SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

TUẦN IX THƯỜNG NIÊN

 
Chúa Nhật Năm A  - Ngày Thường Năm Chẵn

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


                                                                  


Chúa Nhật Tuần IX Thường Niên

Bài Ðọc I: 1V 8, 41-43

"Khi người xứ lạ đến cầu nguyện, Chúa đã nhậm lời nó".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Salomon cầu nguyện trong đền thờ rằng: "Người ngoại bang không phải thuộc dân Israel của Chúa, vì danh Chúa, (bởi nó nghe nói danh Chúa cao cả, bàn tay Chúa mạnh mẽ và cánh tay Chúa hùng dũng), nó từ xứ xa lạ mà đến; vậy khi nó cầu nguyện tại nơi này, từ trời nơi Chúa ngự, (xin) Chúa nhậm lời nó, và ban cho nó mọi sự như nó kêu cầu, để mọi dân trên thế giới biết sợ danh Chúa, cũng như dân Israel của Ngài, và họ biết rằng danh Chúa được cao rao tại đền thờ này mà con đã xây cất".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 116, 1. 2

Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Toàn thể chư dân, hãy ngợi khen Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người. - Ðáp.

2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng ta thật là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Gl 1, 1-2. 6-10

"Nếu tôi còn làm vừa lòng thiên hạ, thì tôi không phải là đầy tớ của Ðức Kitô".

Khởi đầu thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Phaolô, làm Tông đồ không phải do loài người, hay do một người nào, mà là do Ðức Giêsu Kitô, và do Chúa Cha, Ðấng đã cho Người từ cõi chết sống lại, và tất cả anh em đang ở với tôi, kính gửi các cộng đoàn ở Galata.

Tôi ngạc nhiên thấy anh em thay lòng đổi dạ chóng như thế đối với Ðấng đã kêu gọi anh em thông phần vào ân sủng của Ðức Kitô, để anh em quay sang một tin mừng khác! Tin mừng khác làm gì có, chỉ có những kẻ phá rối anh em và muốn anh em đảo lộn Tin Mừng của Ðức Kitô. Nhưng cho dù chúng tôi, hay một thiên thần nào từ trời đến, giảng tin mừng khác với Tin Mừng chúng tôi đã rao giảng cho anh em, thì người đó bị chúc dữ! Như chúng tôi đã nói trước, và giờ đây tôi xin nói lại rằng: Nếu có ai rao giảng cho anh em Tin Mừng khác hơn điều anh em đã lãnh nhận, thì người đó bị chúc dữ!

Giờ đây, tôi phải làm vừa lòng người ta hay là Thiên Chúa? Nào có phải tôi tìm cách làm vừa lòng người ta sao? Nếu tôi còn làm vừa lòng thiên hạ, thì tôi không phải là đầy tớ của Ðức Kitô.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 7, 1-10

"Cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, lúc Chúa Giêsu đã nói với dân chúng xong, Người vào Capharnaum. Bấy giờ một viên sĩ quan có tên đầy tớ thân tín bị bệnh gần chết, nghe nói về Chúa Giêsu, ông sai vài người kỳ lão Do-thái đi xin Người đến cứu chữa đầy tớ ông. Họ đến gần Chúa Giêsu và van xin Người rằng: "Ông ta đáng được Thầy ban cho ơn đó, vì thật ông yêu mến dân ta, và chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta". Chúa Giêsu đi với họ, và khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này sai mấy người bạn đến thưa Người rằng: "Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh. Vì tôi chỉ là một sĩ quan cấp dưới, tôi cũng có những lính dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; tôi bảo người khác lại, thì nó lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này thì nó làm". Nghe nói thế, Chúa Giêsu ngạc nhiên và quay lại nói với đám đông theo Người rằng: "Ta nói thật với các ngươi, cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy". Và những người được sai đi, khi về tới nhà, thấy tên đầy tớ (đã) lành mạnh.

Ðó là lời Chúa.

 

Năm 2016 Chúa Nhật tuần này là Lễ Trọng Kính Mình Máu Chúa Kitô

xin xem bài suy niệm cảm nghiệm riêng ở cái link sau đây

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu


Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 2 Pr 1, 1-7

"Người ban cho anh em những lời hứa quý báu, để nhờ đó anh em được thông dự vào bản tính Thiên Chúa".

Khởi đầu thư thứ hai của Thánh Phêrô Tông đồ.

Tôi là Simon Phêrô, tôi tớ và tông đồ của Ðức Giêsu Kitô, kính gửi những người thừa hưởng một đức tin quý giá ngang hàng chúng tôi, nhờ sự công chính của Ðức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa và là Cứu Chúa của chúng ta.? Nguyện (chúc) ân sủng và bình an đổ xuống tràn đầy cho anh em, trong ơn nhận biết Thiên Chúa và Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!

Bởi chưng quyền năng linh thiêng của Người đã ban cho anh em mọi điều cần ích cho sự sống và lòng đạo đức, nhờ sự nhận biết Ðấng dùng vinh quang và quyền năng kêu gọi chúng ta; nhờ Người mà Thiên Chúa ban cho chúng ta những lời hứa cao trọng và quý báu, để nhờ đó, anh em được thông dự vào bản tính Thiên Chúa, thoát khỏi cảnh đồi bại dục tình thế tục.

Phần anh em, hãy gia tăng tất cả nhiệt thành và lo sao để nhờ lòng tin mà được thêm sức mạnh, nhờ sức mạnh được thêm thông biết, nhờ thông biết được thêm tiết độ, nhờ tiết độ được thêm kiên nhẫn, nhờ kiên nhẫn được thêm đạo đức, nhờ đạo đức được thêm tình huynh đệ, nhờ tình huynh đệ được thêm đức ái.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 90, 1-2. 14-15ab. 15c-16

Ðáp: Lạy Chúa con, con tin cậy ở Ngài (x. c. 2b).

Xướng: 1) Bạn sống trong sự che chở của Ðấng Tối Cao; bạn cư ngụ dưới bóng của Ðấng Toàn Năng. Hãy thưa cùng Chúa: "Chúa là chiến lũy, là nơi con nương náu, lạy Chúa con, con tin cậy ở Ngài". - Ðáp.

2) Vì người yêu mến Ta, Ta sẽ giải thoát cho, Ta sẽ che chở người bởi lẽ người nhìn biết danh Ta. Người sẽ kêu cầu Ta và Ta sẽ nhậm lời, Ta sẽ ở cùng người trong lúc gian truân. - Ðáp.

3) Ta sẽ cứu gỡ và làm vinh dự cho người. Ta sẽ làm cho người thoả mãn cuộc đời trường thọ, và cho người nhìn thấy ơn cứu độ của Ta. - Ðáp.

 

Alleluia: Gc 1, 21

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy khiêm nhu nhận lãnh lời giao ước trong lòng, lời đó có thể cứu thoát linh hồn anh em. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 12, 1-12

"Chúng bắt cậu con trai giết đi và quăng xác ra vườn nho".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão rằng: "Có người trồng một vườn nho, rào dậu xung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp, đoạn cho tá điền thuê vườn nho và trẩy đi phương xa.

"Ðến kỳ hạn, ông sai đầy tớ đến với tá điền thu phần hoa lợi vườn nho. Nhưng những người này bắt tên đầy tớ đánh đập và đuổi về tay không. Ông lại sai đầy tớ khác đến với họ. Người này cũng bị chúng đánh vào đầu và làm sỉ nhục. Nhưng người thứ ba thì bị chúng giết. Ông còn sai nhiều người khác nữa, nhưng kẻ thì bị chúng đánh đập, người thì bị chúng giết chết.

"Ông chỉ còn lại một cậu con trai yêu quý cuối cùng, ông cũng sai đến với họ, (vì) ông nghĩ rằng: "Chúng sẽ kiêng nể con trai ta". Nhưng những tá điền nói với nhau rằng: "Người thừa tự đây rồi, nào ta hãy giết nó và cơ nghiệp sẽ về ta". Ðoạn chúng bắt cậu giết đi và quăng xác ra ngoài vườn nho. Chủ vườn nho sẽ xử thế nào? Ông sẽ đến tiêu diệt bọn tá điền và giao vườn nho cho người khác. Các ông đã chẳng đọc đoạn Thánh Kinh này sao: "Tảng đá những người thợ xây loại ra, trở thành đá góc tường. Ðó là việc Chúa làm, thật lạ lùng trước mắt chúng ta".

Họ tìm bắt Người, nhưng họ lại sợ dân chúng. Vì họ đã quá hiểu Người nói dụ ngôn đó ám chỉ họ. Rồi họ bỏ Người mà đi.

Ðó là lời Chúa.





