sự sống của mình cho từng người; Chúa Cha đã ban Thần Linh của Người và cống hiến mối thân tình cho hết mọi người.

 

7.         Sứ điệp an ủi này trước hết được ngỏ cùng những ai, bị ảnh hưởng bởi một cuộc thử thách đặc biệt dữ dội hay bị dập vùi bởi gánh nặng tội lỗi đã phạm, đã mất tất cả niềm tin tưởng trong đời sống và đang có khuynh hướng thất vọng. Dung nhan hiền dịu của Chúa Kitô được công hiến cho họ; những tia sáng từ trái tim của Người chạm tới họ và soi sáng họ, làm họ cảm thấy ấm lại, tỏ cho họ thấy đường đi nước bước và làm cho họ được tràn đầy hy vọng. Biết bao nhiêu là tâm hồn đã được an ủi bởi lời nguyện cầu “Giêsu ơi, con tin tưởng nơi Chúa”, một lời cầu được Đấng Quan Phòng cho biết qua Nữ Tu Faustina! Tác động đơn giản phó mình này cho Chúa Giêsu đánh tan những mây mù dầy đặc nhất và làm cho tia sáng xuyên qua mọi cuộc đời. Jezu, ufam tobie.

 

8.         Misericordias Domini in aeternum cantabo – con sẽ muôn đời ca ngợi tình thương của Chúa (Ps 88 [89]: 2). Cả chúng ta nữa, Giáo Hội lữ hành, hãy hợp tiếng cùng tiếng của Mẹ Maria rất thánh, “Mẹ của Tình Thương”, tiếng của vị tân thánh này đang hát ca tình thương với tất cả những người bạn của Thiên Chúa trên Giêrusalem thiên đình.

 

Hỡi Thánh Faustina, tặng ân Thiên Chúa ban cho thời đại của chúng tôi, một tặng ân từ mảnh đất Balan cho toàn thể Giáo Hộixin cầu cho chúng tôi nhận thức được vực thẳm của lòng thương xót thần linh; giúp chúng tôi có được một cảm nghiệm sống động về lòng thương xót thần linh này, và làm chứng cho lòng thương xót thần linh ấy giữa những người anh chị em của chúng tôi. Chớ gì sứ điệp ánh sáng và hy vọng của Chị được loan truyền khắp thế giới, thôi thúc các tội nhân ăn năn cải thiện, trấn an những thứ tranh giành và thù hận, và giúp cho các cá nhân cũng như chư quốc biết thực hành tình yêu thương huynh đệ. Hôm nay, gắn mắt vào dung nhan của Chúa Kitô phục sinh, chúng ta hãy lập lại lời nguyện tin tưởng phó mình với một niềm hy vọng mạnh mẽ rằng: Ôi Chúa Giêsu Kitô, con tin tưởng nơi Chúa! Jesu, ufam tobie!

 

 

http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/homilies/2000/documents/hf_jp-ii_hom_20000430_faustina_en.html

 (những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 



Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 1, 13-24

"Người đã mạc khải cho tôi biết Con của Người, để tôi rao giảng Người cho dân ngoại".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, anh em nghe nói về đời sống của tôi trước kia, khi theo đạo Do-thái: tôi đã bắt bớ và phá hoại Hội Thánh của Thiên Chúa thái quá. Trong đạo Do-thái, tôi đã vượt hẳn nhiều bạn đồng giống nòi, đồng tuổi với tôi, và tôi nhiệt thành hơn bất cứ ai đối với truyền thống của cha ông tôi.

Nhưng khi Ðấng tách riêng tôi ra từ lòng mẹ, và dùng ơn Người mà kêu gọi tôi, để tôi rao giảng Người trong các dân ngoại, thì không lúc nào tôi bàn hỏi người xác thịt máu huyết, và tôi không lên Giêrusalem để gặp các vị làm tông đồ trước tôi, nhưng tôi đi ngay đến Arabia, rồi lại trở về Ðamas. Ðoạn ba năm sau, tôi mới lên Giêrusalem để gặp Phêrô, và lưu lại với ông mười lăm ngày. Tôi không gặp một tông đồ nào khác, ngoài Giacôbê, anh em của Chúa. Những điều này tôi viết cho anh em, đây trước mặt Thiên Chúa, tôi không nói dối.

Thế rồi tôi đã đi về miền Syria và Cilicia. Nhưng các giáo đoàn của Ðức Kitô ở xứ Giuđêa chưa biết mặt tôi, họ chỉ nghe đồn rằng: "Người xưa kia bắt bớ chúng ta, giờ đây lại rao giảng đức tin mà thuở trước ông muốn bài trừ", và vì tôi, họ ngợi khen Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 138, 1-3. 13-14ab. 14c-15

Ðáp: Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời (c. 24b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con, Ngài biết con lúc con ngồi hay con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con tự đàng xa, khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết, Ngài để ý tới mọi đường lối của con. - Ðáp.

2) Chính Ngài đã nặn ra thận tạng con, đã dệt ra con trong lòng thân mẫu. Con ngợi khen Ngài đã tạo nên con lạ lùng như thế, vì công cuộc của Ngài thực diệu huyền. - Ðáp.

3) Linh hồn con, Chúa hoàn toàn biết rõ, thể chất con không giấu nổi mắt Ngài, lúc con được cấu tạo hình hài trong nơi kín đáo, lúc con được dệt thân ở chỗ đất sâu. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 14cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 10, 38-42

"Martha rước Người vào nhà mình. Maria đã chọn phần tốt nhất".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy Chúa Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với".

Nhưng Chúa đáp: "Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện (quá). Chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất".

Ðó là lời Chúa.

 

Be Mary Not Martha | Jesus is All

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

 

Vấn đề là ở chỗ "lo lắng bối rối về nhiều chuyện" chứ không phải ở chỗ "bận rộn với việc thiết đãi khách"

 

 

Hôm nay, Thứ Ba Tuần XXVII Thường Niên, Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca thuật lại sự kiện về việc Chúa Giêsu ghé vào thăm gia đình 3 chị em Matta, Maria và Lazarô, và được người chị cả tiếp đón nồng hậu, nhưng rất tiếc bà chị lại đã tỏ ra ghen tị với người em gái của mình trước mặt Chúa Giêsu: 

"Khi ấy Chúa Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thiết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: 'Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với'. Nhưng Chúa đáp: 'Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện (quá). Chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất'". 

Thật ra Chúa Giêsu không trách Matta về việc phục vụ cần thiết của chị, cho bằng trách chị "lo lắng bối rối về nhiều chuyện", đến độ trở thành bất an, được bộc lộ qua thái độ và ngôn ngữ có tính cách ghen tị với em của chị: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với". 

Nếu chị cứ âm thầm làm tất cả những gì cần thiết như chị cảm thấy để ân cần tiếp đãi vị đại khách của gia đình chị là Chúa Giêsu, với một tâm hồn hoàn toàn yêu mến Thày và yêu thương các em trong nhà, sẵn sàng chịu thiệt để cho chúng thay mình đang bận làm việc gần gũi tiếp chuyện với Thày, thì chị đâu có bị khiển trách như thế.  

Tuy nhiên, qua lời chị ghen tị với em của chị như thế mới thấy được rằng chính chị cũng muốn được gần gũi với Chúa Giêsu như em của chị. Đó là lý do có những lúc hoạt động không còn giờ cầu nguyện, tâm hồn vẫn có thể khao khát Chúa, vẫn có thể cầu nguyện bằng chính lòng khao khát của mình, miễm là đừng coi thường cầu nguyện khi có giờ và chỉ vì thích hoạt động mà bỏ cầu nguyện khi có thể. 

Phải, sống nội tâm và bằng an, sống vì Chúa và cho tha nhân là "sự cần duy nhất mà thôi", bằng không tất cả mọi hoạt động của chúng ta, cho dù lành thánh mấy chăng nữa, cho dụ thiện ích mấy chăng nữa, cũng có thể trở thành dịp tội cho con người hoạt động, cuối cùng họ chỉ mất công vô ích mà thậm chí hoạt động còn trở thành nguy hiểm cho tâm hồn của họ nữa.  

Như thế, có thể nói Matta là biểu hiệu cho đời sống hoạt động, còn Maria biểu hiệu cho đời sống cầu nguyện: "Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất". Căn cứ vào giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay qua sự kiện Matta-Maria này, chúng ta thấy: 1- đời sống nội tâm cầu nguyện là chính yếu và cần trước hết và trên hết; 2- có biết lắng nghe tiếng Chúa bằng đời cầu nguyện mới có thể làm theo ý Ngài khi hoạt động, bằng không lúc đầu làm vì Chúa cuối cùng làm cho mình. 

Thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại, trong Bài Đọc 1 hôm nay, đã cho giáo đoàn Galata biết về con người bản thân hai đoạn đời của ngài, một con người nhiệt tình với ạo giáo của cha ông là Do Thái giáo ở đoạn đời đầu: "Trong đạo Do-thái, tôi đã vượt hẳn nhiều bạn đồng giống nòi, đồng tuổi với tôi, và tôi nhiệt thành hơn bất cứ ai đối với truyền thống của cha ông tôi", như một Matta hăng say phục vụ Chúa Kitô thượng khách hôm ấy ở nhà chị, nhưng vẫn làm phật lòng vị thượng khách này, bởi thế vị thượng khách này đã thương tình chỉ bảo cho ch ý Người muốn nơi hành động của Maria em của chị, đứa em bị chị trách khéo, một lời trách khéo liên quan cả đến vị thượng khách của chị nữa.

Không biết nhân vật Matta trong bài Phúc Âm có nhận biết mình và có nghe theo lời Chúa sau này hay chăng, nhưng chàng Saolê thuở xa xưa thuộc đoạn đời Do Thái giáo ấy trong Bài Đọc 1 hôm nay, nhờ ơn Chúa, đã thực sự trở thành một vị tông đồ dân ngoại Phaolô, ngay sau "khi Ðấng tách riêng tôi ra từ lòng mẹ, và dùng ơn Người mà kêu gọi tôi, để tôi rao giảng Người trong các dân ngoại", đến độ "các giáo đoàn của Ðức Kitô ở xứ Giuđêa chưa biết mặt tôi, họ chỉ nghe đồn rằng: "'Người xưa kia bắt bớ chúng ta, giờ đây lại rao giảng đức tin mà thuở trước ông muốn bài trừ', và vì tôi, họ ngợi khen Thiên Chúa".

 

Đó là lý do, chúng ta cần phải "theo đạo", theo Chúa, chứ không phải hay hơn là "đạo theo", đạo theo chúng ta, Chúa theo chúng ta. Nhưng muốn được thế, chúng ta cần phải liên lỉ tâm nguyện như câu họa trong Bài Đáp Ca hôm nay: "Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời", với tất cả thâm tín về bản thân mình, nhờ đó hoàn toàn tin tưởng vào Chúa:

 

1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con, Ngài biết con lúc con ngồi hay con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con tự đàng xa, khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết, Ngài để ý tới mọi đường lối của con.

2) Chính Ngài đã nặn ra thận tạng con, đã dệt ra con trong lòng thân mẫu. Con ngợi khen Ngài đã tạo nên con lạ lùng như thế, vì công cuộc của Ngài thực diệu huyền.

3) Linh hồn con, Chúa hoàn toàn biết rõ, thể chất con không giấu nổi mắt Ngài, lúc con được cấu tạo hình hài trong nơi kín đáo, lúc con được dệt thân ở chỗ đất sâu.

 

 

 

Thánh Brunô - Linh mục (1035 - 1101)

 

Ngày 6/10

 

12556 St Bruno

 

 

Thánh Brunô, đấng sáng lập dòng Chartreux, qua đời ngày 6 tháng 10 năm 1101 trong sa mạc La Torre, thuộc vùng Calabria (nước Ý). Tuy ngài không hề được phong thánh chính thức, nhưng lễ nhớ ngài được đưa vào phụng vụ địa phương của dòng Chartreux năm 1514 bằng phép miệng của Đức giáo hoàng Lêô X, rồi được đưa vào phụng vụ Rôma năm 1584 và cuối cùng được đưa vào các sách phụng vụ Rôma, qua một sắc lệnh của Thánh Bộ Lễ Nghi năm 1623.

Sinh năm 1035 ở Cologne (nước Đức) trong một gia đình quí tộc, Bruno de Hartenfaust bắt đầu đi học tại trường Thánh Cunibert ở Cologne, sau đó học trường nổi tiếng của nhà thờ lớn Reims. Năm 1056, ngài trở thành hiệu trưởng và thầy dạy nổi tiếng của trường này. Sau khi thụ phong linh mục, ngài được bổ nhiệm làm kinh sĩ nhà thờ lớn và chưởng ấn của toà tổng giám mục. Lãnh nhận sứ vụ linh mục, Ngài vẫn còn được các Đấng các Bậc cho tiếp tục con đường học vấn vì thấy Ngài có khả năng tiếp thu và lãnh hội tốt các môn học. Ngài đã gặt hái cách rất khả quan về môn Triết học và Thần học. Với trí thông minh, kiến thức cao cường của Ngài, thánh Brunô đã làm khoa trưởng của nhiều phân khoa đại học. Hội Thánh dùng Ngài vì lòng đạo đức, học vấn uyên bác của Ngài, chính vì vậy, Ngài được triệu hồi về La Mã và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Giáo Triều Roma.

