Chúa Nhật
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Ðn 12,
1-3
"Khi ấy dân
ngươi sẽ được cứu thoát".
Bài trích sách Tiên tri Ðaniel.
Khi ấy, tổng lãnh sứ thần Micae sẽ chỗi dậy can thiệp cho con cái dân ngươi,
đó sẽ là thời kỳ khốn khổ chưa từng xảy đến từ khi có các dân tộc cho tới
bây giờ. Trong thời kỳ ấy dân ngươi, hễ ai đã có ghi tên trong sách, sẽ được
cứu thoát.
Nhiều kẻ an giấc trong bụi đất sẽ chỗi dậy; có người sẽ được hưởng phúc
trường sinh, có kẻ phải tủi nhục muôn đời.
Những người thông minh sẽ sáng chói như ánh sáng vòm trời, và những kẻ
khuyên dạy sự công chính cho nhiều người, sẽ nên như các vì tinh tú tồn tại
muôn ngàn đời.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 15, 5
và 8. 9-10. 11
Ðáp: Xin
bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa (c. 1).
Xướng: 1) Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Người nắm giữ
vận mạng của con. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên
hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.
2) Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt
của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong âm
phủ, cũng không để thánh nhân của Người thấy điều hư nát. - Ðáp.
3) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh: sự no đầy hoan hỉ ở trước
thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt
10, 11-14. 18
"Người đã làm
cho những kẻ được thánh hoá nên hoàn hảo đến muôn đời".
Bài trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Trong khi mọi tư tế hằng ngày đứng gần bàn thờ chu toàn chức vụ mình và hiến
dâng cũng ngần ấy của lễ nhiều lần, nhưng không bao giờ xoá được tội lỗi,
còn Người khi dâng xong của lễ duy nhất đền tội, đã ngự bên hữu Thiên Chúa
đến muôn đời, và từ đây, Người chờ đợi cho đến khi thù địch bị đặt làm bệ
dưới chân Người. Vì chưng, nhờ việc hiến dâng duy nhất mà Người đã làm cho
những kẻ được thánh hoá nên hoàn hảo đến muôn đời. Vậy nơi nào tội lỗi được
thứ tha, thì không còn việc dâng của lễ đền tội nữa.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Kh 2,
10c
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ngươi hãy giữ lòng trung thành cho đến
chết, thì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 13,
24-32
"Người sẽ quy tụ
những người được tuyển chọn từ khắp bốn phương trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Trong những ngày ấy, sau cảnh
khốn cực, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ
trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ
sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang. Và
bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được
tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất. Nhìn
vào cây vả, các con hãy tìm hiểu dụ ngôn này. Khi nó đâm chồi nảy lộc, các
con biết rằng mùa hè gần đến. Cũng vậy, khi các con nhìn thấy tất cả những
điều đó xảy ra, thì các con hãy biết là Người đã tới gần ngoài cửa rồi. Thầy
bảo thật các con: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi sự đó xảy đến.
Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi.
"Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần
trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Chủ đề sự sống từ Mùa Phục Sinh được tiếp tục kéo dài
suốt Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh ở
Phụng Vụ Chúa Nhật mỗi Chúa Nhật hằng
tuần, bao gồm cả Tuần XXXIII Thường Niên Năm B hôm nay.
Thật vậy, sự sống ở đây không phải là sự sống về thể
lý, sự sống ở đời
này mà là sự
sống thần linh bất
diệt ở đời sau, sự sống không bao giờ qua đi, cho
dù trời đất trong vũ trụ này có qua đi khi tới ngày cùng tháng tận của
chúng.
Đó là lý do Bài Đọc Thứ
Nhất hôm nay, được trích từ Sách Tiên Tri Đaniên, đã
tiên báo về số phận của thành phần được cứu độ, nghĩa là thành phần "có
tên được ghi trong
sách", thành
phần "sẽ
được hưởng phúc trường sinh" sau thời
gian "an
giấc trong bụi đất chỗi dậy", chứ
không phải thành phần cũng "chỗi dậy từ trong bụi đất" nhưng "bị tủi
nhục muôn đời".
Chưa hết,
Bài Đọc 1 còn báo trước về tác dụng của sự sống thần linh nơi thành
phần được cứu độ ấy nữa, qua hình ảnh vinh quang rạng ngời của họ như
thế này: "Những
người thông minh sẽ sáng chói như ánh sáng vòm trời, và những kẻ khuyên
dạy sự công chính cho nhiều người, sẽ nên như các vì tinh tú tồn tại
muôn ngàn đời".
Tuy nhiên, để được
cứu độ, con người cần phải có đức tin và đức tin thì cần được thử thách,
nhất là vào giai đoạn cuối thời,
những gian nan thử thách vào thời cuối bấy giờ hết
sức kinh hoàng khủng khiếp, đến độ,
như Bài Đọc 1 tiên báo: "đó
sẽ là thời kỳ khốn khổ chưa từng xảy đến từ khi có các dân tộc cho tới
bây giờ".
Đúng thế,
chính vì "nếu
giai đoạn ấy không được rút ngắn lại thì không một con người nào được
cứu độ"
(Mathêu 24:22), mà
trong Bài Đọc 1 hôm nay còn cho thấy một chi tiết then chốt rất
quan trọng nữa là: "Khi ấy, tổng lãnh sứ thần Micae sẽ chỗi dậy can
thiệp cho con cái dân ngươi".
Chính
vì ơn cứu độ là do Thiên Chúa, chứ không phải bởi nguyên "công
nghiệp" của con người, hay nói đúng
hơn, để được cứu độ, được vĩnh viễn hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa, con
người chấp
nhận ơn cứu độ bằng niềm tin còn phải biết
luôn đáp ứng ơn
cứu độ nữa, nghĩa là phải biết sống "đức tin tuân phục" (Roma
1:5) cho đến cùng: "ai bền
vững đến cùng sẽ được
cứu độ"
(Mathêu 24:12).
Bài Đáp
Ca hôm nay đã chất chứa cảm thức đầy xác tín của những ai sống đức tin
tuân phục, luôn tin tưởng vào Thiên Chúa, ở chỗ: "luôn
luôn đặt Chúa ở trước mặt". Và cho
dù có bị Ngài thử
thách, như
Ngài "bỏ
rơi linh hồn con trong âm phủ", họ
vẫn "không
nao núng", tới độ: "lòng
con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng
nằm nghỉ an toàn". Nhờ đó,
nhờ kiên trì sống theo "đường
lối trường sinh" mà cuối
cùng họ được hoan hưởng
"sự
no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới
muôn muôn đời!"
Thật vậy, ơn
cứu độ của Thiên Chúa được ban cho nhân loại nơi Chúa Giêsu Kitô
Con của
Ngài, nơi Đấng
Thiên Sai Cứu Thế, vị
mà, như Bài Đọc 2 hôm nay cho biết: "khi
dâng xong của lễ duy nhất đền tội, đã ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn
đời, và từ đấy,
Người chờ đợi cho đến khi thù địch bị đặt làm bệ dưới chân Người".
Là Thượng
Tế xuất phát từ chính Thiên Chúa chứ không phải chỉ thuần túy là loài
người mà Chúa
Kitô chỉ cần hiến mình làm hy tế cứu độ một lần là có giá trị vĩnh viễn,
có giá trị vô cùng, chứ không như "mọi
tư tế hằng ngày đứng gần bàn thờ chu toàn chức vụ mình và hiến dâng cũng
ngần ấy của lễ nhiều lần, nhưng không bao giờ xoá được tội lỗi", được
Thánh Phaolô nói đến ở đầu
Bài Đọc 1
hôm nay.
Vâng, công ơn
cứu độ của Chúa
Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống có một giá trị vĩnh viễn và vô
cùng, bởi Người là Thiên Chúa, là Đấng vô cùng, một ơn cứu độ bởi thế chẳng
những cứu được cả thế giới này, mà còn cứu được muôn vàn ức triệu thế
giới khác nữa, cho dù mỗi thế giới kéo dài cả trăm ngàn triệu năm, và
loài người có phạm vô số tội không thể nào đếm được, và phạm những tội
vô cùng khủng khiếp nhất.
Vấn đề được đặt
ra ở đây là tại sao Chúa Kitô đã cứu độ nhân loại rồi mà sự dữ vẫn còn
tồn tại trên thế giới này, đến độ càng ngày càng gia tăng và kinh hoàng
như thể tận thế đến nơi rồi vậy?
Phải chăng là
vì ơn cứu độ của Người và ở nơi Người, một ơn cứu độ vĩnh viễn hiệu lực,
đã thắng được tất cả mọi quyền lực sự dữ (xem 1Gioan 3:6), đã "được
toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:19), cần phải được hiện
thực trên cả thế giới này cũng như nơi từng người, để cho thấy rằng "dù quyền
lực hỏa ngục cũng không thể nào phá được" (Mathêu 16:18), "cho
đến khi thù địch bị đặt làm bệ dưới chân Người".
Biến cố Chúa
Kitô tái giáng, theo chiều hướng ấy, là biến cố Người chính thức và công
khai tỏ
mình ra trước
toàn thể muôn dân, chứ không phải chỉ riêng Dân Do Thái như lần đầu Người đến
thế gian
này, và vì thế Người cũng không
phải tỏ ra mình
ra như xưa trước mặt dân Do Thái như một tên tử tội bị treo trên thập tự
giá không thể nào cứu được
mình bằng
cách tự mình xuống
khỏi thập giá (xem Mathêu 27:42-43),
mà là tỏ
mình ra như một Đấng toàn thắng hiển vinh và toàn quyền chung thẩm muôn
dân.
Trong Bài
Phúc Âm hôm nay Thánh ký Marco đã chứng thực điều ấy, chứng thực là Chúa
Kitô tái giáng là để tỏ mình ra như một Đấng toàn thắng hiển vinh và
toàn quyền chung thẩm muôn
dân, khi ngài ghi
lại chính lời của Chúa Giêsu báo trước hình ảnh Người đến như một Đấng
toàn thắng hiển vinh và
toàn quyền chung thẩm muôn
dân như thế này:
"Trong những ngày ấy, sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt
trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh
trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến
trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang. Và bấy giờ Người sẽ sai
các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp
bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất".
Những gì được
Chúa Kitô báo trước về ngày cùng tháng tận ở Bài Phúc Âm hôm nay, có
những chi tiết cần phải lưu ý sau đây:
1- Biến cố Chúa
Kitô xuất hiện lần thứ hai chỉ
xẩy ra vào thời điểm "sau cảnh khốn cực", như Tiên Tri Đaniên đã
tiên báo trong Bài Đọc 1 hôm nay: "thời
kỳ khốn khổ chưa từng xảy đến từ khi có các dân tộc cho tới bây giờ". Có
thể hiểu là thời điểm thử thách cuối cùng liên quan đến một cuộc khủng
hoảng đức tin chưa từng thấy, như chính Chúa Giêsu đã báo trước rằng "không
biết khi Con Người đến có còn thấy đức tin trên thế gian này nữa hay
chăng" (Mathêu 18:8). Vậy khi xẩy ra dấu chỉ thời đại là càng ngày
càng mất đức tin thì biết rằng Chúa Kitô sắp sửa xuất hiện - phải
chăng đang ứng nghiệm với giai đoạn
lịch sử càng
ngày càng quái gở trên thế
giới hiện nay?
2- Biến cố Chúa
Kitô xuất hiện lần thứ hai, như Bài Phúc Âm hôm nay cho biết, trước
khi mở màn còn diễn ra một hiện tượng khác nữa, đó là: "mặt
trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi
xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển". Ở đây
có thể hiểu cả về thể lý của vũ trụ này lẫn
tâm linh của con
người.
Về thể
lý, bởi vì không một cái gì là thụ tạo,
dù là mặt trời cùng tinh tú tồn tại hầu như bất tận cũng phải tận, theo
bản chất
hữu hạn của chúng. Phải chăng chính con người càng văn minh càng gây
nguy hiểm cho thiên nhiên tạo vật hiện nay, đến độ đang làm biến động cả
trời đất, hết sức nguy hiểm đến số mệnh của chung loài người?
Về tâm linh, bởi
vì nếu đức tin được so sánh và đóng vai trò như ánh sáng, nên mới gọi là
"ánh sáng đức tin - lumen fidei" (nhan đề
của bức Thông Điệp được ĐTC
Phanxicô ban hành ngày 29/6/2013), thì hiện tượng tối tăm xẩy ra bởi mặt
trời, mặt trăng cùng các tinh tú trên bầu trời đây có thể hiểu về tình
trạng khủng hoảng đức tin đang xẩy ra nơi thành phần "là ánh sáng thế
gian" (Mathêu 5:14), ở chung Kitô hữu (như tinh
tú trên
trời "hầu hết đã ra nguội lạnh" - Mathêu 24:12), nhất là riêng
các đấng bậc trong Giáo Hội (sống theo tinh thần thế gian, thậm chí
còn lạm dụng tình dục v.v.).
Hai biến
cố trên đây là những dấu hiệu rõ nhất báo hiệu Chúa Kitô sắp sửa quang
lâm tái
giáng. Bởi
thế, cho dù Chúa Giêsu, ở cuối bài Phúc Âm đã khẳng định: "Còn
về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần
trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi",
Người vẫn
xác nhận một cách dứt khoát và chắc chắn đến độ Người đã quả quyết trong
cùng bài Phúc Âm: "Trời
đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi", về
hai biến cố trên đây trước khi Người xuất hiện: "khi
các con nhìn thấy tất cả những điều đó xảy ra, thì các con hãy biết là
Người đã tới gần ngoài cửa rồi".
Thật ra,
không phải là Chúa Kitô không biết được chính xác thời điểm tận thế, tức
thời điểm "ngày đó hay giờ đó" để Người xuất hiện thì làm sao
Người thực hiện được. Nếu vậy thì Người chẳng khác gì như một diễn
viên đóng kịch mà chẳng biết lúc nào xuất hiện. Người biết nhưng biết
không phải để nói ra, để tiết lộ, mà là để giữ kín. Như trường hợp một
người chứa gạo trong nhà, và người khác đến xin gạo, họ nói là không có
gạo, không phải là họ nói dối, vì gạo ấy thuộc về một người khác gửi họ
giữ chứ không phải của họ để có quyền cho người khác.
Không như các
thiên thần là tạo vật không biết về thời điểm tận thế như con người, dù
các ngài cũng tham dự vào biến cố cánh chung tận cùng này của loài
người, như Sách Khải Huyền cho thấy, Chúa
Kitô, với
bản tính thần linh của mình, Người cũng biết
về ngày giờ Người cần phải xuất hiện, nhưng không phải để tiết lộ ra, mà
là giữ kín, nhờ đó loài người mới luôn hướng về Người và trông đợi
Người đến, bằng một lòng tin tưởng mãnh liệt, bất chấp mọi gian nan khốn
khó dù khủng khiếp như chưa bao giờ xẩy ra, có thế họ mới xứng với ơn
cứu độ vô
cùng quí báu của
Người, và mới đáng
hoan hưởng sự sống thần linh vinh phúc vĩnh hằng của
Người và với Người:
"Người sẽ
xuất hiện lần thứ hai không phải để xóa tội mà là để mang ơn cứu độ đến
cho những
ai thiết tha trông đời Người" (Do Thái 9:28).
Thứ
Hai
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) 1
Mcb 1, 11-16. 43-45. 57-60. 65-67
"Dân Israel phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp".
Trích sách Macabê quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, bởi dòng các vua Hy-lạp sinh ra một mầm mống tội lỗi,
là Antiôcô Êpiphan, con vua Antiôcô, trước kia bị bắt làm con tin tại Rôma;
năm vương quốc Hy-lạp một trăm ba mươi bảy, ông lên ngôi vua.
Thời đó từ Israel cũng xuất hiện một số người bất lương mê hoặc được nhiều
người, chúng nói rằng: "Này, ta hãy giao ước với các dân ở chung quanh chúng
ta, vì từ ngày chúng ta đoạn giao với các dân ấy, chúng ta đã gặp nhiều tai
hoạ". Họ cho lời nói ấy là đúng. Một số trong dân chúng hối hả đi yết kiến
nhà vua và được nhà vua cho phép tuân giữ các luật lệ của dân ngoại. Họ liền
xây cất một thao trường ở Giêrusalem theo tập quán của dân ngoại; họ tìm
cách huỷ bỏ vết tích của phép cắt bì, chối bỏ Giao Ước thánh để rồi giao ước
với kẻ ngoại. Họ tự bán mình để làm sự dữ.