Suy Niệm Cảm Nghiệm


"Bắt lấy giết đi"

Suy Niệm


Chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh tiếp tục nơi phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay, Thứ Hai Tuần IX Thường Niên. 

Trước hết là dụ ngôn về vườn nho của Thiên Chúa được Ngài trồng là chính dân Do Thái (xem Isaia 5:7), một dân tộc được Ngài tuyển chọn riêng và chăm sóc đặc biệt, với Lề Luật của Ngài để bảo vệ họ khỏi nếp sống đa thần hay ngẫu tượng như dân ngoại, như thể Ngài "rào dậu chung quanh" họ, cùng với các ngày lễ và nghi lễ phụng thờ được Ngài thiết lập cho họ, như thể Ngài "đào bồn đạp nho" nơi họ, còn việc Ngài "xây một cái thápở vườn nho của Ngài là dân Do Thái có thể hiểu là Đền Thờ Giêrusalem, nơi Ngài ẩn ngự, hay cũng có thể là Ngài đã thiết lập giao ước với các vị tổ phụ của họ, và lời hứa của Ngài trở thành như niềm hy vọng hướng về tương lai của họ

Thế nhưng, thành phần "tá điền" lãnh đạo dân của Ngài đã chẳng những không mang lại "hoa lợi vườn nho", lại còn tỏ ra hung dữ bạo nghịch đối với thành phần tiên tri "đầy tớ" của Ngài, được Ngài sai đến với họ, khi họ "đánh đập và đuổi về tay không" đối với người "đầy tớ" đầu tiên, khi họ "đánh vào đầu và làm sỉ nhục" đối với "đầy tớ" thứ hai, và khi họ "sát hại" người "đầy tớ" thứ ba. Thậm chí họ còn dám "sát hại" cả "người con trai yêu quí" của Ngài là Đức Giêsu Kitô khi Ngài sai Người đến với họ nữa, với mục đích để cướp đoạt "gia nghiệp" của Người, ở chỗ họ lên án tử cho Con của Ngài nhân danh "Thiên Chúa hằng sống" (xem Mathêu 26:63), nhân danh chính Ngài để "bắt cậu giết đi và quăng xác ra ngoài vườn nho".

Tất nhiên, cho dù "họ lầm không biết việc họ làm" (Luca 23:34; xem Tông Vụ 3:17), nhưng tự bản chất việc của họ vẫn là những tội ác cần phải đền trả, ở chỗ, như dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, Thiên Chúa là chủ vườn nho "sẽ đến tiêu diệt bọn tá điền và giao vườn nho cho người khác", như lịch sử cho thấy, vườn nho của Thiên Chúa đã trở thành một Dân Tân Ước là chính Giáo Hội Chúa Kitô, một Giáo Hội được chính Người thiết lập (xem Mathêu 16:16), một Giáo Hội được xây dựng trên chính bản thân của Người đã từng là "Tảng đá bị những người thợ xây loại bỏ đã trở thành đá góc tường", như Người ám chỉ trong bài Phúc Âm hôm nay

Như thế có nghĩa là Thiên Chúa vẫn có thể biến tất cả những sự dữ gây ra bởi con người để mang lại thiện hảo cho họ theo đúng như ý định vô cùng nhân hậu và quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan đầy quyền năng của Ngài, đúng như lời rao giảng ban đầu của Tông Đồ Phêrô ngỏ cùng cộng đồng Do Thái sau khi chữa lành ở "cửa Đẹp" của đền thờ cho một người què từ lúc mới sinh: "Anh em thân mến, tôi biết rằng anh em đã tác hành một cách vô thức như thành phần lãnh đạo của anh em đã làm. Thiên Chúa đã làm cho nên trọn bằng cách thế đó những gì Ngài đã loan báo từ lâu qua các vị tiên tri đó là Vị Thiên Sai của Ngài cần phải chịu đau khổ" (Tông Vụ 3:17-18). 

Từ một tảng đá bị thợ xây loại bỏ là một Đức Kitô khổ nạn và tử giá, Thiên Chúa đã biến thành tảng đá góc tường là một Chúa Kitô phục sinh, Đấng "được toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18), để Người có thể thông ban sự sống thần linh của Người cho nhân loại, qua Giáo Hội Nhiệm Thể của Người, thành phần "tá điền" mới được sai đến để làm vườn nho của Người và cho Người: "Bởi thế, các con hãy đi tuyển mộ môn đồ ở khắp mọi dân nước và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần ..." (Mathêu 28:19).

Cảm Nghiệm

 

Quả thực, đúng như lời Chúa Giêsu tuyên bố trong bài Phúc Âm hôm nay về dụ ngôn vườn nho của Chúa và bọn tá điền gian ác (ám chỉ thành phần lãnh đạo Do Thái giáo) đã sát hại các đợt đầy tớ được chủ sai đến thu hoa lợi, thậm chí sát hại cả chính người con duy nhất vô cùng yêu quí của chủ nữa để cướp gia tài của người con này: "Ông sẽ đến tiêu diệt bọn tá điền và giao vườn nho cho người khác".

 

Căn cứ vào Bài Đọc 1 hôm nay thì "người khác" được chủ vườn nho thuê muớn đến làm vườn nho của ông thay thế bọn tá điền gian ác trước kia đó là thành phần Kitô hữu trong Giáo Hội được Người thiết lập. Và thành phần tá điền Tân Ước được thuê đến làm vườn nho dân ngoại (không còn "vườn nho của Chúa là nhà Israel" nữa - xem Isaia 5:7) đây đã được trang bị cho đầy đủ quyền năng và tư cách cho sứ vụ xứng hợp này của họ.

 

Trước hết, về quyền năng, đó là họ có được một đức tin truyền thống như của các vị tông đồ: "những người thừa hưởng một đức tin quý giá ngang hàng chúng tôi". Thật vậy, là thành phần được sống trực tiếp với Nhân Vật Lịch Sử Giêsu Nazarét, các tông đồ cũng cần phải có và càng cần phải có đức tin đối với Nhân Vật Lịch Sử này, liên quan đến một thực tại thần linh về Nhân Vật Lịch Sử ấy, đó là chính sự thật thần linh siêu việt mà các vị, được Cha tỏ ra cho và qua vị tông đồ đại diện là Phêrô, đã tuyên xưng một cách rất chính xác và chí lý rằng: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16). Kitô hữu hậu sinh, cho dù không hề thấy hay gặp Nhân Vật Lịch Sử Giêsu Nazarét này, qua tông truyền (đức tin được truyền lại từ các tông đồ), cũng có cùng một niềm tin như các vị, tin Nhân Vật Lịch Sử Nazarét "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".

 

Sau nữa, về tư cách, đó là họ "được thông dự vào bản tính Thiên Chúa, thoát khỏi cảnh đồi bại dục tình thế tục". Thật vậy, khi lãnh nhận Phép Rửa Thánh Tẩy Tái Sinh, Kitô hữu chẳng những được thanh tẩy cho khỏi nguyên tội và tư tội (nếu chịu phép rửa đã lớn), nghĩa là được cứu khỏi tội lỗi và sự chết, mà còn "được thông dự vào bản tính Thiên Chúa", nhờ đó, nhờ tác dụng mãnh liệt của quyền lực thần linh và ân sủng thần linh, họ cũng "thoát khỏi cảnh đồi bại dục tình thế tục".

 

Tuy nhiên, thực tế sống đạo cho thấy, nơi bản thân mình, Kitô hữu vẫn còn mầm mống nguyên tội, vẫn con đam mê nhục dục và tính mê nết xấu, vẫn bị mù quáng nơi trí khôn và yếu nhược nơi ý chí, luôn xu hướng về tội lỗi và có thể sa ngã phạm tội bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu và bất cứ điều gì, sống hoàn toàn phản lại lời hứa phép rửa của họ là từ bỏ ma quỉ và tin vào Thiên Chúa.

 

Đó là lý do Thánh Phêrô trong Bài Đọc 1 hôm nay còn khuyên dạy thành phần Kitô hữu tá điền Tân Ước rằng: "Phần anh em, hãy gia tăng tất cả nhiệt thành và lo sao để nhờ lòng tin mà được thêm sức mạnh, nhờ sức mạnh được thêm thông biết, nhờ thông biết được thêm tiết độ, nhờ tiết độ được thêm kiên nhẫn, nhờ kiên nhẫn được thêm đạo đức, nhờ đạo đức được thêm tình huynh đệ, nhờ tình huynh đệ được thêm đức ái".