Chính trong thời kỳ này, ngài xuất bản hai tác phẩm Bình luận về các Thánh vịnh và các Thư thánh Phaolô. Các sách chú giải về Thánh Vịnh và các thư thánh Phaolô là những tác phẩm chúng ta còn lưu giữ được, chứng tỏ thánh nhân là một học giả có thế giá và là người hiểu biết tiếng Hy Lạp và tiếng Do Thái. Vào thời của ngài ít có người hiểu biết được như vậy. Nhiều người đã tới Reims để thụ giáo với ngài, trong số đó có Eudes de Chantaillen là người sẽ trở thành Giáo Hoàng với danh hiệu Urbano II.

Danh xưng Thầy Bruno được sử dụng cho tới cuối thế kỷ XV xứng với danh tiếng của “nhà hùng biện, thông thái trong mọi lãnh vực văn chương, tiến sĩ của các tiến sĩ . . .” Là người bênh vực cuộc cải cách Hội Thánh của Đức Giáo Hoàng Grêgoire VII, ngài dũng cảm chống lại thói buôn thần bán thánh và sự suy đồi đạo đức của hàng giáo sĩ.

Các thử thách đổ xuống cuộc đời thánh Brunô, kể từ khi Đức Tổng Giám mục Gevase qua đời năm 1068 và Manasses được đặt kế vị. Manasses là một người khô khan và hung bạo, đã chiếm ngai tòa Giám mục nhờ việc buôn thần bán thánh. Brunô đứng đầu những nhóm kinh sĩ chống lại và bị triệu về Rôma. Manasses trả thù bằng cách tịch biên tài sản và buộc các ngài phải trốn khỏi thành phố. Brunô trốn về một nơi gọi là Rocher, ở tại nhà một người bạn tên là Adam. Lần kia, trong khi đi dạo tại vườn nhà Adam, Brunô với hai người bạn là Ralph và Fulcius đã bàn về bản chất giả tạo của các thú vui trần thế và niềm vui của đời sống chiêm niệm. Lửa nhiệt tình bùng cháy, họ quyết định sẽ bỏ thế gian để sống đời cầu nguyện, ngay khi nào hoàn cảnh cho phép. Nhưng rồi Fulcius phải đi Rôma để trình bản cáo trạng Tổng Giám mục. Brunô không thể bỏ Reims khi Đức Tổng Giám mục còn tại vị. Cuối cùng, khi Đức Tổng Giám mục bị truất ngôi, chỉ còn Brunô trung kiên với dự tính....

 Sau khi Manasses bị truất ngôi, vị đặc sứ tòa thánh muốn đặt Brunô làm Tổng Giám mục. Nhưng lúc ấy thánh nhân đã trốn khỏi Reims cùng với sáu người bạn, tới một nơi gọi là Sèche-Phontaine. Ngài ở gần tu viện Molesme là nơi thánh Robertô làm đan viện phụ. Có lẽ Brunô là tu sĩ của tu viện này một thời gian ngắn.

Tuy nhiên Brunô đã không ở lâu tại Sèche-Phontaine. Ngài muốn tìm một nơi xa vắng hơn để khỏi bị du khách quấy rầy. Năm 1084, ngài cùng với sáu người bạn tìm đến miền núi Savoy. Trên đường đi, các ngài dừng chân tại Grenoble để tham khảo ý kiến Đức Cha Hugues de Chateaineuf, một học trò cũ của Ngài. Vị Giám mục thánh thiện đã mơ thấy bảy ngôi sao sáng trên một miền xa thuộc dãy núi Cjartreuse. Biết rằng Brunô cùng với sáu người bạn của ngài là những ngôi sao ấy, Đức cha đã không chần chờ dẫn họ ngay tới nơi mà giấc mơ đã chỉ cho ngài. Đây là một nơi đủ yên tĩnh. Brunô và các bạn liền cư ngụ tại đó. Các ngài làm một nhà nguyện nhỏ và bảy cái lều chung quanh. Đó là bước đầu của một tu viện lớn vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay, là nhà mẹ của một hội dòng mang tên Chartreuse.

Thế là thánh Brunô đã sáng lập một nếp sống tu dòng mới, gần giống với nếp sống do thánh Romualđô sáng lập: Các tu sĩ Chartreux sống đời ẩn tu, hiến mình cho công việc lao động đơn độc, chủ yếu là việc sao chép các sách, nhưng cử hành phụng vụ chung với nhau.

Nhưng rồi thánh Brunô đã quá lừng danh và không thể yên thân được lâu. Năm 1090, ĐGH Urbanô II, một học trò cũ của ngài đã nhớ đến thầy cũ và triệu ngài về Rôma làm cố vấn. Dầu vậy, Đức Giáo Hoàng cũng sớm nhận ra rằng: không có chỗ trong giáo triều dành cho Brunô. Ngài ban phép cho thánh nhân rời Rôma, với điều kiện là phải có mặt tại nước Ý.

Trong thời gian vắn vỏi tại giáo triều, thánh Brunô đã gặp nhà quý tộc Roger miền Sicily. Khi rời Rôma, ngài đến cư ngụ ở nơi nhà quý tộc hiến cho, tại La Torre miền Calabria. Ngài thiết lập ở đó một tu viện thứ hai, theo kiểu mẫu dòng Chartreuse.

Năm 1088, Đức giáo hoàng Urbain II (Eudes de Châtillon), từng là học trò của Thầy Brunô ở Reims, mời thầy cũ của mình tới Rôma làm cố vấn. Ngài vâng lời, nhưng một ít thời gian sau, vì vẫn khao khát đời sống cô tịch và cầu nguyện, ngài rời giáo triều, về Calabre, trong sa mạc La Torre; tại đây, ngài lập một tu viện mới, dưới sự bảo trợ của các vương công người Normand. Chính trong thời kỳ ẩn tu ở Sainte-Marie-de-La-Tour, ngài viết hai lá thư còn truyền lại tới thời chúng ta: một thư gửi bạn ngài là Raoul le Verd, đặc sứ giáo hoàng ở Reims, và một thư gửi cộng đoàn tu viện Grande-Chartreuse.

Thánh Brunô qua đời ngày chủ nhật 6 tháng 10 năm 1101, sau khi tuyên bố trước mặt các tu sĩ của mình lời tuyên xưng đức tin, trong đó ngài nhấn mạnh sự hiện diện thật của Đức Ki-tô trong phép Thánh Thể. Thi hài ngài được an nghỉ trong thánh đường tu viện Sainte-Marie-de-La-Tour. Các giai đoạn cuộc đời ngài được hoạ sĩ Le Sueur trình bày (1644 đến 1648); trong số các bức họa này, nổi tiếng nhất là Cuộc An Táng Thánh Brunô, tranh trưng bày tại Louvre.

Một vị thánh được những người đồng thời tặng khen nhiều danh hiệu như :” Nhà thần học nổi danh, văn sĩ lỗi lạc, nhà ngoại giao tài ba, người khôn ngoan tuyệt vời, thầy của các thầy vv…”. Với biết bao danh hiệu người đồng thời tặng ban cho thánh Brunô, điều ấy nói lên con người hết sức đặc biệt của Ngài. Thánh nhân không đặc biệt sao được khi Hội Thánh, đặc biệt Giáo Triều cho triệu vời Ngài về La Mã để giúp đỡ Đức Giáo Hoàng Urbanô II trong vai trò cố vấn cho Ngài.

Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Roma đã viết:” Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu ! Đường lối của Người, ai theo dõi được ! Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa ? Ai đã làm cố vấn cho Người ? Ai đã  cho Người trước, để Người phải trả lại sau ? Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời ! Amen.” ( Rm 11, 33-36 ).

Thánh Brunô là một trong những vị thánh đã cảm nghiệm sâu sắc lời của thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại trong đoạn viết để ca tụng thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Cảm nghiệm hết sức sâu sắc lời thánh Phaolô, thánh Brunô đã phục vụ theo đường lối Chúa. Tất cả đều do hồng ân của Chúa. Ngài có được gì là do Thiên Chúa. Do đó, thánh Brunô luôn tuân phục thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã kêu gọi thánh Brunô phụng sự Người “trong nơi thanh vắng” (Lời Nguyện của ngày). Thật vậy, từ khi ở trong rừng Sèche-Fontaine, nơi thánh Robert Molesmes đã hướng dẫn ngài vào đời ẩn tu, thánh Brunô đã luôn tìm kiếm sự thanh vắng để hiến mình cho Thiên Chúa qua việc chiêm niệm và sám hối.

Trong lá thư viết cho bạn ngài là Raoul le Verdi, thánh Brunô ca ngợi đời sống ẩn tu như sau: 

“Về lợi ích và niềm vui mà sự thanh vắng đem đến cho những ai yêu mến nó, chỉ những người đã trải qua kinh nghiệm này mới biết được . . . Thật không thể tả nổi ngày lễ vĩnh cửu này, khi người ta đã nếm cảm trước những hoa quả của thiên đàng. Chúng tôi chỉ lo cho linh hồn mình, và giữa những cuộc chiến đấu vì Thiên Chúa, chúng tôi nếm cảm được sự bình an mà thế gian không biết đến, và niềm vui của Thánh Thần.” 

Giờ Kinh Sách cho chúng ta đọc lá thư thánh nhân viết năm 1099 hay 1100 “cho các con cái Chartreux của ngài,” sau khi có cuộc thăm viếng của Đan phụ Landuin của họ tại tu viện của ngài ở Calabre. Lá thư này có thể coi như di chúc thiêng liêng của thánh Brunô cho con cái thiêng liêng mà ngài đã từ giã năm 1090: 

“Qua những tường thuật chi tiết và rất an ủi của người anh em Landuin yêu quí của chúng ta, cha vui sướng biết được các con đã kiên quyết thế nào trong việc tuân giữ khôn ngoan và đáng ca ngợi thực sự: ngài đã kể cho cha về tình yêu thánh thiện của các con, lòng nhiệt thành không mỏi mệt của các con đối với tất cả những gì đụng tới sự trong sạch của quả tim và nhân đức . . . Cha vui mừng vì, mặc dù các con không thông thạo văn chương, nhưng Thiên Chúa toàn năng đã ghi khắc vào lòng các con không chỉ tình yêu mà thôi, mà còn sự hiểu biết luật thánh: thực vậy, các con chứng tỏ bằng việc làm điều các con yêu mến và hiểu biết. Vì các con thực hành sự vâng phục hết sức chuyên cần và nhiệt tình . . . Điều này cho thấy rõ ràng các con đón nhận với sự khôn ngoan hoa quả tuỵêt hảo và sống động của Lời Chúa.” 

Đối với thánh Brunô, mục đích của Kinh Thánh là thông truyền sự sống, và hoa quả đầu tiên của Kinh Thánh là việc thi hành vâng phục, nguồn mạch của sự hoàn thiện đích thực. Đức Giáo Hoàng Piô XI đã viết rất hay về thánh nhân: “Thiên Chúa đã chọn thánh Brunô, con người thánh thiện tuyệt vời, để làm cho đời chiêm niệm sáng ngời vẻ tinh tuyền nguyên thuỷ của nó” (Hiến pháp Umbratilem).

 

 

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ TGP Hà Nội, GP Vĩnh Long và Cha Hưng Lợi, CSsR

 

 

 

 

Thứ Tư


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 2, 1-2. 7-14

"Các đấng đã nhận biết ơn đã ban cho tôi".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, mười bốn năm sau, tôi lại lên Giêrusalem cùng với Barnaba và có đem Titô theo. Tôi đã theo ơn mạc khải mà lên đó, và tôi đã trình bày với các đấng đó về Tin Mừng mà tôi rao giảng nơi các dân ngoại, tôi bàn hỏi riêng với những bậc vị vọng, vì e rằng mình đang bôn tẩu hoặc đã bôn tẩu luống công chăng.

Trái lại, khi các đấng ấy thấy rằng tôi được uỷ nhiệm rao giảng Tin Mừng cho người không chịu cắt bì, cũng như đã uỷ nhiệm cho Phêrô rao giảng cho những người đã chịu cắt bì, (vì Ðấng đã ban cho Phêrô làm Tông đồ cho những người đã chịu cắt bì, cũng đã ban cho tôi làm Tông đồ lo cho các dân ngoại), và khi đã nhận biết ơn đã ban cho tôi, thì Giacôbê, Kêpha và Gioan, là những vị được kể như cột trụ, đã bắt tay tôi và Barnaba, tỏ tình thông hảo. Thế là chúng tôi đi sang các dân ngoại, còn các đấng thì đi đến với những người đã chịu cắt bì. Bấy giờ chúng tôi chỉ còn phải nhớ đến những người nghèo khổ, và đó là chính điều tôi đã định tâm thi hành.