Vua Antiôcô ra chiếu chỉ khắp nước truyền cho mọi dân hợp thành một dân và
mỗi dân phải bỏ tục lệ riêng mình; tất cả các dân ngoại đều tuân lệnh nhà
vua. Nhiều người Israel cũng sẵn sàng theo việc phượng tự của nhà vua, họ
liền hiến tế cho ngẫu tượng và phế bỏ ngày sabbat.
Ngày rằm tháng Kislêu, năm một trăm bốn mươi lăm, vua Antiôcô đặt một ngẫu
tượng ghê tởm ngay trên bàn thờ dâng của lễ toàn thiêu. Người ta cũng lập
nhiều bàn thờ khác trong các thành lân cận của Giuđa: người ta đốt hương
cúng tế trước cửa nhà và ở các công trường. Hễ gặp thấy sách luật nào, họ xé
nát và đem đốt đi. Nếu người ta bắt gặp sách giao ước trong nhà người nào
hoặc bắt gặp kẻ nào giữ Luật Chúa, thì kẻ ấy sẽ bị xử tử theo đúng chiếu chỉ
của nhà vua. Nhưng cũng có nhiều người Israel tỏ ra kiên quyết, và nhất định
không ăn của gì dơ nhớp; họ thà chết chẳng thà làm cho mình ra ô uế bởi của
ăn dơ và phạm đến Giao Ước thánh, và quả thực họ đã chết. Dân Israel phải
chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 53. 61. 134. 150. 155. 158
Ðáp: Lạy
Chúa, xin bảo toàn cho con sống, và con sẽ tuân giữ lời nghiêm huấn của Ngài
(x. c. 88).
Xướng: 1) Con nổi cơn uất hận vì những người tội lỗi, bọn chúng bỏ rơi luật
pháp của Ngài. - Ðáp.
2) Thừng chão bọn ác nhân đã trói buộc con, nhưng con chẳng lãng quên luật
pháp của Ngài. - Ðáp.
3) Xin Chúa cứu con khỏi người ta áp bức, để con tuân giữ các huấn lệnh của
Ngài. - Ðáp.
4) Những kẻ bách hại con cách độc ác đang tiến lại gần, bọn chúng sống xa
pháp luật của Chúa. - Ðáp.
5) Ơn cứu độ của Chúa xa bọn ác nhân, vì chúng chẳng lo giữ những thánh chỉ
của Ngài. - Ðáp.
6) Nhìn thấy những kẻ phản bội mà con chán nản, vì chúng không tuân giữ lời
sấm của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Lc 16, 31
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể
xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 18, 35-43
"Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi? - Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa đến gần thành Giêricô, thì có một người mù ngồi ăn xin bên vệ
đường. Khi nghe tiếng đám đông đi qua, anh liền hỏi có chuyện gì đó. Người
ta nói cho anh biết có Ðức Giêsu Nazareth đang đi qua. Bấy giờ anh liền kêu
lên rằng: "Lạy ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Những người đi
trước mắng bảo anh nín đi, nhưng anh lại càng kêu lớn tiếng hơn: "Lạy con
vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Vậy Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến
cùng Người. Khi anh đến gần bên Người, Người hỏi anh: "Ngươi muốn Ta làm gì
cho ngươi?" Anh thưa: "Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy". Chúa Giêsu bảo
anh: "Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". Tức khắc anh thấy
được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy toàn dân liền ca
ngợi Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời
Chúa
Một vũ điệu thần linh tuyệt vời
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Hai Tuần XXXIII Thường Niên,
cũng là bài Phúc Âm theo Thánh Marco (10:46-52) được Giáo Hội
chọn đọc cho Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm B, về phép lạ chữa lành
của Chúa Giêsu "cho một
người mù ngồi ăn xin bên vệ đường".
Tuy nội dung của 2 bài Phúc Âm này được cả hai
Thánh Ký Marco và Luca thuật lại giống nhau,
nhưng về chi tiết hơi khác nhau một chút. Chẳng hạn ở những chi tiết
rõ ràng sau đây:
Trước hết, về
nơi xẩy ra phép lạ Chúa, trong khi Thánh ký
Marco thuật lại rằng "Chúa Giêsu ra
khỏi thành Giêricô", thì
Thánh ký Luca trong bài Phúc Âm hôm nay lại viết rằng "Chúa đến
gần thành Giêricô".
Sau nữa, về bản
thân của nạn nhân mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường ở thành Giêricô
này, trong khi Thánh ký Marco (một vị thánh ký viết Phúc Âm ngắn
nhất trong bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm, nhưng lại khá chi tiết về các biến
cố xẩy ra) cho biết rõ lý lịch của nạn nhân là "con
ông Timê tên là Bartimê", thì
Thánh ký Luca lại chẳng nói gì hết.
Còn nữa, về
thái độ của người mù ngồi ăn xin bên vệ đường này, trong khi Thánh
ký Marco cho biết rõ chi tiết về phản ứng của nạn nhân khi nghe thấy
mình được Chúa Giêsu gọi đến là "anh
ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu", thì
Thánh ký Luca lại chỉ vắn tắt viết: "anh
đến gần bên Người".
Sau hết, về lời
truyền chữa lành của Chúa Giêsu phán cùng nạn nhân, trong khi Thánh
ký Marco ghi lại rằng: "Ðược,
đức tin của anh đã chữa anh", thì
Thánh ký Luca ở đây lại chi tiết hơn Thánh ký Marco một chút như thế
này: "Hãy
nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
Ngoài ra, cả hai
vị Thánh ký đều giống nhau ở thái độ của nạn nhân là khi nghe biết
có Chúa Giêsu ở đấy thì van xin, và càng bị trấn át thì càng la to
hơn, cho đến khi được Người gọi đến,
và cũng giống
nhau ở câu đối đáp giữa Chúa Giêsu và nạn nhân trước khi phép lạ xẩy
ra, đó là Chúa Giêsu hỏi nạn nhân muốn Người làm gì cho nạn nhân và
nạn nhân đã xin
Người phục quang cho mình.
Chi tiết thứ nhất liên quan đến đấng chữa lành, đó là "Chúa
Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người", và
chi tiết thứ hai liên quan đến nạn nhân được chữa lành: "anh
thấy được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa".
Thật vậy, đây là
quả là một vũ điệu thần linh tuyệt vời. Ở chỗ, tác động thần linh
từ Đấng Chữa Lành đã được phản hồi hết sức tương xứng bằng một đáp ứng
thần linh từ nạn
nhân được chữa lành.
Nạn nhân trước
khi được chữa lành không hề dám tự động quẳng áo choàng đứng
lên tiến đến gần
Chúa Giêsu khi thoạt tiên vừa nghe thấy Người đến gần chỗ nạn
nhân đang ngồi ăn xin, mà chờ đợi cho tới khi được Người gọi tới.
Thái độ cứ ngồi yên một chỗ đợi chờ không phải là thái độ không
nhiệt tình, mà là một thái độ tin tưởng hơn hết, ở chỗ, một đàng
thì kêu la van xin cho bằng được, trong khi lại ngồi yên tại chỗ như
thể nạn nhân cảm thấy mình hoàn toàn bất xứng không đáng đến gần
Chúa Giêsu, cũng như bất
lực không thể nào
làm gì được nếu không có Người.
Đúng thế, tác động thần
linh bao giờ cũng đến trước đáp ứng thần linh của thụ tạo, như yếu
tố thiết yếu và điều
kiện bất khả thiếu để thụ tạo nhờ đó
và do đó mới có
thể bị động, mới có
thể cảm động và mới có
thể di động theo tác động
thần linh. Bởi
thế, chỉ khi nghe thấy Chúa Giêsu truyền gọi, nạn nhân mù lòa
ngồi ăn xin bên vệ đường ở thành Giêricô này mới đến được
và được đến với Người.
Thực tế sống đạo cũng
cho thấy thực tại này, ở
chỗ, những ước
muốn tốt lành của chúng ta cũng cần
phải được
Thiên Chúa tác động trước,
hơn là tự chúng ta có được, vì chúng ta theo bản tính tự
nhiên đã
bị hư đi theo nguyên tội, luôn hướng hạ hơn là hướng thượng. Một
khi chấp nhận ước muốn tốt lành bởi tác động thần linh
khởi động ấy, chúng
ta mới bày
tỏ lòng khát vọng của chúng ta bằng lời cầu nguyện, nhờ đó Thiên
Chúa được dịp ban
cho chúng ta chính những gì Ngài đã muốn ban nên đã soi động chúng
ta ước muốn trước khi van xin.
Cuộc hội ngộ thần linh
trong bài Phúc Âm hôm nay đã
xẩy ra một cách hết
sức ngoạn
mục. Ở chỗ, nạn nhân kháo khát được chữa lành, trong khi Thiên Chúa
vô cùng nhân hậu đã sẵn muốn chữa lành cho nạn nhân rồi, và chỉ
chờ đến giờ của mình là ra tay lập tức, tức
là cho đến khi nghe thấy nạn nhân kêu xin mình thì đáp ứng ngay, như
thể Đấng Chữa Lành thụ động còn nạn nhân chủ động, như
xẩy ra trong trường hợp được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại.
Nạn nhân mù ngồi ăn xin
hằng ngày ở
thành Giêricô tên Bartimê này, chắc đã
lâu lắm rồi, với một thân phận nghèo khổ và tương lai mịt mù như
bóng tối hằng che phủ đôi mắt của nạn nhân, có ngờ đâu lại bất
ngờ được gặp và gặp được Đấng
chữa lành cho mình, và
như thế, quả thực cuộc đời của nạn nhân đã được Thiên Chúa sử
dụng để tỏ mình Ngài ra, giống hệt như trường hợp của người mù từ
lúc mới sinh trong Phúc Âm Thánh ký Gioan (9:3).
Phải chăng cảm nhận được
như vậy, nạn nhân diễm phúc này đã không còn thiết gì thế gian này
nữa, vì nạn nhân được sáng mắt không phải chỉ thấy được ánh sáng tự
nhiên mà nhất là thấy được chính "ánh sáng thế gian" (Gioan
8:12), một thứ ánh sáng thần linh ban sự sống đã chữa lành cho nạn
nhân, và vì thế nạn nhân đã "đi
theo Người, và ca tụng Thiên Chúa"?
Bản thân của nạn
nhân đã trở thành một cuộc thần hiển cho Thiên Chúa tỏ mình ra,
chẳng những cho chính nạn nhân, mà còn cho cả cộng đồng gần xa của
nạn nhân nữa. Mục đích của Thiên Chúa ban ơn cho bất cứ một ai không
phải chỉ cho riêng người đó mà còn qua người đó cho các người khác
nữa. Bao giờ cũng thế. Đó là nguyên tắc và đường lối tỏ mình ra của
Ngài. Bởi
thế, bài Phúc Âm
hôm nay đã kết luận như sau: "Thấy
vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa".
Chưa hết, nếu để ý chúng ta còn thấy người mù ăn xin bên vệ đường
này phải là một con người có một đời sống nội tâm siêu việt, được
bộc lộ ra qua lời van xin của anh ta ngỏ cùng Đấng mà anh ta tin có
thể chữa lành cho anh ta: "Lạy ông Giêsu, con Vua Đavít, xin
thương xót tôi" (lần hai cũng thế, tuy không còn lập lại tên
Giêsu).
Tại sao anh mù ăn xin này lại kêu lên câu này, một câu nói cho thấy
tất cả đức tin chân thực của anh ta vào nhân vật Giêsu Nazarét, một
nhân vật lần đầu tiên anh được gặp dù không thấy nhưng vẫn tin, tin
hơn cả thành phần lãnh đạo tôn giáo của dân Do Thái và tin hơn cả
thành phần thông luật và dạy luật trong dân nữa, nếu không phải là
vì anh ta tin rằng nhân vật "Giêsu" ấy chính là Đấng Thiên
Sai Cứu Thế, Đấng được sai đến không phải để giải thoát dân Do Thái
khỏi quyền lực chính trị như hầu hết dân chúng mong đợi, mà là để
giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết. Và vì sự chết và đau
khổ là hậu quả của tội lỗi mà nếu nhân vật "Giêsu" là Đấng Thiên Sai
Cứu Thế thì Người có thể cứu anh ta khỏi mù.
Trong câu trả lời của anh ta cho câu hỏi của Chúa Giêsu "anh
muốn tôi làm gì cho anh?" rằng "xin cho tôi được thấy"
cũng hàm chứa một ước vọng sâu xa của anh ta trong thời gian anh ta
bị mù lòa, một thứ mù lòa về thể lý nhưng không thể bịt bùng tâm hồn
chiêm niệm tràn đầy ánh sáng siêu nhiên của anh ta. Ước vọng được
anh ta bày tỏ qua lời "xin cho tôi được thấy" đó là được
thấy "ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12) là chính Chúa Giêsu, hơn là
chỉ được thấy ánh sáng mặt trời, thấy lại những người thân yêu, thấy
lại họ hàng thân hữu v.v. Đó là lý do, vì "xin cho tôi được
thấy" "ánh sáng thế gian" mà ngay sau khi được chữa lại, được
thấy lại, anh ta đã "đi theo Người và ca tụng Thiên Chúa".
Về tình trạng mù lòa về thể lý được Chúa Kitô chữa lành trong bài
Phúc Âm hôm nay, tiêu biểu cho tình trạng mù lòa thiêng liêng cũng
cần được chữa lành bởi Người, một tình trạng mù quáng thiêng liêng
vô cùng nguy hiểm và khốn nạn đến chính phần rỗi của con người,
chẳng những của chung con người qua hai nguyên tổ ngay từ ban đầu,
mà còn qua chính dân Do Thái được Thiên Chúa của tổ phụ họ tuyển
chọn để làm dân riêng của Ngài và để Ngài có thể qua họ tỏ mình ra
cho dân ngoại. Thế mà, qua giòng lịch sử cứu độ của họ, biết bao
nhiêu lần họ đã mù quáng đến phản bội Vị Thiên Chúa chân thật duy
nhất của mình, đến độ có 2 lần Ngài tính tiêu diệt họ (xem Xuất Hành
32:10; Đệ Nhị Luật 9:14; Dân Số 14:12). Thế mà họ vẫn chưa chừa, vẫn
tiếp tục mù quáng chối bỏ Ngài và truất phế Ngài, nhất là dưới thời
đế quốc Hy Lạp, như Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy:
"Ngày rằm tháng Kislêu, năm một trăm bốn mươi lăm, vua Antiôcô
đặt một ngẫu tượng ghê tởm ngay trên bàn thờ dâng của lễ toàn thiêu.
Người ta cũng lập nhiều bàn thờ khác trong các thành lân cận của
Giuđa: người ta đốt hương cúng tế trước cửa nhà và ở các công
trường. Hễ gặp thấy sách luật nào, họ xé nát và đem đốt đi. Nếu
người ta bắt gặp sách giao ước trong nhà người nào hoặc bắt gặp kẻ
nào giữ Luật Chúa, thì kẻ ấy sẽ bị xử tử theo đúng chiếu chỉ của nhà
vua... Dân Israel phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp".
Tuy nhiên, trong dân Do Thái không phải ai cũng bị mù quáng như
vậy, trái lại "cũng có nhiều người Israel tỏ ra
kiên quyết, và nhất định không ăn của gì dơ nhớp; họ thà chết chẳng
thà làm cho mình ra ô uế bởi của ăn dơ và phạm đến Giao Ước thánh,
và quả thực họ đã chết". Câu họa của bài
Đáp Ca hôm nay phản ảnh tâm nguyện của thành phần sáng mắt tin tưởng
này: "Lạy
Chúa, xin bảo toàn cho con sống, và con sẽ tuân giữ lời nghiêm huấn
của Ngài", một bài Đáp Ca (từ Thánh Vịnh 118) đồng thời cũng
chất chứa tâm tình trung kiên của họ:
1) Con nổi cơn uất hận vì những người tội lỗi, bọn chúng bỏ rơi
luật pháp của Ngài.
2) Thừng chão bọn ác nhân đã trói buộc con, nhưng con chẳng lãng
quên luật pháp của Ngài.
3) Xin Chúa cứu con khỏi người ta áp bức, để con tuân giữ các
huấn lệnh của Ngài.
4) Những kẻ bách hại con cách độc ác đang tiến lại gần, bọn
chúng sống xa pháp luật của Chúa.
5) Ơn cứu độ của Chúa xa bọn ác nhân, vì chúng chẳng lo giữ
những thánh chỉ của Ngài.
6) Nhìn thấy những kẻ phản bội mà con chán nản, vì chúng không
tuân giữ lời sấm của Ngài.
Thứ
Ba
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) 2
Mcb 6, 18-31
"Tôi sẽ để lại một tấm gương cao đẹp, nếu tôi tự ý và anh dũng chết cho các
lề luật đáng kính và thánh thiện của chúng tôi".