 

Theo ý nghĩa và chiều hướng của lời khuyên như thế của vị giáo hoàng tiên khởi là tông đồ Phêrô này thì càng sống tông đồ truyền giáo thì đức tin càng vững mạnh: "hãy gia tăng tất cả nhiệt thành và lo sao để nhờ lòng tin mà được thêm sức mạnh", vì đức tin tự bản chất là ánh sáng và không thể không chiếu sáng: "Ánh sáng đức tin - Lumen fidei" (nhan đề của bức Thông Điệp do ĐTC Biển Đức XVI viết hầu hết và ĐTC Phanxicô ban hành ngày 29/6/2013, sau 3 tháng lên làm giáo hoàng).

 

Và đó là lý do hoa trái của đức tin hay mục tiêu của đức tin chính là đức bác ái yêu thương. Bởi thế, cuối cùng trong tiến trình liên hệ nhân quả của một chuỗi nhân đức được Tông Đồ Phêrô liệt kê cuối Bài Đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy từ đức tin mạnh mẽ như móc xích đầu tiên ấy: "sức mạnh" -> "thông biết" -> "tiết độ" -> "kiên nhẫn" -> "đạo đức" -> "huynh đệ" -> đã đi đến chỗ: "được thêm đức ái".

 

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa những nhận thức thần linh và cảm nhận thần linh rất thực nghiệm về những ai sống đức tin mãnh liệt và đức ái dồi dào, như lời khuyên dạy của Tông Đồ Phêrô trong Bài Đọc 1 hôm nay, đó là họ sẽ trở nên siêu thoát: "người yêu mến Ta, Ta sẽ giải thoát cho" (câu 2), và đạt đến cùng đích của mình là Thiên Chúa, Đấng Toàn Thiện Trọn Hảo: "Ta sẽ cứu gỡ và làm vinh dự cho người. Ta sẽ làm cho người thoả mãn cuộc đời trường thọ, và cho người nhìn thấy ơn cứu độ của Ta" (câu 3).



Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 2 Pr 3, 12-15a. 17-18

"Chúng ta mong đợi trời mới đất mới".

Trích thư thứ hai của Thánh Phêrô Tông đồ.

Anh em thân mến, anh em hãy mong chờ và hối thúc ngày Chúa đến, ngày mà các tầng trời bốc cháy tiêu tan, và ngũ hành bị thiêu rụi. Nhưng theo lời Người hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới, trong đó công lý sẽ ngự trị.

Anh em thân mến, bởi thế, trong lúc chờ đợi, (hãy gắng sao nên vô tì tích trước nhan Người, trong bình an. Và) anh em hãy coi lòng khoan dung của Thiên Chúa như là phương thế cứu rỗi.

Vậy, anh em thân mến, được biết trước như thế, anh em hãy giữ mình, kẻo bị lôi cuốn theo sự lầm lạc của những kẻ vô luân mà sa đoạ, mất lòng trung kiên của anh em. Anh em hãy lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Rỗi và là Chúa chúng ta. Nguyện (chúc) vinh quang cho Người bây giờ và đến muôn đời. Amen!

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 89, 2. 3-4. 10. 14 và 16

Ðáp: Thân lạy Chúa, Chúa là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia (c. 1).

Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở này qua thuở kia, vẫn có Ngài. - Ðáp.

2) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Ngài phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người!" - Ðáp.

3) Thọ kỳ của chúng con số niên bảy chục, nếu khoẻ mạnh ra thì được tám mươi, nhưng đa số là những năm lầm than và phù phiếm, bởi chúng mau qua và chúng con cũng bay theo. - Ðáp.

4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho các bầy tôi nhìn thấy sự nghiệp của Chúa, và cho con cháu họ được thấy vinh quang Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Pr 1, 25

Alleluia, alleluia! - Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 12, 13-17

"Các ông hãy trả cho Cêsarê cái gì thuộc về Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, người ta sai mấy người thuộc nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê đến Chúa Giêsu để lập mưu bắt lỗi Người trong lời nói. Họ đến thưa Người rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật không vị nể ai, vì Thầy chẳng xem diện mạo, một giảng dạy đường lối Thiên Chúa cách rất ngay thẳng. Vậy chúng tôi có nên nộp thuế cho Cêsarê không? Chúng tôi phải nộp hay là không?" Nhưng Người biết họ giả hình, nên bảo rằng: "Sao các ông lại thử Ta? Hãy đưa Ta xem một đồng tiền". Họ đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi: "Hình và ký hiệu này là của ai?" Họ thưa: "Của Cêsarê". Người liền bảo họ: "Vậy thì của Cêsarê, hãy trả cho Cêsarê; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa". Và họ rất đỗi kinh ngạc về Người.

Ðó là lời Chúa.





Suy Niệm Cảm Nghiệm


 "Thần trí tác sinh

Suy Niệm

"Sự sống" thần linh hay cái chết thiêng liêng nơi con người được tỏ hiện ở chỗ họ có "
trả về cho Cesa những gì của Cesa và trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa", như câu Chúa Giêsu trả lời cho "nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê" là thành phần "lập mưu bắt lỗi Người trong lời nói". 

Câu trả lời của Người dù đã làm cho"họ rất đỗi kinh ngạc về Người", như bài Phúc Âm kết thúc, thế nhưng, trước khi trả lời cho câu họ đặt ra: "Vậy chúng tôi có nên nộp thuế cho Cêsa không?", một câu hỏi thật hóc búa, Người trả lời đằng nào cũng chết, "có" thì theo đế quốc Roma phản dân tộc, còn "không" thì tỏ ra xui dân phản loạn với đế quốc này, Người đã phải căn cứ vào một vật thể, đó là "đồng tiền", vì vấn đề "nộp thuế cho Cêsa" liên quan đến "đồng tiền" của đế quốc Rôma. 

Thế rồi sau khi "họ đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi: 'Hình và ký hiệu này là của ai đây?' Họ thưa: 'Của Cêsa'. Người liền bảo họ: 'Vậy thì của Cêsa, hãy trả cho Cêsa; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa'". 

Câu trả lời này của Chúa Giêsu không phải chỉ là một nguyên tắc cần phải áp dụng vào lãnh vực chính trị, ám chỉ phải tuân phục quyền bính thích hợp, mà còn có một ý nghĩa sâu xa hơn nữa, đó là dù có tuân phục quyền bính trần gian ("trả cho Cêsa") nhưng với một tinh thần đức tin siêu nhiên vì Chúa ("trả cho Thiên Chúa"), ở chỗ, vì Chúa là Đấng quan phòng làm chủ lịch sử hơn là vì sợ con người có quyền bính: "Đừng sợ kẻ chỉ giết được thân xác mà không thể nào hủy hoại được linh hồn. Đúng ra hãy sợ Đấng có thể hủy hoại cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục" (Mathêu 10:28).

Chưa hết "của Cesa trả cho Cesa, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa" còn có nghĩa là "người ta không sống nguyên bởi bánh mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mathêu 4:4). Cho dù cần phải "có thực mới vực được đạo", thế nhưng, vì con người được dựng nên để được sống đời đời chứ không phải chỉ sống trên thế gian mau qua tạm gửi này thôi, nên "chính thần trí mới cống hiến sự sống chứ xác thịt là thứ vô dụng" (Gioan 6:63): "cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt, cái gì sinh bởi Thần Linh là Thần Linh" (Gioan 3:6).

Bởi thế, trong Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành trên núi, Chúa Kitô đã khẳng định với thành phần môn đệ của Người là "Không ai có thể làm tôi hai chủ ... Các con không thể vừa làm tôi cho Thiên Chúa vừa làm tôi cho tiền của được" (Mathêu 6:24). Nghĩa là "của Cesa hãy trả cho cesa và của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa" là thế. 

Nếu "hình và ký hiệu" trên đồng tiền được thành phần âm mưu bắt bẻ Người bảo là "của Cesa" ở đây và vì thế "của Cesa hãy trả cho Cesa", thì con người được nên theo hình ảnh của Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26-27), có thể so sánh như một đồng tiền có giá trị có "hình và ký hiệu" của Thiên Chúa nên cần phải trả về cho Ngài những gì thuộc về Ngài. Đó là lý do Thánh Âu Quốc Tinh, sau cuộc đời vừa lạc giáo về tâm thần vừa trác táng về xác thể, đã có được một cảm nghiệm rất chí lý và xác thực là: "Chúa đã dựng nên con cho Chúa nên lòng con khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa" (Tự Thú I,1).

Cảm Nghiệm

 

Thật vậy, nếu con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26-27) thì quả thực chỉ có một mình Thiên Chúa là tất cả moị sự của con người và cho con người, là nguyên ủy và là cùng đích của họ, ngoài Ngài ra con ngưòi chắc chắn sẽ bị lầm lạc và chẳng bao giờ có hạnh phúc chân thật, trọn hảo và bất tận, nếu con người không tìm kiếm Ngài, nhận biết Ngài, chấp nhận Ngài và đáp ứng Ngài.