Nhưng khi Kêpha đến Antiôkia, tôi đã phản đối ông ngay trước mặt, vì ông làm điều không phải. Vì chưng trước khi mấy người bên Giacôbê đến, thì ông vẫn dùng bữa với những người dân ngoại, nhưng khi những người ấy đến, thì ông lẩn lút và tự lánh mặt đi, bởi sợ những người thuộc giới cắt bì. Những người Do-thái khác đều giả hình như ông, thậm chí cả Barnaba cũng bị lôi cuốn theo sự giả hình của họ. Nhưng khi thấy họ không thẳng thắn sống theo chân lý Tin Mừng, tôi đã nói với Kêpha trước mặt mọi người rằng: "Nếu ông là Do-thái, mà còn sống theo thói người dân ngoại, chứ không theo thói người Do-thái, thì lẽ nào ông bắt ép người dân ngoại phải theo thói người Do-thái sao?

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 116, 1. 2

Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).

Xướng: 1) Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người! - Ðáp.

2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng ta thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 4, 4b

Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 11, 1-4

"Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông". Người nói với các ông: "Khi các con cầu nguyện, hãy nói:

"Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".

Ðó là lời Chúa.


Dom Donald's Blog: The Lord's Prayer Luke 11:1-4Daily Gospel Reading – Luke 11:1-4 | Daily Bible Readings

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Bóng tối không thể át được ánh sáng

 

 

Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, Thứ Tư Tuần XXVII Thường Niên, tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, chẳng những liên tục về bố cục theo đoạn và câu mà còn liên tục về cả nội dung của hai bài Phúc Âm này nữa. Ở chỗ, nếu bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến đời sống nội tâm thì bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến tinh thần cầu nguyện. 


Đúng thế, Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay thuật lại rằng: "Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: 'Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông'". 


Thánh ký Luca không cho chúng ta biết rõ tên của người "môn đệ" nào trong 12 tông đồ hay trong 72 môn đệ đã xin Người dạy cho chung các vị cầu nguyện, mà là cầu nguyện theo kiểu của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả dạy cho các môn đệ của ngài. Chúng ta có thể suy đoán, người "môn đệấy một là Tông Đồ Anrê hai là Tông Đồ Philiphê, hai môn đệ của vị tiền hô này đã đến xem chỗ Người ở, ba là Nathanael / Bartholomeo và bốn là Simon / Phêrô là 2 người được hai vị đến trước và về rủ đến sau (xem Gioan 1:35-51). 

 

Chúng ta ở đây không biết Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã dạy các môn đệ cầu nguyện của ngài như thế nào mà môn đệ này đã cảm thấy hay đến độ xin Chúa Giêsu dạy cho họ như thế hay hơn thế. Chỉ biết rằng, đích thân Chúa Giêsu đã đáp ứng lời yêu cầu chính đáng của người môn đệ đại diện ấy bằng cách cống hiến cho môn đệ của mình công thức cầu nguyện cùng Cha của Người như sau: 

 

"Khi các con cầu nguyện, hãy nói: 'Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ'". 

 

Chúng ta cũng không biết kinh nguyện trên đây của Chúa Giêsu có phải là chính tâm nguyện chính yếu và liên lỉ của Người đối với Cha của Người, những tâm nguyện được Người bộc phát và bày tỏ ra cùng Cha của Người mỗi lần Người cầu nguyện cùng Cha của Người hay chăng? Nhưng chúng ta chắc chắn một điều rằng nếu những lời cầu nguyện ấy không phải là những gì hay nhất, tuyệt vời nhất và đẹp lòng Cha của Người nhất, vì không ai biết Cha Người bằng Người, thì Người đã không dạy cho các môn đệ của Người, không dạy cho chúng ta. 

 

Thế nhưng, nếu cho rằng những lời cầu ấy là chính tâm nguyện của Chúa Giêsu ấp ủ đối với Cha của Người thì phần "nguyện" đầu của lời cầu mà chúng ta vẫn gọi là Kinh Chúa Dạy hay Kinh Lạy Cha này là những gì có thể khả chấp: "Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến", nhưng còn phần "xin" sau đó dường như không hợp với Người, không xứng với Người, Đấng không cần những vấn đề thuộc hạ giới này của loài thuần nhân như chúng ta: "Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".  

 

Tuy nhiên, ở đây, Chúa Kitô cầu nguyện với tư cách là một Con Người, (chứ không phải với tư cách là một Vị Thiên Chúa), một Con Người cầu nguyện thay con người, cầu nguyện với con người và cầu nguyện cho con người. Vì là Con Người, Người cũng cần "xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày" là biết làm theo và chu toàn ý muốn Cha là Đấng đã sai Người (xem Gioan 4:34). Vì Người là Đấng gánh tội trần gian và đền tội cho trần gian mà Người cũng xin Cha "tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con", ở chỗ tha nợ cho Người cũng là tha nợ cho đồng loại tội nhân của Người, như Người đã tha nợ cho những kẻ lầm lẫn không biết việc mình làm khi ra tay sát hại Người (xem Luca 23:34). Vì là Đấng đã hóa thân làm người, cũng có ý muốn riêng theo bản tính loài người mà Người cũng "xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ" là khuynh hướng luôn tìm theo ý riêng mình hơn là ý muốn của Thiên Chúa, một ý muốn tối cao nhưng vô cùng oan khiên khắc nghiệt của Thiên Chúa đối với ý riêng của con người.

 

Nếu cầu nguyện là ở cõi lòng hơn là môi miệng (xem Mathêu 15:8), thì Kinh Lạy Cha hay Kinh Chúa Dạy các môn đệ như các vị xin Người trong bài Phúc Âm hôm nay thực sự bao gồm tất cả tấm lòng của người cầu nguyện, được bày tỏ ra bằng các ước nguyện, và trong các ước nguyện ấy thì trên hết và trước hết là ước nguyện cho "danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến". Bài Đọc thứ 1 hôm nay cho chúng ta thấy xẩy ra một sự kiện đáng tiếc trong thời Giáo Hội sơ khai, liên quan đến vị tông đồ lãnh đạo đoàn chiên Chúa là Phêrô, vị đã được tông đồ Phaolô, như Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy, công khai chỉnh sửa vì khuynh hướng của vị trưởng tông đồ đoàn này đã "sa chước cám dỗ" sợ hãi , nên đã tỏ ra những tác hành cùng phản ứng có tính cách "phản kitô", không còn nguyên ước nguyện tinh tuyền mong muốn cho "danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến".

 

"Khi Kêpha đến Antiôkia, tôi đã phản đối ông ngay trước mặt, vì ông làm điều không phải. Vì chưng trước khi mấy người bên Giacôbê đến, thì ông vẫn dùng bữa với những người dân ngoại, nhưng khi những người ấy đến, thì ông lẩn lút và tự lánh mặt đi, bởi sợ những người thuộc giới cắt bì. Những người Do-thái khác đều giả hình như ông, thậm chí cả Barnaba cũng bị lôi cuốn theo sự giả hình của họ. Nhưng khi thấy họ không thẳng thắn sống theo chân lý Tin Mừng, tôi đã nói với Kêpha trước mặt mọi người rằng: 'Nếu ông là Do-thái, mà còn sống theo thói người dân ngoại, chứ không theo thói người Do-thái, thì lẽ nào ông bắt ép người dân ngoại phải theo thói người Do-thái sao?'"

 

Thánh Phaolô đã phải cấp thời lên tiếng hành động như thế, không nể nang, không chần chờ, là để tránh cho dân ngoại, thành phần ngài được úy thác cho sứ vụ đặc biệt rao giảng, cũng có mặt bấy giờ, khỏi bị tác hành và phản ứng của vị lãnh đạo giáo hội Chúa Kitô tác hại trầm trọng. Nhờ đó, chư dân mới có thể thấy được đâu là chân lý, đâu là vị Thiên Chúa của Kitô giáo, vị Thiên Chúa có tính cách "công giáo", tính cách phổ quát toàn cầu, và cũng nhờ đó, họ mới có thể vang lên những lời ở 2 cầu đầu của Thánh Vịnh 116 trong Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người!

2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng ta thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời.

 

 

 

Ngày 07 tháng 10

Đức Mẹ Mân Côi

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử 
Ngày 7 tháng 10 năm 1571, Tây Phương thoát khỏi sự đe doạ của quân Thổ Nhĩ Kỳ nhờ chiến thắng ở vịnh Lê-pan-tô. Người ta cho rằng chiến thắng đó là kết quả của Kinh Mân Côi. Ngày nay, mừng lễ này không có nghĩa là mừng biến cố xa xưa đó, nhưng là nhắc nhở việc suy niệm các mầu nhiệm Nhập Thể, Thương Khó và Phục Sinh vinh hiển của Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, cũng như khám phá ra vị trí của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a trong mầu nhiệm Cứu Độ.

 

Bài đọc 2

Phải suy gẫm các mầu nhiệm Cứu Độ

 

Our Lady of the rosary - Click To Pray

 

Trích bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ.

Vì Đấng Thánh từ lòng bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Ôi nguồn mạch của sự khôn ngoan ! Ôi Ngôi Lời của Chúa Cha trên chốn cửu trùng ! Lạy Trinh Nữ thánh thiện, nhờ Mẹ làm trung gian, Ngôi Lời nay sẽ thành xác phàm, để Đấng nói : Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy, cũng nói : Thầy bởi Thiên Chúa mà ra và Thầy đã đến. Kinh Thánh viết : Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Suối đã vọt ra rồi nhưng mới chỉ ở nơi mình thôi. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa ngự trong ánh sáng siêu phàm.

Từ đầu, Chúa đã nói : Ta chỉ nghĩ đến chuyện mang lại bình an, chứ không nghĩ đến chuyện gây ra phiền muộn. Nhưng tư tưởng của Chúa thì ở trong Chúa, và Chúa nghĩ gì, chúng con đâu có biết. Quả thật, nào ai biết được tâm tư của Chúa hay ai làm cố vấn cho Người ?

Vì thế, Đấng nghĩ đến bình an đã xuống thế để thực hiện bình an : Ngôi Lời đã thành xác phàm và ở giữa chúng ta rồi. Nhờ đức tin, Người hoàn toàn ở trong tâm hồn chúng ta, Người ở trong trí nhớ của chúng ta, Người ở trong tư tưởng và thậm chí Người còn đi vào tận trí tưởng tượng của chúng ta nữa. Trước kia, con người có thể nghĩ gì về Thiên Chúa, có chăng là một hình ảnh do lòng con người tạo ra ? Khi đó, Thiên Chúa là Đấng không thể hiểu được, không thể tới gần được, không thể nhìn thấy hay suy tưởng được ; nhưng bây giờ Người đã muốn cho người ta hiểu, muốn cho người ta thấy, muốn cho người ta suy tưởng.

Bạn hỏi : Bằng cách nào vậy ? Thưa qua việc Người nằm trong máng cỏ, ngủ yên trong lòng Đức Trinh Nữ, rao giảng trên núi, thức thâu đêm cầu nguyện ; qua việc Người bị treo và chết rũ trên thập giá, thoát khỏi tử thần và nắm quyền trong âm phủ ; qua việc ngày thứ ba Người sống lại, tỏ cho các Tông Đồ thấy các dấu đinh là biểu hiệu chiến thắng, và cuối cùng lên trời cao thẳm trước mắt các ông.

Trong các mầu nhiệm nói trên, có mầu nhiệm nào lại không gợi cho chúng ta những ý tưởng chân thật, đạo đức và thánh thiện chăng ? Khi tôi suy tưởng bất cứ mầu nhiệm nào trên đây là tôi suy tưởng về Thiên Chúa và qua tất cả những mầu nhiệm đó, chính Người là Thiên Chúa của tôi. Suy gẫm những mầu nhiệm ấy, tôi cho là khôn ngoan. Nhớ lại những mầu nhiệm ấy, tôi cho là sáng suốt. Những mầu nhiệm ấy ngọt như những trái hạnh đào trổ sinh từ cây gậy của tư tế A-ha-ron. Sự ngọt ngào đó, Đức Ma-ri-a đã kín múc từ trời cao và đổ xuống tràn trề trên chúng ta.

 

Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời thiên sứ truyền tin mà cho chúng con biết thật Đức Ki-tô, Con Chúa, đã xuống thế làm người. Xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con, để nhờ công ơn Con Chúa chịu khổ hình thập giá, và nhờ lời Thánh Mẫu Ma-ri-a chuyển cầu, Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh. Chúng con cầu xin

 

 

Our Lady Of The Rosary  Catholic picture  print image 0

 

 

Lễ Đức Bà Mân Côi: Lược Sử

 

Trong cuốn Thánh Mẫu Học do Brice xuất bản năm 1961, tập thứ 3, có một đoạn trình bày về Đức Bà Mân Côi của cha Juniper B. Carol, OFM, một vị linh mục quá cố đã từng nổi tiếng trên thế giới về Thánh Mẫu Học và là vị sáng lập Hội Thánh Mẫu Học Hoa KỳSau đây là đoạn về Đức Bà Mân Côi liên quan đến nguồn gốc việc thành hình Lễ Đức Mẹ Mân Côi được vị linh mục thánh mẫu này nghiên cứu biên soạn.