Trích sách Macabê quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Êlêazarô, một người trong hàng Luật sĩ vị vọng, ông đã
có tuổi và diện mạo oai phong, ông bị người ta cạy miệng bắt phải ăn thịt
heo. Nhưng ông thà chết vinh còn hơn sống nhục, nên ông tự ý ra pháp trường.
Hiểu rằng ông phải xử trí như thế nào, ông nhẫn nại chịu đựng, khẳng khái
không ăn đồ cấm vì ham sống. Các bạn cố tri đứng đó cảm thương ông, gọi lén
ông ra khuyên ông xin người ta đem cho ông các thứ thịt ông có phép dùng,
rồi ông chỉ giả vờ ăn thịt cúng như nhà vua đã truyền; làm như thế ông sẽ
thoát chết; và do tình bạn cố tri, họ đã tỏ lòng nhân đạo như vậy đối với
ông. Nhưng nghĩ đến địa vị bậc lão thành, mái tóc bạc khả kính, cách ăn ở
tốt đẹp từ thời niên thiếu, mà nhất là sống xứng với lề luật thánh mà chính
Thiên Chúa đã lập, ông liền trả lời, bảo họ rằng ông sẵn sàng chịu chết. Ông
nói:
"Vì ở tuổi chúng tôi không nên giả vờ, kẻo nhiều thanh niên tưởng rằng
Êlêazarô đã chín mươi tuổi đầu mà còn theo lối sống của dân ngoại. Rồi vì sự
giả vờ của tôi để sống thêm một ít lâu nữa, tôi sẽ làm cho chính họ cũng lầm
lạc, và vì thế, tôi sẽ chuốc lấy nhơ nhớp và ố danh cho tuổi già của tôi. Mà
dầu tôi có thoát khỏi hình phạt của loài người, thì dầu sống dầu chết, tôi
sẽ không thoát khỏi bàn tay của Thiên Chúa toàn năng. Bởi thế, nếu giờ đây
tôi can đảm từ giã cuộc đời, tôi sẽ tỏ ra xứng đáng với tuổi già của tôi;
tôi sẽ để lại cho các thiếu niên một tấm gương cao đẹp, nếu tôi tự ý và anh
dũng chết cho các lề luật đáng kính và thánh thiện của chúng tôi".
Nói đoạn ông liền bị điệu đến pháp trường. Các người áp giải ông đổi lòng
thiện cảm họ có đối với ông trước kia thành ác cảm, vì các lời ông vừa nói
mà họ cho là điên khùng. Khi sắp chết vì đòn vọt, ông thều thào trong hơi
thở cuối cùng: "Lạy Chúa là Ðấng thông minh chí thánh, Chúa cũng thấu rõ là
con có thể thoát chết, nhưng con xin chịu đòn vọt đau đớn trong thân xác
con, với niềm vui trong lòng vì kính sợ Chúa". Và như thế ông từ giã cuộc
đời, để lại không những cho các thanh niên mà còn cho toàn dân một tấm gương
anh dũng và một lưu niệm đạo đức.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 3, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Chúa
đã nâng đỡ tôi (c. 6b).
Xướng: 1) Thân lạy Chúa, nhiều thay người bách hại con, nhiều thay người nổi
dậy chống con! Về con, nhiều kẻ thốt ra lời: "Hết trông hắn được Chúa Trời
cứu độ". - Ðáp.
2) Nhưng lạy Chúa, Chúa là thuẫn hộ thân con, là vinh quang con, Chúa cho
con ngẩng đầu lên. - Tôi lên tiếng kêu cầu Chúa, và Chúa đã nghe tôi từ núi
thánh của Ngài. - Ðáp.
3) Tôi nằm xuống và đã ngủ ngon, rồi thức khoẻ vì Chúa đỡ nâng tôi. Tôi
không kinh hãi ức triệu người ở chung quanh đồn trú hại tôi. - Ðáp.
Alleluia: Lc 21, 28
Alleluia, alleluia! - Các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi
các con đã gần đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19, 1-10
"Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa, có một người
tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Ông
tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì
người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một
cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó. Khi vừa đến nơi,
Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: "Hỡi
Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi". Ông vội
vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm
rằng: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi". Ông Giakêu đứng lên thưa
cùng Chúa rằng: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó,
và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn". Chúa Giêsu
bảo ông ấy rằng: "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con
cái Abraham. Vì chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điễu gì đã hư
mất".
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời
Chúa
Chẳng còn gì ngoài ơn cứu độ
- nhờ một kẽ hở ...
Hôm nay, Thứ Ba Tuần XXXIII Thường Niên, Bài Phúc Âm
ở đầu đoạn 19 của Thánh ký Luca, tiếp
ngay sau Bài Phúc Âm hôm qua ở cuối đoạn 18.
Trong khi ở Bài Phúc Âm hôm qua, cuộc hành trình lên
Giêrusalem của Chúa Giêsu mới "đến
gần thành Giêricô", thì
trong Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca ghi nhận tiếp về cuộc hành
trình này, ở chỗ: "Chúa
Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành".
Cuộc hành trình tiến về
Giêrusalem của Người đã khiến Người gặp gỡ một số con người đặc
biệt được thuật lại trong Phúc Âm, chẳng hạn trường hợp của người mù
ngồi ăn xin ở vệ đường trong Bài Phúc Âm hôm qua, hay vị "thủ
lãnh những người thu thuế và là người giàu có" "tên
là Giakêu"
trong Bài Phúc Âm hôm nay.
Về trường hợp của
người mù Batimê trong bài Phúc Âm hôm qua được thuật lại bởi Thánh ký
Luca và Marco, nhưng câu
chuyện về nhân vật thủ lãnh thu thuế này chỉ có trong Phúc Âm Thánh Luca
mà thôi, vì Phúc Âm
Thánh ký Luca là
Phúc Âm về Lòng Thương Xót Chúa, một Phúc Âm chất chứa những dụ ngôn về
Lòng Thương Xót Chúa rất cảm kích không có ở trong bất cứ Phúc Âm nào.
Chẳng hạn 3 dụ ngôn tiêu
biểu nhất sau đây: 1- Dụ
Ngôn Người Samaritanô Nhân Hậu (xem Luca 10:25-37); 2- Dụ
Ngôn Người Cha Nhân Hậu Với Hai Đứa Con Đáng
Thương (xem Luca 15:11:32); 3- Dụ
Ngôn Hai Người Lên Đền Thờ Cầu Nguyện (xem Luca 18:9-14) v.v. Cũng chỉ
trong Phúc Âm Thánh ký Luca mới có câu: "Các con hãy thương xót như
Cha của các con là Đấng thương xót" (Luca 6:36), một Lòng Thương
Xót đã được phản ảnh sống động nhất qua lời đầu tiên của Chúa Kitô khổ
giá cũng chỉ ở trong Phúc Âm Thánh Luca:
"Lạy
Cha, xin Cha tha cho họ vì họ lầm không biết việc họ làm"
(Luca 23:34).
Chính trong Bài Phúc Âm hôm
nay có một câu nói của Chúa Giêsu về Lòng Thương Xót Chúa cũng
chỉ có ở trong Phúc Âm Thánh Luca mà thôi, đó là câu:
"Con
Người đến để tìm
kiếm và cứu vớt
những gì
đã hư vong", điển
hình nhất là viên trưởng ban thu thuế Giakêu được Thánh ký Luca thuật
lại.
Nhân vật trưởng ban thu
thuế Giakêu
này thực sự "đã hư
vong", tức đã sống một cuộc đời bê bối tội lỗi khi hành nghề thu
thuế đầy những mánh khóe gian lận tiền bạc để
có thể làm giầu cách
bất chính, đã thực sự là
thành phần tội nhân, chẳng những trước mặt dân Do Thái mà
chính ngay cả bản thân của đương sự cũng phải chân nhận như thế, qua lời
hứa hẹn của đương sự sau khi được gặp gỡ Chúa Giêsu: "Lạy
Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm
thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn".
Nếu Chúa Kitô "đến để tìm
kiếm và cứu vớt những gì đã hư hoại" thì Người rất nhậy cảm với
những tâm hồn đang sống trong giầu sang phú quí với đầy nhưng băn khoăn khắc
khoải không thỏa mãn
làm sao ấy, như trường hợp của viên trưởng ban thu thuế Giakêu trong bài
Phúc Âm hôm nay, đến độ nhân vật này đã phải sẵn sàng bỏ trạm thu thuế
là nơi làm giầu hằng ngày của mình và lánh xa đám nhân viên thu
thuế đồng nghiệp cùng gian lận dưới quyền mình, để quyết tâm đón
gặp được Người, cho dù chỉ muốn "tìm
cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào" thôi,
bằng cách "chạy
lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi
ngang qua đó".
Đúng vậy, vì cố ý "tìm
kiếm và cứu vớt những gì đã hư hoại" mà
Chúa Giêsu đã nhậy
cảm đến độ, trong khi
hình như không ai trông thấy
nhân vật giầu sang phú quí và quyền hành này, đang ẩn
nấp ở trên
một cái cây bên đường, để
một đàng vừa tránh được cái nhìn khinh bỉ của đám đông vẫn giành
cho đương sự, đàng khác lại vừa
dễ trông thấy Chúa Giêsu đi
ngang qua theo
lòng ước nguyện.
Người quả thực đã nhìn
thấy đương sự, nhìn thấy tận đáy lòng của đương sự ước muốn gặp
Người, cũng như nhìn thấy hành động thiện chí như trẻ con trèo lên
cây ẩn nấp trên đó của đương
sự, nên Người đã
tự động lên tiếng gọi đương sự làm cho đương sự giật nẩy mình lên, chẳng
những vì đương sự bất ngờ bị lộ tẩy chân tướng trước mặt đám đông đối
phương của đương sự, mà
còn vì đương sự cảm
thấy vô cùng sung
sướng được Người gọi đích danh của mình, mà đương sự tưởng rằng Người
không hề hay chưa hề biết đến đương
sự bao giờ.
Có một chi tiết liên quan đến việc gọi đích danh tên của viên trưởng ban
thu thuế trong bài Phúc Âm này đó là hình như chỉ có những ai bê bối tội
lỗi hay khổ đau mới được Người gọi đích danh mà thôi, còn những ai được
Người đặc biệt yêu thương lại không được diễm phúc ấy, chẳng như như
Tông Đồ Gioan là "người môn đệ được Chúa Giêsu thương" (Gioan
13:23; 19:26; 20:2; 21:7,20).
Thật vậy, những nhân vật đã từng sống cuộc đời bê bối đã được Chúa Giêsu
gọi đích danh như đích danh "Giakêu" trong bài Phúc Âm hôm nay,
hay như "Maria" Mai Đệ Liên (Gioan 20:16), một con điếm "đã
được Người trừ bảy quỉ" (Marco 16:9), hoặc như "Simon"
Phêrô (Gioan 21:15-17) đã từng trắng trợn và phũ phàng chối Người 3 lần,
hay như "Saule" (Tông Vụ 9:4; 22:7; 26:14) là kẻ bách hại Người
nơi thành phần tín hữu trong thời Giáo Hội sơ khai, hoặc như "Lazarô"
là một thây ma đã chết 4 ngày trong mồ (Gioan 11:43).
Ôi tuyệt vời thay Lòng
Thương Xót Chúa: "Tôi
là vị mục tử nhân lành. Tôi
biết các chiên tôi và chiên tôi biết Tôi"
(Gioan 10:14). Trong khi tội
nhân không hề biết Người, ở chỗ xúc phạm đến Người, thì Người lại biết
họ và kêu gọi đích danh họ, vạch mặt chỉ tên họ, chứng tỏ Người hằng
theo dõi cuộc đời của họ, và ngồi chờ họ ở những nơi sinh hoạt quen
thuộc của họ, như ngồi chờ người đàn bà tội lỗi bên giếng Giacóp (xem
Gioan 4:6-9), hay đi đến tận những nơi thầm kín của họ, như trường hợp
của viên trưởng ban thu thuế Giakêu trong Bài Phúc Âm hôm nay, để
cố ý cứu đương sự khỏi
cuộc đời lén lút mờ mịt của đương
sự.
Chúa Giêsu đã không
nhắc đến tội lỗi của bất cứ tội nhân nào, khi mới gặp họ, dù Người biết
rõ tội của họ hơn ai hết, mà chỉ tỏ lòng thương họ để họ nhờ đó có
thể ăn năn thống hối thôi. Thậm chí Người không sợ gần gũi với tội nhân
xấu xa nhơ nhớp đáng ghê tởm, cho dù có bị chê trách, như Bài Phúc Âm
hôm nay cho thấy: "Ông
này lại đến trọ nhà một người tội lỗi". Vì
họ mới là thành phần "bệnh nhân cần đến thày thuốc" như Người là
một Vị Lương Y thần linh toàn năng có thể chữa lành cả hồn lẫn xác của
họ (xem Mathêu 9:12).
Việc Người chẳng
những tiến vào mà còn ở lại nhà của nhân vật tội lỗi Giakêu: "Hỡi
Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi", để
giao tiếp với thành phần thu thuế tội lỗi như nhân vật này, thật sự là
một hiện diện thần linh cứu độ: "Hôm
nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì
chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều
gì đã hư mất".
Tác dụng của ơn
cứu độ được Chúa Kitô mang đến cho chẳng những riêng nhân vật Giakêu
mà còn cho cả "nhà"
(gia đình) của đương
sự nữa, thậm chí "nhà" đây
còn có thể hiểu là bao gồm cả thành phần nhân viên thu thuế thuộc quyền
lãnh đạo của đương sự nữa, nhất khi chính họ đích
mắt thấy được lòng nhân lành cảm thương tha thứ của Người giành cho vị
thủ lãnh của họ.
Tác dụng xuất phát từ lòng
cảm thương ấy của Chúa Giêsu đã biến đổi hẳn bản thân và cuộc đời của
một nhân vật tội lỗi, đến độ đương sự chẳng những thật lòng ăn năn thống
hối ở chỗ đền
bù tội lỗi của mình đối với những ai bị thiệt hại vật chất bởi đương sự
gian lận trước đó mà còn giành ra nửa phần gia tài để làm phúc bố thí
nữa, nghĩa là kể như trở về tay không để được đổi lấy Nước Trời, lấy ơn
cứu độ vô giá, không gì sánh được: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa
phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì,
tôi xin đền gấp bốn".
Khi còn sống trong
tội lỗi thì bất cứ ai, dù chẳng làm nghề buôn bán hay thu
thuế như nhân vật Giakêu trong Bài Phúc Âm hôm nay, cũng
sống trong tình trạng gian dối, (tự tội lỗi đã là gian dối), không đúng
với sự thật
về thân phận thụ
tạo làm người trước nhan Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân.
Bởi đó, hoán cải chính là
tác động "đi
từ tối tăm ra ánh sáng lạ lùng"
(1Phêrô 2:9). Sau cuộc đời
sống gian dối bằng hành động gian lận tiền bạc của dân chúng với vai trò
thu thuế của mình, nhân vật Giakêu đã
bắt đầu sống hoàn lương trong chân lý. Nhưng để được
như vậy, Lòng Thương Xót Chúa là chính ơn cứu độ của đương sự tội nhân
này chỉ cần lòng của đương sự hé mở dù chỉ một chút xíu chăng nữa, và
tính tò mò tự nhiên của đương sự muốn xem nhân vật Giêsu Nazarét là
ai chính là kẽ hở cứu độ đó vậy!
Hành động của viên trưởng thu
thuế Giakêu, sau khi gặp được Chúa Kitô, đã chẳng những từ bỏ lòng gian tham
của mình mà còn cả của cải của mình, đến trở thành như một kẻ homelss chẳng
còn gì, cũng tương tự như nhân vật lão thành Eleazaro được Sách Macabê quyển
thứ 2 ở Bài Đọc 1 hôm nay, một con người có thể thoát
chết nhưng vẫn trung kiên với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình cho
dù có phải mất mạng sống của mình: "Dầu tôi có thoát khỏi
hình phạt của loài người, thì dầu sống dầu chết, tôi sẽ không thoát khỏi bàn
tay của Thiên Chúa toàn năng. Bởi thế, nếu giờ đây tôi can đảm từ giã cuộc
đời, tôi sẽ tỏ ra xứng đáng với tuổi già của tôi; tôi sẽ để lại cho các
thiếu niên một tấm gương cao đẹp, nếu tôi tự ý và anh dũng chết cho các lề
luật đáng kính và thánh thiện của chúng tôi..."