 

Đó là lý do, trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phêrô chẳng những không cảnh giác hay trấn an mà còn thúc giục Kitô hữu "hãy mong chờ và hối thúc ngày Chúa đến, ngày mà các tầng trời bốc cháy tiêu tan, và ngũ hành bị thiêu rụi. Nhưng theo lời Người hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới, trong đó công lý sẽ ngự trị".

 

Thiên Chúa không phải chỉ là nguyên ủy và là cùng đích của con người mà còn là đường lối cho con người nữa, là phương thế cứu độ của con người nữa, để chính Ngài dẫn họ đến với Ngài, bằng không, tự mình, như chính kinh nghiệm sống đạo của họ cho thấy, họ sẽ không thể nào có thể đến được với Ngài dù Ngài đã đến với họ nơi Lời Nhập Thể, có thể nhận ra Ngài dù Ngài đã tỏ mình ra cho họ nơi Cuộc Vượt Qua của Con Ngài, và có thể hiệp thông thần linh với Ngài dù Ngài đã ban Thánh Thần cho họ khi họ lãnh nhận Phép Rửa nhất là Phép Thêm Sức.

 

Đó là lý do, cũng trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phêrô đã nhắc nhở Kitô hữu rằng: "Anh em thân mến, bởi thế, trong lúc chờ đợi, (hãy gắng sao nên vô tì tích trước nhan Người, trong bình an. Và) anh em hãy coi lòng khoan dung của Thiên Chúa như là phương thế cứu rỗi". Nhất là khi con người sa ngã phạm tội, phải gánh chịu các hậu quả đau thương bất hạnh xẩy đến cho cuộc đời tưởng rằng tìm được hạnh phúc ngay trên đời này thì lại toàn là thất bại, thất vọng và thất lạc đáng tiếc và đáng thương.

 

Chính vì thông cảm với thân phận của con người Kitô hữu đang hành trình đức tin trần thế với đầy nhưng cạm bẫy sa ngã và trở ngại bỏ cuộc mà vị chủ chiên đầu tiên thay cho Chúa Kitô trên trần gian này đã phấn khích họ bằng những lời kết thúc bức thư thứ 2 của ngài ở Bài Đọc 2 hôm nay như sau: 

 

"Vậy, anh em thân mến, được biết trước như thế, anh em hãy giữ mình, kẻo bị lôi cuốn theo sự lầm lạc của những kẻ vô luân mà sa đoạ, mất lòng trung kiên của anh em. Anh em hãy lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Rỗi và là Chúa chúng ta. Nguyện (chúc) vinh quang cho Người bây giờ và đến muôn đời. Amen!"

 

Tâm hồn Kitô hữu nào sống trọn những lời khuyên dạy của Thánh Phêrô trong Bài Đọc 1 hôm nay thì cũng cảm nghiệm thấy thấm thía ý nghĩa của thân phận và đời sống trần gian của con người nơi những tâm tình của Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay:

 

 

1) Ôi Thiên Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở này qua thuở kia, vẫn có Ngài.

2) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Ngài phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người!"

3) Thọ kỳ của chúng con số niên bảy chục, nếu khoẻ mạnh ra thì được tám mươi, nhưng đa số là những năm lầm than và phù phiếm, bởi chúng mau qua và chúng con cũng bay theo.

4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho các bầy tôi nhìn thấy sự nghiệp của Chúa, và cho con cháu họ được thấy vinh quang Ngài.

 

Thứ Tư


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 2 Tm 1, 1-3. 6-12

"Con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa trong con qua việc đặt tay của cha".

Khởi đầu thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Timôthêu.

Phaolô, tông đồ của Ðức Giêsu Kitô, bởi ý định của Thiên Chúa, thể theo lời hứa ban sự sống trong Ðức Giêsu Kitô, gởi lời hỏi thăm Timôthêu, người con yêu dấu. Nguyện chúc ân sủng, lòng từ bi và bình an của Thiên Chúa Cha và Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ở cùng con. Cha cảm tạ ơn Thiên Chúa, Ðấng cha phụng thờ như tổ tiên cha đã làm, với một lương tâm trong sạch, ngày đêm cha luôn luôn nhớ đến con, khi cha cầu nguyện. Vì thế, cha khuyên con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của cha. Vì chưng, Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần trí nhát sợ, mà là thần trí dũng mạnh, bác ái và tiết độ. Vậy con, con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, và cho cha nữa, là tù nhân của Người, nhưng con hãy đồng lao cộng tác với cha vì Tin Mừng, nhờ quyền năng của Thiên Chúa, Ðấng đã giải thoát và kêu mời chúng ta bằng ơn thiên triệu thánh của Người, không phải do công việc chúng ta làm, mà là do sự dự định và ân sủng đã ban cho chúng ta từ trước muôn đời trong Ðức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ mới tỏ bày bằng sự xuất hiện của Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Chuộc chúng ta. Người đã dùng Tin Mừng tiêu diệt sự chết và chiếu soi sự sống, và sự không hư nát được tỏ rạng. Cha đã được đặt làm kẻ rao giảng, làm tông đồ và làm thầy dạy các dân ngoại. Cũng do đó, cha phải chịu những thử thách này, nhưng cha không hổ thẹn, vì cha biết cha tin vào Ðấng nào, và cha chắc chắn rằng Người có quyền phép gìn giữ kho tàng của cha cho đến ngày đó.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 122, 1-2a. 2bcd

Ðáp: Lạy Chúa, con ngước mắt nhìn lên Chúa (c. 1a).

Xướng: 1) Con ngước mắt nhìn lên Chúa, Ngài ngự trị ở cõi cao xanh. Kìa, như mắt những người nam tôi tớ nhìn vào tay các vị chủ ông. - Ðáp.

2) Như mắt của những người tỳ nữ nhìn vào tay các vị chủ bà, mắt chúng tôi cũng nhìn vào Chúa là Thiên Chúa của chúng tôi như thế, cho tới khi Ngài thương xót chúng tôi. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 12, 18-27

"Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, có ít người phái Sađốc đến cùng Chúa Giêsu; phái này không tin có sự sống lại và họ hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em chết đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để gây dòng dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết không con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ ba cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó làm vợ". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Các ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của Thiên Chúa, như vậy các ông chẳng lầm lắm sao? Bởi khi người chết sống lại, thì không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời. Còn về sự kẻ chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa Giacóp". Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống. Vậy các ông thật lầm lạc".

Ðó là lời Chúa.





Suy Niệm Cảm Nghiệm

"Thiên Chúa kẻ sống"

Suy Niệm


Chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh trở lại một cách tỏ tường hơn 2 ngày đầu tuần này ở phụng vụ Lời Chúa hôm nay, Thứ Tư Tuần IX Thường Niên, qua lời Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm của Thánh ký Marco (12:18-27), xác quyết với "
ít người phái Sađốc" là thành phần "không tin có sự sống lại" rằng: "
Ngài không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống"

Một trong những chứng cứ được phái Sađốc căn cứ vào để phủ nhận sự kiện sống lại, đó là chính câu họ đặt ra chất vấn Chúa Giêsu: 

"Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em chết đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để gây dòng dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết không con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ ba cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó làm vợ".

Nghe như thế, Chúa Giêsu đã khẳng định với họ rằng: "các ông thật lầm lạc". Ở chỗ nào? Ở chỗ, như Người vạch ra cho họ thấy, trước hết về lý do họ lầm lạc"Các ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của Thiên Chúa", sau nữa về chính vấn đề vợ chồng liên quan đến việc sống lại: "khi người chết sống lại, thì không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời. Còn về sự kẻ chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: 'Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa Giacóp'".

"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" là một chân lý được chính Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay. 

Trước hết, "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" ám chỉ mầu nhiệm thân xác của con người sẽ được sống lại, dù họ là người lành hay kẻ dữ. Thật vậy, thân xác của loài người, sau nguyên tội và bởi nguyên tội, "đã từ đất bụi phải trở về với đất bụi" (Khởi Nguyên 3:19). Thế nhưng, nhờ "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) và Vượt Qua mà thân xác của con người đã được giải cứu khỏi sự chết về thể lý, nghĩa là sẽ được sống lại, trở thành thiêng liêng "như thiên thần", không còn vấn đề liên hệ xác thịt như trong đời sống vợ chồng nữa. Con người thực sự đã được Chúa Kitô cứu chuộc cả linh hồn lẫn thân xác chứ không phải chỉ nguyên một minh linh hồn bất t mà thôi, nhờ đó, thân xác thiêng liêng mới có thể cùng với linh hồn vô hình tồn tại đến muôn đời muôn kiếp.