Những diễn tiền về lịch sử đáng ghi nhớ của ngày mùng 7 tháng 10 năm 1571, Ngày Chúa Nhật đầu tháng này, đã là những gì đưa đến việc xuất hiện lễ Đức Bà Mân Côi. Thế giới Tây phương đã phải đối diện với cuộc thảm họa và tàn phá toàn diện gây ra bởi những người Thổ Nhĩ Kỳ có một hạm đội dũng mãnh đã làm chủ hầu hết Địa Trung Hải và thực sự đang đe dọa Ý quốc. Thánh Giáo Hoàng Piô V và các vị lãnh đạo Kitô giáo khác, vì tin rằng chỉ có ơn trợ giúp siêu nhiên bấy giờ mới có thể chặn đứng cuộc xâm chiếm sắp sửa xẩy ra, đã hướng mắt về trời nài van Người Mẹ thiên đình chuyển cầu cho họ. Vị Thánh Giáo Hoàng cũng xin các Hiệp Hội Mân Côi hãy gia tăng việc họ tôn sùng này vào ngày 7/10 và cử hành việc tôn sùng này một cách trọng thể hơn.

 

Thật thế, chính vào ngày này, lực lượng hải quân của liên minh Kitô giáo đụng độ hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ vững chắc của Thổ Nhĩ Kỳ ở Vịnh Lêpantô. Truyện kể rằng trong khi trận chiến hết sức quan trọng này đang gay go thì Đức Piô V, được linh cảm thiên đình, đã kêu lên “Chiến thắng! Chiến thắng!” Thật thế, hạm đội của bên địch đã hoàn toàn thảm bại làm tan rã lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ. Vị Giáo Hoàng này không được đặc ân cử hành cuộc mừng kỷ niệm ân huệ lớn lao này của Thiên Chúa. Ngày cùng tháng tận của ngài đã đến, nhưng không xẩy ra trước khi ngài tuyên bố hiệu thành vào ngày 17/3/1572 về việc công khai tạ ơn Mẹ Maria và sâu xa tri ân Mẹ về việc Mẹ bảo vệ chở che, một cuộc tưởng niệm đặc biệt được giành cho Mẹ vào ngày 7/10 dưới tước hiệu Đức Bà Thắng Trận.

 

Đức Grêgôriô XIII, vị thừa nhiệm của ngài, đã thay đổi tước hiệu này thành Đức Bà Mân Côi, và vào ngày 1/4/1573, đã ban sắc chỉ truyền cử hành một thánh lễ mới vào ngày Chúa Nhật đầu Tháng Mười, ban phép cử hành ở những nhà thờ có bàn thờ mang tước hiệu ấy. Một trăm năm sau, theo lời yêu cầu của Nữ Hoàng Tây Ban Nha là Mary Anne, lễ này được lan rộng khắp Tây Ban Nha, và sau đó ít lâu, đến nhiều giáo phận ở Ý và các quốc gia khác. Vào ngày 3/10/1716, như một cách công nhận cuộc chiến thắng của Hoàng Tử Eugene của Savoy đối với quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Hung Gia Lợi vào ngày 5/8 dưới sự bảo hộ của Đức Mẹ Xuống Tuyết, Đức Clêmentê XI đã ban hành một văn kiện, một văn kiện được soạn thảo bởi vị tiền nhiệm của ngài là Đức Innocentê XI, nới rộng lễ Đức Mẹ Mân Côi ra khắp Giáo Hội hoàn vũ. Đức Lêô XIII đã nâng lễ này lên bậc lễ cao hơn. Sau cùng Đức Piô X, trong tự sắc Motu Proprio ngày 23/10/1913, đã chỉ định lễ này vào ngày 7/10 hằng năm (Cf. E. Campana, Maria nel culto cattolico, Torino, 1933, Vol. I, pp. 407-413).

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch

 

 

 

Công Hiệu của Kinh Mân Côi trong Lịch Sử


(Đức Lêô XIII: Thông Điệp Supremi Apostolatus ban hành ngày 1/9/1883;

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, chuyển dịch)
 



Tông Tòa Tối Cao mà Ta đang phải gánh vác, cùng với tình trạng khó khăn càng ngày càng tăng thêm vào những thời buổi này, lưu ý và thôi thúc Ta hằng ngày phải cẩn trọng canh phòng sự an toàn cũng như an sinh của Giáo Hội, để rồi, càng quan tâm mới càng thấy các tai ương Giáo Hội phải chịu càng nhiều. Bởi thế, trong khi nỗ lực bằng mọi cách để bảo trì các quyền lợi của Giáo Hội, cũng như để vô hiệu hóa hoặc đẩy lui những nguy hại hiện nay đang lan tràn, Ta không ngừng tìm cầu sự trợ giúp bởi trời - một phương cách duy nhất có đủ mọi tác dụng - ngỏ hầu những công khó và việc coi sóc của Ta đạt được như lòng mong ước.

Để được như vậy, Ta cho rằng không thể có một phương cách nào vững chắc hơn và hiệu nghiệm hơn là, nhờ việc tôn sùng và thảo hiếu, chiếm được lòng của Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Đấng Canh Giữ bình an của chúng ta và là Vị Thừa Tác ban phát ơn trời cho chúng ta, Đấng được ban cho tối thượng quyền và hiển vinh ở trên trời, để Người có thể ban ơn trợ giúp xuống cho con người, thành phần đang trải qua bao khó nhọc và hiểm nguy trên con đường tiến về kinh đô vĩnh cửu.

Giờ đây, đã gần đến dịp tưởng nhớ đến biết bao hồng ân cao cả khôn lường mà Kitô hữu nhận được nhờ lòng sùng kính kinh Mân Côi, Ta ước mong cho lòng sùng kính này được toàn thể Giáo Hội hoàn vũ thực thi bằng cả nhiệt tình thắm thiết nhất đối với Đức Trinh Nữ, để, nhờ sự cầu bầu của Người, Người Con Thần Linh của Người nguôi giận và thương đến chúng ta đang ở trong cơn khốn khổ đọa đầy. Bởi đó, qúi huynh thân kính, Ta quyết định phổ biến đến qúi huynh bức thư này, theo như lòng mong ước của Ta, là qúi huynh hãy dùng quyền bính và lòng nhiệt thành của mình mà khơi lên tấm lòng sùng mộ nơi thành phần dân Chúa của qúi huynh, trong việc thực hiện những ước vọng của chúng ta.

Người Công Giáo vốn có thói quen là luôn luôn chạy đến náu ẩn nơi Mẹ Maria trong những lúc gian nguy khốn khó, để tìm bình an nơi lòng từ mẫu nhân ái của Người, một thói quen chứng tỏ Giáo Hội Công Giáo luôn luôn đặt tất cả tin tưởng và hy vọng một cách chính đáng của mình nơi Mẹ Thiên Chúa. Người là Đấng đã liên kết với Chúa trong công cuộc cứu rỗi loài người, được đặc quyền và năng quyền hơn mọi phàm nhân và thần trời từng được hay có thể được. Và, vì nguyện vọng tha thiết nhất của Mẹ là ban ơn trợ giúp và ủi an cho những ai tìm kiếm Mẹ, thì còn hồ nghi gì nữa khi bảo rằng, Mẹ hân hoan, nếu không muốn nói là nao nức, nhận lấy những khát vọng của Giáo Hội hoàn vũ.

Việc tôn sùng rất cao cả và đáng tin cậy đối với Nữ Vương uy linh Thiên Đình này chưa bao giờ chiếu giải ánh quang như những lúc Giáo Hội chiến đấu của Thiên Chúa gặp gian nguy bởi những tấn công của lạc thuyết lan tràn, bởi thương luân bại lý không thể chấp nhận được, hay bởi những tấn công của các địch thủ dũng mãnh. Lịch sử trong quá khứ cũng như mới đây, nhất là Giáo sử biên niên, còn ghi chứng về những lời cầu chung riêng dâng lên Mẹ Thiên Chúa xin ơn trợ giúp đã được Mẹ ban cho, và xin ơn an bình trật tự cũng đã được Thiên Chúa ban cho qua Mẹ. Bởi thế, Mẹ xứng danh là “Đấng Phù Hộ Các Giáo Hữu”, “Đấng An Ủi Kẻ Âu Lo”, “Quyền Năng Chiến Đấu của chúng ta”, “Nữ Vương Vinh Thắng”, “Nữ Thần Hòa Bình.” Trong số những tước hiệu này, một tước hiệu quen thuộc đáng chú ý nhất là tước hiệu Mân Côi, một tước hiệu mà những ơn ích tỏ tường Người đã xin cho toàn thể thế giới Kitô giáo vẫn được tưởng nhớ một cách long trọng.

Qúi Huynh thân kính, không một ai trong qúi huynh lại không nhớ đến việc Hội Thánh Chúa, vào cuối thế kỷ 12, đã chịu đựng một cơn hoạn nạn hết sức đau buồn gây ra do bè rối Albigensê, miêu duệ của các Hậu Nhị Nguyên Thuyết, một bè rối lan tràn ở miền Nam nước Pháp và các phần đất khác thuộc thế giới Latinh, đầy những sai lầm hiểm hại cùng với những lực lượng tàn sát và tàn phá khủng khiếp khắp nơi khắp chốn.

Thiên Chúa nhân lành của chúng ta, như qúi huynh biết, đã dùng một vị rất thánh thiện để chống lại các kẻ địch thù lợi hại này, đó là vị tổ phụ lừng danh sáng lập dòng Đaminh. Cao cả ở giáo thuyết thuần tín, ở gương sáng các nhân đức và ở các công cuộc tông đồ của mình, thánh nhân đã dũng liệt tấn công các đối thủ của Giáo Hội Công Giáo, không phải cậy dựa vào khí giới, song bằng việc tôn sùng mà ngài là người đầu tiên khởi xướng lên, việc tôn sùng dưới tước hiệu Rất Thánh Mân Côi, việc tôn sùng mà ngài cũng như các môn đệ của ngài đã truyền bá khắp nơi trên thế giới.

Thật vậy, được thần hứng và ân sủng hướng dẫn, thánh nhân đã thấy trước được rằng việc tôn sùng này như là một khí giới chiến đấu vô địch sẽ đẩy lui địch thủ, khống chế được lòng vô đạo điên cuồng và ngang tàng của họ. Thành quả đúng là như vậy. Nhờ phương thức cầu nguyện mới mẻ này - khi được chấp nhận và thi hành như thánh Đaminh sáng lập dòng thiết lập - lòng đạo đức, đức tin và sự hiệp nhất bắt đầu vãn hồi; những dự tính và sách lược của các kẻ lạc đạo tan như mây khói. Nhiều kẻ lạc bước quay về con đường cứu rỗi, và cơn phẫn nộ của những kẻ vô đạo bị kiềm tỏa bởi khí giới của những người Công Giáo cương quyết chống lại cuộc tấn công của họ.

Công hiệu và quyền lực của việc tôn sùng này còn được thể hiện trong thế kỷ 16, khi mà lực lượng hùng hậu của người Thổ Nhĩ Kỳ đang đe dọa chụp cái gông hoang đường và man rợ lên gần hết cả Âu Châu. Đức Giáo Hoàng lúc ấy là Thánh Piô V, sau khi khơi động lòng nhiệt thành của các vua chúa trong việc cùng nhau tự vệ, đã hăng hái nỗ lực, hơn hết mọi sư, để xin Mẹ Thiên Chúa hết sức quyền năng thương đến thế giới Kitô giáo. Tấm gương hết sức cao qúi này được dâng lên thiên đình, và tất cả hợp một lòng một ý với ngài lúc bấy giờ. Thế là, sẵn lòng hy sinh mạng sống và máu đào để bảo toàn Đức Tin và quê hương của mình, các chiến sĩ tín hữu Chúa Kitô hiên ngang đối đầu với địch quân ở gần vịnh Côrintô; trong khi đó, những người không thể đi chiến đấu như họ thì hợp lại thành đạo quân sốt sắng nguyện cầu, hiệp nhất trong lời kinh Mân Côi liên tục chúc tụng Mẹ Maria, kêu xin Người ban chiến thắng cho thành phần đang chiến đấu của mình. Đức Mẹ cao sang quả thật đã ban ơn trợ giúp. Trong trận thủy chiến gần quần đảo Echinades, hạm đội Kitô hữu đã đại thắng mà không bị thiệt hại nặng và địch quân hoàn toàn thảm bại.

Để tưởng nhớ đặc ân này và để kỷ niệm một cuộc chiến đáng ghi nhớ như thế, vị Thánh Giáo Hoàng này đã muốn lập một lễ tôn kính Đức Mẹ Thắng Trận, một lễ mà Đức Giáo Hoàng Gregôriô XIII đã đặt cho danh xưng là “Rất Thánh Mân Côi”.

Trong thế kỷ qua còn có những thành quả quan trọng khác tương tự như thế đối với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Temesvar nước Hung Gia Lợi và ở Corfu. Trong cả hai trường hợp này đều dính dáng trùng hợp với các ngày lễ của Đức Mẹ và với các cuộc tổ chức đọc kinh Mân Côi chung. Kết quả đã làm cho vị tiền nhiệm của Ta là Đức Clementê XI, để tỏ lòng tri ân, đã truyền cho cả Giáo Hội hằng năm phải đặc biệt tôn kính Đức Mẹ Thiên Chúa bằng kinh Mân Côi của Người.