Thật vậy, "khi
sắp chết vì đòn vọt, ông thều thào trong hơi thở cuối cùng: 'Lạy Chúa là
Ðấng thông minh chí thánh, Chúa cũng thấu rõ là con có thể thoát chết, nhưng
con xin chịu đòn vọt đau đớn trong thân xác con, với niềm vui trong lòng vì
kính sợ Chúa'", một lời phó thác tuyệt vời như thể chất
chứa tâm tình của Thánh Vịnh 3 ở bài Đáp Ca hôm nay:
1) Thân lạy Chúa, nhiều thay người bách hại con, nhiều thay người nổi
dậy chống con! Về con, nhiều kẻ thốt ra lời: "Hết trông hắn được Chúa Trời
cứu độ".
2) Nhưng lạy Chúa, Chúa là thuẫn hộ thân con, là vinh quang con, Chúa
cho con ngẩng đầu lên. - Tôi lên tiếng kêu cầu Chúa, và Chúa đã nghe tôi từ
núi thánh của Ngài.
3) Tôi nằm xuống và đã ngủ ngon, rồi thức khoẻ vì Chúa đỡ nâng tôi. Tôi
không kinh hãi ức triệu người ở chung quanh đồn trú hại tôi.
Ngày 09 tháng 11
CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LA-TÊ-RA-NÔ
lễ kính
Tiểu sử
Thánh đường La-tê-ra-nô là vương cung thánh đường của đức giáo hoàng.
Thánh đường này được hoàng đế Con-tan-ti-nô xây dựng năm 320. Vì thế,
đây là thánh đường đầu tiên và danh dự, được mệnh danh “là đầu và là mẹ
của mọi thánh đường”. Ngày lễ này nhắc ta nhớ rằng thừa tác vụ của đức
giáo hoàng, người kế vị thánh Phê-rô, là nguyên nhân và nền tảng hữu
hình cho sự hợp nhất trong Dân Thiên Chúa.
Vua Constantin Cả (270-337) đã
chiến thắng quân Maxence dưới tường thành Rôma năm 312, nhờ sự xuất hiện lạ
lùng của cây Thánh Giá lơ lửng giữa không trung với hàng chữ: "In hoc signo
vince" (Tin vào dấu này, ông sẽ thắng). Năm 313, ngài đã ban hành chiếu chỉ
(Edit de Milan) chấm dứt cuộc bách hại người Công Giáo và cho tự do tôn
giáo. Sau đó, năm 323, nhà vua mới thật sự trở lại Công giáo. Ðể tỏ lòng
biết ơn về chiến thắng Maxence, ngài đã xây cất nhiều đại thánh đường nguy
nga, trong số đó phải kể vương cung thánh đường thánh Phêrô và thánh Phaolô.
Ðền thờ thánh Phêrô được xây
cất năm 326 và được nới rộng ra năm 1506 với sự cộng tác đắc lực của nhiều
kỹ sư và nghệ sĩ có tiếng: Rosellinô. Bramante, Raphael, Michel Ange, Carlô
Modernô và Silvestrê. Riêng cái tháp cao 138m, rộng 42m. Thánh Silvestrê và
Ðức Giáo Hoàng Urbanô VIII đã thánh hiến ngày 18/11/1626.
Ðền thờ thánh
Phaolô được xây cất trên đường Ostie, bên "ngoài thành" Vatican, và được
thánh hiến cũng cùng một ngày với đền thánh Phêrô. Năm 1823, một cuộc hỏa
tai đã thiêu hủy gần hết và Ðức Grêgoriô XVI và Ðức Piô IX đã chọn ngày định
tín "Ðức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội" để thánh hiến lại, với sự chứng kiến
đông đảo của các Giám Mục.
Bài Ðọc I: Ed 47,
1-2. 8-9. 12
"Tôi đã thấy nước từ bên phải đền
thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến ai, thì tất cả đều được cứu rỗi".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Trong những ngày ấy, thiên thần dẫn
tôi đến cửa nhà Chúa, và đây nước chảy dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt
tiền nhà Chúa hướng về phía đông, còn nước thì chảy từ bên phải đền thờ, về
phía nam bàn thờ. Thiên thần dẫn tôi qua cửa phía bắc, đưa đi phía ngoài,
đến cửa ngoài nhìn về hướng đông, và đây nước chảy từ bên phải. Người ấy lại
nói với tôi: "Nước này chảy về phía cồn cát, phía đông, chảy xuống đồng bằng
hoang địa, rồi chảy ra biển, biến mất trong biển và trở nên nước trong sạch.
Tất cả những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ
có rất nhiều cá và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành,
và sự sống sẽ được phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến. Gần suối nước,
hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ cây ăn trái sẽ mọc lên; lá của nó sẽ không
khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết; mỗi tháng nó có trái mới, vì
dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái của nó dùng làm thức ăn, và lá của
nó dùng làm thuốc uống.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 45, 2-3.
5-6. 8-9
Ðáp: Nước dòng
sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng Tối Cao (c.
5).
Xướng: 1) Chúa là nơi ẩn náu và là sức
mạnh của chúng ta, Người hằng cứu giúp khi ta sầu khổ. Dầu đất có rung
chuyển, ta không sợ chi, dầu núi đổ xuống đầy lòng biển cả. - Ðáp.
2) Nước dòng sông làm cho thành Chúa
vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng Tối Cao hiển ngự. Chúa ở giữa thành,
nên nó không chuyển rung, lúc tinh sương, thành được Chúa cứu giúp. - Ðáp.
3) Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, ta
được Chúa Giacóp hằng bảo vệ. Các ngươi hãy đến mà xem mọi kỳ công Chúa làm,
Người thực hiện muôn kỳ quan trên vũ trụ. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 3,
9b-11. 16-17
"Anh em là đền thờ của Thiên Chúa".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, anh em là toà nhà của
Thiên Chúa. Theo ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi như một kiến trúc sư
lành nghề, đã đặt nền móng, còn kẻ khác thì xây lên. Nhưng mỗi người hãy xem
coi mình xây lên thế nào? Vì chưng không ai có thể xây dựng một nền tảng
khác, ngoài nền tảng đã được xây dựng là Ðức Kitô.
Anh em không biết anh em là đền thờ
của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Nếu ai xúc
phạm tới đền thờ của Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy. Vì đền
thờ của Thiên Chúa là thánh mà chính anh em là đền thờ ấy.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: 2 Sb 7,
16
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta
đã chọn lựa và thánh hoá nơi này, để danh Ta được hiện diện khắp nơi cho đến
muôn đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 2,
13-22
"Người có ý nói đền thờ là thân thể
Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến,
Chúa Giêsu lên Giêrusa-lem; Người thấy ở trong đền thờ có những người bán
bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc. Người chắp dây
thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, Người
hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ, và bảo những
người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà
Cha Ta thành nơi buôn bán".
Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh:
"Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi".
Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng:
"Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy". Chúa
Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ
dựng lại". Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn muơi sáu năm mới xây được đền
thờ này mà ông, ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý
nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại,
các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.
Ðó là lời Chúa.
Anh em thân mến, hôm nay nhờ lòng khoan nhân của Đức Ki-tô, chúng ta hân
hoan mừng rỡ cử hành ngày kỷ niệm khánh thành ngôi đền thờ này. Nhưng
chính chúng ta phải là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa.
Dân Ki-tô hữu quả có lý khi trung thành mừng kính ngày trọng đại của Mẹ
Hội Thánh, vì họ biết nhờ Mẹ Hội Thánh mà họ được tái sinh vào cuộc sống
thiêng liêng. Bởi vì khi sinh ra lần đầu, chúng ta là những kẻ đáng hứng
chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng lần sau, chúng ta đã được trở
nên những kẻ được Người xót thương. Lần sinh thứ nhất dẫn chúng ta đến
cõi chết, còn lần sinh thứ hai lại đưa chúng ta về cõi sống.
Thưa anh em, trước khi được thanh tẩy, mọi người chúng ta là miếu thờ ma
quỷ, nhưng sau khi được thanh tẩy, chúng ta thành đền thờ của Đức Ki-tô.
Nếu chúng ta để tâm suy nghĩ nhiều hơn về ơn cứu độ linh hồn, chúng ta
sẽ biết chúng ta là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Thiên
Chúa không chỉ ngự
trong những đền do tay con người làm ra, cũng không chỉ ngự trong
những ngôi đền bằng gỗ bằng đá, nhưng đặc biệt Người ngự trong linh hồn
đã được dựng nên giống hình ảnh Người và do chính tay Người xây lên. Vì
thế, thánh Phao-lô tông đồ đã nói : Đền
thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và đền thờ ấy chính là anh em.
Và vì khi Đức Ki-tô đến, Người trục xuất ma quỷ ra khỏi lòng chúng ta để
chuẩn bị ngôi đền thờ cho chính Người trong chúng ta, nên với sự trợ
giúp của Người, chúng ta hãy cố gắng hết sức mình, để nơi chúng ta,
Người không còn phải chịu sỉ nhục vì các việc làm xấu xa của chúng ta
nữa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì sỉ nhục Đức Ki-tô. Như tôi đã nói
: trước khi Đức Ki-tô cứu chuộc chúng ta, chúng ta là đền đài của ma
quỷ, về sau chúng ta lại được nên ngôi nhà của Thiên Chúa : chính Thiên
Chúa đã đoái thương làm cho chúng ta trở thành ngôi nhà cho Người ngự.
Vì thế, thưa anh em, nếu chúng ta muốn hân hoan mừng ngày cung hiến đền
thờ, chúng ta không được dùng những hành động xấu xa để phá huỷ đền thờ
sống động của Thiên Chúa nơi chúng ta. Sở dĩ tôi nói như vậy là để ai
nấy có thể hiểu rằng : mỗi khi đến nhà thờ, chúng ta muốn thấy nhà thờ
đó thế nào, thì chúng ta cũng phải chuẩn bị chính tâm hồn chúng ta như
thế.
Bạn muốn thấy ngôi thánh đường sạch sẽ ư ? Bạn đừng làm cho linh hồn bạn
ra ô uế vì những nhơ bẩn của tội lỗi. Nếu bạn muốn ngôi thánh đường rực
sáng, thì Thiên Chúa cũng muốn bạn không được để cho linh hồn ra tối
tăm, nhưng lời Chúa nói phải được thực hiện : ấy là ánh sáng của các
việc lành chiếu sáng trong chúng ta và như thế, Thiên Chúa, Đấng ngự
trên trời, được tôn vinh. Bạn muốn vào ngôi thánh đường kia như thế nào,
thì Thiên Chúa cũng muốn vào linh hồn bạn như thế, theo lời Người đã hứa
: Ta sẽ ngự giữa họ và
sẽ đi đi lại lại giữa họ.
Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho dân Chúa được gọi là Hội Thánh, xin nhìn
đến chúng con đang tụ họp nơi đây nhân danh Chúa mà ban cho chúng
con biết kính thờ, yêu mến và phụng sự Chúa cho phải đạo, hầu đạt
tới phúc lộc quê trời Chúa hứa ban. Chúng con cầu xin
Ngày
17: Thánh Elisabeth nước Hung Gia Lợi, nữ tu
Elisabeth sinh
năm 1207 trong một cung điện vua André đệ nhị nước Hung Gia Lợi. Tuy còn ít
tuổi, nhưng lòng đạo đức của Elisabeth đã làm nhiều người phải chú ý. Dù ở
trong cung điện nguy nga nhưng ngài chỉ muốn sống một cuộc đời giản dị và
giàu lòng thương người. Lớn lên, ngài kết bạn với hoàng tử Louis nước Ðức.
Thánh nữ luôn bắt chước gương khiêm tốn của Ðức Mẹ và sống cuộc sống nghiệm
nhặt của các vị tu hành.
Sau khi vua cha
băng hà, hoàng tử Louis lên thế ngôi, thánh nữ đã xin với tân vương cho cất
một bệnh viện ngay tại cạnh hoàng cung để có dịp thường xuyên săn sóc các
bệnh nhân. Ngài rất quảng đại trong việc chăm sóc các cô nhi và những người
nghèo khó. Nhưng cuộc đời ngài cũng không thiếu những thử thách: khi vua
Luois tử trận năm 1227 trong cuộc thánh chiến thì người em là Henri lên kế
vị. Ông này đã trục xuất thánh nữ cùng với các hoàng tử ra khỏi hoàng cung
vì sợ sau này mình sẽ mất ngôi. Bơ vơ không tìm được chỗ nương thân, ngài đã
phải tạm trú trong một chuồng ngựa và còn phải đi ăn xin để nuôi bốn người
con. Trong hoàn cảnh đắng cay này, ngài đã vui lòng chấp nhận để được nên
giống như Chúa xưa.
Khi đoàn quân
viễn chinh trở về, họ đã bắt buộc Henri phải trả lại ngai vàng cho người
cháu, nên thánh nữ đưa các con trở lại hoàng cung. Ít lâu sau, ngài ẩn tu
trong nơi hẻo lánh, sống cuộc đời âm thầm cầu nguyện trong tinh thần nghèo
khó của dòng Phanxicô. Ngài an nghỉ trong Chúa năm 1231. Năm
1235, Ðức Giáo Hoàng Grêgoriô IX đã phong ngài lên bậc Hiển Thánh.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) 2
Mcb 7, 1. 20-31
"Ðấng Sáng Tạo vũ trụ sẽ trả lại cho các con tinh thần và sự sống".
Trích sách Macabê quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, bảy anh em bị bắt cùng với thân mẫu, và thừa lệnh nhà
vua, người ta dùng gậy và roi gân bò đánh đập họ, bắt buộc họ ăn thịt heo mà
luật đã cấm.
Ðặc biệt là bà mẹ đáng ca tụng và ghi nhớ: chỉ trong một ngày, bà chứng kiến
bảy con mình chết, bà vui lòng chịu đựng và trông cậy vào Thiên Chúa. Bà đầy
khôn ngoan, dùng tiếng của cha ông, can đảm khuyên bảo từng đứa con; bà dùng
sự hăng say nam nhân mà nâng đỡ tâm hồn phụ nữ của bà. Bà nói với các con:
"Mẹ không biết các con đã thành hình trong lòng mẹ ra sao, vì không phải mẹ
ban cho các con tinh thần, linh hồn và sự sống, cũng không phải mẹ sắp đặt
các chi thể của mỗi con, nhưng là Ðấng Sáng Tạo vũ trụ, Người đã dựng nên
loài người, và sáng tạo mọi sự với lòng nhân hậu. Người sẽ trả lại cho các
con tinh thần và sự sống, vì giờ đây các con coi rẻ mạng sống các con để bảo
vệ luật pháp của Người".
Vua Antiôcô tưởng rằng lời lẽ ấy khinh thị và lăng nhục ông. Bởi thế, đối
với đứa con út của bà còn sống, không những ông dùng lời dụ dỗ cậu, ông còn
thề hứa với cậu sẽ làm cho cậu được sung sướng giàu có, nếu cậu chối bỏ lề
luật của cha ông, sẽ coi cậu như bạn hữu của ông và ban cho cậu nhiều tước
lộc. Nhưng cậu không quan tâm đến những lời dụ dỗ ấy, nhà vua liền cho gọi
mẹ cậu đến và khuyên bà nhủ bảo con, để cứu lấy mạng sống con mình. Khi nhà
vua đã dài lời khuyến khích bà, bà nhận lời thuyết phục con. Vậy bà cúi sát
vào con bà, đánh lừa nhà vua độc ác ấy; bà còn dùng tiếng của cha ông mà nói
rằng: "Hỡi con, hãy thương mẹ đã cưu mang con chín tháng trong dạ, đã cho
con bú sữa trong ba năm, đã nuôi dưỡng và dẫn dắt con cho tới tuổi này. Con
ơi, mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất, và tất cả mọi sự trong đó; con biết
rằng Thiên Chúa đã tác tạo những vật đó và loài người từ hư vô, nên con đừng
sợ tên lý hình này, một hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con và hãy nhận lãnh
cái chết, để nhờ lòng lân tuất của Chúa, mẹ sẽ gặp con cùng với các anh
con".
Bà mẹ vừa dứt lời thì cậu con út lên tiếng rằng: "Các ông còn chờ gì nữa?
Tôi không tuân lệnh nhà vua đâu, nhưng tôi tuân theo lề luật mà Môsê đã ban
cho cha ông chúng tôi. Còn nhà vua, là kẻ đã bày ra đủ thứ để bách hại dân
Do-thái, nhà vua sẽ không thoát khỏi tay Thiên Chúa đâu".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 16, 1. 5-6. 8b và 15
Ðáp: Lạy
Chúa, khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa (c. 15b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nghe điều chính nghĩa của con, xin để ý đến lời con
kêu cứu, lắng tai nghe tiếng con thốt ra tự cặp môi chân thành! - Ðáp.
2) Bước con đi bám chặt đường lối của Ngài, chân con đã không hề xiêu té.