Sau nữa, "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" còn ám chỉ Ngài là Thiên Chúa của thành phần công chính sống theo đức tin, như 3 vị tổ phụ tiêu biểu của dân Do Thái là "Abraham, Isaac và Giacóp", thành phần nhận biết Ngài là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất nên đã chấp nhận ý muốn của Ngài và đáp ứng những gì Ngài muốn, cho dù tương lai có mù mịt không biết bỏ quê cha đất tổ đi về đâu, thậm chí cho dù có phải chính tay sát hại đứa con duy nhất của một giòng dõi đông như sao trời nhiều như cát biển theo lời Chúa hứa, như trường hợp của tổ phụ Abraham (xem Khởi Nguyên 12:1-4 và 22:15-18), cha của các kẻ tin (xem Roma 4:9-12).

Thật vậy, tất cả mọi xác phàm đều sống lại, nhưng chỉ có kẻ nào tin tưởng "nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô" (Gioan 17:3) mới được "sự sống đời đời" (cùng đoạn vừa dẫn), vi một thân xác phục sinh vinh hiển như thân xác phục sinh của Chúa Kitô (xem Philiphê 3:21). Tuy nhiên, kể cả thành phần bị hư đi trong hỏa ngục chăng nữa, thậm chí bao gồm cả Satan và ma quỉ, cho dù không muốn, bấy giờ, trong cõi đời đời, cũng vẫn "nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô". 

Thế nhưng, sự "nhận biết" này ở trong cõi hư mất không phải bởi Thánh Linh của Thiên Chúa ở trong họ như khi họ chưa hư đi nữa, mà bởi họ không thể nào chối bỏ được sự thật bất diệt này, hay nói cách khác, bởi "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Gioan 1:5) không thể nào không chiếu soi, cho dù con người có chấp nhận hay phủ nhận, một "ánh sáng thật" (Gioan 1:9): "Ánh sáng chiếu trong tăm tối, thứ tối tăm không thể nào át được ánh sáng" (Gioan 1:5). 

Cảm Nghiệm

 

Chính vì "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" mà Ngài đã chẳng những tỏ mình ra cho riêng dân Do Thái qua suốt giòng lịch sử cứu độ của họ cho tới khi Ngài tỏ hết mình ra "vào thời viên trọn" (Galata 4:4) nơi Con của Ngài là Lời Nhập Thể Vượt Qua, mà còn cho chung loài người qua chứng từ của Giáo Hội Chúa Kitô, một Nhiệm Thể được cấu trúc liên hợp giữa Chúa Kitô là Đầu và các chi thể Kitô hữu của Người, nhất là những chi thể gắn bó với Người như cành nho dính liền với thân nho để nhờ đó họ có thể sinh nhiều hoa trái bằng chứng từ "đức tin thể hiện qua đức ái" của họ (xem Galata 5:6).

 

Nhờ kết hợp với Chúa Kitô như cành nho dính liền với thân nho mà Kitô hữu mới có thể được tràn đầy Thần Linh của Người mà làm chứng cho Người, theo đúng ơn gọi và sứ vụ tông đồ truyền giáo là bản tính của người môn đệ Chúa Kitô, như Thánh Phaolô Tông Đồ khuyên nhắc môn đệ Timothêu của ngài trong Bài Đọc 1 hôm nay:

 

"Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần trí nhát sợ, mà là thần trí dũng mạnh, bác ái và tiết độ. Vậy con, con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta... nhờ quyền năng của Thiên Chúa, Ðấng đã giải thoát và kêu mời chúng ta bằng ơn thiên triệu thánh của Người, không phải do công việc chúng ta làm, mà là do sự dự định và ân sủng đã ban cho chúng ta từ trước muôn đời trong Ðức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ mới tỏ bày bằng sự xuất hiện của Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Chuộc chúng ta".

 

Chính bản thân của Thánh Phaolô, nhờ được "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" tỏ mình ra cho nơi Chúa Giêsu Kitô mà ngài đã thực sự trở thành tông đồ và sống trọn ơn gọi cùng sứ vụ tông đồ của mình cho đến cùng, bất chấp mọi sự, như chính ngài đã tự thú như nêu gương cho môn đệ Timothêu của mình ở cuối Bài Đọc 1 hôm nay: "Cha đã được đặt làm kẻ rao giảng, làm tông đồ và làm thầy dạy các dân ngoại. Cũng do đó, cha phải chịu những thử thách này, nhưng cha không hổ thẹn, vì cha biết cha tin vào Ðấng nào, và cha chắc chắn rằng Người có quyền phép gìn giữ kho tàng của cha cho đến ngày đó".

 

Một chứng nhân Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại, hay bất cứ vị tông đồ hay thừa sai truyền giáo nào cũng thế, muốn trung thành với ơn gọi chứng nhân của mình, nhất là muốn cho sứ vụ tông đồ hay thừa sai của mình sinh hoa kết trái đều phải sống sự sống của Vị "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống", nghĩa là họ cần phải hoàn toàn tin tưởng tín thác vào Ngài, để cho Ngài chiếm đoạt và tỏ mình ra qua họ và nhờ họ. Hình ảnh về họ và của họ đã được Thánh Vịnh gia diễn tả trong Bài Đáp Ca hôm nay như thế này:

 

1) Con ngước mắt nhìn lên Chúa, Ngài ngự trị ở cõi cao xanh. Kìa, như mắt những người nam tôi tớ nhìn vào tay các vị chủ ông.

2) Như mắt của những người tỳ nữ nhìn vào tay các vị chủ bà, mắt chúng tôi cũng nhìn vào Chúa là Thiên Chúa của chúng tôi như thế, cho tới khi Ngài thương xót chúng tôi.



Thứ Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 2 Tm 2, 8-15

"Lời của Thiên Chúa không bị xiềng xích đâu, Nếu chúng ta cùng chết với Người, thì chúng ta sẽ cùng sống lại với Người".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gởi cho Timô-thêu.

Con thân mến, con hãy nhớ rằng Chúa Giêsu Kitô bởi dòng dõi Ðavít đã từ cõi chết sống lại, theo như Tin Mừng cha rao giảng. Vì Tin Mừng đó mà cha phải đau khổ đến phải chịu xiềng xích như một kẻ gian ác, nhưng lời của Thiên Chúa đâu có bị xiềng xích. Vì thế, cha cam chịu mọi sự vì những kẻ được tuyển chọn, để họ được hưởng ơn cứu độ cùng với vinh quang trên trời trong Ðức Giêsu Kitô.

Ðây cha nói thật: Nếu chúng ta cùng chết với Người, thì chúng ta cùng sống lại với Người. Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Người. Nếu chúng ta chối bỏ Người, thì Người cũng sẽ chối bỏ chúng ta. Nếu chúng ta không tin Người, Người vẫn trung thành, vì Người không thể chối bỏ chính mình Người.

Con hãy ghi nhớ những điều đó khi làm chứng trước mặt Chúa. Con chớ tranh luận: vì cái đó không ích lợi gì cả, chỉ làm hại người nghe mà thôi. Con hãy cố gắng đến trước mặt Chúa như một người đã chịu thử thách, như một công nhân không bị khiển trách, như người ngay thẳng rao giảng lời chân lý.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 24, 4bc-5ab. 8-9. 10 và 14.

Ðáp: Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa (c. 4b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con. - Ðáp.

2) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. - Ðáp.

3) Tất cả đường nẻo Chúa là ân sủng và trung thành, dành cho những ai giữ minh ước và điều răn Chúa. Chúa thân mật với những ai tôn sợ Chúa, và tỏ cho họ biết lời minh ước của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 10, 27

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 12, 28b-34

"Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất và ngươi hãy kính mến Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: "Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?" Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là: "Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi". Còn đây là giới răn thứ hai: "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi". Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó". Luật sĩ thưa Người: "Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất, và ngoài Người, chẳng có Chúa nào khác. Yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh". Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.

Ðó là lời Chúa.

 




Suy Niệm Cảm Nghiệm


Tin Yêu Lẽ Sống


Suy Niệm

 

 

Phụng vụ Lời Chúa cho Thứ Năm của Tuần IX Thường Niên hôm nay bao gồm bài Phúc Âm của Thánh ký Marco (12:28b-34) và bài đọc 1 trích từ Sách Tobia (6:10-11a; 7:1,9-17; 8:4-10) cùng với bài Đáp Ca trích từ Thánh Vịnh 127 (1-2,3,4-5), tất cả đều phản ảnh ý nghĩa của chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh ở một khía cạnh nào đó. 


Trước hết, lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm đã cho thấy "sự sống" thần linh là ở chỗ kính mến Thiên Chúa hết bản thân mình: "hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức", cùng yêu thương tha nhân như bản thân mình: "hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi". 


Giới răn thứ hai "yêu tha nhân như bản thân mình" là giới răn gắn liền bất khả phân ly với giới răn thứ nhất và là giới răn bất khả châm chước. Đến độ, Chúa Giêsu đã khẳng định với vị luật sĩ hỏi Người "trong các giới răn, điều nào trọng nhất?" về cả 2 giới răn bất khả phân ly này rằng: "Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó", một câu trả lời chí lý khiến nhà thông luật đặt vấn nạn đã phải công nhận một cách rất chính xác rằng: "Yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh", một nhận thức tuyệt vời chỉ cần thực hành nữa là trọn vẹn nên vị luật sĩ đã được Chúa Giêsu vừa khen tặng vừa phấn khích rằng: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". 


Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao "Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó"? Phải chăng "yêu thương là hoàn trọn lề luật(Roma 13:10)!? Và phải chăng yêu thương mới làm cho con người hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, ở chỗ tác động yêu thương chính là tác động con người nhận biết Ngài là "Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất", chỉ có Ngài là đáng yêu trước hết mọi sự và trên hết mọi sự, Đấng "đã yêu chúng ta trước" (1Gioan 4:19), như Ngài đã tự tỏ mình ra đúng là như thế trong Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái: Ngài đã yêu thương dân của Ngài tuyển chọn một cách nhưng không, đã yêu thương một cách trọn lành, đã yêu thương một cách thủy chung, bất chấp dân này phản bội Ngài và liên lỉ gian dâm ngoại tình với tà thần ngoại bang cùng ngẫu tượng của họ.


Vì Chúa Kitô "xuất hiện lần thứ hai là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người" (Do Thái 9:28), tức "bền đỗ cho đến cùng" 24:13) bằng lòng tin tưởng mãnh liệt vào Người, mà "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6), một đức ái chính là hoa trái của đức tin, là tầm vóc viên mãn của đức tin. Bởi thế, trong cuộc chung thẩm, để được sự sống đời đời hay bị luận phạt, con người sẽ bị Vị Thẩm Phán Giêsu phán xét theo tiêu chuẩn đức ái về hành động đối với tha nhân - yêu thương nhau như bản thân mình, mà thật ra là đức tin về tinh thần đối với Thiên Chúa - kính mến Thiên Chúa hết mình (xem Mathêu 25:37-39,44).


Cảm Nghiệm

 

 

"Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó", ở chỗ con người phải kính mến Chúa hết mình và yêu tha nhân như mình, cả hai có thể được hội tụ và phản ảnh nơi một tâm hồn đã đạt tới tột đỉnh của con đường nhân đức trọn lành, khi được hiệp nhất nên một với Thiên Chúa, có một tâm tình và đời sống như Chúa Kitô và với Chúa Kitô, đến độ sẵn sàng hy sinh bản thân mình cho phần rỗi tha nhân, như gương của Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô trong Bài Đọc 1 hôm nay:

 

 

"Con thân mến, con hãy nhớ rằng Chúa Giêsu Kitô bởi dòng dõi Ðavít đã từ cõi chết sống lại, theo như Tin Mừng cha rao giảng. Vì Tin Mừng đó mà cha phải đau khổ đến phải chịu xiềng xích như một kẻ gian ác, nhưng lời của Thiên Chúa đâu có bị xiềng xích. Vì thế, cha cam chịu mọi sự vì những kẻ được tuyển chọn, để họ được hưởng ơn cứu độ cùng với vinh quang trên trời trong Ðức Giêsu Kitô".

 

 

 

Hành động hiến thân hy sinh bản thân mình cho phần rỗi của anh chị em mình như thế chắc chắc là hoa trái của một đời sống nội tâm đã đạt tới độ thần hiệp về tu đức, một đời sống đầy những xác tín bất khuất và bất khả đổi thay, tràn đầy hy vọng và gia tăng thần lực, như những xác tín vững chắc được Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã nhắc nhủ môn đệ Timothêu của ngài trong Bài Đọc 1 hôm nay:

 

 

"Ðây cha nói thật: Nếu chúng ta cùng chết với Người, thì chúng ta cùng sống lại với Người. Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Người. Nếu chúng ta chối bỏ Người, thì Người cũng sẽ chối bỏ chúng ta. Nếu chúng ta bất trung với Người thì Người vẫn trung thành, vì Người không thể chối bỏ chính mình Người".

 

 

Những điều xác tín của Thánh Phaolô trong Bài Đọc 1 trên đây đều phản ảnh nhận thức thần linh của Thánh Vịnh gia về đường lối của Thiên Chúa như đượcv bày tỏ trong Bài Đáp Ca hôm nay:

 

 

1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con.

2) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài.

3) Tất cả đường nẻo Chúa là ân sủng và trung thành, dành cho những ai giữ minh ước và điều răn Chúa. Chúa thân mật với những ai tôn sợ Chúa, và tỏ cho họ biết lời minh ước của Ngài.

 

 


Thứ Sáu


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 2 Tm 3, 10-17

"Kẻ sống đạo đức trong Ðức Giêsu Kitô, đều chịu bắt bớ".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gởi cho Timô-thêu.

Con thân mến, con đã noi theo cha về giáo lý, đức hạnh, dự định, lòng tin, khoan dung, yêu thương, kiên nhẫn, bắt bớ, đau khổ, như đã xảy đến cho cha ở Antiokia, Icôni và Lystra. Biết bao cuộc bắt bớ cha đã phải chịu, và Chúa đã cứu cha thoát khỏi tất cả. Vả lại, mọi kẻ muốn sống đạo đức trong Ðức Giêsu Kitô đều chịu bắt bớ. Còn những kẻ tội lỗi và gian trá, thì sẽ đi sâu vào tình trạng tệ hại hơn, vì họ lầm lạc và làm cho kẻ khác lầm lạc. Phần con, con hãy bền vững trong các điều con đã học hỏi và xác tín, vì con biết con đã học cùng ai, vì từ bé, con đã học biết Sách Thánh, và chính Sách Thánh đã dạy con sự khôn ngoan để con được cứu rỗi nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô. Tất cả Kinh Thánh đã được Chúa linh hứng, đều hữu ích để giảng dạy, biện bác, sửa dạy và giáo dục trong đàng công chính, ngõ hầu người của Thiên Chúa được hoàn hảo để sẵn sàng thực hiện mọi việc lành.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 118, 157. 160. 161. 165. 166. 168

Ðáp: Ðại bình an cho những ai yêu luật pháp Chúa (c. 165).

Xướng: 1) Nhiều người bắt bớ và nhiễu hại con, nhưng con chẳng sai trật lời nghiêm huấn của Chúa. - Ðáp.

2) Căn bản lời Chúa là sự thật, mọi chỉ dụ công minh của Chúa tồn tại muôn đời. - Ðáp.

3) Các vua chúa bách hại con vô lý, nhưng lòng con vẫn kính sợ lời Ngài. - Ðáp.

4) Ðại bình an cho những ai yêu luật pháp Chúa, không có gì làm cớ cho họ sẩy chân. - Ðáp.

5) Lạy Chúa, con mong ơn Ngài phù trợ, để thực thi những chỉ thị của Ngài. - Ðáp.

6) Con tuân giữ huấn lệnh và những lời truyền của Chúa, vì bao đường lối của con hiện ở trước nhan Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 12, 35-37

"Sao họ có thể bảo Ðức Kitô là Con vua Ðavít?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng giảng dạy trong đền thờ rằng: "Sao các luật sĩ lại nói Ðấng Cứu Thế là con vua Ðavít? Vì chính Ðavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi rằng: "Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới chân con". Chính Ðavít gọi Người là Chúa, thì sao Người lại có thể là Con Ðavít được?" Và đám dân chúng thích thú nghe Người nói.

Ðó là lời Chúa.

 




Suy Niệm Cảm Nghiệm

Sự sống chiếu soi


Suy Niệm

 

 

"Đám dân chúng thích thú nghe Người nói". Bài Phúc Âm hôm nay (Marco 12:35-37) đã được kết thúc như thế. Bởi vì, họ thấy vấn đề được Người đặt ra rất là kỳ lạ nhưng hết sức lý thú mà họ chắc chưa bao giờ nghĩ ra hay đặt vấn đề.


Theo bài Phúc Âm của Thánh ký Marco thì đây không phải là vấn đề được thành phần thông luật vốn chất vấn ngài đặt ra, mà chính Người tự nêu lên: 


"Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng giảng dạy trong đền thờ rằng: 'Sao các luật sĩ lại nói Đấng Cứu Thế là con vua Đavít? Vì chính Đavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi rằng: 'Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới chân con'. Chính Đavít gọi Người là Chúa, thì sao Người lại có thể là Con Đavít được?'" 


Ở đây, trong bài Phúc Âm này, không thấy Thánh ký Marco thuật lại những lời giải đáp của Chúa Giêsu về vấn nạn chính Người tự nêu lên ấy. Thế nhưng, căn cứ vào chính vấn nạn tự đặt ra này của Chúa Giêsu: "Chính Đavít gọi Người là Chúa, thì sao Người lại có thể là Con Đavít được?", chúng ta thấy dường như Người muốn kín đáo mạc khải cho dân Do Thái biết rằng Người là vị Thiên Chúa nhập thể, có 2 bản tính, thiên tính và nhân tính. 


Thiên tính ở chỗ: "Chính Đavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi rằng: 'Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới chân con'". Nhân tính ở chỗ: "Các luật sĩ lại nói Đấng Cứu Thế là con vua Đavít... Chính Đavít gọi Người là Chúa". 


Đây là một mạc khải thần linh do chính Đấng có 2 bản tính tỏ ra chứ không phải do loài người suy luận. Loài người chỉ suy luận theo những dấu hiệu bề ngoài và lập luận theo lý lẽ của trần gian mà thôi. Ở chỗ, nếu "Đấng Cứu Thế là con Vua Đavít", mà Vua Đavít là loài người thì tất nhiên con của vua cũng phải là loài người và chỉ là loài người như vua, chứ không thể nào lại là một Vị Thiên Chúa vô cùng cao cả tự hữu và hằng hữu có trước vua và dựng nên vua. 


Vấn đề ở đây là tại sao Chúa Giêsu lại đặt vấn đề này ở đây, với mục đích gì? Thánh ký Marco không cống hiến cho chúng ta một chút ánh sáng nào, trong khi đó Thánh Mathêu ở cuối đoạn 22, đã cho biết thêm mấy chi tiết như sau: chi tiết thứ nhất đó là sở dĩ Người đặt câu hỏi này là để răn cho thành phần Pharisiêu kiêu ngạo một bài học biết mình trước mặt Người.


Thật vậy, theo trình thuật của Thánh Mathêu thì sau khi thấy phái Sađốc vừa bị Chúa Giêsu bịt miệng về vấn đề sống lại, (được bài Phúc Âm hôm Thứ Tư tuần này thuật lại), nhóm người Pharisiêu đã qui tụ lại như thể muốn chứng tỏ họ khôn ngoan thông giỏi hơn nhóm Sađốc, với một câu hỏi khác còn độc hơn của vấn đề Sađóc nữa, đó là vấn đề giới răn trọng nhất (được bài Phúc Âm hôm qua Thứ Năm thuật lại). 


Thế rồi, sau khi Chúa Giêsu trả lời cho nhóm Pharisiêu xong, Thánh ký Mathêu liền cho biết tiếp thế này: "Chúa Giêsu đã đặt một câu hỏi ngược lại cho những người Pharisiêu qui tụ bấy gi" (22:41), đó là chính câu cũng được Thánh ký Marco thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay, để rồi sau câu hỏi của Người, Thánh Ký Mathêu đã kết luận như sau: "Không ai có thể trả lời, vì vậy, từ hôm ấy trở đi, chẳng có ai dám hỏi Người bất cứ câu hỏi nào nữa" (22: 46). 


Thái độ tỏ ra thông luật mà lại mù tịt trước vấn đề được Chúa Giêsu đặt ra như thế chứng tỏ thành phần thông luật này chỉ là thứ đám con nít trước mặt một vị Đại Sư Thần Linh Giêsu vậy thôi. Đó là lý do ngày mai chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu càng tỏ ra thẩm quyền của mình đối với thành phần thông luật giả hình này như thế nào....


Cảm Nghiệm

 

 

 

Vần đề được Chúa Giêsu đặt ra trong Bài Phúc Âm hôm nay, theo mạc khải Thánh Kinh, đó là "các vị luật sĩ nói Đấng Cứu Thế là con vua Đavít", đúng như mạc khải Thánh Kinh của Thiên Chúa, tuy họ chưa áp dụng nhận thức thánh kinh này vào chính bản thân Chúa Kitô, tức họ chưa nhận ra Chúa Kitô, Đấng vì thế mà đang cố gắng giúp cho họ nhận ra Người khi cố ý gợi lên thắc mắc về nguồn gốc thần linh của "Đấng Cứu Thế là con vua Đavít" theo nguồn gốc trần gian bởi huyết nhục của Người: "Vì chính Đavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi rằng: 'Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới chân con'".

 

 

 

Đối với Thánh Phaolô Tông Đồ, cũng như với tất cả những ai làm nhân chứng cho Thiên Chúa, cho Chúa Kitô, đều phải là thành phần nhận biết chính Đấng mình làm chứng, Đấng đã tỏ mình ra cho chung nhân loại cũng như cho từng con người, nhất là cho thành phần được Người kêu gọi và sai đi làm chứng cho Người, một tác động thần linh tỏ mình hoàn toàn phản ảnh mạc khải thần linh trong Thánh Kinh, để nhờ đó mạc khải thần linh được ứng nghiệm nơi họ, khiến họ rao giảng hay giảng dạy một cách đầy xác tín về những chân lý bất diệt cứu độ, về một thực tại thần linh siêu việt, như lời Thánh Phaolô vừa khẳng định vừa khuyên dạy môn đệ Timothêu của ngài trong Bài Đọc 1 hôm nay như sau:

 

 

 

"Phần con, con hãy bền vững trong các điều con đã học hỏi và xác tín, vì con biết con đã học cùng ai, vì từ bé, con đã học biết Sách Thánh, và chính Sách Thánh đã dạy con sự khôn ngoan để con được cứu rỗi nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô. Tất cả Kinh Thánh đã được Chúa linh hứng, đều hữu ích để giảng dạy, biện bác, sửa dạy và giáo dục trong đàng công chính, ngõ hầu người của Thiên Chúa được hoàn hảo để sẵn sàng thực hiện mọi việc lành".

 

 

 

Bản thân của vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô là chứng từ chân thực nhất và sống động nhất về những gì ngài khẳng định và khuyên dạy người môn đệ Timothêu của ngài trên đây, vì ngài thực sự đã sống niềm tin bất khuất của ngài là hoa trái của mạc khải thần linh chẳng những từ Thánh Kinh mà còn từ chính Đấng đã đặc biệt tuyển chọn ngài và tỏ mình ra cho ngài, nhờ đó ngài đã bất chấp tất cả như ngài thuật lại trong Bài Đọc 1 hôm nay như sau:

 

 

"Con thân mến, con đã noi theo cha về giáo lý, đức hạnh, dự định, lòng tin, khoan dung, yêu thương, kiên nhẫn, bắt bớ, đau khổ, như đã xảy đến cho cha ở Antiokia, Icôni và Lystra. Biết bao cuộc bắt bớ cha đã phải chịu, và Chúa đã cứu cha thoát khỏi tất cả. Vả lại, mọi kẻ muốn sống đạo đức trong Ðức Giêsu Kitô đều chịu bắt bớ".

 

 

Đúng thế, kinh nghiệm sống đức tin nói chung và hoạt động tông đồ nói riêng của Kitô hữu, vì làm chứng cho chân lý là ánh sáng cho một thế giới của những "con người chuộng tối tăm hơn ánh sáng" (Gioan 3:19), cũng như làm chứng cho Đấng đã từng "trở nên cớ vấp phạm cho nhiều người" (Luca 2:34), mà họ không thể nào tránh được số phận trở thành mục tiêu chống đối của thế gian, nhưng vì mạc khải thần linh họ đã cảm nghiệm để có thể làm chứng ấy sẽ càng ứng nghiệm hơn nữa nơi họ khi họ chịu bách hại mà vẫn trung thành với mạc khải thần linh này nơi họ cho đến cùng, như chính họ đã bày tỏ tâm tình tin yêu bất khuất của họ qua Bài Đáp Ca rất thích hợp hôm nay:

 

 

 

1) Nhiều người bắt bớ và nhiễu hại con, nhưng con chẳng sai trật lời nghiêm huấn của Chúa.

2) Căn bản lời Chúa là sự thật, mọi chỉ dụ công minh của Chúa tồn tại muôn đời.

3) Các vua chúa bách hại con vô lý, nhưng lòng con vẫn kính sợ lời Ngài.

4) Ðại bình an cho những ai yêu luật pháp Chúa, không có gì làm cớ cho họ sẩy chân.

5) Lạy Chúa, con mong ơn Ngài phù trợ, để thực thi những chỉ thị của Ngài.

6) Con tuân giữ huấn lệnh và những lời truyền của Chúa, vì bao đường lối của con hiện ở trước nhan Ngài.

 

 

 

 

 

 Thứ Bảy


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 2 Tm 4, 1-8

"Con hãy thi hành việc rao giảng Phúc Âm. Phần cha, cha đã già yếu và Chúa sẽ trao cho cha triều thiên công chính".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.

Con thân mến, cha khuyến cáo con trước tôn nhan Thiên Chúa và Ðức Kitô, Ðấng sẽ thẩm phán kẻ sống và kẻ chết nhân danh cuộc xuất hiện của chính Người và vương quốc của Người: Con hãy rao giảng lời Phúc Âm, hãy xúc tiến việc đó, dầu thời thế thuận lợi hay không thuận lợi, hãy thuyết phục, hãy khiển trách, hãy khuyên lơn với tất cả lòng kiên nhẫn và quan tâm giáo huấn. Bởi vì sẽ có một thời, bấy giờ người ta không chịu nghe theo giáo lý lành mạnh nữa, nhưng theo tình tư dục, họ đã thu thập cho mình thực nhiều thầy, tai họ ngứa ngáy và họ ngoảnh tai đi cho khỏi nghe chân lý để quay về với những chuyện hoang đường. Phần con, hãy thận trọng trong hết mọi vấn đề, hãy can trường chịu đau khổ, hãy làm phận sự người rao giảng Phúc Âm, hãy lo chu toàn bổn phận phục vụ của con, hãy sống tiết độ.

Phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Ðấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy, nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi Người xuất hiện.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 70, 8-9. 14-15ab. 16-17. 22

Ðáp: Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh (x. c. 15).

Xướng: 1) Miệng con đầy lời ca ngợi Chúa, và suốt ngày con ca hát vinh quang Ngài. Xin Chúa đừng bỏ con trong lúc tuổi già, khi con đã kiệt sức, xin chớ bỏ rơi con.. - Ðáp.

2) Phần con sẽ luôn luôn trông cậy, ngày ngày con sẽ thêm lời ngợi khen Chúa. Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh, và suốt ngày con kể ra ơn Ngài giúp đỡ, thực con không sao mà kể cho cùng. - Ðáp.

3) Con sẽ kể ra uy quyền Thiên Chúa, lạy Chúa, con sẽ ca ngợi đức công minh của Ngài. Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu, và tới bây giờ con còn kể những sự lạ của Ngài. - Ðáp.

4) Phần con, với cây cầm thụ, con ca lòng trung thành Ngài; lạy Chúa, với cây huyền cầm, con sẽ hát mừng Chúa, lạy Ðấng thánh của Israel. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 15, 15b

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 12, 38-44

"Bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói cùng dân chúng trong khi giảng dạy rằng: "Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm nhặt hơn". Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: "Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bá goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống".

Ðó là lời Chúa.

 



Suy Niệm Cảm Nghiệm

                                                                                                          

tận cùng sự sống


Suy Niệm

 

 

Phụng vụ Lời Chúa cho Thứ Bảy Tuần IX Thường Niên hôm nay với bài Phúc Âm cuối cùng của Thánh ký Marco (12:38-44) là Phúc Âm có 16 đoạn được Giáo Hội chọn đọc cho 9 tuần đầu của Mùa Thường Niên, và cũng là đoạn áp cuối của Sách Tobia (12:1-5,20) ở Bài Đọc 1. Chưa hết, hôm nay bài Đáp Ca không được trích từ Thánh Vịnh như thường thấy mà lại được trích từ đoạn cuối cùng của chính Sách Tobia. 


Trước hết, bài Phúc Âm được Thánh ký Marcô thuật lại nhận định của Chúa Giêsu cho dân chúng biết về thành phần "luật sĩ" và lời khuyên dạy của Người giành cho "các môn đệ" về hành động dâng cúng chẳng là gì của một bà góa. 


Đây là một cảnh tượng trái nghịch nhau được Thánh ký Marco ghép lại từ hai trường hợp hoàn toàn tương phản nhau, giữa thành phần luật sĩ thông thái và bà góa đơn nghèo. 


Trước hết Chúa Giêsu đã nặng lời chê trách và cảnh báo thành phần thông luật trước mặt công chúng: "Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm nhặt hơn". Trong phán quyết này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Người có nhắc đến thành phần "các bà góa", trong đó có một bà góa được Người sử dụng để khuyên dạy các môn đệ của Người:


"Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: 'Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bá goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống'".


Quả thật là thế, sở dĩ bà góa được Chúa Giêsu nói đến và khen tặng như một tấm gương sáng cho các môn đệ "bỏ nhiều hơn hết", hơn cả "lắm người giầu bỏ nhiều tiền" hơn bà nữa, là vì trong khi các người khác, nhất là các người giầu "bỏ của mình dư thừa", thì người đàn bá góa ấy lại "đang túng thiếu", nhưng bất chấp túng thiếu, thậm chí chẳng cần khôn ngoan, hành động đến như điên dại, ở chỗ bà "đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống".


Tinh thần và hành động của bà góa này đúng là anh hùng trước nhan Chúa hơn là trước mặt người đời, nhất là trước mặt thành phần giầu sang phú quí, thành phần có thể còn tỏ ra khinh bỉ bà nữa là đằng khác. Bà góa này vốn nghèo còn có thể càng nghèo hơn nữa bởi sự bóc lột của thành phần luật sĩ bị Chúa Giêsu vạch mặt trong bài Phúc Âm: "Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá". 


Thế nhưng, trước nhan Chúa, bà lại giầu sang hơn ai hết, vì bà có một sự sống nội tại siêu việt trên cả thành phần thông luật Chúa hơn bà, thành phần có thể đã bóc lột tiền bạc ngặt nghèo của bà. Chính đức tin của và lòng trông cậy hoàn toàn vào Chúa của bà đã khiến bà có những hành động phi thường trổi vượt đáng khâm phục. Bà đã biết lợi dụng tiền bạc chẳng là bao của mình để trả về cho Chúa tất cả những gì Ngài ban cho bà. Sự sống của bà do Chúa ban không thể lệ thuộc vào tiền bạc để sống hơn là vào chính Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên bà và ban sự sống cho bà.


 

Cảm Nghiệm

 

 

 

Trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cảnh cáo lối sống giả hình của thành phần luật sĩ là những kẻ đóng vai thày dạy của dân chúng, và đã lên tiếng khen bà góa bỏ tiền vào đền thờ với tất cả tấm lòng chân tình của mình đối với Thiên Chúa.

 

 

Trong Bài Đọc 1 hôm nay cũng thế, một đàng Thánh Phaolô khuyên người môn đệ Timôthêu của ngài về vai trò giảng dạy của vị này là "hãy thận trọng trong hết mọi vấn đề, hãy can trường chịu đau khổ, hãy làm phận sự người rao giảng Phúc Âm, hãy lo chu toàn bổn phận phục vụ của con, hãy sống tiết độ", đàng khác, ngài cũng không ngần ngại nêu gương sống của ngài cho người môn đệ của ngài thấy rằng ngài đã trọn đời hết tình dấn thân phụng sự Thiên Chúa cho đến cùng: "Phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin".

 

 

Ý nghĩa của cả bài Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1 hôm nay đều chất chứa một huấn dụ sâu xa đó là sống thật lòng với Thiên Chúa, đừng giả hình gian dối, nhờ đó con người mới tỏ ra nhận biết Thiên Chúa thật và mới có thể phụng sự Ngài như Ngài mong muốn, mới có thể cảm tạ ngợi khen Ngài cho xứng đáng, đúng như cảm nhận và tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay về những con người như vậy:

 

 

 1) Miệng con đầy lời ca ngợi Chúa, và suốt ngày con ca hát vinh quang Ngài. Xin Chúa đừng bỏ con trong lúc tuổi già, khi con đã kiệt sức, xin chớ bỏ rơi con.

2) Phần con sẽ luôn luôn trông cậy, ngày ngày con sẽ thêm lời ngợi khen Chúa. Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh, và suốt ngày con kể ra ơn Ngài giúp đỡ, thực con không sao mà kể cho cùng.

3) Con sẽ kể ra uy quyền Thiên Chúa, lạy Chúa, con sẽ ca ngợi đức công minh của Ngài. Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu, và tới bây giờ con còn kể những sự lạ của Ngài.

4) Phần con, với cây cầm thụ, con ca lòng trung thành Ngài; lạy Chúa, với cây huyền cầm, con sẽ hát mừng Chúa, lạy Ðấng thánh của Israel.