Từ đó, thể thức cầu nguyện này rõ ràng là một cách cầu nguyện đẹp lòng Đức Trinh Nữ, và cũng là một phương tiện hiệu nghiệm trong việc bảo vệ Giáo Hội và mọi Kitô hữu. Bởi thế, không lạ gì đã có một số vị tiền nhiệm của Ta tỏ ra mộ mến và thúc giục truyền bá ra cho sâu rộng.

- Đức Urbanô IV chứng nhận là: “mỗi ngày kinh Mân Côi mang lại những ơn phúc mới mẻ cho Kitô giáo.”

- Đức Sixtô IV tuyên ngôn rằng phương pháp cầu nguyện này “làm tăng thêm việc tôn vinh Thiên Chúa và Đức Trinh Nữ, cũng như rất thích hợp trong việc phòng ngừa những hiểm nguy đang đe dọa”.

- Đức Lêô X: “Kinh Mân Côi được thiết lập để chống lại các kẻ gieo rắc lầm lạc và các lạc thuyết.”

- Đức Juliô III lại gọi kinh Mân Côi là “vinh quang của Giáo Hội.”

- Thánh Piô V nói rằng “nhờ việc truyền bá lòng tôn sùng này mà tín hữu trở nên nhiệt tình hơn trong việc suy niệm và sốt sắng hơn trong việc cầu nguyện; họ biến đổi một cách nhanh chóng; bóng tối lạc thuyết biến tan và ánh sáng Đức Tin Công Giáo bừng rạng trong vinh quang đổi mới.”

- Sau hết, đến lượt Đức Grêgôry XIII, ngài công bố rằng: “Kinh Mân Côi được thánh Đaminh thiết lập để ngăn cản cơn thịnh nộ của Thiên Chúa và để kêu cầu sự can thiệp của Đức Trinh Nữ Maria.”

(
Vì muốn cho Lời của các vị Giáo Hoàng nói về Kinh Mân Côi nổi bật hơn, Người dịch tự phân đoạn Lời của các vị, mà theo nguyên bản được viết liền với nhau, và làm cho những Lời đó đậm lên)

Cảm kích trước những lời và gương sáng này của các vị tiền nhiệm, Ta tin rằng, với cùng một lý lẽ như các ngài, đây là lúc thuận tiện nhất cho việc thiết lập những kinh nguyện chung và cho việc cố gắng lợi dụng những lời kinh nguyện của chuỗi kinh Mân Côi dâng lên Đức Trinh Nữ, để xin Chúa Giêsu Kitô, Con Mẹ, một sự trợ giúp tương tự đối với những hiểm nguy hiện nay. Qúi Huynh thân kính, qúi huynh đã thấy rõ những thử thách mà Giáo Hội hằng ngày phải đương đầu: lòng đạo đức Kitô hữu, nền luân lý chung, không những thế, ngay cả chính Đức Tin, sự thiện tối cao và đầu mối của mọi nhân đức, hằng ngày bị đe dọa tàn lụi đi một cách thảm khốc nhất.

Trước tình thế khốn khó hiện nay, không phải là những người bàng quan, với đức ái của mình cũng như của Ta, quí huynh cảm thấy bị xâu xé đớn đau. Còn gì buồn thảm và đau đớn cho bằng, khi thấy rất nhiều linh hồn được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Kitô, bị những cơn gió lốc lầm lạc đương thời, cuốn mất ơn cứu độ, mà nhào xuống vực thẳm của sự chết đời đời. Nhu cầu của chúng ta hôm nay cũng khẩn thiết như thời mà Đại Thánh Đaminh khởi xướng sử dụng Kinh Mân Côi của Mẹ Maria để băng bó những vết thương thời đại của Ngài. Vị thánh danh tiếng này thực sự, với ơn soi sáng thần linh, đã thấy rằng không có một phương cách nào hiệu nghiệm hơn để chống lại với những sự dữ của thời đại bấy giờ, làm cho người ta trở về với Chúa Kitô “là đường, là sự thật và là sự sống”, bằng việc thường xuyên suy niệm ơn cứu độ mà Người lập được cho chúng ta, khi tìm cầu sự can thiệp của Thiên Chúa qua Đức Trinh Nữ, Đấng có thể phá tan tất cả mọi lạc thuyết.

Thế nên, thánh nhân đã sáng tác Kinh Mân Côi để tưởng nhớ theo thứ tự các mầu nhiệm cứu độ của chúng ta, mà chủ điểm để suy niệm được tóm gọn và kết cầu, đúng như vậy, giữa Lời Thiên Thần Chào và các lời nguyện xin Thiên Chúa cũng là Cha của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Bởi thế, là những người tìm kiếm phương cách chữa trị những sự dữ như thế, chúng ta không được hồ nghi kinh nguyện đã được khởi xướng lên bởi một con người hết sức thánh thiện này đã mang lại rất nhiều thắng lợi cho thế giới Công Giáo, cũng sẽ mang lại những công hiệu cả thể trong việc khử trừ những tai ương của thời đại chúng ta. Ta chẳng những hết lòng khuyên giục tất cả mọi Kitô hữu không ngừng hăng say lần hạt Mân Côi chung, hay riêng tại tư gia trong gia đình, mà còn ước mong trọn Tháng Mười năm nay được hiến dâng cho Trinh Nữ Vương Mân Côi.

Quí Huynh thân kính, với tấm lòng tôn kính Đức Maria và an sinh xã hội loài người, Quí Huynh chắc hẳn càng hết sức thực hiện việc nuôi dưỡng lòng đạo đức của các tín hữu đối với Vị Đại Trinh Nữ và tăng tiến lòng tin tưởng của họ nơi Người. Ta tin rằng, đây là những gì Thiên Chúa Quan Phòng muốn, trong những thời điểm Giáo Hội bị thử thac1h như thế này, việc tôn sùng cổ kính đối với Trinh Nữ Cao Cả phải được sống động và triển nở một cách rộng rãi hơn trong thế giới Kitô giáo. Chớ gì các quốc gia Kitô giáo ngày nay, nhờ lời khuyên dụ của Ta gợi hứng và lời kêu gọi của Quí Huynh nung nấu, tìm kiếm sự phù hộ của Đức Maria mỗi ngày một nhiệt liệt hơn. Chớ gì họ càng gắn bó hơn với việc lần hạt Mân Côi, một việc tôn sùng mà các vị tiền bối của Ta vẫn có thói quen thực hành, chẳng những như một phương thế bao giờ cũng hiệu nghiệm đối với những lầm than của mình, mà còn như nhãn hiệu thực sự cho lòng đạo đức của người Kitô hữu. Vị Nữ Thánh Sư trên trời của loài người sẽ vui mừng nhận lãnh những lời nguyện cầu và nguyện xin này, và sẽ mau mắn làm cho kẻ lành được tấn tới trên đường nhân đức, kẻ lầm lạc thống hối trở về với ơn cứu rỗi, và Thiên Chúa, Đấng báo oán tội lỗi, cảm thương sẽ giải cứu vương quốc Kitô giáo cũng như xã hội loài người khỏi mọi hiểm nguy, trong một nền hòa bình hằng mong đợi.

An lòng với niềm cậy trông này, bằng tất cả sức mạnh linh hồn của chúng ta, Ta dâng lên Chúa những lời nguyện nhiệt thành nhất, để, nhờ sự cầu bầu của Đấng mà Ngài đã ban cho đầy mọi thiện hảo, Ngài tràn đổ xuống trên Quí Huynh thân kính, tràn đầy hết mọi ân phúc.

 

Our Lady of the Holy Rosary, pray for us | Rosary, Praying the rosary  catholic, Prayers to mary

 

Đức Mẹ Mân Côi Thắng Trận với Cuộc Hải Chiến Lepanto Ngày 7/10/1571

 

Thánh Đaminh đã lãnh nhận kinh mân côi từ Đức Trinh Nữ Maria trong một thị kiến đang khi ngài cố gắng để hoán cải thành phần bè rối Albigensê năm 1208. Mẹ Maria đã nói với vị đại thánh này rằng kinh mân côi là “một thứ vũ khí được Thiên Chúa Ba Ngôi có ý sử dụng để canh tân thế giới”. Trong Trận Chiến ở Muret ngày 12/9/1213, kinh nguyện Thánh Mẫu này đã đánh bại bè rối Albegensê và sau đó một đền thờ đầu tiên được xây cất kính Đức Mẹ Thắng Trận.

 

Qua các thế kỷ, kinh mân côi đã được lần đặc biệt trong những lúc nguy hiểm để van nài việc trợ giúp của Đức Nữ Trinh này. Ngày 7/10/2006 này là năm thứ 435 kỷ niệm Trận Hải Chiến Lepantô, một biến cố đã mang lại cho thế giới một thánh lễ mân côi.

 

Khắp thế kỷ 16, những cuộc đụng độ về hải quân với hạm đội của Thổ Nhĩ Kỳ càng ngày càng gia tăng. Sauk hi chiếm được thành Constantinople của đế quốc Byzantine năm 1453, Quân D8ến Quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ thiết lập một hạm đội với mục đích chiến thắng toàn thể Âu Châu,, trước hết bằng đường biển sau bằng đường bộ.

 

Hạm đội của Thổ Nhĩ Kỳ là một hạm đội hầu như bất khả thắng. Họ đã chiếm Cyprus, Rhodes và chỉ gần như bị đẩy lui ở Malta mà thôi.

 

Thánh Giáo Hoàng Piô V, một nhà cải cách dòng Đaminh và là bạn của Thánh Charles Borromeo, đã hy vọng ngăn chặn được một cuộc tấn công không thể tránh sắp tới trước khi nó xẩy ra, và tìm cách qui tụ vua của nước Tây Ban Nha cùng các nước cộng hòa Venice và Genoa hợp với hạm đội của đức giáo hoàng trong việc chặn đứng hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ rời vùng biển riêng của nó.

 

Lực lượng liên minh quan đáng kể này bao gồm nhiều kẻ thù truyền kiếp, thành phần đã quyết định gạt bỏ những khác biệt của mình ra ngoài để hỗ trợ việc chung. Họ đã hạ thủy 200 chiếc tầu hùng mạnh để giao chiến với 220 tầu của hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ.

 

Thánh Giáo Hoàng Piô V, ngoài việc thống hối cá nhân, đã kêu gọi toàn thế giới Kitô hữu hãy cầu kinh mân côi và tổ chức những cuộc cung nghinh Đức Mẹ khắp thành phố để cầu cùng Mẹ Maria. Vào ngày 7/10/1571, trong khi đang làm việc với các vị hồng y của mình, vị giáo hoàng này đã ngước mắt lên mà nói: “Cuộc ngừng bắn đã xẩy ra, công việc lớn lao của chúng ta vào lúc này là tạ ơn Thiên Chúa về chiến thắng Ngài vừa ban cho quân đội Kitô Giáo”.

 

Thật vậy, một ít giờ đồng hồ sau đó, Don John của Áo quốc, vị tổng chỉ huy của Liên Minh Thánh, đã chiến thắng vào ngày hôm ấy, chẳng những đánh bại hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ mà còn giải phóng cho gần 20 ngàn nô lệ Kitô hữu khỏi các tầu bè của người Thổ.

 

Bởi thế ban đầu đã có Lễ Đức Bà Thắng Trận, sau được Giáo Hoàng Grêgôriô XIII đổi thành lễ Đức Mẹ Mân Côi, và đã phổ biến cho toàn thế giới bởi Đức Clêmentê vào năm 1716.

 

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đáng kính nhớ đã nhắc nhở người Công Giáo rằng, trong thời đại tân tiến của chúng ta đây, chúng ta hơn bao giờ hết cần đến kinh mân côi. Sau biến cố 11/9/2001, ngài đã tuyên bố rằng: “trong bối cảnh quốc tế hiện nay, tôi kêu mời tất cả mọi người – cá nhân, gia đình, cộng đồng – hãy cầu kinh nguyện Thánh Mẫu này, hằng ngày có thể, cho hòa bình, nhờ đó, thế giới được giữ cho khỏi nạn khủng bố gian ác”. Năm sau đó, ngài đã mở Năm Mân Côi (2003-1004) và thêm 5 Mầu Nhiệm Ánh Sáng vào tràng kinh mân côi 150.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 5/10/2006 

 

Our Lady of Fatima (May 13th) - "Say the Rosary every day to obtain peace  for the world. And after each decade s… | Lady of fatima, Saying the rosary,  Fatima prayer

 


Thứ Năm


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 3, 1-5

"Anh em đã lãnh nhận Thánh Thần bởi giữ luật hay bởi vâng phục đức tin?"