Con kêu van Ngài, bởi Ngài nhậm lời con, lạy Chúa, xin lắng tai về bên con,
xin nghe rõ tiếng con. - Ðáp.
3) Xin che chở con trong bóng cánh của Ngài. Phần con, nhờ công chính, sẽ
được thấy thiên nhan; khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Tv 110, 8ab
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, mọi gới răn Chúa được lập ra cho tới muôn
đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19 11-28
"Sao ngươi không gửi bạc Ta ở ngân hàng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán thêm một dụ ngôn nữa, vì Người đã đến gần
Giêrusalem, mà dân chúng lại cứ tưởng là Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện trong
giây lát. Vậy Người phán rằng:
"Có người quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở về. Ông cho
gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và dặn rằng: "Hãy làm
lợi cho đến khi ta trở về". Nhưng các người dân của ông ấy ghét ông, sai
người đi theo mà rằng: "Chúng tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi". Ðược
phong vương rồi ông trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia ông đã giao tiền
cho, để biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu.
"Người thứ nhất đến và thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được mười
nén". Nhà vua bảo: "Ðược, hỡi người tôi tớ tốt lành, ngươi đã trung tín
trong điều nhỏ mọn, ngươi sẽ được quyền cai trị mười thành". Người thứ hai
đến thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được năm nén". Nhà vua đáp:
"Ngươi cũng vậy, hãy cai quản năm thành".
"Người thứ ba đến thưa: "Tâu vua, đây nén bạc của vua, tôi còn giữ trong
khăn, vì tôi sợ ngài: ngài là người hà khắc, và lấy cái ngài không gửi, gặt
cái ngài không gieo". Vua phán rằng: "Hỡi đầy tớ bất lương, ta cứ lời ngươi
mà xử ngươi. Ngươi đã biết ta là người hà khắc, lấy cái ta không gửi, gặt
cái ta không gieo, sao ngươi không gửi bạc ta ở ngân hàng, để rồi khi ta trở
về, ta có thể lấy cả vốn lẫn lời".
"Vua liền bảo những người đứng đó rằng: "Hãy lấy nén bạc của nó mà trao cho
người đã có mười nén". Họ tâu rằng: "Tâu vua, người ấy đã có mười nén rồi".
Vua đáp: "Ta nói cùng các ngươi: Ai có sẽ cho thêm, và người đó sẽ được dư
dật; còn ai không có, người ta sẽ lấy đi cả cái nó đang có. Còn những kẻ
nghịch cùng ta, không muốn ta làm vua, hãy đem chúng ra đây và giết chúng
trước mặt ta". Nói thế rồi Chúa liền dẫn họ lên Giêrusalem.
Ðó là lời Chúa.
Suy
nghiệm Lời
Chúa
Đã có được cho thêm là để dự trữ mà bù đắp...
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XXXIII Thường Niên, tiếp theo ngay
sau bài Phúc Âm hôm qua. Một chi tiết cho thấy điều đó, chẳng
cần theo dõi kỹ về đoạn và câu của 2 bài Phúc Âm, đó là chi tiết
liên quan đến địa điểm của cuộc hành trình Giêrusalem của Chúa
Giêsu.
Thật vậy, trong
bài Phúc Âm hôm qua, nếu "Chúa
Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành"
thì
trong Bài Phúc Âm hôm nay, "Người
đã đến gần Giêrusalem",
và chính "vì"
thế, Phúc Âm hôm nay cho biết tiếp, "mà
dân chúng lại cứ tưởng là Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện trong giây
lát".
Bởi thế, Thánh ký
Luca ghi nhận rằng: "Chúa
Giêsu phán thêm một dụ ngôn nữa", một
dụ ngôn chẳng những trực tiếp liên quan đến cuộc hành trình
Giêurusalem của Người bấy giờ,
mà còn liên
quan đến "Nước
Thiên Chúa", một
thực tại thần linh đã từng được Người sử dụng nhiều hình ảnh khác
nhau để sánh ví trước đó nay Người muốn nói "thêm... nữa" vào
lúc Người gần tới Thành Giêrusalem: "Nói
thế rồi Chúa liền dẫn họ lên Giêrusalem". Và
dụ ngôn ấy được Phúc Âm hôm nay cho biết đã bắt đầu như
thế này:
"Có người quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở
về. Ông cho gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và
dặn rằng: 'Hãy làm lợi cho đến khi ta trở về'. Nhưng
các người dân của ông ấy ghét ông, sai người đi theo mà rằng: 'Chúng
tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi'. Ðược phong vương rồi ông
trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia ông đã giao tiền cho, để
biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu".
Trước hết, "người
quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở về" đây phải
chăng ám
chỉ chính Chúa
Kitô, Con Thiên Chúa ("quí tộc"), từ trời xuống trần gian ("đi
phương xa") để hoàn tất công cuộc cứu chuộc trần gian của
mình, ở chỗ được "treo lên" (Gioan 8:28) trên ngai tòa Thánh
Giá (như "được
phong vương", nhưng
sau đó người đã tự mình sống lại ("rồi
trở về").
Ý nghĩa "đi phương xa" cũng có thể hiểu có liên hệ mật
thiết với lời tiên báo của Chúa Giêsu với các môn đệ của Người trong
Bữa Tiệc Ly về việc Người ra đi đến một nơi mà các môn đệ của Người
không thể tới được và chẳng biết là ở chỗ nào để theo như tông đồ
Toma cảm nhận (xem Gioan 14:5): "Thày chẳng còn ở với các con
bao lâu nữa. Các con sẽ tìm kiếm Thày... Nơi Thày đi các con không
thể nào tới được" (Gioan 13:33).
Trước khi lên đường "đi
phương xa để được phong vương rồi trở về" như
thế, "ông cho
gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và dặn rằng:
'Hãy làm lợi cho đến khi ta trở về'", phải
chăng ở đây Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến Bữa
Tiệc Ly là lúc Chúa Giêsu đã trao cho các
vị, một điều bao
gồm cả 10 điều răn Cựu Ước (ám chỉ "10 nén bạc") đó là "giới
răn mới"
(Gioan 13:34), ở
chỗ các vị phải "yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con.
Tất cả mọi người sẽ dấu ấy mà nhận biết các con là môn đệ của Thày" (Gioan
13:34-35).
Thế nhưng,
việc
Chúa Kitô hành trình lên Giêrusalem để hoàn tất sứ vụ cứu độ trần
gian của Người như một ông vua như thế không được lòng "dân
của" Người là dân Do Thái vốn "ghét" Người nên
họ đã
ra mặt công khai chống đối:
"Chúng
tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi", bằng
cách sát hại Người. Không
ngờ, việc họ tự do sát hại Người một cách độc dữ tàn bạo chưa từng
thấy lại giúp cho Người "được phong vương" - "Giêsu
Vua Dân Do Thái" (Luca 23:38), Đấng
"được toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18).
"Ðược phong vương rồi ông trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia
ông đã giao tiền cho, để biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu". Đúng
thế, khi "trở về" vào lúc quang lâm tái
giáng của mình
trong ngày sau hết, Chúa Kitô sẽ tính sổ sách về nén bạc được Người
trao phó cho thành phần đầy tớ của Người thuộc hàng ngũ lãnh đạo đàn
chiên của Người, từ các
vị tông đồ đến thành
phần thừa kế các vị trong hàng giáo phẩm (bao gồm cả giáo sĩ) dọc suốt
giòng lịch sử của Giáo Hội Người thiết lập.
Nén bạc đó đối với thành phần đầy tớ của Chúa Kitô (nếu hiểu về các
vị chủ chiên trong hàng giáo phẩm và giáo sĩ) quả thực là đức bác
ái, như chính Người đã hỏi tông đồ Phêrô 3 lần có yêu mến Người hay
chăng để Người trao phó các chiên của Người cho ngài cũng như cho
các vị thừa kế ngài cùng tông đồ đoàn là các vị giáo hoàng và giám
mục sau này trong Giáo Hội. Và quả thực, chính vì nén bạc đó là đức
bác ái yêu thương phục vụ mà Người đã căn cứ vào đức bác ái này mà
phán xét cùng thưởng phạt vậy (xem Mathêu 25:31-46).
Vấn đề ở đây là "người
quí tộc" trong dụ ngôn đã
trao cho 10 người đầy tớ của
mình 10
nén bạc, nghĩa là mỗi người một nén bạc chứ không phải mỗi người 10
nén bạc, ám chỉ 10 điều răn, nhưng được tóm lại thành "một nén
bạc" là "giới răn mới" được Chúa Kitô truyền lại cho
các tông đồ. Vậy "10 người đầy tớ" đây là ai, nếu không
phải ở trong Bữa Tiệc Ly bấy giờ là lúc các môn đệ được Chúa Kitô
trao cho nén bạc "giới răn mới" có thể hiểu là ám chỉ 10 vị
trong số 12, vì
tông đồ Giuđa bấy giờ đã bỏ đi bàn việc nộp Người (xem Gioan 13:30),
và Tông Đồ Gioan không kể vì vị tông đồ này tự bản chất và sứ vụ vốn
gắn liền với "giới răn mới" qua cử chỉ dựa vào ngực Chúa
Kitô (xem Gioan 13:23).
Tuy nhiên việc sinh lợi
nén bạc lại tùy theo trình độ khả năng và mức độ nỗ lực của
mỗi người đầy tớ nữa. Bởi
thế, trong 3 loại người đầy tớ tiêu biểu được chủ gọi đến trình bày
trách nhiệm nén bạc của mình, có người sinh lợi được gấp 10 lần,
nhưng cũng có người chỉ sinh lợi được gấp 5 thôi, như dụ ngôn của
Bài Phúc Âm cho thấy.
Ở đây có thể hiểu nén
bạc "giới răn mới" là "yêu nhau như Thày" nơi từng
người đầy
tớ sinh lợi nhiều
như gấp 10, hay sinh lợi vừa như gấp 5, chẳng những tùy ở ơn gọi hay
bậc sống của Kitô hữu, giáo dân hay giáo sĩ, mà còn tùy ở mức độ
nên một với Chúa
Kitô nữa, ở chỗ, càng hiệp nhất với Người thì Người càng yêu thương
tha nhân như chính Người đã yêu họ, nghĩa là họ càng phản ảnh Chúa
Kitô một cách trung thực nhất và sống động nhất, gấp 10 lần, hơn gấp
5 lần.
Trong số thành phần đầy
tớ cũng không thể thoát được có một thiểu
số nào đó không đáp ứng
trách nhiệm nén bạc được trao phó, ở chỗ sống vị kỷ, hưởng thụ hơn
phục vụ, không
phản ảnh bản chất đức ái trọn hảo của mình như "ánh sáng thế gian"
(Mathêu 5:14) chiếu tỏa Chúa Kitô "là ánh sáng thế gian" (Gioan
8:12).
Nếu họ cảm thấy "giới
răn mới" là "yêu nhau như Thày yêu" là một lý tưởng quá
siêu việt họ không thể nào với tới như lòng mong ước của chủ mình,
nhất là như gương của chủ mình trong việc "được
phong vương" trên
Thánh Giá của
chủ: "hiến mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người" (Mathêu
20:28), thì ít
nhất họ vẫn có thể sinh lợi nén bạc bác ái được
trao cho họ,
bằng cách gửi vào "nhà băng" thần
linh, ở
chỗ tin tưởng
(trust) ký
thác (deposit) vào
Lòng Thương Xót Chúa, để chính Người bù đắp những yếu hèn bất lực
thiếu sót của
họ, nhờ đó Người "có
thể lấy cả vốn lẫn lời" từ
họ, như từ tên tử tội bị đóng đanh bên phải Người trên Đồi Canvê xưa
(xem Luca 23:40-43).
Ở cuối dụ ngôn trong bài
Phúc Âm hôm nay
còn một chi tiết rất hay nữa, đó là "Ai
có sẽ cho thêm, và người đó sẽ được dư dật; còn ai không có, người
ta sẽ lấy đi cả cái nó đang có", điển
hình là người đầy tớ sinh lợi 10 nén nhiều nhất lại được thêm nén
bạc của "người đầy tớ bất lương".
Đúng thế, trong đời sống
thiêng liêng cũng vậy, những tâm hồn thánh thiện (chứ không phải
chỉ ở tầm mức đạo đức thôi) thường được thêm nhiều ơn Chúa ban,
những ơn mà tội nhân vì yếu đuối và mù quáng đánh
mất, nhưng không phải để người đã
có hoan
hưởng một mình, trái lại, là để
bù đắp cho chính tội
nhân đã đánh
mất đi ân sủng của họ được Chúa ban, nhờ đó
chính tội nhân cũng được cứu độ. Ôi Lòng Thương Xót Chúa vô cùng
khôn ngoan và tìm hết cách để cứu độ con người, cứu độ từng người.
Những nén bạc được sinh lợi gấp đôi hay gấp trăm trong bài Phúc Âm
hôm nay có thể là sự sống của những ai tin tưởng vào Chúa, dám hy
sinh nó đi để nó trở thành bất tử và bất diệt trong cõi sống vĩnh
cửu, như trường hợp của 7 người con trai của người mẹ góa sẵn sàng
và hiên ngang tử đạo, nhất là trường hợp của chính người mẹ đã đầu
tư 7 nén bạc là 7 người con trai của mình vào cõi trường sinh, những
trường hợp sinh lợi thiêng liêng này đã được Sách Macabê quyển thứ 2
thuật lại ở Bài Đọc 1 hôm nay:
"Ðặc biệt là bà mẹ đáng ca tụng và ghi nhớ: chỉ trong một ngày,
bà chứng kiến bảy con mình chết, bà vui lòng chịu đựng và trông cậy
vào Thiên Chúa. Bà đầy khôn ngoan, dùng tiếng của cha ông, can đảm
khuyên bảo từng đứa con; bà dùng sự hăng say nam nhân mà nâng đỡ tâm
hồn phụ nữ của bà. Bà nói với các con: 'Mẹ không biết các con đã
thành hình trong lòng mẹ ra sao, vì không phải mẹ ban cho các con
tinh thần, linh hồn và sự sống, cũng không phải mẹ sắp đặt các chi
thể của mỗi con, nhưng là Ðấng Sáng Tạo vũ trụ, Người đã dựng nên
loài người, và sáng tạo mọi sự với lòng nhân hậu. Người sẽ trả lại
cho các con tinh thần và sự sống, vì giờ đây các con coi rẻ mạng
sống các con để bảo vệ luật pháp của Người'".
Đúng
thế, "Lạy
Chúa, khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa" là
một câu trong Thánh Vịnh 16 ở
bài Đáp Ca hôm nay đã phản ảnh lòng tin tưởng vào sự phục sinh và
phúc trường sinh của cậu con út sau khi
nghe mẹ mình phấn khích tử đạo đã khẳng khái nói lên lời cuối cùng
với những kẻ bách hại và sát hại mình rằng: "Các
ông còn chờ gì nữa? Tôi không tuân lệnh nhà vua đâu, nhưng tôi tuân
theo lề luật mà Môsê đã ban cho cha ông chúng tôi. Còn nhà vua, là
kẻ đã bày ra đủ thứ để bách hại dân Do-thái, nhà vua sẽ không thoát
khỏi tay Thiên Chúa đâu".
Ngày 17 tháng 11
Thánh nữ Ê-li-sa-bét Hung-ga-ri
lễ nhớ bắt buộc
Tiểu sử
Thánh nữ sinh năm 1207. Năm lên mười bốn tuổi, thân phụ là An-rê, vua
Hung-ga-ri, đem gả cho Lu-y miền Thu-rin-gi-a. Cả hai sống hạnh phúc
được sáu năm, sinh được ba người con trai. Cả hai người đều nỗ lực sống
lý tưởng của thánh Phan-xi-cô trong bậc gia đình. Năm 1227, Lu-y qua
đời, chị đã nghe theo lời mời gọi sống đời nghèo khó, tận tâm phục vụ
các bệnh nhân. Vì thế sức khoẻ chị sớm hao mòn và chị đã qua đời ở
Mác-bua năm 1231.
Bà Ê-li-sa-bét sớm bắt đầu trổi vượt về các nhân đức. Cũng như suốt
đời, bà đã là người an ủi những người nghèo, thì bây giờ bà hoàn
toàn trở nên vị cứu tinh của những người đói. Bà ra lệnh xây một nhà
thương gần lâu đài của mình, đón về đó nhiều người đau yếu tàn tật.
Đối với mọi người đến xin của bố thí, bà đã làm các việc từ thiện
cách rộng rãi, ở đây cũng như trong toàn lãnh thổ thuộc quyền cai
trị của chồng bà. Bà đã phân phát tất cả hoa lợi do bốn lãnh địa của
chồng bà đem lại, thậm chí cuối cùng bà đã cho bán hết cả đồ trang
sức và y phục quý giá để giúp người nghèo.
Bà có thói quen mỗi ngày hai lần, sáng và chiều, đích thân thăm
viếng tất cả các bệnh nhân của bà. Những người bị bệnh ghê tởm nhất
thì bà trực tiếp săn sóc, cho người này ăn, đỡ người kia nằm xuống,
vác kẻ khác trên vai, và còn làm nhiều việc từ thiện khác nữa. Chồng
bà, một người mà ai cũng thương nhớ, không bao giờ tỏ ra khó chịu vì
những việc bà làm. Sau khi ông qua đời, bà muốn hướng tới sự hoàn
thiện cao nhất, nên đã khóc lóc nài van con cho phép bà được đi ăn
xin từ nhà này qua nhà khác.
Một ngày thứ Sáu Tuần Thánh kia, sau khi người ta đã lột khăn các
bàn thờ, bà đã đặt tay trên bàn thờ một nhà nguyện trong thành của
bà, nơi bà đã cho các Anh Em Hèn Mọn ở, trước sự hiện diện của một
số nhân chứng, bà đã nguyện từ bỏ ý riêng, từ bỏ mọi vinh hoa của
thế gian và những gì mà trong Tin Mừng, Đấng Cứu Thế đã khuyên từ
bỏ. Sau đó, vì bà thấy rằng mình có thể bị chi phối bởi cảnh huyên
náo của thế gian và vinh quang trần thế, trong đó bà đã sống cách vẻ
vang khi chồng bà còn sống, nên bà đã theo con đến Mác-bua mặc dầu
con không muốn. Trong thành này, bà xây một nhà thương, đón về đó
những người đau yếu tàn tật, và cho những người khốn khổ nhất, những
người bị khinh rẻ nhất, ngồi ăn cùng bàn với bà.
Ngoài những hoạt động bác ái bà làm, con xin tuyên bố trước mặt
Thiên Chúa rằng con hiếm thấy một người phụ nữ nào có đời sống chiêm
niệm cao hơn. Một số tu sĩ nam nữ đã nhiều lần thấy rằng : khi bà
cầu nguyện một mình xong và đi ra thì bộ mặt bà toả sáng lạ lùng, và
từ mắt bà phát ra những tia sáng như tia sáng mặt trời.
Trước lúc bà qua đời, con đã giải tội cho bà ; khi hỏi bà phải định
đoạt thế nào về của cải và đồ đạc bà để lại, bà trả lời rằng tất cả
những gì bà xem ra còn sở hữu đều là của người nghèo. Bà xin con
phân phát tất cả cho họ trừ chiếc áo cũ bà đang mặc, và bà muốn được
chôn cất cùng với chiếc áo ấy. Nói xong, bà rước Mình Thánh Chúa. Từ
đó đến chiều, bà năng nói về những điều hay nhất bà đã nghe trong
các bài giảng. Sau đó, bà sốt sắng phó thác cho Thiên Chúa mọi người
đang hiện diện, rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng như thiếp ngủ
vậy.
Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh nữ Ê-li-sa-bét nhận ra và tôn kính Đức
Ki-tô nơi người nghèo khổ, xin nhậm lời thánh nữ chuyển cầu, mà ban
cho chúng con
Thứ
Năm
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) 1
Mcb 2, 15-29
"Chúng tôi tuân theo lề luật cha ông chúng tôi".
Trích sách Macabê quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, vua Antiôcô sai người đến cưỡng bách các người trốn ẩn
tại thành Môđin cúng tế dâng hương và chối bỏ lề luật Thiên Chúa. Có nhiều
người trong dân Israel tuân lệnh đến với họ, nhưng ông Mathathia và các con
ông cương quyết không chịu theo. Các người vua Antiôcô sai đến, lên tiếng
nói với Mathathia rằng: "Ông là thủ lãnh có tiếng tăm và có uy tín trong
thành này và có nhiều con cái và anh em. Vậy ông hãy tiến lên trước tiên và
thi hành lệnh nhà vua, như hết thảy mọi dân tộc, như các người chi tộc Giuđa
và những người còn ở lại Giêru-salem đã thi hành rồi, ông và các con ông sẽ
là bạn hữu của nhà vua, sẽ được nhà vua ban cho vàng bạc và ân huệ khác".
Matha-thia trả lời và nói lớn tiếng rằng: "Cho dầu mọi dân tộc đều tuân lệnh
vua Antiôcô, mọi người đều chối bỏ lề luật của cha ông mà vâng lệnh nhà vua,
phần tôi và con cái cùng anh em tôi, chúng tôi vẫn tuân theo lề luật cha ông
chúng tôi. Xin Thiên Chúa thương đừng để chúng tôi chối bỏ lề luật và giới
răn Chúa. Chúng tôi sẽ không nghe theo lệnh vua Antiôcô, cũng chẳng cúng tế
mà lỗi phạm lệnh truyền của lề luật chúng tôi, kẻo chúng tôi đi theo con
đường khác".
Ông vừa dứt lời thì có một người Do-thái tiến ra cúng thần trước mặt mọi
người, trên bàn thờ ở thành Môđin, theo chiếu chỉ của nhà vua. Thấy vậy,
Mathathia đau lòng xót dạ, ông nổi giận vì yêu mến lề luật, ông xông tới
giết ngay người ấy trên bàn thờ. Ông cũng giết luôn người vua Antiôcô sai
đến để cưỡng bách người ta cúng tế; ông lật đổ cả bàn thờ. Lòng nhiệt thành
của ông đối với lề luật cũng giống như lòng nhiệt thành của Phinê đã đối xử
với Zimri con ông Salomi.
Ðoạn Mathathia kêu lớn tiếng khắp trong thành phố rằng: "Ai nhiệt thành với
lề luật, tuân giữ lời Giao ước, hãy ra khỏi thành theo tôi!" Ông và con cái
ông trốn lên núi, bỏ lại trong thành mọi tài sản họ có. Bấy giờ một số người
còn nhiệt tâm với sự công chính và lề luật, cũng trốn vào hoang địa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 49, 1-2. 5-6. 14-15
Ðáp: Ai
đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).
Xướng: 1) Chúa là Thiên Chúa đã lên tiếng kêu gọi địa cầu, từ chỗ mặt trời
mọc lên tới nơi lặn xuống. Từ Sion đầy mỹ lệ, Thiên Chúa hiển linh huy
hoàng. - Ðáp.
2) Hãy tập họp cho Ta các tín đồ đã ký lời giao ước của Ta cùng hy sinh lễ.
Và trời cao sẽ loan truyền sự công chính của Người, và chính Thiên Chúa
Người là thẩm phán. - Ðáp.
3) Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và làm trọn điều khấn hứa cùng
Ðấng Tối Cao. Ngươi hãy kêu cầu Ta trong ngày khốn khó, Ta sẽ giải thoát
ngươi và ngươi sẽ kính trọng Ta. - Ðáp.
Alleluia: x. Cv 16, 14b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe
lời Con Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19, 41-44
"Chớ chi ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem, trông thấy thành thì Người khóc
thương thành ấy mà rằng: "Chớ chi hôm nay ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà
bình lại cho ngươi! Nhưng giờ đây, sứ điệp ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi.
Vì sẽ đến ngày quân thù đắp luỹ bao vây ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng
sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi cùng con cái ở trong thành. Chúng sẽ không
để lại hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi
được thăm viếng".
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời
Chúa
Những giọt châu lệ của một Tình Yêu Thương Xót quá thống khổ
Hôm nay, Thứ Năm Tuần XXXIII Thường Niên, bài Phúc Âm
tiếp tục thuật lại hành trình lên Giêrusalem của Chúa Kitô, ở chỗ, sau
khi "Người đã gần đến Giêrusalem
- he was near Jerusalem" được
Thánh ký Luca ghi lại trong Bài Phúc Âm hôm qua, thì bài Phúc Âm hôm nay
cho biết "Chúa
Giêsu đến gần Giêrusalem - coming within in sight of the city".
Thật ra giữa bài
Phúc Âm hôm qua và bài Phúc Âm hôm nay cách nhau một khúc phúc âm
không thích hợp vào
thời điểm của Mùa Thường Niên Tuần XXXIII
này, đó là khúc
phúc âm về biến cố Chúa Giêsu vinh hiển tiến vào Thành Thánh Giêrusalem,
một khúc phúc âm đã được Giáo Hội chọn đọc
cho Chúa Nhật Lễ
Lá, ở phần nghi thức rước lá trước
lễ.
Và tầm mức gần Thành
Giêrusalem của Chúa Giêsu đến độ mắt của Người
có thể trông thấy được
toàn cảnh của thành này, và vì trông thấy thành Giêrusalem như thế mà
Người đã thổn thức khóc, như Phúc Âm thuật lại như sau:
"Trông thấy thành thì Người khóc thương thành ấy mà rằng: 'Chớ chi
hôm nay ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi! Nhưng giờ
đây, sứ điệp ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi. Vì sẽ đến ngày quân thù đắp
lũy bao
vây ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi
cùng con cái ở trong thành. Chúng sẽ không để lại hòn đá nào trên hòn đá
nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng".
Đây là lần thứ hai Chúa
Giêsu khóc được Phúc Âm thuật lại; lần thứ nhất xẩy ra vào lúc trước khi
Người hồi sinh Lazarô (xem Gioan 11:35). Vậy tại sao Người lại khóc khi
thấy thành thánh Giêrusalem này, nếu không phải lý do ở ngay những lời
Người nói với thành thánh ấy: phải chăng chính là vì thành thánh có đền
thánh là nơi Thiên Chúa Cha của Người ngự này sẽ bị quân thù phá tan
tành thành
bình địa "không
hòn đá nào trên hòn đá nào", hay
là vì "ngươi
đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng" nên
sẽ bị nông nỗi kinh hoàng khủng khiếp chưa từng thấy ấy?
Chúa Kitô khóc lần thứ
nhất trước ngôi mộ của Lazarô đã chết đến xông
mùi sau 4 ngày (xem Gioan 11:39) không
phải vì Lazarô là người bạn
thân của
Người đã chết sắp được Người
hồi sinh, cho bằng vì Người thấy trước có một số môn đệ của Người sẽ bị
vĩnh viễn hư đi trong mộ tử thần không bao giờ chỗi dậy được nữa, cho dù
có nghe được tiếng Người gọi, hay hoàn toàn không
còn nghe được tiếng Người nữa.
Bởi vậy, lần khóc thứ hai
này của Người trước hình ảnh của một thành thánh Giêrusalem nguy nga đồ
sộ sẽ bị tàn phá liên quan đến hình ảnh về một Giáo Hội của Người cũng
sẽ có ngày bị "các đạo quân Gog và Magog" đông vô kể công hãm,
như Sách Khải Huyền đã tiên báo (20:9), khiến cho một số chi thể của
Người bị tử thương muôn đời về phần rỗi vô cùng tiếc xót của họ!
Nếu biết được Thiên Chúa yêu thương loài người đến đâu thì mới cảm được
sự kiện khóc thương này của Chúa Giêsu, như thể Người tiếc thương chẳng
những cho các linh hồn bất tử vô cùng quí giá bị hư đi mà còn khóc
thương cho chính Tình Yêu Vô Cùng Nhân Hậu đầy Khôn Ngoan và Toàn Năng
của Thiên Chúa, một tình yêu đã yêu thương loài người "đến cùng" (Gioan
13:1), không còn thể nào yêu hơn được nữa, không còn cách nào để yêu họ
hơn được nữa, đã chẳng những trở nên vô ích và thành đồ bỏ đối với những
linh hồn hư đi ấy, mà còn trở thành án phạt đời đời cho họ nữa.
Phải chăng những giọt nước mắt không thể cầm được nơi Chúa Kitô phần nào
diễn tả tất cả nỗi xót xa đớn đau của một Vị Thiên Chúa Toàn Thiện và
Toàn Ái trước thân phận hư đi của một số linh hồn bất hạnh được Ngài yêu
thương dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Ngài để nhờ đó họ có thể
hiệp thông thần linh với Ngài?
Phải chăng những giọt nước mắt ngọc ngà chảy ra từ đôi mắt vô cùng từ bi
nhân hậu của Vị Thiên Chúa hóa thân làm người Giêsu Nazarét ấy mới là
một chút dạo khúc mở đầu cho nỗi thống khổ sẽ lên tới tột cùng ở Vườn
Cây Dầu khi Vị Thiên Chúa làm người này toát mồ hôi máu ra nhỏ xuống đất
(xem Luca 22:44), hình ảnh báo trước cuộc tử nạn vô cùng đau thương của
Đấng cho dù đã chết vẫn chưa được dung tha, vẫn còn bị một lưỡi đòng phũ
phàng oan nghiệt đâm thâu qua làm cho "máu và nước chảy ra" (Gioan
19:34)? Ôi LTXC!
Tuy nhiên, tình trạng Thành Thánh Giêrusalem bị tàn phá được Chúa Giêsu
tiên báo trong bài Phúc Âm hôm nay không phải chị là một tai họa, một
hậu quả gây ra do tội lỗi của dân Chúa "đã không nhận biết giờ ngươi
được thăm viếng", mà còn là một thách thức đối với những tâm hồn
nào còn trung thành với Ngài, để Ngài tiếp tục tỏ mình ra cho cả thành
phần vô đạo bách hại họ và sát hại họ nữa, như trường hợp của Matthias
cùng với gia đình của ông và những người bất khuất đáp lại lời kêu gọi
hào hùng của ông, như được Sách Macabê quyển thứ 1 thuật lại trong Bài
Đọc 1 hôm nay:
"Matha-thia trả lời và nói lớn tiếng rằng: 'Cho dầu mọi dân tộc đều
tuân lệnh vua Antiôcô, mọi người đều chối bỏ lề luật của cha ông mà vâng
lệnh nhà vua, phần tôi và con cái cùng anh em tôi, chúng tôi vẫn tuân
theo lề luật cha ông chúng tôi. Xin Thiên Chúa thương đừng để chúng tôi
chối bỏ lề luật và giới răn Chúa. Chúng tôi sẽ không nghe theo lệnh vua
Antiôcô, cũng chẳng cúng tế mà lỗi phạm lệnh truyền của lề luật chúng
tôi, kẻo chúng tôi đi theo con đường khác'"
Thế rồi, "ông vừa dứt lời thì có một người Do-thái tiến
ra cúng thần trước mặt mọi người, trên bàn thờ ở thành Môđin, theo chiếu
chỉ của nhà vua. Thấy vậy, Mathathia đau lòng xót dạ, ông nổi giận vì
yêu mến lề luật, ông xông tới giết ngay người ấy trên bàn thờ. Ông cũng
giết luôn người vua Antiôcô sai đến để cưỡng bách người ta cúng tế; ông
lật đổ cả bàn thờ.... Đoạn Mathathia kêu lớn tiếng khắp trong thành phố
rằng: 'Ai nhiệt thành với lề luật, tuân giữ lời Giao ước, hãy ra khỏi
thành theo tôi!' Ông và con cái ông trốn lên núi, bỏ lại trong thành mọi
tài sản họ có. Bấy giờ một số người còn nhiệt tâm với sự công chính và
lề luật, cũng trốn vào hoang địa".
Thật vậy, lời kêu gọi của Matha-thia trong Bài Đọc 1 hôm nay có thể nói
âm vang lời Thiên Chúa kêu gọi "ai
đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ" trong
Thánh Vịnh 49 ở bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúa là Thiên Chúa đã lên tiếng kêu gọi địa cầu, từ chỗ mặt trời
mọc lên tới nơi lặn xuống. Từ Sion đầy mỹ lệ, Thiên Chúa hiển linh huy
hoàng.
2) Hãy tập họp cho Ta các tín đồ đã ký lời giao ước của Ta cùng hy
sinh lễ. Và trời cao sẽ loan truyền sự công chính của Người, và chính
Thiên Chúa Người là thẩm phán.
3) Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và làm trọn điều khấn hứa
cùng Ðấng Tối Cao. Ngươi hãy kêu cầu Ta trong ngày khốn khó, Ta sẽ giải
thoát ngươi và ngươi sẽ kính trọng Ta.
Kỷ Niệm Cung Hiến Ðền Thờ Thánh Phêrô Và Phaolô Tông Ðồ
Vua Constantin
Cả (270-337) đã chiến thắng quân Maxence dưới tường thành Rôma năm 312, nhờ
sự xuất hiện lạ lùng của cây Thánh Giá lơ lửng giữa không trung với hàng
chữ: "In hoc signo vince" (Tin vào dấu này, ông sẽ thắng). Năm 313, ngài đã
ban hành chiếu chỉ (Edit de Milan) chấm dứt cuộc bách hại người Công Giáo và
cho tự do tôn giáo. Sau đó, năm 323, nhà vua mới thật sự trở lại Công giáo.
Ðể tỏ lòng biết ơn về chiến thắng Maxence, ngài đã xây cất nhiều đại thánh
đường nguy nga, trong số đó phải kể vương cung thánh đường thánh Phêrô và
thánh Phaolô.
Ðền thờ thánh
Phêrô được xây cất năm 326 và được nới rộng ra năm 1506 với sự cộng tác đắc
lực của nhiều kỹ sư và nghệ sĩ có tiếng: Rosellinô. Bramante, Raphael,
Michel Ange, Carlô Modernô và Silvestrê. Riêng cái tháp cao 138m, rộng 42m.
Thánh Silvestrê và Ðức Giáo Hoàng Urbanô VIII đã thánh hiến ngày 18/11/1626.
Ðền thờ thánh
Phaolô được xây cất trên đường Ostie, bên "ngoài thành" Vatican, và được
thánh hiến cũng cùng một ngày với đền thánh Phêrô. Năm 1823, một cuộc hỏa
tai đã thiêu hủy gần hết và Ðức Grêgoriô XVI và Ðức Piô IX đã chọn ngày định
tín "Ðức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội" để thánh hiến lại, với sự chứng kiến
đông đảo của các Giám Mục.
Thứ
Sáu
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) 1
Mcb 4, 36-37, 52-59
"Họ làm lễ cung hiến bàn thờ và hân hoan dâng lễ toàn thiêu".
Trích sách Macabê quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Giuđa và anh em ông nói rằng: "Quân thù chúng ta đã bị
tiêu diệt, nay chúng ta hãy đi thanh tẩy và cung hiến Ðền thánh lại".
Toàn thể quân đội được triệu tập, rồi cùng lên núi Sion.
Ngày hai mươi lăm tháng chín (tức là tháng Kislêu) năm một trăm bốn mươi
tám, họ dậy sớm, dâng lễ tế như Luật dạy trên bàn thờ dùng để dâng lễ toàn
thiêu mà họ vừa mới thiết lập. Bàn thờ đã được cung hiến lại giữa những
tiếng ca, tiếng đàn lục huyền cầm, phong cầm cùng tiếng não bạt, đúng mùa,
đúng ngày trước kia dân ngoại đã xúc phạm đến bàn thờ. Toàn dân sấp mình thờ
lạy và ca tụng Ðấng ngự trên trời đã ban chiến thắng cho họ.
Họ làm lễ cung hiến bàn thờ suốt tám ngày, hân hoan dâng lễ toàn thiêu, lễ
đền tội và lễ tạ ơn. Họ trang hoàng mặt tiền Ðền thờ với những triều thiên
vàng và bảng chương, sửa lại các cửa ra vào và các phòng, đặt cánh cửa lại.
Dân chúng nô nức vui mừng vì đã rửa sạch được nỗi tủi nhục do dân ngoại gây
nên. Giuđa cùng với anh em ông và cộng đoàn Israel quyết định rằng: Hằng
năm, từ ngày hai mươi lăm tháng Kislêu, lễ cung hiến bàn thờ sẽ được cử hành
trong vui mừng hân hoan suốt tám ngày.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: 1 Sb 29, 10. 11abc. 11d-12a. 12bcd
Ðáp: Lạy
Chúa, chúng con chúc tụng thánh danh vinh hiển của Chúa (c. 13b).
Xướng: 1) Ðavít đã chúc tụng Chúa trước mặt toàn thể cộng đồng, Người thưa:
"Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng từ đời
đời tới muôn muôn thuở". - Ðáp.
2) Lạy Chúa, cao sang, quyền bính và vinh quang, chiến thắng, lời ca khen
đều thuộc về Chúa, vì tất cả những gì trên trời dưới đất là của Chúa. - Ðáp.
3) Chúa ngự trên tất cả những đế vương. Giàu sang là của Chúa, và vinh quang
là của Chúa. - Ðáp.
4) Chúa thống trị trên tất cả mọi loài, sức mạnh quyền bính đều ở trong tay
của Chúa; ở trong tay Chúa, mọi uy phong và vững bền. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 34
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp
của Chúa, và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19, 45-48
"Các ngươi đã biến đền thờ Thiên Chúa thành sào huyệt trộm cướp".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào đền thờ, Người liền xua đuổi các người buôn bán tại
đó và phán bảo họ rằng: "Có lời chép rằng: Nhà Ta là nhà cầu nguyện, các
ngươi đã biến thành sào huyệt trộm cướp". Và hằng ngày Người giảng dạy trong
Ðền thờ. Các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão trong dân tìm cách hại Người,
nhưng họ không biết phải làm cách nào, vì dân chúng hết thảy đều chăm chú
nghe Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời
Chúa
Quá yêu thương đến bất khả chấp
Bài Phúc Âm hôm
nay, Thứ Sáu Tuần XXXIII Thường Niên, tiếp tục với cuộc hành trình lên
Giêrusalem của Chúa Kitô, ở chỗ, sau
khi "Người đã gần đến Giêrusalem" trong
Bài Phúc Âm hôm kia, sau đó "Chúa
Giêsu đến gần Giêrusalem" trong bài Phúc Âm hôm qua, và
hôm nay "Chúa
Giêsu vào đền thờ".
Phải, nếu đền thờ
Giêrusalem là nơi Thiên Chúa ngự, là biểu hiệu cho sự hiện diện thần
linh của Thiên Chúa, thì sự kiện Chúa Giêsu có mặt ở đền thờ này cho
thấy Người đã đến được đích điểm
cuộc hành
trình Giêrusalem của Người.
Bởi Người đến "là để
tỏ Cha ra" (Gioan 1:18), tức để làm cho dân của Người biết Cha của
Người thực sự là Đấng nào,
Vị Thiên Chúa đã từng tỏ mình ra cho họ trong suốt giòng lịch sử cứu độ
của họ như là một Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, ngoài
Ngài ra không còn một vị Thiên Chúa nào khác, và vì thế họ phải hết
mình kính mến Ngài, chỉ một mình Ngài thôi, "hết lòng, hết linh hồn và
hết sức" của họ (xem Đệ Nhị Luật 6:4-5), nghĩa là trên hết mọi sự.
Bởi thế, không lạ gì, khi
thấy cảnh tượng dân chúng buôn bán trong đền thờ "là
nhà cầu nguyện", như
chính Người nói trong Bài Phúc Âm hôm nay, đã
bị "biến
thành sào huyệt trộm cướp", thì làm
sao Người là Đấng kính mến Cha Người hết mình và trên hết mọi sự, khi
thấy nơi biểu hiệu cho sự hiện diện thần linh của Cha bị chính dân của
Ngài tục hóa, có thể nào chịu đựng được, đến độ dù Người vốn "hiền
lành và khiêm nhượng trong lòng"
(Mathêu 11:29) cũng
không thể nào không ra tay "xua
đuổi các người buôn bán tại đó".
Phải chăng đó là một
trong những lý do chính yếu khiến Người vừa thấy thành thánh Giêrusalem,
Người đã thổn thức khóc, như bài Phúc Âm hôm qua thuật lại? Người đã
không khóc khi thấy Cha của Người
bị xúc phạm cho bằng
khóc thương dân của Người, vì họ không ngừng liên tục
xúc phạm đến Cha của
Người mà nguy hiểm đến phần rỗi đời đời của chính họ.
Bởi thế mà trên đường vác thập giá lên Núi Sọ, Người đã khuyên đám phụ
nữ thương khóc Người bấy
giờ rằng:
"Chớ
khóc thương Tôi, một khóc thương các ngươi cùng con cháu của các ngươi"
(Luca 23:27-28).
Đúng vậy, nếu
con người ta nói
chung và những ai tin vào Người nói riêng thật sự biết
khóc thương bản thân mình, ở chỗ tỏ ra ăn năn thồng hối tội lỗi của
mình, thì đó là tác động họ khóc thương Người rồi vậy, vì họ sẽ không
dám xúc phạm đến Người nữa, họ sẽ không làm cho Người phải khổ sở vác
thập giá của họ và cho họ nữa, thập
giá do chính họ chất lên vai của Người.
Tội lỗi của họ chính là thập giá mà Người phải vác vậy. Và thập giá cũng
là biểu hiệu cho từng con chiên lạc Người cần
phải tìm
kiếm và vác
trên vai mang về nhà Cha của Người vậy (xem Luca 15:5).
Đó là lý do Người quả thật
không hề ghét bỏ dân của Người qua hành động đánh đuổi họ như thế, trái
lại, chỉ vì Người thương họ hơn bao giờ hết, khi thấy họ lầm lạc đến độ
chính họ là dân được Thiên Chúa là Cha của Người tuyển chọn đã tục hóa
một nơi thánh nhất của họ, chứ không phải bị tục hóa bởi dân ngoại không
biết gì đến Vị Thiên Chúa của họ, như đã phũ phàng và trắng trợn xẩy ra
vào thời kỳ hậu lưu đầy của họ, khi họ bị ngoại bang xâm chiếm và đô hộ,
đến độ quyền lực ngoại bang bấy giờ đã ra
tay tàn phá và tục
hóa đền thờ ấy,
một biến cố lịch
sử đầy nhơ nhớp được
Sách Macabê quyển thứ nhất diễn thuật trong Bài Đọc 1 Thứ Hai đầu tuần
này.
Việc Chúa Giêsu "xua
đuổi các người buôn bán tại đó" còn
mang một ngậm ý trách móc cả thành phần lãnh đạo dân Chúa bấy giờ nữa,
thành phần có thẩm quyền để hướng dẫn dân Chúa theo đường lối của Thiên
Chúa, theo lề luật thánh lại để xẩy ra tình trạng tục hóa công khai này,
một là vì chính họ cho phép hai là vì họ cứ để cho dân
chúng tha hồ tục
hóa đền thờ linh thánh này, không hề ngăn cản tí nào, như thể vừa tán
thành vừa đồng lõa với tội lỗi của dân.
Người biết rằng việc Người
tự động "xua
đuổi các người buôn bán tại đó" chắc
chắn sẽ đụng chạm đến quyền bính của thành phần lãnh đạo này. Thế nhưng,
vì Người đến cứu cả thành phần lãnh đạo mù quáng ấy nữa,
nên Người vẫn bất
chấp, họ có tỏ ra hận thù Người hơn bao giờ hết, như được Bài Phúc Âm
hôm nay cho thấy: "Các
thượng tế, luật sĩ và kỳ lão trong dân tìm cách hại Người, nhưng họ
không biết phải làm cách nào, vì dân chúng hết thảy đều chăm chú nghe
Người".
Họ càng hận thù và
tìm cách hại Người bao nhiêu thì chính họ là thành phần "không muốn" xẩy
ra chuyện "phong vương" của Người càng được thành
tựu, như ý nghĩa
trọng dụ ngôn của
Bài Phúc Âm hôm kia
cho biết vào thời điểm Người "gần đến Giêrusalem" là nơi Người sẽ
bị rơi vào tay họ như Người đã báo trước cho các môn đệ của Người về
biến cố bất khả tránh này 3 lần, đúng
như ý định vô cùng nhiệm mầu của Cha Người về cuộc hành
trình Giêrusalem của Người là để Người được "phong
vương"
trên ngai tòa thập tự
giá một cách danh
chính ngôn thuận: "Giêsu Vua
Dân Do Thái"
(Luca 23:38).
Tuy nhiên, ngay lúc
bấy giờ, lúc Người "xua
đuổi các người buôn bán tại đó" thì
họ còn sợ dân chúng, tức chưa đến giờ của người, nhờ đó, như Phúc Âm cho
biết: "hằng
ngày Người giảng dạy trong Ðền thờ". Và
vì thế, từ ngày mai Thứ Bảy Tuần XXXIII Thường Niên cho tới hết tuần 34
Thường Niên là tuần cuối cùng của phụng niên hằng năm, chúng ta sẽ đọc
thấy các bài Phúc Âm cho ngày thường trong tuần liên quan đến giáo huấn
Giêrusalem của Người, những giáo huấn cuối cùng của hành trình
Giêrusalem được Người công khai truyền
dạy ở chính thành thánh Giêrusalem, giáo đô
của Do Thái giáo, cũng là khởi điểm truyền giáo (xem
Tông Vụ 1:8) ngay sau
biến cố Thánh
Linh Hiện Xuống của
Giáo Hội được Người thiết lập.
Đúng thế, đối với những con người không tin tưởng Thiên Chúa, hay tin
tưởng một cách nửa vời, hoặc tin tưởng một cách giả hình như thành phần
trí thức Do Thái giáo là luật sĩ và biệt phái nói chung, thì Đền Thờ là
nơi Thiên Chúa ngự giữa họ sẽ bị họ tục hóa và biến thành một phương
tiện lạm dụng của họ cho lợi lộc trần gian. Thế nhưng, đối với những tâm
hồn nào thực sự tin tưởng Ngài mới tỏ ra tôn kính Đền Thờ của Ngài, nhất
là khi thấy Đền Thờ của Ngài bị tục hóa chẳng những bởi dân ngoại mà còn
bởi cả chính dân của Ngài nữa, và họ không thể nào không tái thiết đền
thờ xứng với Vị Thiên Chúa tối cao chí thánh của họ, như trường hợp của
nhân vật Giuđa cùng với anh em mình, những người con của người bố anh
hùng đức tin Matha-thia, đã làm trong Bài Đọc 1 theo sách Macabê quyển
thứ 1 như sau:
"Trong những ngày ấy, Giuđa và anh em ông nói rằng: 'Quân thù chúng ta
đã bị tiêu diệt, nay chúng ta hãy đi thanh tẩy và cung hiến Ðền thánh lại'.
Toàn thể quân đội được triệu tập, rồi cùng lên núi Sion. Ngày hai mươi lăm
tháng chín (tức là tháng Kislêu) năm một trăm bốn mươi tám, họ dậy sớm, dâng
lễ tế như Luật dạy trên bàn thờ dùng để dâng lễ toàn thiêu mà họ vừa mới
thiết lập. Bàn thờ đã được cung hiến lại giữa những tiếng ca, tiếng đàn lục
huyền cầm, phong cầm cùng tiếng não bạt, đúng mùa, đúng ngày trước kia dân
ngoại đã xúc phạm đến bàn thờ".
Chưa hết, sau đó "toàn dân sấp mình thờ lạy và ca tụng Ðấng
ngự trên trời đã ban chiến thắng cho họ. Họ làm lễ cung hiến bàn thờ suốt
tám ngày, hân hoan dâng lễ toàn thiêu, lễ đền tội và lễ tạ ơn. Họ trang
hoàng mặt tiền Ðền thờ với những triều thiên vàng và bảng chương, sửa lại
các cửa ra vào và các phòng, đặt cánh cửa lại. Dân chúng nô nức vui mừng vì
đã rửa sạch được nỗi tủi nhục do dân ngoại gây nên". Hành động của dân
Chúa được thuật lại trên đây chính là âm vang của những tâm tình tôn thờ
chân thực được chất chứa trong bài Đáp Ca hôm nay:
1) "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel cha ông chúng con, Chúa
đáng chúc tụng từ đời đời tới muôn muôn thuở".
2) Lạy Chúa, cao sang, quyền bính và vinh quang, chiến thắng, lời ca
khen đều thuộc về Chúa, vì tất cả những gì trên trời dưới đất là của Chúa.
3) Chúa ngự trên tất cả những đế vương. Giàu sang là của Chúa, và vinh
quang là của Chúa.
4) Chúa thống trị trên tất cả mọi loài, sức mạnh quyền bính đều ở trong
tay của Chúa; ở trong tay Chúa, mọi uy phong và vững bền.
Thứ
Bảy
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) 1
Mcb 6, 1-13
"Vì các tai hoạ trẫm đã gây cho Giêrusalem mà trẫm phải buồn bực mà chết".
Trích sách Macabê quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, vua Antiôcô rảo khắp các tỉnh miền bắc. Vua nghe nói
tại Ba-tư có thành Êlymai nổi tiếng là giàu có và lắm vàng bạc; trong thành
lại có một ngôi đền thờ lắm bảo vật, đầy những binh giáp bằng vàng, chiến
bào, khiên mộc di sản của Alexanđrô, con Philipphê, vua xứ Macêđônia, là vua
tiên khởi cai trị dân Hy-lạp. Vậy ông đến tìm cách chiếm lấy thành để cướp
của. Nhưng ông không thành công, vì dân thành đã biết trước ý định của ông,
nên đã vùng lên chống lại. Ông bỏ chạy và buồn bực lui quân trở về Babylon.