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Ôi những người Galata vô tâm trí, ai đã mê hoặc anh em bất phục chân lý tỏ bày Ðức Giêsu Kitô trước mặt anh em, Ðấng chịu đóng đinh vào thập giá trong anh em? Tôi chỉ muốn anh em cho biết một điều này: là anh em đã lãnh nhận Thánh Thần bởi giữ luật hay bởi vâng phục đức tin? Chớ thì anh em vô tâm trí đến nỗi anh em đã khởi công theo tinh thần, để rồi giờ đây kết thúc theo xác thịt sao? Anh em đã chịu đựng bao nhiêu chuyện như thế luống công sao, nếu có thể nói là luống công? Vậy Ðấng ban Thánh Thần cho anh em và làm những việc lạ lùng nơi anh em, có phải Người hành động bởi anh em giữ luật hay bởi anh em vâng phục đức tin?

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Lc 1, 69-70. 71-72. 73-75

Ðáp: Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài (c. 68).

Xướng: 1) Chúa đã gầy dựng cho chúng ta một uy quyền cứu độ, trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa. Như Ngài đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa. - Ðáp.

2) Ðể giải phóng chúng ta khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng ta. Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta, và nhớ lại lời thánh ước của Ngài. - Ðáp.

3) Lời minh ước mà Ngài tuyên thệ với Abraham tổ phụ chúng ta rằng: Ngài cho chúng ta được không sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù; phục vụ Ngài trong thánh thiện và công chính, trước tôn nhan Ngài, trọn đời sống chúng ta. - Ðáp.

Alleluia: Lc 4, 18-19

Alleluia, alleluia! - Chúa đã sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 11, 5-13

"Các con hãy xin thì sẽ được".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: "Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi anh ấy". Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: "Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được". Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần.

"Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người".

Ðó là lời Chúa.

God WILL Answer Your Prayers

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Sống đạo có thiệt thòi ... mới là sống đạo, mới được như ý

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XXVII Thường Niên hôm nay tiếp tục tinh thần cầu nguyện của bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến lòng tin tưởng vào Đấng ban ân sủng cho những ai chân thành thỉnh nguyện. Nguyên văn toàn bài Phúc Âm hôm nay là: 

"Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thiết đãi anh ấy. Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được. Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần. Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người". 

Trong bài Phúc Âm hôm nay chúng ta cảm thấy như thể xin gì được nấy, xin gì cũng được, căn cứ vào lời Chúa vừa thúc giục: "Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho", vừa hứa quyết: "Vì hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho". 

Có hai lý do để xin gì được nấy, như chiều hướng của bài Phúc Âm cho thấy: trước hết là chỉ cần nhẫn nại kêu xin bằng cách liên tục quấy rầy Chúa: "Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần". 

Lý do chính yếu để được những gì mình xin là tin tưởng vào tấm lòng yêu thương vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng là Cha trên trời bao giờ cũng yêu thương con cái và muốn ban cho con cái những gì tốt nhất và lợi nhất:  

"Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người". 

Tất nhiên, một khi đã sâu xa và đích thực nhận biết Thiên Chúa là Cha nhân lành và hoàn toàn tin tưởng vào Ngài thì con người có thể biết được những gì đẹp lòng Ngài nhất, và chỉ xin những gì đáng xin, cần xin và phải xin mà thôi, nhất là xin cho tha nhân, xin vì đức bác ái yêu thương v.v. như trường hợp được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay: 

"Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thiết đãi anh ấy". 

Trong Bài Đọc 1 hôm nay Thánh Phaolô nhắc nhở với giáo đoàn Galata và nhấn mạnh đến vấn đề, có thể nói là then chốt của ngài cũng như của chúng dân Do thái và của riêng thành phần trí thức của dân này, như thành phần thông luật, giữ luật và dạy luật biệt phái như chàng Saoloê ngày xưa, đó là "anh em đã lãnh nhận Thánh Thần bởi giữ luật hay bởi vâng phục đức tin?", và ngài đồng thời cũng trả lời cho họ bằng một nghi vấn khẳng định khác rằng: "Vậy Ðấng ban Thánh Thần cho anh em và làm những việc lạ lùng nơi anh em, có phải Người hành động bởi anh em giữ luật hay bởi anh em vâng phục đức tin?"

Ở đây, Thánh Phaolô nhấn mạnh đến yếu tố bất khả thiếu nơi Kitô hữu để được nên công chính và thánh hóa, đó là "vâng phục đức tin" hay "đức tin tuân phục" cũng vậy, chứ không phải là "giữ luật" theo chủ trương và khuynh hướng duy luật của thành phần trí thức Do Thái giáo. Bởi vì, chỉ sống đức tin tuân phục, Kitô hữu mới tiến đến chỗ từ đức tin đến đức ái: "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6), một đức ái đã khiến "người bạn" tốt lành, được dụ ngôn Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại liên quan đến việc cầu nguyện bằng ttấ cả tấm lòng, một tấm lòng yêu thương bác ái tận tình đối với khách đến thăm nhà của anh ta, mà anh ta lại không có gì để thiết đãi, đến độ, dù đêm khuya, anh ta cũng cố gắng đi kiếm lấy một cái gì đó cho khách, dù bản thân anh có vất vả và có bị người khác la rầy trách móc chăng nữa.

Hành động của "người bạn" trong Bài Phúc Âm hôm nay hết sức bác ái yêu thương trọn lành như thế không thể nào xẩy ra nếu "người bạn" này không có "đức tin tuân phục", một "đức tin thể hiện qua đức ái" bất chấp mọi sự, không biết sợ hãi, vì họ đã được Chúa Kitô cứu độ, đã được Người "giải phóng khỏi tay quân thù" (Đáp Ca đầu câu xướng 2), nên đã thật sự cho thấy lời ý nghĩa sâu xa trong lời của tư tế Giacaria ở Ca Vịnh Chúc Tụng Benedictus của ông nơi Bài Đáp Ca hôm nay, cuối câu xướng thứ 3: "Ngài cho chúng ta được không sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù; phục vụ Ngài trong thánh thiện và công chính, trước tôn nhan Ngài, trọn đời sống chúng ta".

 

 


 

Thứ Sáu

 

Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 3, 7-14

"Những ai cậy dựa vào đức tin, sẽ được chúc phúc với Abraham, con người tin tưởng".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, anh em hãy nhận biết rằng: những ai cậy dựa vào đức tin, thì họ là con cái của Abraham. Thực Kinh Thánh thấy trước rằng Thiên Chúa sẽ dùng đức tin làm cho các dân ngoại được công chính, nên đã tiên báo cho Abraham rằng: "Nơi ngươi tất cả dân ngoại sẽ được chúc phúc". Vậy những ai cậy dựa vào đức tin sẽ được chúc phúc với Abraham, con người tin tưởng.

Thực ra, những người cậy dựa vào lề luật, họ mắc phải điều vô phúc, vì có lời chép rằng: "Vô phúc những ai không trung thành với những điều ghi trong Sách Luật, để thi hành những điều đó". Ðàng khác, không ai được công chính hoá trước mặt Chúa bởi lề luật, đó là điều hiển nhiên, vì lẽ rằng: "Người công chính sẽ sống bởi đức tin". Lề luật không căn cứ ở đức tin, nhưng là "Ai thực hành những khoản ấy, sẽ nhờ đó mà được sống".

Ðức Kitô đã cứu chuộc chúng ta khỏi điều vô phúc của lề luật, bởi Người đã vì chúng ta, biến thành điều vô phúc, như lời chép rằng: "Hễ ai bị treo trên cây gỗ, đều là vô phúc", để phúc lành của Abraham được chuyển tới các dân ngoại trong Ðức Giêsu Kitô, hầu chúng ta nhờ đức tin mà lãnh nhận Thánh Thần Chúa đã hứa".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 110, 1-2. 3-4. 5-6

Ðáp: Cho tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 5b).

Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi! - Ðáp.

2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Người muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi. - Ðáp.

3) Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Người, cho tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước. Chúa tỏ cho dân Người thấy công cuộc quyền năng của Người, hầu ban cho họ được phần sản nghiệp của chư dân. - Ðáp.

 

Alleluia: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời, và vinh quang trên các tầng trời! - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 11, 15-26

"Nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, (lúc Chúa Giêsu trừ quỷ), thì có mấy người trong dân chúng nói rằng: "Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ". Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống.

Nhưng Người biết ý của họ, liền phán: "Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.

"Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tán hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán.

"Khi thần ô uế ra khỏi người nào, thì nó đi dông dài những nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng không tìm được, nên nó nói rằng: "Ta sẽ trở lại nhà ta, nơi ta đã ra đi". Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được quét sạch và sắp đặt ngăn nắp. Bấy giờ nó đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và tình trạng sau cùng của người ấy trở nên tệ hại hơn trước".

Ðó là lời Chúa.

 

DO NOT HONOR HIM ONLY WITH OUR LIPS [MARK 7:1-13] | A CHRISTIAN PILGRIMAGE

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Khi thần ô uế trở về...

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Sáu Tuần XXVII Thường Niên hôm nay cách bài Phúc Âm hôm qua chỉ có một câu duy nhất, đó là câu "Chúa Giêsu trừ một quỉ câm, và khi tên quỉ này bị khu trừ thì người câm nói được. Thấy thế đám đông tỏ ra bàng hoàng kinh ngạc" (Luca 11:14).  

Tuy nhiên, giữa lúc hầu hết dân chúng chứng kiến thấy thế thì đều tỏ ra bàng hoàng kinh ngạc như vậy, cũng còn có một số người vẫn nhất định không tin bằng những dẫn giải lệch lạc hay tiếp tục đòi hỏi hơn thế nữa theo ý của họ rồi mới chịu tin, như bài Phúc Âm hôm nay kể tiếp: "thì có mấy người trong dân chúng nói rằng: 'Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ'. Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống". 

Trước thái độ thách thức của một thiểu số con người cứng lòng tin này, Chúa Giêsu đã nhẫn nại cho họ thấy những dẫn giải của họ là sai lầm, hoàn toàn mâu thuẫn, khi Người lấy gậy ông đập lưng ông, lấy chính lập luận của họ để bẻ gẫy họ, khiến họ cứng họng, ở chỗ:  

"Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi". 

Phải, Chúa Giêsu đã chẳng những vạch ra cho những con người cứng lòng tin này thấy cái mâu thuẫn đầy thành kiến của họ mà còn từ đó cho họ thấy dấu chỉ thời đại về Nước Thiên Chúa ở ngay sự kiện Người trừ quỉ câm bấy giờ nữa: "Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".  

Nếu theo nguyên tắc "Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán", như Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, thì những kẻ dẫn giải sai lầm về sự kiện trừ quỉ câm của Người trong bài Phúc Âm là thành phần nghịch với Người, đồng thời cũng vì thế mà trở thành những kẻ "phân tán" hay cũng gọi là thành phần thọc gậy bánh xe hay thành phần phá đám.  

Đoạn cuối cùng của Bài Phúc Âm hôm nay cũng rất đáng chú ý, bởi vì nó hình như liên quan đến chính bản thân của con người được Chúa Giêsu trừ quỉ cho: 

"Khi thần ô uế ra khỏi người nào, thì nó đi dông dài những nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng không tìm được, nên nó nói rằng: 'Ta sẽ trở lại nhà ta, nơi ta đã ra đi'. Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được quét sạch và sắp đặt ngăn nắp. Bấy giờ nó đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và tình trạng sau cùng của người ấy trở nên tệ hại hơn trước". 

Ở đây chúng ta có thể áp dụng vào trường hợp của thành phần tân tòng được trừ quỉ nhờ Phép Rửa lúc họ được thanh tẩy khỏi nguyên tội, hay trường hợp của thành phần được trừ quỉ nhờ quyền năng tha tội của Thiên Chúa trong tòa giải tội, hoặc trường hợp của những tâm hồn được trừ quỉ bởi ân sủng dồi dào nhờ một cuộc tĩnh tâm tuyệt vời nào đó v.v 

Thế nhưng, trong tiến trình tiến đức và hành trình đức tin, nhất là gặp những giai đoạn khô khan nguội lạnh, các đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu, (là những gì không bao giờ bị tiêu diệt hoàn toàn trong con người dù họ đã được lãnh nhận Phép Rửa, đã được thánh hóa), bấy giờ chúng như bừng tỉnh sau một thời gian thiếp ngủ trước tác dụng của ân sủng thần linh nơi tâm hồn tân tòng hay mới hòa giải hoặc mới tĩnh tâm sốt sắng về, như nằm chờ thời cơ, lại bắt đầu được dịp tái hoành hành và tung hoành còn dữ dội hơn trước nữa, khiến tình trạng tâm hồn ấy trở nên khốn đốn hơn bao giờ hết.

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, vị tông đồ dân ngoại đã nhắc nhở thành phần Kitô hữu thuộc giáo đoàn dân ngoại Galata về việc họ cần phải sống bằng đức tin, vì nhờ yếu tố đức tin này, mà họ đã "lãnh nhận Thánh Thần Chúa đã hứa" qua Phép Rửa Tái Sinh, vì "Ðức Kitô đã cứu chuộc chúng ta khỏi điều vô phúc của lề luật, bởi Người đã vì chúng ta, biến thành điều vô phúc". Và chỉ khi nào họ tiếp tục sống bằng đức tin và sống theo đức tin, dưới tác động của Thánh Thần như "gió muốn thổi đâu thì thổi" (Gioan 3:9) nơi họ, nghĩa là họ không sống tự nhiên theo khuynh hướng thế gian trần tục, thì tình trạng ngôi nhà nội tâm của họ sẽ không sợ bị "trở nên khốn nạn hơn trước", như Chúa Giêsu cảnh báo trong Bài Phúc Âm hôm nay.