Lúc vua còn ở Ba-tư, có người đến đem tin cho vua hay toán quân của ông ở
Giuđa đã bị đánh bại chạy tán loạn, và Lysia, vị tướng chỉ huy một đoàn quân
hùng hậu, cũng đã phải tháo lui chạy trốn quân Do-thái; quân Do-thái lại
càng mạnh thêm nhờ ở khí giới, lương thực và chiến lợi phẩm rất nhiều đã lấy
được của các đoàn quân họ đánh bại. Họ đã hạ tượng thần vua đã đặt trên bàn
thờ ở Giêrusalem; họ cũng đã xây thành đắp luỹ cao như trước chung quanh Ðền
thờ và chung quanh thành Bethsura.
Nghe tin ấy, nhà vua khiếp đảm và rất xúc động. Vua vật mình xuống giường và
buồn đến lâm bệnh, (bởi vì) sự việc đã không xảy ra như vua ước muốn. Vua
liệt giường nhiều ngày, càng ngày càng buồn. Và tưởng mình sắp chết, vua
liền triệu tập tất cả bạn hữu lại mà nói với họ rằng: "Trẫm không còn chớp
mắt được nữa và lòng trẫm tan nát vì ưu tư. Trẫm tự nghĩ: trước kia khi trẫm
còn quyền thế, trẫm vui sướng và được người ta quý mến, mà giờ đây trẫm lâm
cảnh buồn sầu và đau khổ biết bao! Bây giờ trẫm hồi tưởng lại các tai hoạ
trẫm đã gây cho Giêru-salem: trẫm đã chiếm đoạt các chén bằng vàng bạc tại
đó, và đã ra lệnh tiêu diệt dân Giuđêa cách vô cớ. Trẫm nhìn nhận là vì các
việc ấy mà phải khốn khổ như thế này, mà giờ đây trẫm phải buồn bực mà chết
nơi đất khách quê người".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 9, 2-3. 4 và 6. 16b và 19
Ðáp: Lạy
Chúa, con mừng rỡ vì ơn Ngài cứu độ (x. c. 16a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, con sẽ kể ra mọi điều lạ
lùng của Chúa. Con sẽ mừng rỡ hân hoan trong Chúa, con sẽ đàn ca danh Ngài,
lạy Ðấng Tối Cao. - Ðáp.
2) Vì quân thù của con đã tháo lui, chúng chạy trốn và vong mạng trước thiên
nhan Chúa. Chúa trách phạt chư dân, diệt vong đứa ác, bôi nhoà tên tuổi
chúng tới muôn đời. - Ðáp.
3) Người chư dân rơi chìm xuống hố mà họ đã đào, chân họ mắc vào cạm bẫy mà
họ đã che. Vì kẻ cơ bần không bị đời đời quên bỏ, hy vọng người đau khổ
không mãi mãi tiêu tan. - Ðáp.
Alleluia: Pl 2, 15-16
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu
sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 20, 27-40
"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự
sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Môsê đã viết cho
chúng tôi: nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì
người em phải cưới người vợ đó để anh mình có kẻ nối dòng. Vậy có bảy anh
em: người thứ nhất cưới vợ, rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ
goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và
tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào.
Sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà
đó sẽ là vợ ai trong các người ấy, vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm
vợ?"
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai
sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không
cưới vợ lấy chồng; họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ
là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết
sống lại, thì Môsê trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa
Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Thiên Chúa không phải là
Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho Chúa".
Bấy giờ có mấy luật sĩ lên tiếng thưa Người rằng: "Lạy thầy, Thầy dậy đúng
lắm". Và họ không dám hỏi Người điều gì nữa.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời
Chúa
Một cánh chung biến đổi canh tân
Hôm nay, Thứ Bảy, cuối Tuần XXXIII Thường Niên, Bài
Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc vẫn tiếp tục bài
Phúc Âm hôm qua là bài Phúc Âm cho biết cuộc hành trình Giêrusalem
của Người đã tới đích điểm của nó là chung thành thành Giêrusalem và
riêng đền thánh Giêrusalem, nơi Người sau khi thanh tẩy thì Người tiếp
tục giảng dạy cho dân chúng.
Và
giáo huấn cuối cùng trong cuộc hành
trình Giêrusalem của
Người ở chính giáo đô Giêrusalem là đích điểm tỏ mình ra của Người này, đặc
biệt liên
quan đến mầu nhiệm cánh chung và lai thời hậu
thế, như bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, qua lời vấn đáp của Chúa Giêsu
với "mấy
người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại",
nên đã
"đến
gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng:
"Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: nếu ai có một người anh cưới
vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ đó để
anh mình có kẻ nối dòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ, rồi
chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không
con. Người thứ ba cũng cưới người vợ góa đó.
Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người
con nào. Sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại,
người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy, vì tất cả bảy người đều
lấy người ấy làm vợ?"
Qua thực đây
là một câu hỏi của những người không tin có vấn đề sống lại, nghĩa là
không tin có đời sau, hay có đời sau thì cũng không thể nào xẩy ra
chuyện bao
gồm cả thân xác hữu hình và hữu hạn này, nghĩa
là thân xác con người không thể nào trở thành vô hình và vô hạn bất biến
với thời gian sau thời gian ở đời này được.
Theo lý lẽ tự
nhiên thì không phải là họ
không có
lý. Và
chính vì thế, họ mới phủ nhận sự kiện thân xác phục sinh, hay ngược
lại, vì có ý nghĩ không thể nào có vấn đề phục sinh của thân xác mà
họ mới đặt
ra một
trường hợp không bao giờ có thể xẩy ra, hoàn toàn không thực tế, hợp với
tầm mức hiểu biết thiển cận theo tự nhiên của họ trên đây.
Tuy nhiên, họ đã
lầm. Nhưng cũng may, họ vẫn còn thiện chí để nói ra, để hỏi han, lại hỏi
ngay chính vị mà họ tin rằng, (hơn là cố ý thử Người như thường thấy nơi
thành phần luật sĩ và biệt phái tin có sự sống lại), có thể giải đáp
vấn đề then chốt nhất của họ, nhưng cũng là vấn đề hóc
búa đến độ
như thể bất
khả nan giải của họ.
Câu
trả lời của Chúa Giêsu là Đấng tự thân sẽ
sống lại đầu tiên từ trong kẻ chết như thế này, một
câu trả lời đã được chính thành phần luật sĩ cũng có mặt ở đó bấy giờ
hết sức khâm phục: "Lạy
thầy, Thầy dậy đúng lắm", đến độ
"họ
không dám hỏi Người điều gì nữa". Và
câu trả lời của Chúa Giêsu về chuyện xác loài người ta sẽ sống lại như
sau:
"Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự
phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy
chồng; họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con
cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống
lại, thì Môsê trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa
Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Thiên Chúa không phải
là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho
Chúa".
Trong câu
trả lời này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Đấng "là sự sống lại và là
sự sống" (Gioan 11:25) bao
gồm cả sự sống lại của
thân xác và
sự sống bất
diệt đời sau của cả toàn thân con người cả hồn lẫn xác.
Trước hết, về sự sống lại, lần đầu tiên Chúa
Giêsu được dịp chính
thức mạc
khải cho biết rằng con người
ta sẽ sống lại, mà sống lại là sự kiện trước hết liên quan đến thân
xác đã
chết đi của
họ, nên
vấn đề sống lại là vấn đề của thân xác, và một khi thân xác sống lại thì
"sẽ
không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con cái Thiên
Chúa".
Nghĩa
là thân xác hữu hình và hữu hạn của con người khi còn tại thế, còn sống trong
không gian và thời gian, khi sống
lại sẽ trở thành thiêng liêng vô hình, trở
thành bất tử và bất diệt, như
thân xác phục sinh của Ngưòi sau này, có thể xuyên qua cả căn phòng khóa
kín của các tông đồ đang sợ
sệt trốn
lánh bấy
giờ.
Thế
nhưng, tự mình thân xác hữu hình và hữu hạn của con người không thể nào
sống nếu thiếu linh hồn vẫn được gọi là hồn sống của nó, thì cũng thế nó
sẽ không tự mình sống lại và sống đời sau vô cùng nếu
không có hồn thiêng bất tử của nó.
Mà linh hồn của
con người chỉ thực sự sống, sống sự sống thần linh, sống sự sống siêu
nhiên, sống sự sống đời đời, sống sự sống trường sinh bất tử, dù ở đời
này hay ở đời sau, ở chỗ nhận biết "Thiên Chúa chân thật duy nhất" được
tỏ hiện nơi Chúa Giêsu Kitô (xem Gioan 17:3), tức là nhận biết vị Thiên
Chúa bất biến trước sau như một: "Thiên
Chúa của Abraham,
Thiên Chúa của Isaac,
và Thiên Chúa của Giacóp", vị
Thiên Chúa hằng hữu và tồn tại dù con người có
qua đi ba đời Abraham, Isaac và Giacóp, một
khoảng thời gian không ai còn tồn tại trên trần gian thế mà Thiên Chúa
hằng sống vẫn hiện hữu.
"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống" là
như thế,
"vì mọi người đều sống cho Chúa", ở
chỗ nhận biết Ngài như Ngài là, như Ngài đã tỏ ra nơi Chúa Giêsu Kitô
là Người Con nhập thể và vượt qua của Ngài, nhờ đó "họ sẽ
không thể chết nữa" cùng
với thân xác của họ, với tư cách "là
con cái Thiên Chúa" như
Chúa Kitô, nhờ Thánh Linh là Đấng chứng tỏ họ là con cái Thiên Chúa (xem
Roma 8:16; 1Gioan 4:13): "Nếu
Thần Linh của Đấng đã làm cho Chúa Kitô từ trong kẻ chết sống lại thì
cũng sẽ mang lại sự sống cho thân xác chết chóc của anh em, nhờ Thần
Linh của Người ở trong anh em" (Rôma 8:11).
Vậy
vấn đề được đặt ra ở đây là nếu thân xác con người sống lại là nhờ linh
hồn nhận biết Thiên Chúa hằng sống thì những linh hồn nào không nhận
biết Thiên Chúa hằng sống có sống lại nơi thân xác của họ và với thân
xác của họ hay
chăng?
Theo tín
lý dạy thì tất cả mọi người đều sống lại, dù là "kẻ sống" hay "kẻ
chết", kẻ
lành hay kẻ dữ, kẻ được rỗi hay kẻ hư đi. Bởi vì, dù là thành phần kẻ dữ
bị hư đi vì khi còn sống trên thế gian này họ không nhận biết Thiên Chúa
chân thật duy nhất để hội đủ điều kiện được cứu
rỗi chăng
nữa, khi qua khỏi trần gian này, khi không còn thời gian nữa thì trong
cõi đời đời họ
lại càng không thể chối cãi sự thật mà họ chối bỏ là
chính Vị Thiên Chúa hằng sống của họ.
Và vì các linh hồn hư đi sau khi qua khỏi đời này không thể không nhận
biết Thiên Chúa hằng
sống như Ngài đã
tỏ tất cả mình ra là
nơi Chúa Giêsu Kitô, một
cách bất đắc dĩ không chân nhận không được, mà
linh hồn
hư đi ấy
vẫn tồn tại với cả
thân xác của họ, vô
cùng ở đời sau, trong cõi đời đời. Nhưng tình
trạng hư đi của họ hoàn
toàn khác với tình
trạng của các
linh hồn được cứu rỗi là thành phần, nhận
biết Thiên Chúa chân thật duy nhất nhờ Thánh Thần, như
lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, "xét
đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết", một
cách rạng
ngời "giống
như thân xác vinh hiển của
Người
(Chúa
Kitô)" (Philiphê
3:21).
Sách Tiên Tri Daniên trong Bài Đọc 1 Chúa Nhật XXXII Chu
Kỳ Năm B cũng chứng thực như vậy, chứng thực rằng cả kẻ dữ người lành
đều sống lại, nhưng kẻ lành thì hiển vinh sáng láng: "Nhiều kẻ an
giấc trong bụi đất sẽ chỗi dậy; có người sẽ được hưởng phúc trường sinh,
có kẻ phải tủi nhục muôn đời. Những
người thông minh sẽ sáng chói như ánh sáng vòm trời, và những kẻ khuyên
dạy sự công chính cho nhiều người, sẽ nên như các vì tinh tú tồn tại
muôn ngàn đời".
Kinh nghiệm
nhân sinh cho thấy con
người ta
khi còn sống trên đời này, vì bản tính đã bị nhiễm lây nguyên tội, nên
luôn hướng hạ theo trần tục hơn là hướng thượng sống siêu nhiên, cho dù
linh hồn họ được Thiên Chúa dựng nên để được hạnh phúc trường sinh ở đời
sau. Và chính vì linh hồn con người vô hình thiêng liêng tự bản chất bất
tử "như các thiên thần" mà họ rất sợ chết, và cho dù cả đời có
tìm kiếm đủ mọi thứ thỏa mãn trên trần gian này họ vẫn không no thỏa,
vẫn không thể nào thỏa đáng được ước vọng bất tử của chính cõi lòng luôn
hướng về vô biên viên mãn của
con người.
Nếu "Thiên
Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống", ở
chỗ "vì mọi người đều sống cho Chúa", nghĩa
là nhận biết và tin tưởng Thiên Chúa, Đấng luôn tỏ tra cho từng người,
tùy hoàn cảnh của họ, để họ có thể nhận biết Ngài là "Thiên Chúa của
kẻ sống" khi họ nhận biết Ngài và "sống cho Ngài", thì
trường hợp của Vua Antiôcô của đế quốc Ba Tư trong Sách Macabê quyển thứ
1 ở Bài Đọc 1 hôm nay là một trường hợp điển hình, ở chỗ, sau khi bị
thất bại ở khắp nơi, thì vua đã tỏ ra thống hối ăn năn trước khi chết:
"Nghe tin ấy, nhà vua khiếp đảm và rất xúc động. Vua vật mình xuống
giường và buồn đến lâm bệnh, (bởi vì) sự việc đã không xảy ra như vua
ước muốn. Vua liệt giường nhiều ngày, càng ngày càng buồn. Và tưởng mình
sắp chết, vua liền triệu tập tất cả bạn hữu lại mà nói với họ rằng:
'Trẫm không còn chớp mắt được nữa và lòng trẫm tan nát vì ưu tư. Trẫm tự
nghĩ: trước kia khi trẫm còn quyền thế, trẫm vui sướng và được người ta
quý mến, mà giờ đây trẫm lâm cảnh buồn sầu và đau khổ biết bao! Bây giờ
trẫm hồi tưởng lại các tai hoạ trẫm đã gây cho Giêru-salem: trẫm đã
chiếm đoạt các chén bằng vàng bạc tại đó, và đã ra lệnh tiêu diệt dân
Giuđêa cách vô cớ. Trẫm nhìn nhận là vì các việc ấy mà phải khốn khổ như
thế này, mà giờ đây trẫm phải buồn bực mà chết nơi đất khách quê người'".
Đối với Thiên Chúa, cũng như đối với từng con người, thì ơn cứu độ là
quan trọng nhất của cuộc sống tạm bợ mau qua ngắn ngủi của họ trên trần
gian này. Nếu cuối cùng, cho dù cả cuộc đời có hư thân mất nết, có tội
lỗi xấu xa đến mấy, nếu trước khi chết mà nhận ra chân lý thì thật là có
phúc là dường nào, như Vua Antiôcô trong Bài Đọc 1 hôm nay, một vị vua
có thể xứng hợp với câu họa của bài Đáp Ca hôm nay: "Lạy
Chúa, con mừng rỡ vì ơn Ngài cứu độ" , bài Đáp Ca theo
Thánh Vịnh 9 cũng chất chứa những tâm tình của dân Chúa sau khi được
Ngài giải phóng khỏi kẻ thù bởi chính cạm bẫy của kẻ thù, một Vị Thiên
Chúa tỏ mình ra một lúc cho cả hai, chính họ và kẻ thù của họ:
1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, con sẽ kể ra mọi điều lạ
lùng của Chúa. Con sẽ mừng rỡ hân hoan trong Chúa, con sẽ đàn ca danh
Ngài, lạy Ðấng Tối Cao.
2) Vì quân thù của con đã tháo lui, chúng chạy trốn và vong mạng
trước thiên nhan Chúa. Chúa trách phạt chư dân, diệt vong đứa ác, bôi
nhoà tên tuổi chúng tới muôn đời.
3) Người chư dân rơi chìm xuống hố mà họ đã đào, chân họ mắc vào cạm
bẫy mà họ đã che. Vì kẻ cơ bần không bị đời đời quên bỏ, hy vọng người
đau khổ không mãi mãi tiêu tan.