Chính vì sống đức tin, nghĩa là nhờ ân sủng của Chúa, mà con người được thánh hóa và sống công chính, con người mới chẳng những tránh được thái độ tự phụ tự mãn của thành phần tự cho mình là công chính do bởi việc tuân giữ lề luật, hay việc họ sống đạo đức, mà còn thật lòng hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, cùng mau mắn đáp ứng từng tác động của Thánh Linh nơi họ, nhờ đó họ mới có thể bày tỏ tất cả tâm tình và xác tín của mình như trong Thánh Vịnh 110 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi!

2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Người muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi. 

3) Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Người, cho tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước. Chúa tỏ cho dân Người thấy công cuộc quyền năng của Người, hầu ban cho họ được phần sản nghiệp của chư dân.

 

Thánh Điônysiô / Dennis, Giám mục và các bạn tử đạo

 

Điều đầu tiên chúng ta được biết về ba vị này là họ được tử đạo khoảng năm 258, theo như văn bản của Thánh Grêgôriô ở Tours thuộc thế kỷ thứ sáu. "Thánh Điônysiô, Giám mục Paris, đã chịu nhiều đau khổ vì danh Chúa Kitô và kết thúc cuộc đời dưới lưỡi gươm."

Câu nói trên đây của thánh Grêgoriô thành Tours là tất cả những gì chúng ta biết được về thánh Điônysiô. Người ta kể lại truyền thuyết rất hấp dẫn về Ngài như sau:

Dựa theo tường thuật của thánh Ghê-gô-ri-ô thành Tua, năm 200, thì vào năm 251, Đức Giáo Hoàng Fabianô đã sai bảy Giám mục đi truyền giáo tại xứ Gaules (Tên gọi nước Pháp ngày xưa). Các vị tông đồ này đã vượt qua mọi gian nguy và thiết lập nên các giáo đoàn Arles, Toulouse, Narbonne, Clermont, Limoges, Tours và Lutèce. Trước hết, các Ngài dừng lại ở Arles, rồi phân tán đi các tỉnh xứ Gaules. Lutèce là tỉnh xa nhất. Nhiệt tâm với đức tin, Điônysiô đã muốn tới đó. Ngài đến tận kinh đô Pa-ri lúc đó gọi là Lu-téc, và đi khắp nơi giảng đạo Chúa. Đi đến đâu, người ta cũng ùn ùn kéo đến nghe ngài giảng, và rất nhiều người trở lại đạo. Ngài cho cất nhiều nhà thờ để tập họ đọc kinh cầu nguyện, tham dự Thánh lễ và ban các Bí tích cho họ. Với các giáo dân ngày càng đông, thánh nhân thành lập giáo đoàn tại Pa-ri và làm Giám mục tiên khởi giáo phận nầy.

Điônysiô đã thực hiện được nhiều cuộc trở lại rất ngoạn mục. Chỉ kêu cầu đến danh Chúa, Ngài đã làm lật nhào pho tượng thần Hỏa (Mars) khổng lồ. Chứng kiến cảnh tượng này, nhiều người đã phục dưới chân Ngài xin theo đạo. Cùng với linh mục Eleutheeiô và phó tế Rusticô, Điônysiô tiến xa về hướng Bắc và dừng lại tại Lutèce. Ngài thiết lập giáo đoàn Paris và làm Giám mục tiên khởi của giáo đoàn này. Ngài luận bác sự điên dại của các ngẫu thần và rao giảng một Thiên Chúa duy nhất và Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc.

Phần đông thính giả tin theo ánh sáng Kitô giáo. Một trong số những người trở lại là lãnh chúa miền Montmorency. Tên ông là Lisiniue. Ông đã cho thánh Điônysiô trú ngụ và biến gia thất thành nơi hội họp của các Kitô hữu. Dân chúng đổ xô đến nghe rao giảng, từ bỏ tà thần và lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Thánh Điônysiô phong chức cho nhiều thừa tác viên mới. Dùng của cải dân Gaules dâng hiến, Ngài dựng nên bốn nhà nguyện: một dâng hiến Chúa Ba Ngôi (nơi này sẽ thánh thánh đường kính thánh Bênêđictô). Năm 1685, người ta đọc được ở đó những dòng chữ này: “Trong nguyện đường này, thánh Điônysiô đã khởi sự yêu cầu Chúa Ba Ngôi”, một nguyện đường dâng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô (thánh Ghenevière thích đến cầu nguyện và được mai táng tại đây), nguyện đường thứ ba dâng kính thánh STêphanô và nguyện đường thứ tư dâng kính Đức Bà (nay gọi là đền thờ Notre-dame-des-champs).

Thánh Điônysiô vui mừng vì thành quả gặt hái được. Nhưng các người ngoại, nhất là các tư tế dân ngoại bực tức. Họ than phiền với quan chức của vương quốc. Khi hoàng đế Maximilianô mang quân qua xứ Gaules, lệnh bách hại Kitô giáo được ban hành nghiêm nhặt. Vị tông đồ cùng với hai vị bị điệu ra tòa. Ngài trả lời rằng:
   - Chúng tôi là tôi tớ Chúa Kitô.

Thánh Denis đặt địa bàn truyền giáo ở một hòn đảo trong vùng Seine gần thành phố Lutetia Parisorium -- sau này trở thành thủ đô Balê. Vì lý do đó ngài được coi là vị giám mục đầu tiên của Balê và là Tông Đồ nước Pháp. Ở đây ngài bị bắt cùng với Rusticus và Eleutherius. Các học giả sau này đề cập đến Rusticus và Eleutherius như linh mục và thầy sáu của Đức Giám Mục Denis, ngoài ra chúng ta không còn biết gì thêm.

Thánh Điônysiô cùng hai bạn bị tống ngục, nơi sẽ trở thành thánh đường thánh Điônysiô thành Chartres. Bị đánh đòn, bị hành hạ đến chảy máu, thánh nhân không hề than trách kêu la. Thay tiếng rên xiết, Ngài nói lên niềm tin và lời ca tụng. Bọn lý hình giương búa, múa roi trước mặt Ngài, nhưng lão già 110 tuổi đầu bạc vẫn đầy tin tưởng và êm dịu trả lời:
   - Chớ gì tôi phải chịu tất cả mọi cực hình này cùng một lúc để tôi sớm được hạnh phúc với Chúa Kitô.

Ngài bị ném cho thú vật xâu xé. Nhưng những thú dữ chỉ liếm chân Ngài. Bị treo lên Thập Giá, nhưng từ trên cao, Ngài giảng về cuộc khổ nạn của Chúa khiến cho nhiều người trở lại. Vừa sợ vừa giận, quan tòa ra lệnh xử trảm con người đầy dũng cảm này. Nơi hành hình là một ngọn đồi dâng kính Thủy thần (Nercure), nhưng sau này được coi là núi các thánh tử đạo (Montmartre). Xác các thánh tử đạo không được chôn cất, nhưng phải để làm mồi cho súc vật. Nhưng có huyền thoại kể rằng: thánh Điônysiô sau khi bị chặt đầu, đã chỗi dậy cầm lấy đầu mình, đi xa khoảng hai dặm về hướng đông. Một sử gia nói rằng: Ngài dừng lại ở nơi Ngài muốn chôn cất và là tu viện của Ngài.

Có một phụ nữ tên là Catulla đã chôn xác Ngài ở một ngôi làng (làng này sẽ mang tên Điônysiô) bà dựng một nguyện đường bằng gỗ. Vào thế kỷ V, tại Catulliacus (nay là thành phố Saint-Denis), thánh nữ Geneviève đã cho xây một ngôi thánh đường tu viện trên phần mộ vị thánh bổn mạng của Paris này. Và vào thế kỷ VII, vua Dagobert cho trùng tu lại; ngôi thánh đường này đã trở thành khu nghĩa trang của các vua nước Pháp.

Đến thế kỷ thứ chín, tiểu sử của Thánh Denis bị lẫn lộn với Thánh Dionysius người Areopagite, nhưng sau này các học giả xác định ngài là một vị thánh riêng biệt.

 

Thánh Denis thường được vẽ khi ngài tử đạo -- không có đầu (với một cành nho vươn lên từ cổ) và tay ngài cầm chính đầu của ngài với nón giám mục.

 

Được coi là vị thánh đặc biệt của Balê, Thánh Denis là quan thầy của nước Pháp.

 

Lời Nguyện của ngày nhắc chúng ta nhớ đến cuộc tử đạo của “thánh giám mục Denis và các bạn tử đạo”. Cuộc hy sinh của các ngài đã xây dựng nên Hội Thánh ở Paris cách nay mười bảy thế kỷ. Khi nhớ lại cuộc tử đạo của các ngài, chúng ta cũng nhớ đến nguồn gốc đức tin của chúng ta và tôn vinh Đức Kitô, Đấng Sáng Lập duy nhất của Hội Thánh. Chính Người đã làm cho máu các thánh tử đạo sinh hoa kết quả và làm cho các môn đệ của Người trở thành muối đất và ánh sáng thế gian (xem Tin mừng của ngày). Trong Phụng vụ Giờ Kinh Sách, thánh Ambrôsiô chú giải Thánh vịnh 118 như sau: “Mỗi ngày, bạn đều làm chứng nhân cho Chúa Kitô... Vì thế bạn hãy trung thành và can đảm trong những thử thách bên trong, để cũng chiến thắng trong những thử thách bên ngoài. Trong các cuộc thử thách bên trong, cũng có những vua chúa, những quan án có quyền lực kinh khủng. Việc Chúa Giêsu chịu ma quỉ cám dỗ là một ví dụ cho bạn về điều này.”

Thánh Đi-ô-ni-xi-ô là một vị thánh rất nổi tiếng, nhất là ở Pháp, nơi có nhiều làng mang tên ngài. Thành phố Paris chọn ngài làm thánh bổn mạng, và được ca tụng là một thành phố “có phước” trong một bài tán dương của vị cố vấn giám mục Giêrusalem ngày 3 tháng 10 năm 833: “Phước thay thành phố đang gìn giữ cái đầu thánh thiện và vinh quang và hài cốt quí báu của ngài – ngài vừa là một vị tử đạo, vừa là một nhà giảng thuyết và giám mục đáng ca ngợi –, cũng như hài cốt của các bạn ngài mà ngài đã giới thiệu với Thiên Chúa như những hiến tế tinh tuyền và toả ngát hương thơm ca tụng. Từ mảnh đất thấm đượm máu đào, vọt trào giòng nước sống để làm giải khát những ai được niềm tin thúc đẩy đến kêu cầu ngài chữa lành các bệnh nhân của họ. Thực vậy, phước thay thành phố Paris! Biết bao thành phố khác của nước Gaule rộng lớn hơn Paris, nhưng nó có thể hãnh diện vì có ngài, vị tiến sĩ đáng kính, một kho báu vinh quang hơn mọi của cải vật chất, một vị thánh quan thầy và bảo trợ. Thiên Chúa đã ban ngài cho Paris để ngài thánh hóa đoàn dân Kitô hữu và các khách hành hương, để ngài trở thành động lực thiêng liêng và nguồn mạch niềm vui sướng, không phải thứ vui sướng làm thoả mãn thể xác, tạo kiêu hãnh cho cung điện, là những thứ mau qua chóng tàn. Ngài là một thành lũy kiên cố cho Paris...một pháo đài được bảo vệ bởi các đồn bót, các tháp canh, các ổ trọng pháo, tựa một bức chắn bằng sắt. Không, cái mang lại sức mạnh cho thành phố là sự thánh thiện của ngài và các bạn tử đạo của ngài.”

Khi mừng kính một trong những vị truyền đạo vĩ đại nhất của đất Gaule, chúng ta nhớ lại nguồn gốc đức tin của chúng ta, và chúng ta tôn vinh chính Thiên Chúa, Đấng kỳ diệu nơi các thánh của Người.

Thánh Gioan Lêônarđô, linh mục

Thánh Gioan Lêônarđô sinh năm 1541 tại Luca miền Tuscia. Từ nhỏ thánh nhân đã theo học ngành thuốc, nhưng rồi bỏ nghề, Ngài muốn làm linh mục. Năm 25 tuổi, Ngài mới bắt đầu học tiếng Latinh, triết học và thần học. Năm 1571, Ngài được thụ phong linh mục. Sau khi chịu chức, người rất tích cực hoạt động tông đồ, nhất là ở bệnh viện và nhà tù. Sự tận tụy và gương mẫu đời sống của người đã thu hút vài người trẻ, và họ bắt đầu tiếp tay với người. Sau này chính họ cũng trở thành linh mục.

Hồi đó tại Tuscia, tinh thần đạo đức của dân chúng bị hoang mang vì lạc thuyết mà Bêrnađinô thành Sienna gieo vãi. Là linh mục trẻ đầy nhiệt huyết, cha Gioan đã tìn cách chấn hưng bằng việc chăm lo giảng dạy và ngồi tòa. Hơn nữa, cha còn lập “hội giáo lý” qui tụ những người có thiện chí lo việc dạy giáo lý cho các trẻ em.

Phấn khởi với luồng gió cải cách mà Công Ðồng Triđentinô đề ra, Cha Gioan và các linh mục bạn đề nghị một tổ chức cho các linh mục địa phận. Năm 1574, thánh Gioan Lêônarđô thành lập một hội dòng, đặt trụ sở tại nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi. Ðề nghị này bị chống đối dữ dội, nhưng vào năm 1583, tổ chức của người được đức giám mục của Lucca công nhận với sự phê chuẩn của Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô XIII vào năm 1621, tổ chức này được chính thức đặt tên là Các Tu Sĩ Chuyên Nghiệp của Mẹ Thiên Chúa. Đức Giáo Hoàng Grêgoriô XV đặt tu hội ngang hàng với các dòng tu kỳ cựu khác. Cha Gioan được sự trợ giúp của Cha Philíp Nêri và ChaGiuse Calasanctius, và vào năm 1595, tổ chức này được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê VIII công nhận, và đức giáo hoàng đã giao cho Cha Gioan công việc chấn chỉnh các tu sĩ ở Vallombrosa và Monte Vergine.

Nhiệt tình của thánh Gioan Lêônarđô và của dòng do Ngài sáng lập, đã mang lại nhiều thành quả tốt đẹp. Nhưng cũng vì thành công này, mà Ngài phải chịu rất nhiều thử thách. Cuối cùng, Ngài đành phải chịu rời Tuscia để về Rôma. Tại đây, Ngài được Đức Giáo Hoàng Grêgoriô XIII tiếp đón ân cần. Ngài cũng có dịp làm quen với thánh Philpphê Nêri, là một người hiền hoà tận tụy, thánh Gioan Lêônarđô được nhiều người tín nhiệm, Ngài còn giải quyết được nhiều cuộc tranh chấp khó khăn.

Tại Rôma, thánh Gioan Lêônarđô vẫn nuôi mộng truyền giáo. Cùng với Đức Hồng Y Baotixita Vivès, năm 1603, Ngài góp phần đào tạo nhiều giáo sĩ các xứ truyền giáo. Năm 1627, Đức Giáo Hoàng Urbanô VIII chính thức thiết lập ngôi trường mà thánh Gioan Lêônarđô đặt nền móng thành “trường truyền giáo”, quy tụ các chủng sinh từ các nước xa xăm.

Ngày 09 tháng 10 năm 1609, Gioan Lêônarđô từ trần, khi mới 68 tuổi vì bị lây bệnh dịch khi chăm sóc các bệnh nhân ở Rôma. Người được sùng kính vì những phép lạ và lòng đạo đức nhiệt thành của người, và được coi là một trong những sáng lập viên của Thánh Bộ Truyền Bá Ðức Tin. Người được Ðức Giáo Hoàng Piô XI tuyên thánh năm 1938. Năm 1706, Giáo Hội lập hồ sơ phong thánh cho Ngài. Năm 1861, Ngài được nâng lên hàng Á thánh và năm 1938 Người được Ðức Giáo Hoàng Piô XI tuyên thánh.

 Trong buổi tiếp kiến chung hằng tuần tại quảng trường thánh Pherô sáng thứ Tư 7 tháng 10 năm 2009, Ðức thánh cha Beneđitô XVI ôn lại gương sáng của thánh Gioan Leonardi, quan thầy của các dược sĩ. Ðức thánh cha nói rằng, vị thánh người Ý này có thể chỉ cho chúng ta thấy rằng "phương dược của Thiên Chúa, tức Chúa Giêsu, là thước đo của mọi sự".

Cùng với đức ông Juan Vives và cha Martin de Funes, một linh mục Dòng Tên, thánh Gioan Leonardi đã giúp thành lập Trường Truyền Giáo chuyên đào tạo các linh mục.

Mặc dù hiến thân phục vụ Chúa và Giáo hội bằng cuộc sống thánh hiến, thánh nhân không bao giờ quên ngành dược. Ngài xác tín rằng "phương dược của Thiên Chúa, tức Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã chịu đóng đinh và sống lại, là thước đo mọi sự".

Thánh nhân cũng làm cố vấn cho một nhóm bạn trẻ mà năm 1574 được qui tụ thành Dòng các linh mục Ðức Trinh Nữ Canh Tân, về sau được biết đến dưới danh hiệu "Các giáo sĩ dòng Mẹ Thiên Chúa".

Ôn lại cuộc đời của thánh Gioan Leonardi, Ðức thánh cha nói: "Gương sáng của vị thánh này mời gọi tất cả mọi tín hữu Kitô, cách riêng các linh mục, hãy cố gắng không ngừng để tiến đến "thước đo cao nhứt của đời sống Kitô là sự thánh thiện". Theo Ðức thánh cha, "chỉ xuyên qua sự trung thành với Chúa Kitô mà sự canh tân Giáo hội đích thực mới có thể phát sinh".

Ðức thánh cha nhắc lại rằng vào thời thánh Gioan Leonardi, người ta đã bắt đầu thấy có sự rạn nứt giữa đức tin và lý trí. Trào lưu này tạo ra những hậu qua tiêu cực, đẩy Thiên Chúa ra bên lề cuộc sống và tạo ra ảo tưởng về sự tự trị hoàn toàn của con người, sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu.

Ðức thánh cha nói rằng đây cũng chính là cuộc khủng hoảng trong tư tưởng hiện đại mà ngài đã nhiều lần nói đến khi đề cập đến những hình thức của chủ nghĩa duy tương đối.

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp TGP Sài Gòn, TGP Hà Nội, Người Tín Hữu, GP Vĩnh Long, Giáo Xứ Tân Việt, VNTaiwan

 


Thứ Bảy


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 3, 22-29

"Tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, Thánh Kinh đã giam giữ mọi loài dưới ách tội lỗi, để nhờ lòng tin vào Ðức Giêsu Kitô mà lời hứa được ban tặng cho những kẻ tin.

Nhưng trước khi đức tin chưa đến, thì chúng ta bị giam giữ dưới ách lề luật, để mong chờ đức tin sẽ được tỏ hiện. Bởi thế, lề luật là thầy dạy đưa chúng ta đến cùng Ðức Kitô, để nhờ đức tin, chúng ta được công chính hoá. Nhưng một khi đức tin đã đến, chúng ta không còn ở dưới quyền thầy dạy nữa. Bởi chưng, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô. Vì chưng, tất cả anh em đã chịu phép rửa tội trong Ðức Kitô, nên anh em đã mặc lấy Ðức Kitô. Nay không còn phân biệt người Do-thái và Hy-lạp, người nô lệ và tự do, người nam và người nữ: vì tất cả anh em là một trong Ðức Giêsu Kitô. Nhưng nếu anh em thuộc về Ðức Kitô, thì anh em là dòng dõi Abraham, những kẻ thừa tự như lời đã hứa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 104, 2-3. 4-5. 6-7

Ðáp: Tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).

Xướng: 1) Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. Hãy tự hào vì danh thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. - Ðáp.

2) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết. - Ðáp.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những người được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 1, 14 và 12b

Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 11, 27-28

"Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ cất tiếng nói rằng: "Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!" Nhưng Người phán rằng: "Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn".

Ðó là lời Chúa.

 

File:Andrea Solario 002.jpg - Wikimedia Commons

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

Mẹ Maria có phúc vì đã tin hơn là được làm Mẹ Thiên Chúa

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XXVII hôm nay phải nói là bài Phúc Âm ngắn nhất trong các bài Phúc Âm cho phần phụng vụ lời Chúa. Vì bài Phúc Âm này chỉ có 2 câu vắn gọn mà thôi: 

"Khi ấy, Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ cất tiếng nói rằng: 'Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!' Nhưng Người phán rằng: 'Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn'". 

Qua 2 câu ngắn ngủi của bài Phúc Âm này, Thánh ký Luca thuật lại cho chúng ta biết về sự kiện có một người đàn bà nghe thấy Chúa Giêsu giảng dạy thì bị cảm kích nên đã lên tiếng ngợi khen mẹ của nhà đại giảng thuyết có phúc vì đã được cưu mang ngài và cho ngài bú, thế nhưng chính vị đại giảng thuyết gia này đã đính chính về cái phúc thật mẹ của Người có được không như người đàn bà ấy tưởng nghĩ. 

Thật vậy, Chúa Giêsu có ý đề cao mẹ của Người về hạnh phúc thật nơi Mẹ không phải chỉ ở tm mức thể lý là "cưu mang" Người và cho Người "" mớm, như một người mẹ bình thường, mà trên hết và trước hết, ở chỗ, Mẹ đã "nghe và giữ lời Thiên Chúa", bằng không Mẹ đã vĩnh viễn không xứng đáng làm Mẹ của Người, và có khả năng làm Mẹ của Người, Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Đấng đến không phải để làm theo ý của mình mà là ý của Đấng đã sai Người (xem Gioan 6:38) 

Thật vậy, Mẹ Maria đầy ân phúc đã chẳng những được Thiên Chúa ở cùng, được làm Mẹ Con Đấng Tối Cao, làm Mẹ Con Thiên Chúa (xem Luca 1:28,32,34), mà còn đầy ân phúc vì đã tin (xem Luca 1:45), đã xin vâng (xem Luca 1:38), "đã theo Con Chiên đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới" (Khải Huyền 14:4), cho tới khi đứng bên Thánh Giá với con mình (xem Gioan 19:25).

Đúng thế, nếu cái "phúc hơn" của Mẹ Maria được Chúa Giêsu đề cao Người Mẹ đầy ơn phúc gương mẫu của Người ở Bài Phúc Âm hôm nay, nhờ đó Mẹ mới xứng đáng và có thể làm Mẹ Thiên Chúa và đồng công với Con cứu chuộc loài người, nhờ đó Mẹ đã trở thành Mẹ của Giáo Hội, thì Kitô hữu giáo đoàn Galata nói riêng, và qua mọi thời đại nói chung, thành phần Kitô hữu được phúc không phải chỉ ở chỗ trở nên "con cái Thiên Chúa nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô", mà còn phải tiếp tục sống Chúa Kitô nữa, sau khi nhờ Phép Rửa họ "đã mặc lấy Ðức Kitô". Nghĩa là, thành phần Kitô hữu qua mọi thời đại phải làm sao cho Chúa Kitô thực sự tỏ hiện nơi họ là môn đệ của Người, và càng ngày càng rạng ngời hơn qua họ là tông đồ chứng nhân cho Người. Ở chỗ "nghe và giữ Lời Chúa" như Người Mẹ "phúc hơn" của Người.

Trong biến cố Truyền Tin, vừa được nghe Tổng Thần Gabiên loan báo tin vui là "trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận" (Luca 1:31-33), Mẹ đã không nhẩy ngay lên xin vâng liền và tạ ơn Chúa ngay, trái lại, Mẹ đã đặt vấn đề với vị sứ thần về chức phận làm Mẹ Thiên Chúa vô cùng cao cả mà Mẹ cảm thấy bản thân Mẹ vô cùng bất xứng ấy.

Cả khi đến thăm người chị họ Isave của mình, Mẹ cũng không tự khoe mà do chính người chị này, nhờ Thánh Thần, tự nhận biết và tôn vinh danh phận vô cùng cao trọng của Mẹ: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? (Luca 1:42-43), một người em của bà cũng chỉ là một phụ nữ như bà, đã được Thiên Chúa nhưng không tuyển chọn, trở thành một tạo vật có phúc hơn tất cả mọi tạo vật, kể cả các thần trời, một tạo vật lại là phụ nữ, một thân phận vốn bị xã hội loài người coi thường theo văn hóa của họ, thậm chí cho tới cả thời đại văn minh tân tiến về cả khoa học kỹ thuật lẫn nhân bản nhân quyền ngày nay,

Cả hai trường hợp xẩy ra trong biến cố Truyền Tin lẫn Thăm Viếng của Mẹ Maria, vừa được dẫn chứng trên đây, đã chứng thực cái phúc của Mẹ không phải là Mẹ được hưởng ân ban quí báu của Thiên Chúa giành cho một tạo vật của Ngài, mà là việc Mẹ được phụng sự Ngài với vai trò là tỳ nữ xin vâng của Mẹ (xem Luca 1:38) Mẹ mới cảm thấy "phúc hơn". Bởi vì cho dù Mẹ bất xứng, chẳng là gì và chẳng đáng gì trước nhan Chúa, nhưng chỉ vì lòng thương xót Chúa đã đoái đến thân phận nữ tỳ của Mẹ nên đã thực hiện những việc lạ lùng vĩ đại nơi Mẹ  thôi, như qua Mẹ Ngài muốn tỏ ra cho chung tạo vật thấy lòng thương xót của Ngài, nên Mẹ đã được muôn đời ngợi khen chúc tụng Mẹ diễm phúc (xem Luca 1:48-50). Và đó chính là tâm tình của riêng Mẹ Maria và chung dân Do Thái lẫn cả loài người phải có đối với Thiên Chúa trong bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. Hãy tự hào vì danh thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui.

2) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những người được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu.