SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
"Thày là Sự Sống"
Mục Tử Thần Linh
Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần IV
Phục Sinh
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Phụng
Vụ Lời Chúa Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh
(cho các Chúa Nhật)
Nếu
"Thày là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25)
là chủ đề chính yếu của toàn
Mùa Phục Sinh, trong đó, chủ đề
"Thày là sự sống lại" cho nguyên
Tuần Bát Nhật Phục Sinh là thời điểm 8 ngày có
các bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc hoàn toàn liên quan đến các lần Chúa
Kitô Phục Sinh hiện ra mà thôi, thì chủ đề "Thày
là sự sống" là chủ đề cho những
ngày còn lại, bao gồm cả Chúa Nhật lẫn ngày trong tuần.
Vậy chủ đề
"Thày là sự sống" ở
Phụng Vụ Lời Chúa cho cả Chúa Nhật lẫn các ngày trong tuần lễ Thứ IV của Mùa Phục Sinh như thế
nào, nếu không phải, so sánh với nội dung của phụng vụ Lời Chúa cho các tuần
trước và các tuần còn lại, thì nội dung của Phụng Vụ Lời Chúa cho Tuần IV Phục Sinh này cho thấy
chủ đề
"Thày là sự sống" liên
quan đến chiều kích Mục Tử Thần Linh.
Chúa Nhật IV Phục
Sinh: Sự Sống - Mục
Tử Thần Linh
Chúa
Nhật Thứ Tư Mùa
Phục Sinh bao giờ cũng được Giáo Hội chọn làm Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, và
vì thế càng làm sáng tỏ chủ đề "Thày là sự sống" trong Mùa Phục Sinh sau
Tuần Bát Nhật Phục Sinh. Trong Chúa Nhật này, cả 3 chu kỳ phụng vụ
A-B-C đều được trích từ Phúc Âm Thánh Gioan, đoạn 10, về Vị Mục Tử Nhân Lành
thật lòng yêu
thương chiên của mình và muốn cho
chiên được sự
sống và là một sự sống viên mãn (Năm
A), đến độ dám
hiến mạng sống của mình cho chiên (Năm
B), để chiên có
thể được sự
sống đời đời trường sinh bất tử (Năm C).
Năm A
Sự
Sống xuất phát từ vị Mục
Tử Thần Linh thật lòng yêu
thương chiên của mình và muốn cho chiên được
sự sống và là một sự sống viên mãn.
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 2,
14a. 36-41
"Thiên Chúa đã tôn Người làm Chúa
và làm Ðấng Kitô".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với
mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: "Xin toàn thể nhà Israel hãy
nhận biết chắc rằng: Thiên Chúa đã tôn Ðức Giêsu mà anh em đã đóng đinh, lên
làm Chúa và làm Ðấng Kitô".
Nghe những lời nói trên, họ đau đớn
trong lòng, nói cùng Phêrô và các Tông đồ khác rằng: "Thưa các ông, chúng
tôi phải làm gì?" Phêrô nói với họ: "Anh em hãy ăn năn sám hối, và mỗi người
trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Ðức Giêsu Kitô để được tha tội; và
anh em nhận lãnh ơn Thánh Thần. Vì chưng, đó là lời hứa cho anh em, con cái
anh em, và mọi người sống ở phương xa mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu
gọi đến". Phêrô còn minh chứng bằng nhiều lời khác nữa, và khuyên bảo họ mà
rằng: "Anh em hãy tự cứu mình khỏi dòng dõi gian tà này". Vậy những kẻ chấp
nhận lời ngài giảng, đều chịu phép rửa, và ngày hôm ấy có thêm chừng ba ngàn
người gia nhập đạo.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 22,
1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Chúa chăn
nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi
chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới
nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi
dưỡng. - Ðáp.
2) Người dẫn tôi qua những con đường
đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng
tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài,
đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ ngay
trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con
đầy tràn chan chứa. - Ðáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo
tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới
thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Pr 2,
20b-25
"Anh em đã trở về cùng Ðấng canh
giữ linh hồn anh em".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô
Tông đồ.
Anh em thân mến, khi làm việc lành,
nếu anh em phải nhẫn nhục chịu đau khổ, đó mới là ân phúc trước mặt Thiên
Chúa. Anh em được gọi làm việc đó, vì Ðức Kitô đã chịu đau khổ cho chúng ta,
lưu lại cho anh em một gương mẫu để anh em theo vết chân Người. Người là
Ðấng không hề phạm tội, và nơi miệng Người không thấy điều gian trá. Bị phỉ
báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe; Người phó
mình cho Ðấng xét xử công minh; chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi
thân xác Người trên cây khổ giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta
sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đã được chữa lành.
Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị
mục tử và Ðấng canh giữ linh hồn anh em.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10, 14
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta
là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta". -
Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10,
1-10
"Ta là cửa chuồng chiên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật,
Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo
vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ
chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ
ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên
mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy.
Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen
tiếng người lạ". Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn
nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa
chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã
không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy
sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm,
để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống
dồi dào".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Lời Chúa
Chủ đề "Thày là sự sống" của toàn Mùa
Phục Sinh, ngoại trừ Tuần Bát Nhật, đã được tiếp nối từ tuần 2, với điều
kiện cần "phải được tái sinh bởi trời" (các bài Phúc Âm thứ 2-5
Tuần II), nhờ đó mới có thể thưởng thức "Bánh Sự Sống" (các bài
Phúc Âm từ Thứ Sáu tuần II tới hết Thứ Bảy tuần III), và "Bánh Sự Sống" đó
chính là tấm bánh được bẻ ra, cũng chính là Chúa Kitô khổ nạn và tử giá, một
vị chủ chiên "đến để cho chiên được sống và được sống dồi dào" (Bài
Phúc Âm Chúa Nhật IV Năm A hôm nay).
Một chi tiết trong lời Chúa Giêsu nói ở bài Phúc Âm hôm nay, có liên hệ với
đề tài "Thày là sự sống" nơi "Bánh Sự Sống" tuần trước,
với "sự sống" được Người là vị chủ chiên ban cho chiên ở Chúa Nhật
tuần này, đó là: "Tôi là cửa chuồng chiên",
một ngõ lối duy nhất và bất khả thiếu cho những "ai
qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi
thân", nghĩa là tìm thấy "sự sống", bằng không, sẽ chẳng bao
gặp được "sự sống".
Tuần trước Chúa Kitô nói về Bánh Sự Sống, và "bánh" cũng mang ý
nghĩa phương tiện, cũng giống như "cửa" mang tính cách phương tiện,
để nhờ phương tiện này con người mới có được "sự sống". Và đó là lý
do Chúa Kitô, trong bữa tiệc ly, mới khẳng định về mình theo thứ tự như sau:
"Thày là đường, là sự thật và là sự sống" (Gioan 14:6). "Đường"
trước "sự sống" sau, vì "đường" (hay "bánh" hoặc
"cửa" đều là phương tiện) dẫn đến nguồn mạch "sự sống" hay
thông ban "sự sống".
"Thày là cửa chuồng chiên" đây, đối với các vị được Chúa Kitô chọn
làm mục tử thay Người để chăn dắt chiên của Người, lại là chính gương sống
mục tử của Người. Bởi vậy, mà Người đã khẳng định ngay trong bài Phúc Âm hôm
nay rằng: "ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối
khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp". Nghĩa là, bất cứ vị chủ chiên nào
được Người chọn để thay Người tiếp tục chăn dắt đoàn chiên của Người thì
cũng phải như Người, ở chỗ biết chiên của mình: "gọi đích danh từng con
chiên của mình", nhờ đó cũng biết cả bản chất và nhu cầu của
chúng, hầu đáp ứng một cách hợp tình hợp lý những gì chiên cần hay thiếu: "Khi
đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau".
"Thày là cửa chuồng chiên" đây, đối với chung Kitô hữu là
môn đệ của Chúa Kitô, cũng ám chỉ cả Phép Rửa nhân danh Chúa Kitô (Tông Vụ
2:38) nữa. Vì chỉ khi nào thành phần dự tòng được lãnh nhận Phép Rửa nhân
danh Chúa Kitô rồi, nhờ đó, đã trở thành Kitô hữu đích thực rồi, thì họ từ
đấy mới "ra vào và tìm thấy của nuôi thân",
nghĩa là mới có quyền tham hưởng "sự sống" của Chúa Kitô và từ Chúa
Kitô thông ban cho, như thân nho thông nhựa sống thần linh sang cho họ, qua
các Bí Tích Thánh, nhất là Bí Tích Thánh Thể. Khi còn là dự tòng, những Kitô
hữu tân tòng chỉ được phép tham dự vào phần phụng vụ Lời Chúa thôi, chứ
không được phép tham dự vào phần phụng vụ Thánh Thể là như thế.
Đó là lý do, ở Bài Đọc 2 hôm nay, Thánh Phêrô mới
nhắc nhở đặc ân được làm chiên của Chúa Kitô, nhờ đó, được Người chăm sóc
đặc biệt: "Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã
trở về cùng vị mục tử và Ðấng canh giữ linh hồn anh em". Thật vậy, Kitô
hữu chúng ta, nhờ ơn Chúa, "đã trở về cùng vị mục tử", Đấng trong
Bài Phúc Âm hôm nay cũng đã tự nhận mình đồng thời cũng là "cửa chuồng
chiên", và như chúng ta đã suy diễn trên đây, "cửa chuồng chiên"
ám chỉ gương sống của Người nữa. Do đó, Thánh Phêrô đã khuyên Kitô hữu là
chiên của Người trong cùng Bài Đọc 2 như sau:
"Ðức Kitô đã chịu đau khổ cho chúng ta, lưu lại cho anh em một gương mẫu
để anh em theo vết chân Người. Người là Ðấng không hề phạm tội, và nơi miệng
Người không thấy điều gian trá. Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị
hành hạ, Người không ngăm đe; Người phó mình cho Ðấng xét xử công minh;
chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người trên cây khổ
giá, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đã
được chữa lành".
Ở trong Bài Đọc 1, trích sách Tông Vụ, Thánh Phêrô còn nói với 3 ngàn
dự tòng ở bài giảng tiên khởi của Người sau biến cố Thánh Thần Hiện Xuống,
về điều kiện "qua cửa chuồng chiên mà vào", đó là
"chịu
phép rửa nhân danh Ðức Giêsu Kitô để được tha tội" như
sau:
"Anh em hãy ăn năn sám hối, và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân
danh Ðức Giêsu Kitô để được tha tội; và anh em nhận lãnh ơn Thánh Thần. Vì
chưng, đó là lời hứa cho anh em, con cái anh em, và mọi người sống ở phương
xa mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi đến".
Và nhờ qua cửa Chúa Kitô nơi Phép Rửa mà vào như thế, chẳng những họ là
người Do Thái, là dân Chúa chọn để tỏ mình ra trong suốt giòng lịch sử cứu
độ của họ, mà còn cả dân ngoại nữa, thành phần được vị trưởng tông đồ đoàn
Phêrô ám chỉ trong Bài Đọc 1 hôm nay: "mọi người sống ở phương xa mà
Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi đến", nhờ đó, cuối cùng, đúng
như vị chủ chiên "đến cho chiên được sự sống và là một sự sống viên mãn
hơn" mong muốn và đã tiên báo: "chỉ có một đàn chiên và một chủ
chiên", như trong Bài Phúc Âm cùng tuần lễ IV Phục Sinh này mà Năm B.
Chính vì được thương yêu kêu gọi một cách nhưng không hoan hưởng một "sự
sống và sự sống viên mãn hơn" từ Vị Chủ Chiên Nhân Lành là Chúa Giêsu Kitô
Vượt Qua này, mà Kitô hữu chúng ta không thể không vang lên tâm tình của bài
Thánh Vịnh 22 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi
chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới
nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi
dưỡng.
2) Người dẫn tôi qua những con đường
đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng
tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài,
đó là điều an ủi lòng con.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ ngay
trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con
đầy tràn chan chứa.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết
mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian
rất ư
lâu dài.
Năm B
Sự
Sống xuất phát từ vị Mục
Tử Thần Linh đã yêu thương chiên của mình đến độ
dám hiến mạng sống của mình cho chiên.
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 4,
8-12
"Ơn cứu độ không gặp được ở nơi một
ai khác".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phêrô được đầy
Thánh Thần, đã nói: "Thưa chư vị Thủ lãnh toàn dân và Kỳ lão, xin hãy nghe,
nhân vì hôm nay chúng tôi bị đem ra xét hỏi về việc thiện đã làm cho một
người tàn tật, về cách thức mà con người đó đã được chữa khỏi, xin chư vị và
toàn dân Israel biết cho rằng: Chính nhờ danh Ðức Giêsu Kitô Nadarét, Chúa
chúng ta, Người mà chư vị đã đóng đinh, và Thiên Chúa đã cho từ cõi chết
sống lại, chính nhờ danh Người mà anh này được lành mạnh như chư vị thấy
đây. Chính người là viên đá đã bị chư vị là thợ xây loại ra, đã trở thành
viên Ðá Góc tường; và ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác. Bởi chưng,
không một Danh nào khác ở dưới gầm trời đã được ban tặng cho loài người, để
phải nhờ Danh đó mà chúng ta được cứu độ".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 117, 1
và 8-9. 21-23. 26 và 28cd và 29
Ðáp: Phiến đá mà
những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường (c. 22).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo
tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn
nương tựa ở loài người. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn nương tựa những
bậc quân vương. - Ðáp.
2) Con cảm tạ Chúa vì Chúa đã nghe
con, và đã trở nên Ðấng cứu độ con. Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ,
đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu
trước mắt chúng ta. - Ðáp.
3) Phúc đức cho Ðấng nhân danh Chúa mà
đến, từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa của con
và con cảm tạ Chúa, lạy Chúa con, con hoan hô chúc tụng Ngài. Hãy cảm tạ
Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Ngài muôn thuở. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Ga 3,
1-2
"Người thế nào, chúng ta sẽ thấy
như vậy".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan
Tông đồ.
Các con thân mến, các con hãy coi:
tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là
con cái Thiên Chúa, và sự thật là thế. Vì đó mà thế gian không nhận biết
chúng ta, vì thế gian không biết Người. Các con thân mến, hiện nay, chúng ta
là con cái Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra. Chúng
ta biết rằng: khi được tỏ ra, thì chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế
nào, chúng ta sẽ thấy như vậy.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10, 14
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta
là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta". -
Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10,
11-18
"Mục tử tốt lành thí mạng sống vì
chiên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ta là mục tử
tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là
chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó
bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy
trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên. Ta là mục tử
tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta. Cũng như Cha biết
Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đàn chiên. Ta còn những chiên khác
không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn; chúng sẽ
nghe tiếng Ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên. Vì lẽ này mà Cha
yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống khỏi
Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có
quyền lấy lại. Ðó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Lời Chúa
Nếu Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật IV Phục Sinh Năm A đọc phần Phúc Âm cùng
đoạn 10 của Thánh Gioan nhấn mạnh đến vai trò Chúa Kitô "là cửa
chuồng chiên", thì bài Phúc Âm cho cùng Chúa Nhật IV Năm B này liên
quan đến Chúa Kitô chính là "Chủ Chiên nhân lành", một vị chủ
chiên nhân lành, như Chúa Kitô minh định, thì phải là vị chủ chiên dám "thí
mạng sống vì chiên".
Ở Bài Phúc Âm
hôm nay, cho Chúa Nhật IV của cùng Phúc Âm Thánh Gioan, đoạn 10, như Năm
A và Năm C, về cùng một vị chủ chiên, nhưng là cho Năm B, chúng ta vẫn
thấy Chúa Kitô, như bài Phúc Âm Năm A, so sánh mình là vị "mục tử nhân
lành" với thành phần không phải là chủ chiên đích thực:
"Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của
người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và
làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng
tha thiết gì đến đàn chiên".
Nếu trong bài Phúc Âm Năm A, Chúa Kitô là vị chủ chiên
đích thực khác với, hay không
phải là, thành phần
"kẻ trộm
có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ",
tức thành phần
"không qua cửa mà vào",
thì trong bài
Phúc Âm hôm nay, Người so sánh người là vị chủ chiên đích thực với thành
phần "làm thuê
không phải là chủ chiên", thành phần cũng chẳng hơn
gì thành phần trộm cắp, chỉ gây hại cho chiên hơn là mang lại lợi ích
cho chiên, nhất là
"khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm
chúng tản mát".
Chúa Kitô cố ý sử dụng 2 hình ảnh "kẻ trộm" ở bài Phúc Âm
Năm A và "chăn thuê" ở bài Phúc Âm Năm B là để cho
chúng ta thấy rằng, Người không có tính cách tiêu cực như thế. Bởi "Con
Người đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10), vì
"Con Người đến không phải để được hầu hạ mà là hầu hạ và hiến mạng
sống mình cho phần rỗi của nhiều người" (Mathêu 20:28).
Đồng thời, qua bài Phúc Âm Năm B này, cũng như bài Phúc Âm Năm A về
người chủ chiên đích thực là Người, Người cũng muốn nhắc nhở thành phần
chủ chiên, thành phần có trách nhiệm đến phần rỗi của người khác, chẳng
hạn như thành phần biệt phái và luật sĩ thông luật và dạy luật, những
người bấy giờ đang được Người nhắm tới nói cho biết, nhưng cũng gián
tiếp nhắc khéo các tông đồ là những vị sau này lãnh đạo đàn chiên của
Người, về sứ vụ chăn chiên đích thực, để nhờ đó họ sống động cùng tác
hành xứng đáng đúng với sứ vụ và vai trò giảng dạy "ngồi trên tòa
Moisen / chair of Moses" (Mathêu 23:2) của họ, hay ngồi trên "ngai
tòa Phêrô / Chair of Peter" của các vị giáo hoàng thừa kế Thánh Phêrô,
hay các vị giám mục thừa kế các tông đồ.
Một trong những tính chất chính yếu của vị chủ chiên đích thực, một tính
chất tiên khởi và bất khả thiếu, trước khi vị chủ chiên đích thực, cũng
chính là "vị chủ chiên tốt lành", có thể dám thí mạng sống mình vì
chiên, đó là vị chủ chiên này phải "biết chiên" của mình, và
đồng thời cũng được "chiên biết" tới:
"Ta là
mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta".
"Biết chiên"
nghĩa là không
phải chỉ biết nó là gì và cần chi, mà còn biết thương cảm chiên của mình
nữa, đến độ bị ảm mùi chiên như nó. Không phải hay sao, Chúa Kitô đã
không sống chung đụng với đàn chiên 12 tông đồ của Người, đến độ trở nên
như họ, khiến khó phân biệt được Người với họ, nên muốn bắt Người cần
phải có nội công Giuđa Íchca, với cái hôn làm dấu của người môn đệ đáng
thương này vào Đêm Thứ Năm Tuần Thánh ở trong Vườn Cây Dầu âm u tăm tối
hay sao? (xem Mathêu 26:48-49).
"Chiên biết", bao gồm cả dân ngoại lẫn dân Do Thái, ở chỗ, ngay
khi vị
"Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên" trên Thánh Giá thì con
chiên trộm cướp đã "nhận biết" Người (xem Luca 23:42-43), và cả con
chiên đại đội trưởng Roma dân ngoại đã "nhận biết" Người (xem Luca
23:47), lẫn con chiên dân chúng Do Thái ở hiện trường Canvê bấy giờ cũng
"nhận biết" Người (xem Luca 23:48).
Và lý do chính yếu để Người được "chiên biết", đó là vì Người không làm
theo ý của mình, mà là ý Cha là Đấng đã sai Người: "Vì lẽ này mà Cha
yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống
khỏi Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống". Và nếu "sự sống đời
đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Giêsu Kitô là
Đấng Cha sai" (Gioan 17:3), thì quả thực chính nhờ việc Người tuân
phục mà "khi hoàn thành, Người đã trở nên nguồn mạch cứu độ cho
những ai tín phục Người" (Do Thái 9:28).
Đó cũng là lý do ở Bài Đọc 1, trích từ Sách Tông Vụ hôm nay, Thánh Phêrô
đã khẳng định về vị chủ chiên nhân lành thí mạng sống cho chiên được sự
sống này rằng:
"Chính người là viên đá đã bị chư vị là
thợ xây loại ra, đã trở thành viên Ðá Góc tường; và ơn cứu độ không gặp
được ở nơi một ai khác. Bởi chưng, không một Danh nào khác ở dưới gầm
trời đã được ban tặng cho loài người, để phải nhờ Danh đó mà chúng ta
được cứu độ".
Qua vai trò chủ chiên nhân lành thí mạng sống vì chiên này của Chúa
Kitô, đàn chiên của Người cũng nhận biết được cả Đấng đã sai
Người nữa, bởi sự sống đời đời bao gồm việc nhận biết cả Cha lẫn Con,
như chính Chúa Kitô đã cho các môn đệ của Người biết khi Người dâng
lời nguyện hiến tế và lời cầu hiệp nhất lên Cha của Người vào cuối bữa
tiệc ly, như được trích dẫn trên đây (xem Gioan 17:3),
một vị "Thiên Chúa đã yếu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho
thế gian, để ai tin vào Người thì được sự sống" (Gioan
16:3), đúng như Thánh Gioan đã lập lại trong Thư 1 của ngài
được Giáo Hội chọn đọc cho Bài Đọc 2 hôm nay: "tình yêu của Chúa Cha
đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa,
và sự thật là thế".
Những lời của Thánh Vịnh 117 ở Bài Đáp Ca hôm nay là những tâm tình
tri ân cảm tạ cả Cha lẫn Con mà Kitô hữu chúng ta là đàn chiên của Chúa
trong lòng Giáo Hội cần phải đồng thanh vang lên rằng:
1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo
tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn
nương tựa ở loài người. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn nương tựa những
bậc quân vương.
2) Con cảm tạ Chúa vì Chúa đã nghe
con, và đã trở nên Ðấng cứu độ con. Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ,
đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu
trước mắt chúng ta.
3) Phúc đức cho Ðấng nhân danh Chúa mà
đến, từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa của con
và con cảm tạ Chúa, lạy Chúa con, con hoan hô chúc tụng Ngài. Hãy cảm tạ
Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Ngài muôn thuở.
Năm C
Sự
Sống xuất phát từ vị Mục
Tử Thần Linh đến để
cho chiên của mình có
thể được sự
sống đời đời trường sinh bất tử.
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 13,
14. 43-52
"Ðây chúng tôi quay về phía các dân
ngoại".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba
sang qua Perghê và đến Antiôkia xứ Pisiđia; ngày Sabbat, các ngài vào ngồi
trong hội đường. Có nhiều người Do-thái và tòng giáo theo các ngài, được các
ngài khuyên bảo bền đỗ trong ơn nghĩa Chúa.
Ðến ngày Sabbat sau, hầu hết cả thành
đều đến nghe lời Thiên Chúa. Các người Do-thái thấy đám đông dân chúng, thì
đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy. Phaolô
và Barnaba can đảm nói rằng: "Phải giảng lời Thiên Chúa cho các ngươi trước
tiên, nhưng vì các ngươi từ chối lời Thiên Chúa và tự cho mình không xứng
đáng sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía các dân ngoại; vả lại Chúa
đã truyền lệnh cho chúng tôi rằng: "Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân,
để ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất". Nghe vậy các dân ngoại
hân hoan ca tụng lời Chúa; những ai được Chúa tiền định hưởng sự sống đời
đời, thì tin theo, nên lời Chúa được rao giảng khắp cả vùng.
Những người Do-thái xúi giục các phụ
nữ khá giả đã tòng giáo và các thân hào trong thành bắt bớ Phaolô và
Barnaba, rồi trục xuất hai ngài ra khỏi ranh giới xứ họ. Còn hai ngài, sau
khi phủi bụi chân lại cho họ, hai ngài đi đến Icôniô. Còn các môn đồ thì đầy
hân hoan và Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 99, 2.
3. 5
Ðáp: Ta là dân
tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi (c. 3c).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy phụng sự Chúa với niềm
vui vẻ; hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá. - Ðáp.
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa,
chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người, ta là
dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi. - Ðáp.
3) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo,
lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn muôn
thế hệ. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Kh 7,
9. 14b-17
"Chiên Con sẽ thống trị họ, và dẫn
họ đến nguồn nước ban sự sống".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan, đã xem thấy một đám đông
không thể đếm được, họ thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc và tiếng nói,
đứng trước ngai vàng và trước Con Chiên; họ mặc áo trắng dài, tay cầm lá vạn
tuế.
Và một bô lão đã nói với tôi: "Ðây là
những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy nó trắng trong máu
Con Chiên. Vì thế, họ ở trước ngai vàng Thiên Chúa, và ngày đêm phụng sự
Người trong đền thánh Chúa, Ðấng ngự trên ngai vàng đặt ở giữa họ. Họ sẽ
không còn đói khát; mặt trời và nóng bức sẽ không làm khổ họ, vì Con Chiên
đứng trước ngai vàng sẽ thống trị họ, sẽ dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống,
và Thiên Chúa sẽ lau hết mọi giọt lệ nơi mắt họ.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10, 14
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta
là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta". -
Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10,
27-30
"Ta ban cho các chiên Ta được sống
đời đời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Chiên
Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống
đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng
khỏi tay Ta. Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không
ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là một".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Lời Chúa
Sự
Sống xuất phát từ vị Mục
Tử Thần Linh đến để
cho chiên của mình có
thể được sự
sống đời đời trường sinh bất tử.
Bài đọc 1 (Tông
Vụ 13:14,43-52) - Sự sống
xuất phát từ vị Mục Tử Thần Linh qua thành phần tông đồ thừa
sai như Thánh Phaolô và Barnabê:
"Ta đặt ngươi
làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận
cùng trái đất".
Bài đọc 2 (Khải
Huyền 7:9,14b-17) - Sự sống xuất phát từ vị Mục Tử Thần Linh
cho những ai chiến thắng:
"Họ
là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy
nó trắng trong máu Con Chiên".
Phúc Âm (
Gioan 10:27-30): "Khi
ấy, Chúa Giêsu phán rằng: 'Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết
chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ
không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi
tay Ta. Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và
không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là
một'".
Hình ảnh
chiên được Chúa Kitô nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa
Nhật Chúa Chiên Lành, cũng như trong Tuần IV Phục Sinh, là hình
ảnh của thành phần được cứu rỗi. Bởi vì, chiên được liệt kê ở
bên phải (khác với dê ở bên trái) của Vị Thẩm Phán Chung Thẩm
(xem Mathêu 25:33), và chiên cũng là hiện thân của "Chiên
Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian" (Gioan 1:29), một con
chiên hiền lành bị dẫn đi sát tế (xem Isaia 53:7; 1Phero
1:19-20).
Chiên là hiện thân của Vị Mục Tử nhân lành vì như chủ chiên của
nó bị mang đi sát tế thế nào thì nó cũng là thành phần bị sát
hại như thế, như nó đã được giặt áo của mình trong máu của Con
Chiên, mnhư Bài Đọc 2 hôm nay cho thấy (xem Khải Huyền 7:14).
Chiên có một bản tính hiền lành dễ dạy trước sự lành, bảo sao
nghe vậy: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta", nhưng lại hoàn
toàn chịu thua trước kẻ dữ, ở chỗ không phản ứng lại với kẻ dữ
là những con sói rừng cắn xé nó.
Thế nhưng, chính vì chiên của Chúa Kitô là thành phần được cứu
rỗi, thành phần được Người
hằng quan tâm lưu ý và yêu thương cùng chăm sóc: "Ta
biết chúng", nên "không
ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta"; hơn
nữa, sở dĩ Người "biết
chúng" những con chiên rất ư là cao trọng và
cao quí của Người, như
chính sinh mạng của Người, bởi chúng từ
Cha mà đến: "Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao
trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta".
Và chính vì những gì của Cha cũng chính là
của Người: "Ta và Cha Ta là một", nên
Người không thể nào để mất một con nào: "Tôi đến để tìm kiếm
và cứu vớt những gì đã hư vong" (Luca 19:10), trái lại,
Người phải tìm kiếm cho bằng được con chiên lạc cuối cùng (xem
Luca 15:4-5), cho dù có phải thí mạng sống mình vì chiên (xem
Gioan 10:11).
Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật thứ 4 Năm C Lễ Chúa Chiên Lành hôm nay
được Giáo Hội soạn dọn rất ăn khớp với nhau, căn cứ vào câu đầu tiên của
bài Phúc Âm ngắn ngủi: "Chiên
Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta".
"Chiên Ta thì nghe tiếng Ta": Để
biết được đâu là chiên của Chúa thì đặc tính đầu tiên và trên hết của nó
đó là biết "nghe tiếng" chủ chiên của mình. Nếu không biết nghe tiếng
chủ chiên của mình thì thật sự không phải là chiên của Chúa, như ngay
trước câu đầu tiên của bài Phúc Âm hôm nay chính Người đã khẳng định với
những người Do Thái đang nghe Người bấy giờ rằng: "Quí vị không chịu tin
Tôi vì quí vị không phải là chiên của Tôi" (10:26). Như thế, "nghe
tiếng" chủ chiên là đặc tính của chiên đây chính là tin vào Người, chứ
không phải chỉ nghe về thể lý như thành phần thính giả Do Thái lúc ấy
trong hội đường Carpanaum.
Đặc tính "chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi" đây, không phải chỉ nghe trực
tiếp từ Người, mà còn nghe qua thành phần môn đệ tông đồ được Người sai
đi làm thành phần chứng nhân tiên khởi của Người nữa. Bởi vì những gì
các vị loan báo và giảng dạy về Người với thẩm quyền Người ban đều có
tính cách Truyền Thống từ chính Người (xem Mathêu 16:19; 18:20). Và đó
là lý do chúng ta thấy trong Sách Tông Vụ ở Bài Đọc 1 hôm nay một sự
kiện hoàn toàn đối chọi nhau giữa "chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi" và "quí
vị không phải là chiên của Tôi" rất tỏ tường nơi thái độ của những ai
nghe theo Thánh Phaolô cùng những ai không như sau:
"Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba sang qua Perghê và đến
Antiôkia xứ Pisiđia; ngày Sabbat, các ngài vào ngồi trong hội đường. Có
nhiều người Do-thái và tòng giáo theo các ngài, được
các ngài khuyên bảo bền đỗ trong ơn nghĩa Chúa.
"Ðến ngày Sabbat sau, hầu
hết cả thành đều đến nghe lời Thiên Chúa. Các
người Do-thái thấy đám đông dân chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng
ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy. Phaolô và Barnaba can
đảm nói rằng: Phải giảng lời Thiên Chúa cho các ngươi trước tiên, nhưng
vì các ngươi từ chối lời Thiên Chúa và tự cho mình không xứng đáng sống
đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía các dân ngoại; vả lại Chúa đã
truyền lệnh cho chúng tôi rằng: 'Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân,
để ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất'. Nghe vậy các
dân ngoại hân hoan ca tụng lời Chúa; những ai được Chúa tiền định
hưởng sự sống đời đời, thì tin theo, nên lời Chúa được rao giảng khắp cả
vùng.
"Những
người Do-thái xúi giục các phụ nữ khá giả đã tòng giáo và các thân hào
trong thành bắt bớ Phaolô và Barnaba, rồi trục xuất hai ngài ra khỏi
ranh giới xứ họ. Còn hai ngài, sau khi phủi bụi chân
lại cho họ, hai ngài đi đến Icôniô. Còn các môn đồ thì đầy hân hoan và
Thánh Thần".
"Ta biết chúng": Vị
Chủ Chiên là Chúa Kitô đã thực sự "biết chiên" của mình như thế nào, nếu
không phải như chính Người đã xác nhận trong bài Phúc Âm hôm nay: "Ta
cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai
có thể cướp được chúng khỏi tay Ta. Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao
trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và
Cha Ta là một".
Trước hết Người biết chiên của Người ở chỗ họ nghe tiếng của Người, họ
tin vào Người; sau nữa, Người biết chiên của Người ở chỗ Người ban cho
họ là thành phần xứng đáng và hội đủ điều kiện để "được sống đời đời";
và sau hết, Người biết chiên của Người là tất cả những gì Cha Người ban
cho Người, trao cho Người và Người cần phải trân trọng và quí mến, như
chính Cha quí mến họ vậy: "Ðiều
mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp
được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là một".
Chính vì "Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả" mà "chúng
sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay
Ta". Cho dù họ có là thành phần lên án Người như Hội Đồng Đầu Mục Do
Thái cùng đám dân chúng vừa tung hô Người vào thành Jerusalem liền hùa
theo thành phần lãnh đạo hô hoán "đóng đanh nó vào thập giá", dù họ có
phản nộp Người như tông đồ Giuđa Íchca, dù họ có chối bỏ Người như tông
đồ Phêrô, dù họ có lên án tử cho một con người vô tội như Người đúng như
tổng trấn Philatô đã nhận thức mà còn cố tình sát hại Người, và dù họ có
là những tên lý hình của đế quốc Roma tàn nhẫn hành hạ và đóng đanh
Người vào thập tự giá v.v. Vì, đối với Chúa Kitô Khổ Giá là tất cả LTXC
thì "họ lầm không biết việc mình làm" (Luca 23:34).
"Chúng theo Ta": Vâng,
nếu đặc tính chính yếu làm nên thành phần chiên được cứu độ, tức thành
phần được chủ chiên biết đến và ban cho họ sự sống đời đời như thế, thì
thành phần chiên được sự sống này còn ở chỗ "theo" chủ chiên nữa, theo
đúng "sự sống" thần linh vô cùng "viênmãn" (Gioan 10:10) họ được thông
hưởng và chia sẻ. Nhờ đó, như một cành nho đã sinh trái được cắt tỉa cho
càng sinh trái hơn (xem Gioan 15:2), họ mới chứng thực Chúa Kitô sống
trong họ và Người tiếp tục mang ơn cứu độ đến cho những con chiên của
Người trong suốt giòng lịch sử nhân loại, cho đến khi Người lại đến
trong vinh quang để phán xét kẻ sống (là chiên) và kẻ chết (là dê) trong
cuộc Chung Thẩm cánh chung (xem Mathêu đoạn 25).
Và thành phần chiên "theo" chủ chiên này đã được Sách Khải Huyền của
Thánh Gioan, trong Bài Đọc 2 hôm nay diễn tả như thành phần đẫm máu như
chủ chiên của mình, ở chỗ "Họ tinh tuyền và theo Con Chiên đến những
nơi Con Chiên tới" (Khải Huyền 14:4):
"Tôi là Gioan, đã xem thấy một đám đông không thể đếm được, họ thuộc
mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc và tiếng nói, đứng trước ngai vàng và
trước Con Chiên; họ mặc áo trắng dài, tay cầm lá vạn tuế. Và một bô lão
đã nói với tôi: "Ðây là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt
áo và tẩy nó trắng trong máu Con Chiên. Vì thế, họ ở trước ngai vàng
Thiên Chúa, và ngày đêm phụng sự Người trong đền thánh Chúa, Ðấng ngự
trên ngai vàng đặt ở giữa họ. Họ sẽ không còn đói khát; mặt trời và nóng
bức sẽ không làm khổ họ, vì Con Chiên đứng trước ngai vàng sẽ thống trị
họ, sẽ dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống, và Thiên Chúa sẽ lau hết mọi
giọt lệ nơi mắt họ".
Thứ Hai
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 11,
1-18
"Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại
ơn ăn năn sám hối để được sống".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, các tông đồ và
anh em ở Giuđêa nghe tin rằng cả dân ngoại cũng đã đón nhận lời Thiên Chúa.
Khi Phêrô lên Giêrusalem, các người đã chịu cắt bì trách móc người rằng:
"Tại sao ngài vào nhà những kẻ không chịu cắt bì và ăn uống với họ?" Phêrô
trình bày cho họ sự việc từ đầu đến cuối theo thứ tự sau đây: "Tôi đang ở
tại thành Gióp-pê, lúc cầu nguyện, trong một thị kiến, tôi thấy một vật gì
giống chiếc khăn lớn túm bốn góc, từ trời thả xuống sát bên tôi. Tôi chăm
chú nhìn và thấy những con vật bốn chân, những mãnh thú, rắn rết và chim
trời. Tôi nghe tiếng phán bảo tôi: "Phêrô, hãy chỗi dậy giết mà ăn". Tôi
thưa: "Lạy Chúa, không được, vì con không khi nào bỏ vào miệng con những đồ
dơ nhớp hay bẩn thỉu". Tiếng từ trời nói lần thứ hai: "Vật gì Thiên Chúa cho
là sạch, ngươi đừng nói là dơ nhớp". Ba lần xảy ra như thế, và mọi sự lại
được kéo lên trời.
"Và ngay lúc đó, ba người từ Cêsarêa
được sai đến nhà tôi ở. Thánh Thần truyền dạy tôi đừng ngần ngại đi với họ.
Sáu anh em cùng đi với tôi, và chúng tôi vào nhà một người. Anh thuật lại
cho chúng tôi biết: anh đã thấy thiên thần hiện ra thế nào; thiên thần đứng
trong nhà anh và nói với anh rằng: "Hãy sai người đến Gióp-pê tìm Simon có
tên là Phêrô; người sẽ dạy ngươi những lời có sức làm cho ngươi và cả nhà
ngươi được cứu độ". Lúc tôi bắt đầu nói, Thánh Thần ngự xuống trên họ như
ngự trên chúng ta lúc ban đầu. Bấy giờ tôi nhớ lại lời Chúa phán: "Gioan đã
rửa bằng nước, còn các con, các con sẽ được rửa bằng Thánh Thần". Vậy, nếu
Thiên Chúa ban cho họ cũng một ơn như đã ban cho chúng ta, là những kẻ tin
vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà có thể ngăn cản Thiên Chúa?"
Nghe những lời ấy, họ thinh lặng và ca
tụng Thiên Chúa rằng: "Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn ăn năn
sám hối để được sống".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 41, 2.
3; 42, 3. 4
Ðáp: Hồn con khát
Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống (Tv 41, 3a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Như nai rừng khát mong nguồn
nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi. - Ðáp.
2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời
hằng sống; ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời! - Ðáp.
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân
thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung
lâu của Ngài. - Ðáp.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa,
đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ, con
sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúng con biết
rằng Ðức Kitô đã thật sự sống lại từ cõi chết: Lạy Vua chiến thắng, xin
thương xót chúng con. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10,
1-10
"Ta là cửa chuồng chiên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật,
Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo
vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ
chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ
ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên
mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy.
Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen
tiếng người lạ".
Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ
không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo
thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là
trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ
được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến
thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng
được sống và được sống dồi dào".
Ðó là lời Chúa.
Trong Năm
A, bài Tin Mừng dưới đây được đọc thay bài Tin Mừng trên:
Phúc Âm: Ga 10,
11-18
"Mục tử tốt lành thí mạng sống vì
chiên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ta là mục tử
tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là
chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó
bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy
trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên. Ta là mục tử
tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta. Cũng như Cha biết
Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đàn chiên. Ta còn những chiên khác
không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn; chúng sẽ
nghe tiếng Ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên. Vì lẽ này mà Cha
yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống khỏi
Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có
quyền lấy lại. Ðó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Lời Chúa
Chủ đề
"Thày là sự sống"
theo chiều kích Mục Tử Thần Linh cho Tuần IV Phục Sinh chẳng những được tỏ
hiện rõ ràng ở bài Phúc Âm Chúa Nhật, cũng được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên
Lành, bài phúc âm cho cả ba chu kỳ phụng vụ A, B và C, mà còn cho cả các
bài đọc ở các ngày thường trong tuần lễ này nữa. Rõ ràng nhất là bài Phúc Âm
cho ngày Thứ Hai hôm nay, cũng chính là bài Phúc Âm cho Chúa Nhật IV Năm A
hôm trước, bài Phúc Âm được chính Chúa Kitô khẳng định Người chẳng những là
cửa đàn chiên mà còn đến để mang lại sự sống cho chiên nữa:
"Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến
trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà
vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm
có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho
chúng được sống và được sống dồi dào".
Trong bài phúc âm hôm nay, ở phần đầu, Chúa
Giêsu còn cho thấy các đặc tính chứng tỏ ai là mục tử đích thực, ai là kẻ trộm
cướp phá hoại nữa:
1- "qua cửa mà vào
chuồng chiên",
chứ không
"trèo
vào lối khác"
như
"kẻ trộm cướp",
không phải mục tử; 2- nhờ đó, họ "được
người giữ cửa mở cho và chiên nghe theo tiếng của kẻ ấy"; 3-
và vì là mục
tử chân thực nên họ biết chiên của họ, đến độ có thể "gọi đích
danh từng con chiên của mình mà dẫn ra",
nghĩa là họ để ý đến từng
con chiên của mình để chăm sóc cho từng trường hợp của mỗi con; 4- "Khi
lùa chiên ra ngoài thì kẻ ấy đi trước chiên",
chứ không đi sau chiên,
như để canh chừng chiên hơn là tin tưởng chiên, vì
"đi
trước chiên"
có nghĩa là làm gương cho chiên và mở đường dẫn lối cũng như sẵn sàng liều
mình che chở bảo vệ chiên trước tất cả mọi nguy khốn dù có phải hiến mạng sống
mình cho chiên được sống.
Tuy nhiên, nếu bài Phúc Âm trên đây đã được đọc trong Chúa Nhật IV theo chu kỳ
Phụng Vụ Năm A thì có thể đọc bài Phúc Âm của Chúa Nhật IV Năm B, một bài phúc
âm cũng vẫn theo chủ đề
“Thày là sự sống”,
nhưng liên quan đến bản chất nhân lành của vị mục tử:
"Ta là mục tử tốt lành. Mục tử
tốt lành thí mạng sống mình vì chiên...
Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta".
Căn cứ vào hai câu Chúa
Giêsu nói về Người là vị mục tử tốt lành, thì vị mục tử tốt lành cần 2 yếu tố
bất khả thiếu và bất khả phân ly, đó là dám chết vì chiên, cũng như chẳng những
biết chiên mà còn được chiên biết đến nữa. Chỉ có những vị mục tử nào biết chiên
và được chiên biết đến mới dám liều mạng sống mình vì chiên.
Tuy nhiên, nếu biết chiên mà không được chiên biết thì cũng không phải hay chưa
phải là mục tử tốt lành, bởi chưa biết chiên thực sự, hay chỉ biết những cái xấu
của chiên để mà sửa phạt, chứ không thông cảm và nâng đỡ, hoặc biết những cái
tốt của chiên nhưng lại không sử dụng, trái lại, còn coi thường và tẩy chay, chỉ sợ mất uy tín
của mình v.v.
Một vị chủ chiên tốt lành thì được chiên mộ mến lắng nghe, tuy nhiên, nếu vị chủ
chiên ấy lợi dụng lòng mộ mến của chiên để mà cạnh tranh với các chủ chiên khác,
hay đàn áp những con chiên dám nói thẳng những gì cần được xây dựng chính đáng,
hoặc tỏ ra bất tuân phục thẩm quyền của mình, hay nể nang mị dân không dám dẫn
dắt chiên theo đúng tinh thần và đường lối của Chúa v.v., thì cũng chỉ là những
chủ chiên tốt lành giả hình, mang tinh thần của kẻ trộm cướp mà thôi, và chắc
chắn sẽ không dám liều mạng sống vì chiên.
Bài Đọc I (Tông
Vụ 11:1-18):
Nếu trong bài Phúc Âm, Chúa Kitô là
"cửa chuồng chiên",
tức là vị mục tử gương mẫu, mà nếu ai không
"qua cửa mà vào",
nghĩa là không theo gương Người mà chăn chiên
"đều là trộm cướp",
phá hoại chiên, thì hành động của Tông Đồ Phêrô trong bài đọc I hôm nay cũng quả
thực là ngài đã
"qua cửa mà vào",
chứ không bị thành kiến Do Thái giáo ngăn chặn không cho ngài đến với dân ngoại:
"Khi
Phêrô lên Giêrusalem, các người đã chịu cắt bì trách móc người rằng: 'Tại sao
ngài vào nhà những kẻ không chịu cắt bì và ăn uống với họ?' Phêrô trình bày cho
họ sự việc từ đầu đến cuối theo thứ tự sau đây: '... ngay
lúc đó, ba người từ Cêsarêa được sai đến nhà tôi ở. Thánh Thần truyền dạy tôi
đừng ngần ngại đi với họ. Sáu anh em cùng đi với tôi, và chúng tôi vào nhà một
người. Anh thuật lại cho chúng tôi biết: anh đã thấy thiên thần hiện ra thế nào;
thiên thần đứng trong nhà anh và nói với anh rằng: 'Hãy sai người đến Gióp-pê
tìm Simon có tên là Phêrô; người sẽ dạy ngươi những lời có sức làm cho ngươi và
cả nhà ngươi được cứu độ'".
Nếu Chúa Kitô là Mục Tử Thần Linh đến cho chiên được sự sống và là một sự sống
viên mãn thì vị tông đồ được Người trao cho sứ vụ Mục Tử Thần Linh thay
Người chăn dắt chiên của Người (xem Gioan 21:15-17), vì đã
"qua cửa mà vào chuồng chiên",
cũng làm cho chiên được sự sống và sự sống viên mãn, đúng như bài đọc 1 cho
thấy:
"Lúc
tôi bắt đầu nói, Thánh Thần ngự xuống trên họ như ngự trên chúng ta lúc ban đầu.
Bấy giờ tôi nhớ lại lời Chúa phán: 'Gioan đã rửa bằng nước, còn các con, các con
sẽ được rửa bằng Thánh Thần'. Vậy, nếu Thiên Chúa ban cho họ cũng một ơn như đã
ban cho chúng ta, là những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà có thể
ngăn cản Thiên Chúa?' Nghe những lời ấy, họ thinh lặng và ca tụng Thiên Chúa
rằng: 'Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn ăn năn sám hối để được
sống'".
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 11,
19-26
"Họ cũng rao giảng Chúa Giêsu cho
người Hy-lạp".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, vì cơn bách hại
xảy ra nhân dịp Têphanô bị giết, có nhiều người phải sống tản mác, họ đi đến
Phênixê, Cyprô và Antiôkia, họ không rao giảng lời Chúa cho một ai ngoài
những người Do-thái. Nhưng một ít người trong họ quê ở Cyprô và Xyrênê; khi
đến Antiôkia, họ cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người Hy-lạp nữa. Và tay Chúa
ở với họ; nên có đông người tin trở về với Chúa. Tin đó thấu tai Hội Thánh
Giêrusalem, nên người ta sai Barnaba đến Antiôkia. Khi đến nơi và thấy việc
ơn Chúa thực hiện, ông vui mừng và khuyên bảo mọi người hãy vững lòng tin
nơi Chúa; Barnaba vốn là người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin. Và có
đoàn người đông đảo tin theo Chúa. Vậy Barnaba đi Tarxê tìm Saolô. Gặp được
rồi, liền đưa Saolô về Antiôkia. Cả hai ở lại tại Hội Thánh đó trọn một năm,
giảng dạy cho quần chúng đông đảo; chính tại Antiôkia mà các môn đồ lần đầu
tiên nhận tên là Kitô hữu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 86, 1-3.
4-5. 6-7
Ðáp: Hỡi muôn dân,
hãy ngợi khen Chúa (Tv 116, 1a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chúa yêu cơ sở Ngài thiết
lập trên núi thánh; Ngài yêu cửa nhà Sion hơn mọi cư xá nhà Giacóp. Hỡi
thành trì của Thiên Chúa, thiên hạ đang nói những điều hiển hách về ngươi. -
Ðáp.
2) Ta sẽ kể Rahab và Babel vào số
người thờ phượng Ta, kìa Philitinh, Tyrô và dân Êthiôpi: những người này đã
sinh ra tại đó. Và thiên hạ sẽ nói về Sion rằng: "Riêng từng người và hết
mọi người đã sinh tại đó, chính Ðấng Tối Cao đã củng cố thành này". - Ðáp.
3) Chúa sẽ ghi chép vào sổ sách của
chư dân rằng: "Những người này đã sinh ra tại đó". Và khi ca vũ, người ta sẽ
ca rằng: "Mọi nguồn vui thú của tôi đều ở nơi ngươi". - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúa Kitô, Ðấng
tác tạo mọi loài, đã sống lại và đã xót thương nhân loại. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10,
22-30
"Tôi và Cha Tôi là một".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, người ta mừng lễ Cung Hiến tại
Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. Chúa Giêsu đi bách bộ tại đền thờ, dưới cửa
Salômôn. Người Do-thái vây quanh Người và nói: "Ông còn để chúng tôi thắc
mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Ðức Kitô, thì xin ông nói rõ cho chúng tôi
biết". Chúa Giêsu đáp: "Tôi đã nói với các ông mà các ông không tin. Những
việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về Tôi. Nhưng các ông không tin,
vì các ông không thuộc về đàn chiên tôi. Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi
biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ
không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. Ðiều
mà Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp
được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Lời Chúa
Khía cạnh
"Mục Tử Thần Linh"
trong chủ đề
"Thày là sự sống"
trong Mùa Phục Sinh hậu Tuần Bát Nhật Phục Sinh cũng vẫn tiếp tục được tỏ hiện
trong bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Ba trong Tuần IV Phục Sinh. Ở chỗ, Chúa Kitô cho
biết lý do tại sao chiên của Người cao quí đến độ xứng đáng để Người thí mạng
sống mình cho chiên, đó là vì chiên chẳng những ngoan hiền ở chỗ nhận biết Người
và theo Người mà nhất là vì chiên thuộc về Cha của Người là Đấng đã trao chúng
cho Người nữa:
"Khi
ấy, người ta mừng lễ Cung Hiến tại Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. Chúa Giêsu
đi bách bộ tại đền thờ, dưới cửa Salômôn. Người Do-thái vây quanh Người và nói:
'Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Ðức Kitô, thì xin ông
nói rõ cho chúng tôi biết'. Chúa Giêsu đáp: 'Tôi đã nói với các ông mà các ông
không tin. Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về Tôi. Nhưng
các ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn
chiên tôi. Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi.
Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không
ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. Ðiều mà Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao
trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi
là một'".
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành, đã minh định
chiên của Người có bản chất và khuynh hướng tự nhiên ra sao, đó là "nghe
tiếng Tôi (tức tin vào Người) và theo Tôi", bởi thế, những ai
không nghe tiếng Người, hay "không tin" vào Người, như Người đã nói
thẳng vào mặt dân Do Thái bấy giờ "không tin" Người nên "không
thuộc về đàn chiên của Tôi".
Ở đây Chúa Giêsu không hất hủi một ai, nhất là thành phần được Cha của Người
tuyển chọn làm dân riêng, một dân tộc Người mang huyết thống khi hóa thành
nhục thể. Người chỉ nói rằng họ vì không tin nên "không thuộc (đúng
hơn chưa thuộc) về đàn chiên của Tôi" thôi, cho đến khi họ tin thì
họ sẽ thuộc về đàn chiên của Người, và hành động đầy thiện chí của họ trong
việc theo đuổi tìm hiểu về nguồn gốc của Người cho bằng được, như ở đầu bài
Phúc Âm hôm nay cho thấy:
"Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Ðức Kitô, thì
xin ông nói rõ cho chúng tôi biết", đã đủ chứng tỏ họ muốn tin Người,
cần Người nhẫn nại tỏ mình ra cho họ, theo cách thức mù tối và cứng lòng của
họ để nhờ đó họ có thể tin vào Người.
Riêng đối với chiên của Người, nghĩa là đối với
những ai tin vào Người và theo Người, thì như Người quả quyết: 1- "Tôi
ban cho chúng sự sống đời đời", một sự sống thần linh liên quan đến mầu
nhiệm nhập thể của Người, ở chỗ "ai chấp nhận Người, thì Người ban cho
họ được quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12); 2- "Chúng sẽ không
bao giờ hư mất", một hứa hẹn thần linh liên quan đến mầu nhiệm tử giá,
ở chỗ: "Vì họ mà Con tự thánh hiến để họ được thánh hóa trong chân lý"
(Gioan 17:19); và 3- "Không ai có thể cướp chúng khỏi tay Tôi", một
quyền lực thần linh liên quan đến mầu nhiệm phục sinh của Người, bởi vì "Thày
được toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18).
Thật vậy, "chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi", thế nhưng, nếu "chúng
theo Tôi", thì chúng còn cần phải được "Tôi biết chúng" nữa.
Bởi vì, tự bản chất hiền lành của mình, chiên của Người cũng dễ bị sói dữ ăn
thịt, nếu không có Người luôn ở với chúng, ở chỗ "biết chúng", như
tỏ ra quan tâm đến chúng, đến từng nhu cầu của chúng, tỏ ra chăm sóc
cho chúng, bằng cách đáp ứng nhu cầu của chúng, và sẵn sàng đi tìm kiếm
chúng, một khi chúng bị lạc đàn.
Đời sống của Kitô hữu là một hành trình đức tin là như thế: trước hết ở chỗ
"nghe tiếng Tôi" khi lãnh nhận Phép Rửa tái sinh; sau nữa ở chỗ
được Đấng biết họ, "Tôi biết chúng" thông ban sự sống thần linh cho:
"Vị Chủ Chiên nhân lành đến cho chiên được sống và sống viên mãn"
(Gioan 10:10), và sau hết, ở chỗ, "chúng theo Tôi" để truyền đạt sự
sống thần linh viên mãn nơi mình nhờ được hiệp thông thần linh với Cây Nho
là Chúa Kitô (xem Gioan 15:4), như trường hợp của tông đồ Phêrô được Chúa
Kitô là Đấng ủy thác cho ngài sứ vụ chăn dắt các chiên con chiên mẹ cho kèm
theo số phận hy sinh cho chiên thì được Người kêu gọi "Hãy theo Thày"
(Gioan 21:19).
Bài Đọc I (Tông
Vụ 11:19-26):
Nếu trong bài Phúc Âm Chúa Kitô đã khẳng định tính chất của thành phần chiên của
Người là "Chiên
Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi", mà "các
ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn chiên tôi", thì
thành phần dân ngoại Hy Lạp ở Antiôkia trở lại theo lời rao giảng của những
ai đã tin theo Chúa Kitô nhờ lời rao giảng của các tông đồ sau biến cố Hiện
Xuống ở Giêrusalem, nhất là của nhị vị Barnabê và Phaolô, mà nếu so với đa
số dân Do Thái và riêng thành phần lãnh đạo giáo quyền của họ đã tỏ ra hết
sức cứng lòng tin, cho dù có được đích thân Chúa Kitô rao giảng và tỏ mình ra,
thì thành phần dân ngoại Hy Lạp này quả thực đúng là "Chiên
Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi":
"Trong những ngày ấy, vì cơn bách hại xảy ra nhân dịp Têphanô bị giết, có nhiều
người phải sống tản mác, họ đi đến Phênixê, Cyprô và Antiôkia, họ không rao
giảng lời Chúa cho một ai ngoài những người Do-thái. Nhưng một ít người trong họ
quê ở Cyprô và Xyrênê; khi đến Antiôkia, họ cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người
Hy-lạp nữa. Và tay Chúa ở với họ; nên có đông người tin trở về với Chúa. Tin đó
thấu tai Hội Thánh Giêrusalem, nên người ta sai Barnaba đến Antiôkia. Khi đến
nơi và thấy việc ơn Chúa thực hiện, ông vui mừng và khuyên bảo mọi người hãy
vững lòng tin nơi Chúa; Barnaba vốn là người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng
tin. Và có đoàn người đông đảo tin theo Chúa. Vậy Barnaba đi Tarxê tìm Saolô.
Gặp được rồi, liền đưa Saolô về Antiôkia. Cả hai ở lại tại Hội Thánh đó trọn một
năm, giảng dạy cho quần chúng đông đảo; chính tại Antiôkia mà các môn đồ lần đầu
tiên nhận tên là Kitô hữu".
THÁNH DAMIEN ở đảo MOLOKAI (Hawaii) (1840 – 1889)
Thánh Damien, tên thật là Giuse “de Veuster”, sinh ở Bỉ ngày 3 tháng
Giêng 1840, trong một gia đình mà cha là một nông dân cần cù và bà mẹ
tận tụy dạy dỗ đức tin cho tám người con.
Ngay từ nhỏ, cậu Giuse mạnh khỏe và tráng kiện, đã phải thôi học để giúp
cha trong công việc đồng áng. Cậu chăm chỉ giúp đỡ gia đình trong nhiều
năm, nhưng tâm hồn cậu vẫn ở một nơi nào đó. Vào lúc 19 tuổi, theo gương
anh mình, Giuse gia nhập Tu Hội Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria, và lấy
tên là Damien. Vì nhất quyết theo đuổi việc học và để hết tâm hồn trong
đời sống tu trì, chẳng bao lâu Damien đã bù đắp được sự thiếu hụt trong
việc giáo dục trước đây.
Vào năm 1863, Cha Pamphile, anh ruột của Thầy Damien, chuẩn bị đến quần
đảo Hạ Uy Di trong công tác truyền giáo. Nhưng cha lâm bệnh nặng, và
Thầy Damien tình nguyện thế chỗ. Sau năm tháng dòng dã trên biển, thầy
đến hải cảng Honolulu. Trong vòng hai tháng tiếp đó, thầy được thụ phong
linh mục và được bổ nhiệm phục vụ ở Ðại Ðảo của Hạ Uy Di. Sự phục vụ của
Cha Damien được ghi nhận là hăng say và tính tình dễ dãi của ngài thu
hút được nhiều người. Sau khoảng một thập niên, ngài tình nguyện đến
Molokai để phục vụ các người bị mắc bệnh Hansen, thường gọi là bệnh cùi.
Vào lúc Cha Damien đến đây, những người mắc bệnh cùi bị đầy ra đảo này
đã hơn mười năm qua.
Cha Damien, lúc ấy 33 tuổi, đến Molokai vào tháng Năm 1873 với hành
trang là cuốn sách kinh và một ít quần áo. Theo dự định ban đầu của tu
hội, ngài chỉ ở đây một vài tháng rồi sau đó có các linh mục khác lần
lượt ra thay thế. Nhưng sau khi đến đây được ít lâu, ngài đã viết thư
xin cha bề trên cho phép ngài vĩnh viễn ở lại Molokai.
Có thể nói, ngài sống với người cùi — ăn uống với họ, đụng chạm đến họ,
chào đón họ. Cha Damien được giao cho trông coi một cộng đồng Công Giáo.
Hàng ngày, cha như chìm đắm trong sự cầu nguyện, suy gẫm và đọc sách
thiêng liêng, do đó ngài lôi cuốn được hàng trăm người trở lại đạo.
Nhưng tâm hồn của cha vẫn ở với tất cả các nạn nhân của bệnh Hansen, dù
Công Giáo hay không Công Giáo. Ngài chăm sóc người bệnh, mai táng kẻ
chết, lắng nghe những tâm sự đau lòng. Ngài giúp cải tiến hệ thống dẫn
nước cũng như nơi ăn ở của họ. Ngài trông coi việc xây cất một trường
học, một cô nhi viện và tổ chức sinh hoạt thiếu nhi cũng như ca đoàn.
Ngài là người đào huyệt cũng như chủ sự lễ an táng.
Người ta không rõ khi nào thì Cha Damien bị lây bệnh cùi, nhưng chắc
chắn là một ngày trong năm 1884 khi ngài bị phỏng ở chân mà không thấy
đau. Căn bệnh tấn công ngài như bất cứ người nào khác: từ từ, chân tay
và mặt mũi ngài biến dạng, tai ngài sưng to và méo mó. Vào ngày 15 tháng
Tư 1889, ngày thứ Hai Tuần Thánh, căn bệnh đã chấm dứt cuộc đời Cha
Damien, khi mới 49 tuổi. Lúc ấy được 16 năm sau khi ngài đến Molokai, và
25 năm kể từ khi ngài đến Hạ Uy Di để bắt đầu công việc truyền giáo.
Thánh Đamiên trên giường bệnh, vị tông đồ tận hiến đời mình cho Chúa và
cho người cùi tại đảo Molokai, Honolulu, Hawaii, U.S.A.
Trong những ngày cuối đời, Cha Damien được Mẹ Bề Trên Marianne Cope chăm
sóc, là người đã hứa sẽ tiếp tục công việc mà cha đã khởi sự. Và Sơ đã
thể hiện điều đó trong 30 năm kế tiếp với sự cộng tác của các Sơ trong
tu hội.
Theo lời yêu cầu, ngài được chôn cất ở Kalaupapa, nhưng vào năm 1936,
chính phủ Bỉ đã thành công trong việc đưa thi hài của ngài về Bỉ. Một
phần thân thể của Cha Damien được đưa về Hạ Uy Di sau lễ phong chân
phước năm 1995.
Khi Hạ Uy Di trở thành một tiểu bang của Hoa Kỳ, tiểu bang này đã chọn
Cha Damien là một trong hai đại diện của quốc gia có tượng đặt trong
Statuary Hall ở trụ sở Quốc Hội Hoa Kỳ.
Lời Trích: Trong
bài giảng lễ tuyên chân phước, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Sự
thánh thiện không phải là sự tuyệt hảo theo tiêu chuẩn con người; sự
thánh thiện cũng không dành riêng cho một ít người đặc biệt. Sự thánh
thiện là cho mọi người; chính Chúa là người đưa chúng ta đến sự thánh
thiện khi chúng ta sẵn sàng cộng tác trong công trình cứu độ thế giới vì
sự vinh hiển của Thiên Chúa, bất kể tội lỗi của chúng ta hay tính khí
bất thường của chúng ta.”
Sưu tầm: P. Mai Tự Cường
https://davangvn.wordpress.com/2019/05/10/10-5-kinh-thanh-da-mien-o-molokai-1840-1889-tong-do-nguoi-cui/
https://www.phimconggiao.com/hanh-cac-thanh-thang-4/xem-phim/6845
Giuse “Jép” Vơstơ sinh năm 1840, là con trai của một gia đình nông dân gốc
Bỉ. Ngài và người anh trai, Pamphilê, đi tu dòng Hai Thánh Tâm. Công việc
của các vị thừa sai này là rao giảng đức tin Công giáo trên vùng đảo Hawai.
Jép lấy tên là “Đamien”. Dung mạo thầy Đamien cao to và lực lưỡng. Những năm
phụ giúp gia đình chăm lo công việc đồng áng đã tạo cho Đamien có một vóc
dáng khỏe mạnh như vậy. Mọi người đều quý mến Đamien vì ngài sống tốt lành
và nhân hậu.
Người ta đang cần thêm nhiều nhà truyền
giáo tại lãnh địa Hawai. Năm 1863, một nhóm linh mục và tu sĩ dòng Hai Thánh
Tâm được cử đi. Pamphilê, anh trai của Đamien, được chọn. Ngay trước ngày
lên đường, Pamphilê bị sốt thương hàn nên không thể thực hiện được sứ mệnh
truyền giáo. Thầy Đamien đang học làm linh mục đã xin thay thế vào chỗ của
người anh. Cha bề trên tổng quyền chấp thuận lời thỉnh cầu của Đamien. Sau
đó, Đamien trở về nhà và âu yếm từ biệt gia đình của ngài. Rồi, Đamien vượt
tàu từ Bỉ đến Hawai, một cuộc hành trình kéo dài 18 tuần lễ. Ít lâu sau,
Đamien hoàn tất việc học hành và được thụ phong linh mục tại Hawai. Ngài
trải qua 8 năm sống giữa những cư dân thuộc ba huyện. Cha Đamien dùng ngựa
hoặc thuyền nhỏ để làm phương tiện đi lại.
Dân chúng yêu quý vị linh mục cao to và
giàu lòng quảng đại này. Đamien cũng nhận thấy họ năng thưa đáp kinh nguyện
trong các nghi lễ. Sau đó, Đamien dùng một số tiền nhỏ quyên góp được để xây
cất những nguyện đường. Chính Đamien và các bổn đạo đã tự xây lấy những
nguyện đường này. Nhưng chẳng mấy chốc, phần đời đặc biệt nhất của Đamien
được khai mở. Đức Giám mục xin một linh mục tình nguyện tới đảo Môlôkai. Chỉ
ngay cái tên thôi cũng đủ làm cho người ta khiếp hãi. Họ biết rằng một khu
của hòn đảo tên Kalagao chính là một “bãi tha ma sống” của những người chết
vì bệnh phong hủi. Họ chẳng hiểu gì về căn bệnh và rất sợ bị lây nhiễm đến
nỗi phần lớn những bệnh nhân phong ở đay đã bị bỏ rơi. Nhiều người đã tuyệt
vọng hoàn toàn. Không có linh mục, không có cơ quan đại diện thi hành luật
pháp Môlôkai, không có những phương tiện thuận lợi cho việc chăm sóc sức
khỏe. Chính phủ Hawai có gởi một ít thực phẩm và thuốc men tới đây nhưng
chẳng đáng kể gì! Cũng chẳng có những phương tiện tổ chức phân phát thực
phẩm hàng hóa!
Cha Đamien đi Môlôkai. Ngài quyết đương
đầu với sự nghèo khổ, hư hóa và thất vọng. Lắm lúc, Đamien dường như bị sốc,
nhưng rồi Đamien quyết không bao giờ quay về. Dân chúng đang rất cần sự giúp
đỡ. Đamien đi tới Honolulu để gặp những thành viên trong Ủy ban Chăm sóc sức
khỏe. Họ nói với Đamien rằng ngài không thể trở lại Môlôkai nữa vì có thể sẽ
bị lây bệnh. Chủ đích thật của họ chỉ là không muốn cho Đamien đến Môlôkai
vì ngài đang gây ra quá nhiều vấn đề khó khăn cho họ. Vì vậy, Đamien phải
chọn : Nếu trở về Môlôkai, ngài sẽ không thể đi được nữa! Nhưng Ủy ban Chăm
sóc sức khỏe không hiểu Đamien. Ngài đã chọn đi Môlôkai.
Đamien làm việc suốt 18 năm cho tới khi
qua đời tại Môlôkai. Với sự trợ giúp của các bệnh nhân phong hủi và các anh
chị em thiện nguyện quảng đại, Môlôkai đã được biến đổi hoàn toàn. Tên
“Môlôkai” giờ đây mang một ý nghĩa mới. Nó trở thành hòn đảo của lòng bác ái
Kitô giáo.
Rồi, chính cha Đamien cũng bị lậy bệnh.
Cha qua đời ngày 15/04/1889 vào độ tuổi 49, và cha được chôn cất tại đó.
Đến năm 1994, Đamien Môlôkai được Đức
Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong lên hàng chân phước, và
ĐTC Biển Đức XVI đã tôn phong hiển thánh cho ngài năm 2009.
Chúng ta hãy nài xin chân phước Đamien Môlôkai ban cho chúng ta một chút
lòng can đảm và hào hiệp của ngài. Còn có quá nhiều người đang cần đến tình
yêu và sự nâng đỡ của chúng ta. Chân phước Đamien Môlôkai sẽ giúp chúng ta
hành động với niềm vui tươi và với trái tim nhân ái của ngài.
https://thanhcavietnam.net/ThieuNhi/showthread.php?t=3307&page=3
- Tên khai sinh: JOSEP DE VEUSTER.
- Sinh: ở Tremelo, Belgique, ngày 3/01/1840.
- 1859: gia nhập Dòng Sacrés-Coeurs (gọi là Picpus).
- 1863: được sai đi Hawai.
- 1864: thụ phong Linh Mục ở Honolulu.
- 10/05/1873: đến trại phong Molokai, và ở đó cho tới khoảng cuối năm 1884
thì ngài phát hiện mình bị lây bệnh khi chăm sóc các bệnh nhân cùi.
- Về với Chúa: 15/04/1889 ở Molokai (Hawai)
- Ðược Ðức Gio-an Phao-lô 2 phong Chân Phước ngày 4/06/1995 tại Bruxelles,
Bỉ.
- Lễ kính: ngày 10 tháng 5 hàng năm.
JOSEPH DE VEUSTER sinh trong một gia đình người Bỉ nói tiếng Flamand, tại
làng Tremelo, năm 1840. Song thân ngài vừa là nông dân, vừa làm nghề buôn
bán. Ngài là con thứ bảy trong 8 người con, mà sau này có bốn người đi tu.
Ngài theo chân một trong các anh của ngài vào Dòng Thánh Tâm Chúa Giê-su và
Mẹ Ma-ri-a (Les Sacrés Coeurs de Jésus et de Marie) và lấy tên là DAMIEN.
Ngài có lòng yêu mến tôn thờ Thánh Thể và tôn sùng Ðức Trinh Nữ Ma-ri-a. Với
ngài, truyền giáo chính là làm cho mọi người biết và yêu mến Chúa Giê-su
Tình Yêu. Từ nhiệt tâm truyền giáo, vị Tu Sĩ trẻ đã gửi thỉnh nguyện trực
tiếp tới Bề Trên Tổng Quyền và nhận được phép đi đến một Ðiểm Truyền Giáo
mới lập ở Hawai, thay cho anh ngài bị bệnh. Ngài không chờ thụ phong Linh
Mục, mà lên đường ngay.
Ở Honolulu, chính quyền tập trung tất cả những bệnh nhân phong ở đảo Molokai
và Cha Damien (thụ phong Linh Mục năm 1864) được chọn giữa những người tình
nguyện khác để bảo đảm sự hiện diện của Linh Mục trong hoả ngục tuyệt vọng
và khốn khổ ấy, như "một nhà tù lộ thiên" (Thời đó, người ta vẫn nghĩ bệnh
cùi dễ lây và phải cách ly các bệnh nhân). Ngài không chịu nổi cảnh đau khổ
của các bệnh nhân. Ngài tổ chức đời sống đạo đức, xã hội và huynh đệ trong
hòn đảo bị xã hội khai trừ này. Ngài xây dựng một bệnh viện phong, một
trường học và một Nhà Thờ. Dần dần, khắp nơi biết đến và gửi cho ngài nhiều
hỗ trợ vật chất. Một mình ở giữa các bệnh nhân phong, ngài đau khổ vì không
thể xưng tội. Ngài liên đới với các bệnh nhân phong (mà ngài thích xưng là:
"Những Người Cùi Của Chúng Tôi") và mặc dầu đã cẩn thận phòng ngừa, đến lượt
ngài cũng bị lây bệnh phong.
Ngài mất vào ngày thứ 2 Tuần Thánh, 15/04/1889, trong khi ngài những ước ao
có thể chết vào ngày mừng Chúa Sống Lại. Ngài rất nổi tiếng ở Châu Âu và ở
Mỹ. Ngay Mahatma Gandhi cũng rất ngạc nhiên và thán phục tinh thần yêu mến
và xả thân của ngài cho người phong cùi. Ngài được Ðức Thánh Cha Gio-an
Phao-lô 2 tuyên phong Chân Phước ngày 4 tháng 6 năm 1995 tại Bruxelles, Bỉ
và thi hài của ngài được mai táng ở Cung Thánh Thánh Ðường Les Sacrés Coeurs
ở Louvain, Bỉ. Ngài xứng đáng được gọi là "Tông Ðồ Của Người Cùi".
http://vntaiwan.catholic.org.tw/thanh/10thanh5.htm
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 12,
24 - 13, 5a
"Hãy dành Saolô và Barnaba riêng
cho Ta".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, lời Chúa được lan
rộng và tiến triển. Nhưng Barnaba và Saolô, sau khi hoàn tất sứ mạng, đã rời
Giêrusa-lem, đem theo Gioan cũng gọi là Marcô.
Bấy giờ trong Hội Thánh Antiôkia có
những tiên tri và tiến sĩ, trong số đó có Barnaba, Simon cũng gọi là Nigê,
Luxiô người thành Xyrênê, Manahê bạn của vua Hêrôđê lúc còn thơ ấu, và
Saolô. Ðang khi các ông làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần
phán bảo các ông rằng: "Hãy để riêng Saolô và Barnaba cho Ta, để làm công
việc mà Ta đã chỉ định". Vậy sau khi ăn chay cầu nguyện, họ đặt tay trên hai
ông và tiễn đưa hai ông lên đường.
Ðược Thánh Thần sai đi, hai ông xuống
Xêlêucia, rồi từ đó vượt biển sang Cyprô. Khi đến Salamina, hai ông rao
giảng lời Chúa trong các hội đường Do-thái.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 66, 2-3.
5. 6 và 8
Ðáp: Chư dân, hãy
ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (c. 4).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Xin Thiên Chúa xót thương và
chúc phúc lành cho chúng con, xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn
nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư
dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ. - Ðáp.
2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ,
vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. - Ðáp.
3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy
Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài. Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho
chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúa Kitô đã
sống lại và chiếu soi chúng ta, là những kẻ Người đã cứu chuộc bằng máu của
Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 12,
44-50
"Ta là sự sáng đã đến thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu lớn tiếng nói rằng:
"Ai tin vào Ta thì không phải là tin vào Ta, nhưng là tin vào Ðấng đã sai
Ta. Và ai thấy Ta là thấy Ðấng đã sai Ta. Ta là sự sáng đã đến thế gian, để
bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm. Nếu ai nghe lời Ta
mà không tuân giữ, thì không phải chính Ta xét xử người ấy, vì Ta đã đến
không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian. Ai khinh dể Ta,
và không chấp nhận lời Ta, thì đã có người xét xử: lời Ta đã nói sẽ xét xử
người ấy trong ngày sau hết. Bởi vì Ta đã không tự mình nói ra, nhưng Cha là
Ðấng sai Ta, chính Người đã ra lệnh cho Ta phải nói gì và phải công bố gì.
Và Ta biết rằng lệnh của Người là sự sống đời đời. Những điều Ta nói, thì Ta
nói theo như Cha đã dạy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Lời Chúa
Chủ đề
"Thày là sự sống"
về khía cạnh Mục Tử Thần Linh cho Tuần IV Phục Sinh vẫn còn được thấy tỏ hiện
trong bài Phúc Âm của Thứ Tư trong Tuần IV Phục Sinh hôm nay. Ở chỗ, Vị Mục Tử
Thần Linh là Chúa Kitô đây, sở dĩ yêu thương chiên của mình đến độ hiến mạng
sống của mình cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn chẳng những vì chiên thuộc về
Cha là chính Đấng đã trao chiên cho Người mà còn vì Người là Đấng Thiên
Sai thật
sự, Đấng vì được Cha sai nên luôn chỉ làm theo ý của Cha, đúng như những gì Cha
muốn và cách thức Cha muốn, như Người đã tự chứng về bản thân Người với dân Do
Thái trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Ai
tin vào Ta thì không phải là tin vào Ta, nhưng là tin vào Ðấng đã sai Ta. Và ai
thấy Ta là thấy Ðấng đã sai Ta. ... Bởi vì Ta đã không tự mình nói ra,
nhưng Cha là Ðấng sai Ta, chính Người đã ra lệnh cho Ta phải nói gì và phải công
bố gì. Và Ta biết rằng lệnh của Người là sự sống đời đời. Những điều Ta nói, thì
Ta nói theo như Cha đã dạy".
Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta
còn thấy một điều rất quan trọng nữa, đó là nguyên tắc phán xét tối hậu, ở
chỗ, Thiên Chúa là tình yêu vô cùng nhân hậu, chỉ biết yêu thương - "đến
độ đã ban Con Một mình" (Gioan 3:16), chỉ biết bày tỏ tình yêu của mình
ra "cho đến cùng" (Gioan 13:1), cho đến hết cỡ - "không dung
tha cho Con Một của Ngài, một phó nộp Người vì tất cả chúng ta" (Rôma 8:32),
như ánh sáng không thể nào không soi chiếu như bản chất tự nhiên của mình,
còn những gì được ánh sáng soi chiếu có tiếp nhận ánh sáng hay chăng, hoặc
có được thừa hưởng ánh sáng hay chăng là tùy ở những thứ ấy. Đó là lý do
Chúa Giêsu Kitô đã khẳng định và tuyên bố với thành phần thính giả nghe
Người rằng:
"Ta
là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong
sự tối tăm.
Nếu ai nghe lời Ta mà không tuân giữ, thì không phải chính Ta xét xử
người ấy, vì Ta đã đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu độ thế
gian. Ai khinh dể Ta, và không chấp nhận lời Ta, thì đã có người xét xử: lời
Ta đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết".
Do đó, để có thể dung hòa giữa 2 thái cực chủ trương một là có Lòng Thương
Xót Chúa hai là có hỏa ngục chứ không thể nào có cả hai, hãy căn cứ vào
nguyên tắc trong bài Phúc Âm hôm nay ngay trên đây. Nghĩa là có cả hai:
Thiên Chúa không thể nào không yêu thương, không thương xót, vì đó là bản
tính của Ngài, và kẻ nào không chấp nhận tình yêu thương vô cùng nhân hậu
của Ngài thì tự họ bị hư đi, và chính tình yêu vô cùng nhân hậu bất diệt của
Thiên Chúa sẽ trở thành hình phạt cho họ đời đời trong hỏa ngục, nơi họ chỉ
còn khóc lóc và nghiến răng, khóc lóc vì đau khổ và nghiến răng vì hận mình
(hơn là hối hận)
nhưng đã quá muộn.
Kinh nghiệm làm người cũng đã cho thấy điều ấy. Ở chỗ, một khi con người
chối bỏ lương tâm, thì chính lương tâm nơi họ sẽ trở thành quan án của họ và
cắn rứt họ, đến độ họ không thể nào chịu được, có trường hợp phải tự ra đầu
thú để bớt ray rứt lương tâm cho dù có bị tù đầy khổ sở xác thân và cuộc
đời. Khi chết cũng vậy, chính lương tâm là tòa phán xét con người, và tự
mình họ biết họ đi về đâu: Thiên Đàng hay hỏa ngục.
Bài Đọc I (Tông
Vụ 12:24 - 13:5a):
Theo gương Mục Tử Thần Linh là
"cửa chuồng chiên", đến chỉ làm
theo ý muốn của Đấng đã sai mình, thành phần môn đệ trung thực của Người cũng
luôn tuân theo tác động thần linh mà Thánh Thần của Đấng Phục Sinh và Thăng
Thiên đã ban cho họ và sai đến với họ để Người có thể ở cùng họ cho đến tận thế
(xem Mathêu 28:20), và qua họ tiếp tục vai trò Mục Tử Thần Linh của Người nơi
dân ngoại, chẳng hạn qua nhị vị Saolô và Barnabê ở Antiôkia trong bài đọc một
hôm nay:
"Bấy
giờ trong Hội Thánh Antiôkia có những tiên tri và tiến sĩ, trong số đó có
Barnaba, Simon cũng gọi là Nigê, Luxiô người thành Xyrênê, Manahê bạn của vua
Hêrôđê lúc còn thơ ấu, và Saolô. Ðang khi các ông làm việc thờ phượng Chúa và ăn
chay, thì Thánh Thần phán bảo các ông rằng: 'Hãy để riêng Saolô và Barnaba cho
Ta, để làm công việc mà Ta đã chỉ định'. Vậy sau khi ăn chay cầu nguyện, họ đặt
tay trên hai ông và tiễn đưa hai ông lên đường. Ðược Thánh Thần sai đi, hai ông
xuống Xêlêucia, rồi từ đó vượt biển sang Cyprô. Khi đến Salamina, hai ông rao
giảng lời Chúa trong các hội đường Do-thái".
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 13,
13-25
"Bởi dòng dõi Ðavít, Thiên Chúa đã
ban Ðức Giêsu làm Ðấng Cứu Ðộ".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Rời Paphô, Phaolô và các bạn vượt biển
đến Perghê xứ Pamphy-lia; còn Gioan từ biệt các ngài, và trở về Giêrusalem.
Hai ngài sang qua Perghê và đến Antiôkia xứ Pisiđia; ngày Sabbat, các ngài
vào ngồi trong hội đường. Sau khi đọc sách luật và các tiên tri, những thủ
lãnh nhà hội đường sai người đến nói với các ngài rằng: "Hỡi anh em, nếu ai
trong anh em có lời khuyên bảo dân chúng, xin hãy nói".
Phaolô đứng lên, giơ tay ra hiệu cho
mọi người yên lặng và nói: "Hỡi người Israel và những kẻ kính sợ Thiên Chúa,
hãy nghe đây. Thiên Chúa dân Israel đã chọn Tổ phụ chúng ta, Người đã thăng
tiến dân Người khi họ còn cư ngụ trong nước Ai-cập và Người ra tay mạnh mẽ
đưa cha ông chúng ta ra khỏi nước ấy. Trong thời gian bốn mươi năm, Người
chịu đựng thói xấu họ trong hoang địa; và sau khi đã tiêu diệt bảy dân tộc
trong đất Canaan, Người đã cho họ chiếm đất của các dân tộc ấy gần bốn trăm
năm mươi năm; và sau đó, Người ban cho họ các thẩm phán cho đến tiên tri
Samuel. Kế đó, họ xin một nhà vua và Thiên Chúa cho Saolê, con ông Cis,
thuộc chi họ Bengiamin, cai trị họ bốn mươi năm. Sau khi loại bỏ Saolê, Chúa
đã đặt Ðavít lên làm vua dân Người, để chứng nhận điều đó, chính Người đã
phán: "Ta đã gặp được Ðavít con của Giêsê, người vừa ý Ta, người sẽ thi hành
mọi ý muốn của Ta".
"Bởi dòng dõi Ðavít, theo lời hứa,
Thiên Chúa ban cho Israel Ðức Giêsu làm Ðấng Cứu Ðộ, Ðấng mà Gioan đã báo
trước khi người đến rao giảng phép rửa thống hối cho toàn dân Israel. Khi
Gioan hoàn tất hành trình, ngài tuyên bố: "Tôi không phải là người mà anh em
lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày
dưới chân Người".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 88, 2-3.
21- 22. 25 và 27
Ðáp: Lạy Chúa, con
sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Con sẽ ca ngợi tình thương
của Chúa tới muôn đời; qua mọi thế hệ, miệng con loan truyền lòng trung
thành Chúa. Vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời", trên
cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.
2) Ta đã gặp Ðavít là tôi tớ của Ta.
Ta đã xức dầu thánh của Ta cho người, để tay Ta bang trợ người luôn mãi, và
cánh tay Ta củng cố thân danh người. - Ðáp.
3) Thành tín và ân sủng của Ta hằng ở
với người, và nhân danh Ta, sức mạnh người tăng thêm mãi. Chính người sẽ
thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Tảng Ðá cứu độ của con". -
Ðáp.
Alleluia: Mt 28, 19
và 20
Alleluia, alleluia! - Các con hãy đi
giảng dạy muôn dân: Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. -
Alleluia.
Phúc Âm: Ga 13,
16-20
"Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón
nhận Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Sau khi đã rửa chân các môn đệ, Chúa
Giêsu phán với các ông: "Thật, Thầy bảo thật các con: Tôi tớ không trọng hơn
chủ, kẻ được sai không trọng hơn đấng đã sai mình. Nếu các con biết điều đó
mà thực hành thì có phúc. Thầy không nói về tất cả các con, vì Thầy biết
những kẻ Thầy đã chọn, nhưng lời Thánh Kinh sau đây phải được ứng nghiệm:
Chính kẻ ăn bánh của Ta sẽ giơ gót lên đạp Ta. Thầy nói điều đó với các con
ngay từ bây giờ, trước khi sự việc xảy đến, để một khi xảy đến, các con tin
rằng: Thầy là ai. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là
đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Ðấng đã sai Thầy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Lời Chúa
Khía cạnh
"Mục Tử Thần Linh"
của chủ đề
"Thày là sự sống"
trong Tuần Thứ IV Phục Sinh tiếp tục được chất chứa trong bài Phúc Âm của Thứ
Năm hôm nay. Ở chỗ Chúa Kitô tỏ mình ra cho các tông đồ biết "Ta
là cửa chuồng chiên... Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người
ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân...Ta đến để cho chúng được sống và được
sống dồi dào", khi
Người phục vụ các vị là chiên của Người bằng cách rửa chân cho các vị, và vì
thế, để vào "qua cửa chuồng chiên"
là Người thì các tông đồ cũng phải noi
gương bắt chước Người thì mới thực sự phản ảnh vai trò Mục Tử Thần Linh của
Người, nhờ đó mới mang lại cho chiên sự sống và là sự sống viên mãn.
"Sau
khi đã rửa chân các môn đệ, Chúa Giêsu phán với các ông: 'Thật, Thầy bảo thật
các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ, kẻ được sai không trọng hơn đấng đã sai
mình. Nếu các con biết điều đó mà thực hành thì có phúc...Thật, Thầy bảo thật
các con: Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón
nhận Ðấng đã sai Thầy".
Nếu Tuần IV Phục Sinh được mở đầu bằng bài Phúc Âm Chúa
Nhật về vị mục tử nhân lành là Chúa Giêsu Kitô, và ở riêng Phúc Âm Năm C được mở
đầu bằng câu "Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo tôi",
thì bài Phúc Âm trong suốt tuần IV Phục Sinh này cũng vẫn chất chhứa vị mục tử
nhân lành này cùng với chiên của Người. Chẳng hạn như bài Phúc Âm được Giáo Hội
chọn đọc cho Thứ Năm Tuần IV Phục Sinh hôm nay, như sau:
"Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi", tuy nhiên,
tự mình, chiên không thể nghe tiếng chủ chiên nếu chủ chiên không lên tiếng
gọi, và đó là lý do ngay sau đó mới có câu: "Tôi biết chúng", nghĩa
là "Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi" bởi vì "Tôi biết chúng",
Tôi yêu thương chúng, bằng việc tỏ mình ra cho chúng, từng con một, tùy theo
hoàn cảnh và bản chất của từng con, để chúng có thể "nghe tiếng Tôi",
tức nhận biết Tôi mà "theo Tôi".
Chính vì thế, để làm cho "chiên Tôi thì nghe
tiếng Tôi", Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho đàn chiên nhỏ là 12 vị tông đồ
bấy giờ ở Nhà Tiệc Ly bằng việc rửa chân cho các vị, một cử chỉ phục vụ các
vị, vì Người "biết" các vị, thành phần chẳng những bất toàn, bẩn thỉu nhất
là về tâm hồn liên quan đến luân lý, mà còn không biết mình về tâm linh nữa,
nên Người đã phải thanh tẩy các vị, nhờ đó các vị mới xứng đáng dự phần với
Người, nghĩa là hiệp nhất nên một với Người, khiến nhân loại nhận biết Chúa
Kitô nơi các vị và qua các vị.
Đó là lý do Chúa Giêsu đã nói với các vị trong bài
Phúc Âm hôm nay rằng: "Nếu các con biết điều đó mà thực hành thì có
phúc". Có nghĩa là khi thấy việc Chúa rửa chân cho mình như thế, theo
chiều hướng của "chiên thì nghe tiếng" chủ chiên, thì thành phần chiên môn
đệ của Chúa sẽ "theo" Chúa, sẽ áp dụng "thực hành" theo như gương phục vụ
của Thày mình. Tuy nhiên, chính vì "Tôi biết chiên Tôi", như chính
Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Thầy
biết những kẻ Thầy đã chọn" , mà Người
đã ám chỉ người môn đệ bất hạnh Giuđa, một con chiên chẳng
những không nghe tiếng chủ chiên khi thấy chính Thày của mình rửa chân cho
mình, mà trái lại, thậm chí còn "giơ chân lên đạp" vào Thày của
mình nữa.
Căn cứ vào nội dung và ý nghĩa sâu xa của biến cố
rửa chân nói chung và tình tiết được Thánh ký Gioan trình thuật thì việc
Chúa Giêsu rửa chân cho chung các tông đồ liên quan đặc biệt đến Giuda. Bởi
vì Giuđa, ở cả 3 bản liệt kê 12 tông đồ, người môn đệ Giuda bất hạnh này bao
giờ cũng ở cuối cùng như bàn chân trong toàn bộ cơ cấu thân thể tông đồ đoàn
có tông đồ Phêrô bao giờ cũng được liệt kê đầu tiên, và vì thế nên Chúa
Giêsu đã trả lời cho vị trưởng tông đồ đoàn này là "không phải tất cả
các con đều sạch cả đâu... chỉ cần rửa chân thôi".
Chính vì là chiên của Chúa trong toàn bộ đàn chiên
tông đồ đoàn, mà tông đồ Giuđa cũng được Người thương - "Người thương
cho đến cùng" (Gioan 13:1) đây ám chỉ vị môn đệ này...
Bài Đọc I (Tông
Vụ 13:13-25):
Đúng
thế, vai trò Mục Tử Thần linh của Chúa Kitô Thiên Sai đã được tiếp nối bởi những
ai được Người tuyển chọn và sai đi, thành phần như Người khẳng định trong bài
phúc âm là
"Ai đón nhận kẻ Thầy sai,
là đón nhận Thầy", vì họ đã
'"qua cửa chuồng chiên" là
chính Người mà vào, nghĩa là đã noi gương bắt chước tinh thần phục vụ của
Người, ở chỗ chỉ lo cho lợi ích của chiên, hơn là của mình, đến độ sẵn lòng hy
sinh cho chiên được sống, nhờ đó, lời chứng đầy thâm tín của họ trở thành khả
tín và có sức thuyết phục, như trường hợp của Tông Đồ Phaolô ở Antiôkia trong
bài đọc thứ nhất hôm nay:
"Phaolô đứng lên, giơ tay ra hiệu cho mọi người yên lặng và nói: 'Hỡi người
Israel và những kẻ kính sợ Thiên Chúa, hãy nghe đây... Bởi dòng dõi Ðavít, theo
lời hứa, Thiên Chúa ban cho Israel Ðức Giêsu làm Ðấng Cứu Ðộ, Ðấng mà Gioan đã
báo trước khi người đến rao giảng phép rửa thống hối cho toàn dân Israel. Khi
Gioan hoàn tất hành trình, ngài tuyên bố: 'Tôi không phải là người mà anh em lầm
tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân
Người'".
Ngày 12 tháng 5
BA THÁNH Tử
ĐẠO NÊRÊÔ, ACHILÊÔ VÀ PANCRATIÔ
I. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ.
Những gì chúng ta biết về hai vị tử đạo Nêrêô,
Achilêô của
thế kỷ thứ nhất là từ các lời chứng của Thánh Giáo Hoàng Damasus trong thế
kỷ thứ tư, và được ghi khắc trên tấm bia để tưởng nhớ các ngài. Và sự việc
này chỉ xảy ra sau cái chết của các ngài đến 300 năm.
Ðức Damasus kể rằng Nêrêô
và Achilêô là binh
lính của đạo quân Rôma và nhiệm vụ của họ là bách hại người Kitô Giáo. Có
lẽ các ngài chẳng có lý do gì để chống đối đạo và cũng chẳng muốn đổ máu
người vô tội, nhưng họ tuân lệnh chỉ vì sợ chết. Nói cho cùng, đó là nhiệm
vụ của một người lính.
Chúng ta không rõ hai ngài đã trở lại đạo như thế nào, chỉ biết đó là một “phép
lạ đức tin.” Sau
phép lạ này, hai ngài quăng vũ khí và trốn ra khỏi trại, vứt bỏ áo giáp và
gươm đao để mặc lấy đời sống mới trong Ðức Kitô. Vì đã từng là những kẻ bách
hại, có lẽ các ngài biết rõ hơn ai hết về sự đau khổ đang chờ đợi người
Kitô. Tuy nhiên, đức tin đã chiến thắng sự sợ hãi cái chết, và sự chiến
thắng của đức tin là sự ngọt ngào nhất mà các ngài chưa bao giờ được cảm
nghiệm.
Chúng ta biết là các ngài đã tử đạo, nhưng Ðức Damasus không cho biết chi
tiết như thế nào. Sau này, truyền thuyết nói rằng các ngài phục vụ dưới
quyền bà Flavia Domitilla, là cháu gái của Hoàng Ðế Domitianô, và đã bị lưu đày và
bị hành quyết cùng với bà khi chính bà này trở lại đạo. Truyền thuyết này có
lẽ phát xuất từ sự kiện là hai ngài đã được chôn cất trong một hầm mộ được
gọi là nghĩa trang Domitilla.
Còn thánh Pancratiô sinh
tại Phygia, trong một gia đình quý tộc. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, ngài về chung
sống với một người cậu tại Rome. Năm 14 tuổi, ngài trở thành tín hữu và đem
hết của cải cho người nghèo khổ. Do ngài sống đức tin Công giáo nên hoàng đế
Diocletianô đã chém đầu thánh nhân vào năm 304. Xác ngài được đem về chôn
cất trên đường Aurelianô. Ðức Giáo Hoàng Symmacô đã xây một thánh đường tại
đó để tôn vinh danh ngài. Thánh Grêgôriô thành Tours gọi ngài là “Ðấng trừng
phạt những kẻ bội thề”, bởi ai đứng trước mộ ngài mà thề gian thề dối đều bị
Chúa phạt.
II. BÀI HỌC.
Bài học rõ nét nhất về cuộc đời của các ngài là lòng can đảm dám hy sinh vì
niềm tin của mình.
Cuộc sống đức tin đã đến với các ngài như một phép lạ. Phải nói đúng là một
phép lạ vì trước đó các ngài là những người hoàn
toàn thuộc về thế gian, thậm chí tay các ngài còn nhúng chàm khi nghe theo
những mệnh lệnh của thế gian mà gây ra những sự chết chóc đau thương cho
những người tin Chúa. Các ngài đã có kinh nghiệm rất cụ thế về sự đau đớn
các vị tử đạo đã phải chịu.Thế nhưng khi đã tin Chúa thì vì tình yêu đối với
Chúa các ngài đã nhìn những đau khổ khi phải chịu vì Chúa trở nên nhẹ nhàng
và đáng quí đến nỗi các ngài dám chấp nhận mọi hy sinh để được trung thành
với đức tin của mình.
Vào cuối năm 1949, trong một nhà nguyện của một đại chủng viện ở Nam Kinh,
thủ đô Trung Hoa Dân quốc của tổng thống Tưởng Giới Thạch, lúc đó có một
buổi diễn tập đám cưới: Đây chưa phải là đám cưới thật, nhưng hôm trước đám
cưới, cô dâu chú rể, phù dâu, phù rể tham dự buổi diễn tập để khi làm lễ
chính thức họ không bị lúng túng, ngượng nghịu.
Nhưng ngay tối hôm đó, Hồng quân của Mao Trạch Đông tiến vào Nam Kinh, chiếm
đóng đại chủng viện và bắt nhiều sinh viên, trong số đó có chú rể, đem giam
vào trại tập trung với một lý do đơn giản là những người này có tội với nhà
nước vì tin nhận Chúa Cứu Thế và đi học đại chủng viện để truyền bá Phúc âm.
Từ đó, cứ mỗi năm một lần, chính quyền cho phép cô dâu vào thăm chú rể ít
phút. Sau khi cho cô dâu vào thăm chú rể, nhân viên cơ quan công lực đến nói
với chú rể rằng: “Anh có thể được trả tự do ngay bây giờ và được chính quyền
cho phép làm đám cưới nếu anh bằng lòng chối bỏ Chúa của anh”. Thanh niên
này không ngần ngừ và chỉ trả lời bằng một tiếng ngắn gọn: “Không!”.
Cảnh đó diễn ra suốt 30 năm trời. Cứ mỗi năm một lần cô dâu được vào thăm
chú rể ít phút, rồi cô câu hỏi:
- Anh có bằng lòng bỏ Chúa anh không? Nếu anh bỏ, anh sẽ được tự do, được
cưới vợ...
Và lần nào cũng chỉ có một câu trả lời là “không!”.
Trong 30 năm đó, chú rể từ một thanh niên trẻ trung, khỏe mạnh, đã trở thành
một người già, lưng đã còng xuống vì liên tục lao động, vì điều kiện sinh
sống kham khổ, nhưng niềm tin vào Chúa Cứu Thế của ông vẫn không lay chuyển.
Đến năm 1979, chính sách của Trung Hoa lục địa thay đổi chú rể già này được
trả tự do, được phép qua Hong Kong sinh sống và một đám cưới đã được tổ chức
ở Hong Kong. Có người đến thăm, hỏi ông:
- Tại sao ông có thể trung kiên với Chúa suốt 30 năm trời bị ngược đãi, áp
bức, đau khổ như vậy?.
Ông đáp: - Chúa Cứu Thế đã hy sinh chịu chết vì tôi, làm sao tôi có thể phản
bội Ngài được?. (ĐTPA).
Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện :
Lạy Chúa
Đã hai ngàn năm nay, lượn sóng tình thương của Chúa đã lôi kéo biết bao
nhiêu người về với Chúa, nào có ai đã được người ta yêu mến bằng Chúa?
Hàng triệu Đấng Tử đạo đổ máu mình trong những hình khổ quái gở, miệng vẫn
tươi cười, lòng vẫn hớn hở, vì họ được phước kể vào hàng ngũ kẻ xứng đáng
chịu đau khổ vì danh Thánh Chúa.
Hằng triệu thầy cả, thầy dòng, thừa sai đã hy sinh tất cả để được nên giống
Chúa và đã hy sinh trót mình họ một cách hoàn toàn như Chúa đã hy sinh vì
Chúa Cha và cho các linh hồn.
Và biết bao nhiêu giáo hữu luôn cương quyết xông pha trong cuộc chiến đấu
hằng ngày của đời sống Công giáo. Chỉ vì họ yêu mến Chúa.
Trung thành với lời thề hứa ngày rửa tội, họ đã từ bỏ tội lỗi, đã đóng đinh
mọi khuynh hướng tội lỗi hầu sống trong ơn thánh và Phục sinh với Chúa.
Ở Giêsu Kitô, con thấy Chúa còn tự đắc lắm, vì không ai dưới trần thế này
được người ta yêu mến quá như vậy, yêu mến với một mối tình sống động phát
hiện ở việc làm, lời nói, cách ăn ở, với một tấm lòng mạnh hơn mọi cơn cám
dỗ, mạnh hơn mọi sự đau khổ và mạnh hơn cả sự chết nữa.
Giêsu, xin hãy lôi cuốn con theo lượn sóng tình yêu ấy. Xin Chúa nói trong
tâm hồn con: Chúa đáng mọi sự ấy và còn đáng hơn nữa bội phần…
E. Maraux
https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-12-05-thanh-nereroakileo-va-pancrasio-tu-dao-39973
Thánh Nêrô và thánh Akilêô là những binh sĩ Rôma qua đời khoảng năm 304. Có
thể các ngài là những vệ sĩ của hoàng đế Rôma dưới thời vua Trajanô. Chúng
ta không được biết nhiều chi tiết về các ngài. Thế nhưng những điều chúng ta
biết được là do hai vị giáo hoàng Sirisiô và Đamasô sống vào thế kỷ thứ tư
kể lại. Vào năm 398, đức giáo hoàng Sirisiô đã xây một ngôi thánh đường ở
Rôma để tôn kính các ngài. Đức giáo hoàng Đamasô thì soạn một bài viết tóm
tắt cuộc đời của hai vị tử đạo này. Ngài giải thích rằng Nêrô và Akilêô được
ơn trở lại với đức tin Công giáo. Các ngài đã vĩnh viễn từ bỏ vũ khí lại
đằng sau. Các ngài là những môn đệ đích thực của Đức Chúa Giêsu dù phải trả
giá cả mạng sống mình. Nêrô và Akilêô bị đày ra đảo Têraxina và bị xử trảm
tại đó. Vào thế kỷ thứ bốn, ngôi thánh đường thứ hai đã được xây cất tại một
nơi khác trong thành Rôma để tôn kính hai vị tử đạo này.
Thánh Pancrasiô, một trẻ mồ côi mười bốn tuổi, cũng sống vào thời gian này.
Ngài có lẽ cũng bị giết chết cùng ngày với hai vị thánh trên. Pancrasiô
không phải là người bản xứ Rôma. Người cậu trông coi Pancrasiô đã đưa ngài
tới đó. Pancrasiô được chịu phép Thanh tẩy và trở nên môn đệ của Đức Chúa
Giêsu. Dù mới chỉ là một cậu bé, nhưng Pancrasiô cũng bị bắt giữ vì lý do là
Kitô hữu. Pancrasiô nhất định không chịu chối bỏ đức tin của mình. Vì vậy,
ngài đã bị kết án tử hình. Pancrasiô bị trảm quyết. Pancrasiô là vị thánh tử
đạo rất được sùng mộ và kính phục trong thời Giáo hội sơ khai. Người ta
ngưỡng mộ Pancrasiô vì tuy tuổi đời non trẻ nhưng đã rất can đảm và anh
dũng. Vào năm 514, người ta xây cất một ngôi thánh đường lớn tại Rôma để tôn
kính thánh Pancrasiô. Đến năm 596, một vị thừa sai danh tiếng, thánh
Augustinô Cantơbơri, đến đem đức tin Công giáo cho đất nước Anh. Ở đó, thánh
nhân đã lấy danh thánh Pancrasiô để đặt tên cho ngôi thánh đường đầu tiên
của mình.
Các thánh tử đạo Rôma nhắc nhớ chúng ta ý nghĩa quan trọng của đức tin Công
giáo. Mỗi người chúng ta hãy biết quý mến, đề cao cũng như thực hành đức tin
này. Nếu muốn kiện toàn đức tin của mình, chúng ta hãy nài xin các thánh
Nêrô, Akilêô và Pancrasiô giúp đỡ.
https://dongten.net/2019/05/12/hanh-cac-thanh-12-05-thanh-nero-akileo-va-pancrasio/
Hai thánh Nêrêô và Akileo là những binh sĩ, nhưng khi trở lại đạo các Ngài
đã rời bỏ quân ngũ rồi sau đó đã lãnh triều thiên tử đạo. Câu chuyện tử đạo
của các Ngài có lẽ đã là giả tưởng. Theo bản văn của đức giáo hoàng Damas,
thì các Ngài đã sống dưới triều hoàng đế Nêrô. Chính thánh Phêrô đã rửa tội
cho các Ngài. Được phái về phục vụ thánh nữ Đômôtilla, sau đó các Ngài cũng
bị đi đày và được phúc tử đạo với bà chủ.
Một tài liệu khác cho rằng thánh Nêrêô và Akileo là lính cận vệ của chính
Đức Giáo hoàng Damas.
Có người lại cho rằng thánh Nêrêô là con tinh thần của thánh Phaolô.
Như vậy các tài liệu về cuộc đời hai thánh tử đạo không được chắc chắn. Tuy
nhiên, lòng tôn kính dành cho các Ngài rất cổ kính. Thánh đường lưu giữ hài
cốt các Ngài ở đường Ardeatina đã được tái thiết tới ba lần.
Thánh Pancraxiô sinh tại Phrygia trong một gia đình danh giá giàu có. Nhưng
cha mẹ Ngài mất sớm và ký thác Ngài cho ông cậu là Denis. Ba năm sau, Denis
đến lập nghiệp ở Rôma. Chúa quan phòng đã xếp đặt để họ ở gần nơi trốn tránh
của Đức Giáo hoàng Marcelionô trong cơn bách hại của Diocletianô và
Maximianô. Cảm kích trước sự khiêm tốn, nhân hậu đạo đức cùng đức nhẫn nại
của vị thánh Giáo hoàng, họ đã xin theo đạo và được đức giáo hoàng ưng
thuận. Ong Denis chỉ sống thêm ít ngày sau khi trở lại. Nhưng Pancraxiô mới
14 tuổi, bị bắt sau khi ông cậu qua đời. Vì quen với cha Ngài Hoàng đế
Diôcletianô đến gặp và dùng hết cách để đưa Ngài trở về với cuộc sống lương
dân, Ngài đã can đảm trả lời nhà vua: Một Kitô hữu không màng tới của cải và
thú vui trần thế. Họ chỉ ao ước những gia sản trên trời. Cái chết chỉ làm
cho hạnh phúc của họ tới mau hơn. Ngài cứ hành hình tôi và đừng tìm cách bắt
tôi thờ lạy các tượng thần làm gì.
Hoàng đế giận dữ ra lệnh chém đầu Ngài. Một phụ nữ đạo đức đã đến lấy xác
Ngài và chôn cất ở đường Aurelia. Đức Giáo hàong Symmacho đã xây cất một
thánh đường tại đây cho Ngài.
Thánh Pancrasiô, một trẻ mồ côi mười bốn tuổi, cũng sống vào thời gian này.
Ngài có lẽ cũng bị giết chết cùng ngày với hai vị thánh trên. Pancrasiô
không phải là người bản xứ Rôma. Người cậu trông coi Pancrasiô đã đưa ngài
tới đó. Pancrasiô được chịu phép Thanh tẩy và trở nên môn đệ của Đức Chúa
Giêsu. Dù mới chỉ là một cậu bé, nhưng Pancrasiô cũng bị bắt giữ vì lý do là
Kitô hữu. Pancrasiô nhất định không chịu chối bỏ đức tin của mình. Vì vậy,
ngài đã bị kết án tử hình. Pancrasiô bị trảm quyết. Pancrasiô là vị thánh tử
đạo rất được sùng mộ và kính phục trong thời Giáo hội sơ khai. Người ta
ngưỡng mộ Pancrasiô vì tuy tuổi đời non trẻ nhưng đã rất can đảm và anh
dũng. Vào năm 514, người ta xây cất một ngôi thánh đường lớn tại Rôma để tôn
kính thánh Pancrasiô. Đến năm 596, một vị thừa sai danh tiếng, thánh
Augustinô Cantơbơri, đến đem đức tin Công giáo cho đất nước Anh. Ở đó, thánh
nhân đã lấy danh thánh Pancrasiô để đặt tên cho ngôi thánh đường đầu tiên
của mình.
https://www.giaophandanang.org/ngay-12-05-thanh-nerero-akileo-va-pancrasio-tu-dao.html
Các vị thánh là những người đã sống tới mức anh hùng của các nhân đức,các
ngài cố gắng hết sức họa lại hình ảnh của Chúa Giêsu. Như một tảng đá các
Ngài phấn đấu gọt dũa sống hết mình vì Đức Kitô. Hai thánh Nêrê và Achillêô
đã để lại mẫu gương tuyệt vời về lòng trung kiên đối với Chúa Giêsu Kitô.
HAI THÁNH NÊRÊ và ACHLLÊÔ ANH HÙNG
Hai thánh nhân trước khi được phúc chết vì đạo đều là những binh sĩ ngoại
giáo. Quả thực, Chúa muốn tuyển chọn ai là do sự tự do, tấm lòng quảng đại,
hoàn toàn vô vị lợi của Chúa. Một tiếng gọi, một lời mời vang lên: Chúa có
con đường và có cách của Ngài. Tiếng của Chúa có thể ngỏ trực tiếp với một
người, nhiều người, con người có sẵn sàng đáp trả hay không tùy thuộc tự do
của mỗi người.
Thường khi Chúa kêu mời ai, người đó mau mắn đáp lại tiếng gọi của
Ngài.Trường hợp của Nêrê và Achillêô ghi đậm lời sách khải huyền:” Ai thắng,
Ta sẽ cho ăn quả cây sự sống, trồng ở trên thiên đàng của Thiên Chúa”( Kh 2,
7 ). Thánh Nêrô và thánh Achillêô đều phục vụ trong quân đội như thánh
Sêbastianô dưới thời Hoàng Đế Điôclêtianô. Cơn bách hại đạo xẩy ra vào năm
304, các Ngài còn là người ngoại giáo,nhưng trước những mẫu gương sáng chói
của các vị tử đạo, các Ngài đã có đức tin và xin quay trở về với Chúa Giêsu
Kitô. Vì lòng can đảm, đức tin sắt đá của các Ngài, hai thánh nhân đã bị
bắt, bị tra tấn và bị giết vì danh Chúa Kitô. Ngày nay khi tới Roma, người
ta sẽ được viếng, được chiêm ngưỡng hai vương cung thánh đường dâng kính
thánh Nêrê và thánh Achillêô: một được xây cất vào thế kỷ thứ IV ở đường
Ardéatina và một thánh đường do Đức Thánh Cha Lêô III xây dựng và cung hiến
vào những năm 795-816 tại đường Appia.
CHÚA
THƯỞNG CÔNG CHO CÁC NGÀI
Vì lòng mến Chúa và hy sinh cuộc đời, hy sinh mạng sống của mình cho Chúa
như lời Chúa nói:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của Người
hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ). Thánh Nêrê và thánh Achillêô
đã nói lên cái cuối cùng của mình là hy sinh chết vì tình yêu. Các Ngài đã
có một giấc mơ như M. Luther King đã nói:” Tôi có một giấc mơ”( I have a
dream ).Hai thánh Nêrê và Achillêô đã có một giấc
mơ, không phải một giấc mơ được giầu sang, phú quí, mà là một
giấc mơ hiến trọn đời mình cho Chúa bằng chính cái chết của các Ngài.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, hôm nay chúng con mừng hai thánh Nêrê và Achillêô
tử đạo đã anh dũng tuyên xưng đức tin. Xin cho chúng con luôn được các Ngài
bênh vực chở che trước tòa Chúa”( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Nêrê và
Achillêô ).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
http://www.simonhoadalat.com/SuyNiem/Saints/Thang5/Ngay12.htm
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 13,
26-33
"Thiên Chúa đã làm trọn lời hứa khi
cho Ðức Giêsu sống lại".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, khi Phaolô đến
Antiôkia thuộc xứ Pisiđia, ông lên tiếng trong hội đường rằng: "Thưa chư
huynh, con cháu Abraham, và những người kính sợ Thiên Chúa ở giữa chư huynh,
lời cứu độ đó đã được rao giảng cho chư huynh. Những người cư ngụ ở
Giêrusalem và các thủ lãnh của họ đã không nhìn nhận Ðức Giêsu và các lời
tiên tri mà họ đọc mỗi ngày Sabbat; thế mà họ đã làm ứng nghiệm lời tiên tri
khi lên án Người. Và dầu không thấy nơi Người lý do nào đáng phải chết, họ
cũng xin Philatô cho giết Người. Và khi đã hoàn tất mọi điều đã chép về
Người, họ đã tháo Người xuống khỏi cây thập giá và mai táng Người trong mồ.
Nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết vào ngày thứ ba. Và trong
nhiều ngày, Người đã hiện ra với những kẻ đã cùng với Người từ Galilêa lên
Giêrusalem. Bây giờ những kẻ đó là những chứng nhân của Người trước mặt dân
chúng.
"Phần chúng tôi, chúng tôi loan báo
cho chư huynh hay rằng: lời hứa ban cho tổ phụ chúng ta, Thiên Chúa đã làm
hoàn tất cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Ðức Giêsu sống lại,
như đã chép trong thánh vịnh thứ hai rằng: 'Con là Con Cha, hôm nay Cha đã
sinh ra Con' ".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 2, 6-7.
8-9. 10-11
Ðáp: Con là thái
tử của Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con (c. 7).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chính Ta đã đặt vương nhi Ta
trên Sion, núi thánh của Ta. Ta sẽ tuyên rao thánh chỉ của Chúa: Chúa đã
phán bảo cùng Ta: "Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra
Con". - Ðáp.
2) Hãy xin Cha và Cha sẽ cho Con được
chư dân làm phần sản nghiệp, và cùng kiệt cõi đất làm gia tài. Con sẽ cai
trị chúng bằng cây gậy sắt, như bình thợ gốm, Con đem nghiền nát chúng ra. -
Ðáp.
3) Giờ đây, hỡi các vua, hãy nên hiểu
biết, quân vương mặt đất nên giác ngộ. Hãy kính sợ làm tôi Chúa và hân hoan
mừng Người, hãy khiếp run tỏ bày sự vâng phục Chúa. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúa Kitô đã
sống lại ra khỏi mồ, Người đã chịu treo trên thập giá vì chúng ta. -
Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 1-6
"Thầy là đường, là sự thật và là sự
sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào
Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con
rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ các con
rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng
ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi". Ông Tôma thưa Người rằng:
"Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường
đi?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến
được với Cha mà không qua Thầy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Lời Chúa
Khía cạnh
"Mục Tử Thần Linh"
trong chủ đề
"Thày là sự sống"
cho Mùa Phục Sinh hậu Bát Nhật Phục Sinh tiếp tục với bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần
IV Phục Sinh hôm nay. Ở chỗ, Vị
"Mục Tử Thần Linh"
này tiếp tục tỏ mình ra là
"cửa chuồng chiên",
là đường lối đến với chiên của Người và sống cho chiên như Người. Nếu Vị
"Mục Tử Thần Linh"
là
"cửa chuồng chiên" ở nơi tấm gương
"hiến mạng sống mình vì chiên" (Gioan 10:11)
thì Người cũng muốn các môn đệ tiếp tục vai trò Mục Tử Thần Linh của Người cũng
hiến mạng sống của họ vì chiên như thế, như Người đã ngầm nói trong bài Phúc Âm:
"Anh
em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy,
có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho
anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với
Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường
rồi".
"Thày đi dọn chỗ cho anh em" đây
là gì mà Người trước đó đã phải trấn an các môn đệ của Người rằng "anh
em đừng xao xuyến", nếu không phải là Người "tự
hiến để họ được thánh hóa trong chân lý" (Gioan 17:19),
nghĩa là Người đi
chịu chết, tự hiến "để họ được thánh hóa trong chân lý",
tức là để họ nhận biết
Người là ai, nhờ đó, họ cũng có thể chết vì Người và như Người để làm chứng cho
Người, đúng như ý nghĩa sâu xa của câu Người nói với các tông đồ: "Thầy
lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó".
Ở trong bài
Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ Sáu tuần IV Phục Sinh này, theo chiều
hướng sự sống được cống hiến bởi vị chủ chiên nhân lành ở các bài Phúc Âm
Chúa Nhật IV Phục Sinh, cũng chất chứa hình ảnh và tinh thần của vị mục tử
nhân lành này, vị mục tử nhân lành đích thực thì, như chính Người khẳng định
trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật IV Phục Sinh Năm A "khi dẫn chiên ra thì
đi trước chiên" (Gioan 10:4), đúng như những gì Người đã lập lại trong
bài Phúc Âm hôm nay: "Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra
đi và dọn chỗ các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy
ở đâu thì các con cũng ở đó".
Nếu trong bài Phúc Âm Phục Sinh IV Năm A,
Chúa Giêsu đã khẳng định: "Tôi
là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được
đồng cỏ. Kẻ
trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên
được sống và sống dồi dào" (Gioan 10:9-10), và trong bài Phúc Âm IV
Phục Sinh Năm B, Người còn xác nhận tiếp về bản thân là chủ chiên của Người:
"Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi
biết tôi, như
Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho
đoàn chiên" (Gioan 10:14-15), thì Người cũng nhắc lại cho đàn chiên
tông đồ đoàn của Người ở bữa tiệc ly trong bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Thầy
là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua
Thầy".
Bài Đọc I (Tông
Vụ 13:26-33):
Nếu trong bài Phúc Âm hôm nay,
Chúa Giêsu đã tiên báo cho các tông đồ biết về số phận của Vị
"Mục Tử Thần Linh"
cần phải
"đi để dọn chỗ cho anh em",
tức là
"tự hiến để họ được thánh hóa
trong chân lý",
hay hy sinh cho chiên được sống, trước hết là chính
thành phần môn đệ được Người tuyển chọn ở với Người mà làm chứng nhân cho Người,
thì trong bài đọc thứ nhất hôm nay, thành phần đã được Người tự hiến để thánh
hóa họ trong chân lý ấy đã thực sự trở thành chứng nhân của Người và cho Người
bằng chứng từ đầy xác tín và thuyết phục của họ:
"Thưa anh em, là con cái thuộc dòng giống Áp-ra-ham, và thưa anh em đang hiện
diện nơi đây, là những người kính sợ Thiên Chúa, lời cứu độ này được gửi tới
chúng ta. Dân cư thành Giê-ru-sa-lem và các thủ lãnh của họ đã không nhận biết
Đức Giê-su; khi kết án Người, họ đã làm cho ứng nghiệm những lời ngôn sứ đọc mỗi
ngày sa-bát. Tuy không thấy Người có tội gì đáng chết, họ vẫn đòi Phi-la-tô xử
tử. Sau khi thực hiện tất cả mọi điều Kinh Thánh chép về Người, họ đã hạ Người
từ trên cây gỗ xuống và mai táng trong mồ. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người
trỗi dậy từ cõi chết. Trong nhiều ngày, Đức Giê-su đã hiện ra với những kẻ từng
theo Người từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người
trước mặt dân. Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này :
điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là
con cháu các ngài, khi làm cho Đức Giê-su sống lại, đúng như lời đã chép trong
Thánh vịnh 2: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con".
Lễ Đức Mẹ Fatima 13/5
Fatima là một biến cố và là một sứ điệp hướng về và dẫn đến Lòng Thương Xót
Chúa.
Biến Cố
Fatima và Sứ Điệp Fatima không phải chỉ là Biến Cố Thánh Mẫu và Sứ Điệp Thánh
Mẫu, mà là một biến cố và là một sứ điệp hướng về và dẫn đến Lòng Thương Xót
Chúa. Đó là lý do 3 Thiếu Nhi Fatima đã được thị kiến thấy hỏa ngục ngày
13/7/1917, và cũng trong cùng lần hiện ra thứ ba này, Đức Mẹ đã kêu gọi các em
sau mỗi chụ Kinh Mân Côi hãy đọc: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con. Xin
gìn giữ chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất
là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn”.
Chưa hết,
đúng như lời hứa vào lần hiện ra trên “Mẹ sẽ đến để xin dâng hiến Nước Nga
cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ và xin rước lễ đền tạ các ngày Thứ Bảy Đầu
Tháng”, Đức Mẹ đã thực sự hiện ra với chị Lucia vào ngày 13/6/1929, tại tu
viện dòng Đôrôthêô của chị ở thành Tuy nước Tây Ban Nha khi chị chầu Thánh Thể
ban đêm, và cho chị thấy một thị kiến được chị kể lại như sau:
·
“Bỗng nhiên, cả nhà
nguyện bừng sáng, không còn lờ mờ với ngọn đèn chầu nhà tạm nữa. Một thánh giá
bằng ánh sáng hiện ra trên bàn thờ cao lên tới trần nhà nguyện. Phần trên của
cây thánh giá sáng hơn, có dung nhan cùng với thân mình của một người từ cạnh
sườn trở lên; trên ngực của người này có một con chim câu bằng ánh sáng; bị đóng
đanh vào thập giá là thân mình của một người khác. Dưới cạnh sườn chút xíu, có
một chén thánh và một bánh thánh lớn lơ lửng trên không trung. Những giọt máu từ
mặt của Chúa Giêsu Tử Giá và từ cạnh sườn của Người chảy xuống bánh thánh và nhỏ
vào chén thánh. Bên phải cây thánh giá là Đức Mẹ với Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên
Tội ở trong tay Mẹ. Bên trái cây thánh giá có những chữ lớn như thể bằng nước
trong như thủy tinh chảy xuống trên bàn thờ làm thành những chữ: ‘Ân
Sủng và Tình Thương’".
(Như Mẹ Maria
hiện ra ở Fatima là để đem loài người về với Lòng Thương Xót Chúa, qua lời Mẹ
kêu gọi vào lần hiện ra cuối cùng 13/10/1917, ngay trước khi biến đi để chấm dứt
Biến Cố Thánh Mẫu Fatima 1917, đó là: “Đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên
Chúa của chúng ta nữa, vì Người đã bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi”, và
như gương 3 Thiếu Nhi Fatima tiên khởi đã sống ơn gọi của mình, bằng cả một đời
hy sinh cho các tội nhân và đền tạ Chúa, Thiếu Nhi Fatima TGP/LA cũng cố gắng
để làm tông đồ cho Lòng Thương Xót Chúa, bằng việc cử hành Đường Thánh Giá trong
Ngày Thánh Mẫu tại Missouri (4-7/8/2005), vào chiều Thứ Sáu 5/8/2005, như đã
thực hiện trong năm 2003, một biến cố đã được cả giáo dân lẫn nhà dòng tổ chức
Ngày Thánh Mẫu hoan hô và mong TNF tiếp tục công việc chẳng những mang lại lợi
ích thiêng liêng cho người tham dự mà còn tăng thêm ý nghĩa cho Ngày Thánh Mẫu
nữa).
Biến Cố Fatima và Sứ Điệp Fatima
là một biến cố và là một sứ điệp hướng về và dẫn đến Lòng Thương Xót Chúa. Bởi
vì, cốt lõi của Biến Cố Fatima và Sứ Điệp
Fatima là Chúa Giêsu Thánh Thể,
vì Thánh Thể mở đầu Biến Cố Fatima và là tột đỉnh của Sứ Điệp Fatima.
Trước hết, Thánh Thể mở đầu
Biến Cố Fatima, ở chỗ, Thiên Thần Hòa Bình đã hiện ra với 3 em Thiếu
Nhi Fatima 3 lần, một vào Mùa Xuân, 1 vào Mùa Hè và 1 vào Mùa Thu, đều về Chúa
Giêsu Thánh Thể.
Lần thứ nhất, Thiên Thần Hòa Bình
hiện ra với 3 Thiếu Nhi Fatima vào Mùa Xuân năm 1916 ở trong hang Loca do
Cabeco, để kêu gọi và dạy các em cầu nguyện: "Lạy Chúa, con tin kính Chúa,
con thờ lạy Chúa, con trông cậy Chúa và con yêu mến Chúa. Xin Chúa thứ tha cho
những người không tin kính Chúa, không thờ lạy Chúa, không trông cậy Chúa và
không yêu mến Chúa".
Lần thứ hai, Thiên Thần Hòa Bình
hiện ra với 3 Thiếu Nhi Fatima vào Mùa Hè cùng năm, sau giờ nghỉ trưa, ở dưới
bóng cây bên một giếng nước, để kêu gọi các em hy sinh cầu nguyện và dạy cho
các em biết cách hy sinh đền tạ Chúa mà cứu rỗi các tội nhân: "Hãy biến mọi
sự có thể thành những hy sinh dâng lên Chúa như một việc để đền tạ tội lỗi
Ngài đã bị xúc phạm mà cầu cho tội nhân ơn ăn năn hối cải".
Lần thứ ba, Thiên Thần Hòa Bình
hiện ra với 3 Thiếu Nhi Fatima vào một buổi chiều Mùa Thu cũng năm ấy, trên
đường các em từ Pregueira về Lapa, để cho các em rước Mình Thánh (Lucia) và
Máu Thánh (Phanxicô và Giaxinta), sau khi kêu gọi các em đền tạ Chúa Giêsu
Thánh Thể như sau: "Lạy Chúa Ba Ngôi Chí Thánh là Cha và Con và Thánh Thần,
con sấp mình thờ lạy Chúa. Con xin dâng lên Chúa Mình Máu châu báu, linh hồn
và Thiên Tính của Chúa Giêsu Kitô đang hiện diện trong các nhà tạm trên khắp
thế giới, để đền tạ những lăng nhục, phạm thánh và thờ ơ lãnh đạm mà chính
Người đã phải chịu. Xin vì công nghiệp vô cùng của Thánh Tâm Chúa Giêsu và của
Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, xin Chúa ban cho các tội nhân ơn ăn năn
hối cải".
Sau nữa, Thánh Thể là tột
đỉnh của Sứ Điệp Fatima, ở chỗ, trong 3 Mệnh Lệnh Fatima, mệnh lệnh
chính yếu đó là Mệnh lệnh Cải Thiện Đời Sống, một mệnh lệnh kêu gọi con người
tội nhân hãy hoán cải trở về cùng “Chúa là Thiên Chúa của chúng ta, vì
Người đã bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi”, như lời Mẹ Maria kêu gọi loài
người vào lần hiện ra ở Fatima cuối cùng 13/10/1917 ngay trước khi biến đi để
kết thúc Biến Cố Fatima. “Chúa là Thiên Chúa của chúng ta” đã bị xúc phạm đến
nhiều lắm rồi đây chính là Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng đã mở đầu cho Biến Cố
Fatima, cũng là Đấng đã được nữ tu Lucia thị kiến thấy vào ngày 13/6/1929, tại
Tuy nước Tây Ban Nha, qua hình ảnh “Những giọt máu từ mặt của Chúa Giêsu Tử
Giá và từ cạnh sườn của Người chảy xuống bánh thánh và nhỏ vào chén thánh”.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Thứ Bảy
Ngày 14 tháng 5
THÁNH MÁT-THI-A, TÔNG ĐỒ
lễ kính
Thánh Mát-thi-a là người “đã theo Chúa Giê-su, kể từ khi Người chịu phép
rửa của ông Gio-an cho đến ngày Người thăng thiên”. Chính vì thế, thánh
nhân đã được các Tông Đồ chọn làm người thế chỗ của ông Giu-đa, để làm
chứng cho Chúa Giê-su Phục Sinh. Thánh nhân được kể vào Nhóm Mười Hai,
như sách Công vụ Tông Đồ đã thuật lại.
Bài Ðọc I: Cv 1,
15-17. 20-26
"Matthia trúng
thăm, ông được kể vào số mười một Tông Ðồ".
Trích sách Tông đồ Công
vụ.
Trong những ngày ấy, Phêrô
đứng lên giữa anh em (đám đông có chừng một trăm hai mươi người) mà nói:
"Hỡi anh em, phải ứng nghiệm lời Thánh Kinh mà Thánh Thần đã dùng miệng
Ðavít để tiên báo về Giuđa, kẻ hướng dẫn những người bắt Chúa Giêsu. Hắn
cũng là một trong số chúng ta, đã thông phần chức vụ của chúng ta. Vì
chưng, trong Thánh vịnh có chép rằng: "Trại của nó sẽ trở nên hoang
vắng, và không một ai ở lại trong đó, và một người khác sẽ lãnh lấy chức
vụ của nó". Vậy trong những người đi cùng với chúng ta suốt thời gian
Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, kể từ ngày Gioan thanh tẩy cho đến ngày
Chúa Giêsu lìa chúng ta mà lên trời, chúng ta phải chọn lấy một trong
những người có mặt đây, để cùng với chúng ta làm chứng Người đã sống
lại".
Họ giới thiệu hai người:
ông Giuse, tức Barsabba, biệt danh là Công chính, và ông Matthia. Ðoạn
họ cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tâm hồn mọi người, xin hãy
tỏ ra Chúa chọn ai trong hai người này để nhận chức vụ và tước hiệu Tông
đồ thay cho Giuđa, kẻ đã hư hỏng mà đi đến nơi của nó". Thế rồi họ bỏ
thăm và Matthia đã trúng thăm: ông được kể vào số với mười một Tông đồ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 112,
1-2. 3-4. 5-6. 7-8
Ðáp: Chúa cho người ngồi với những
bậc quân vương của dân Người (c. 8).
Xướng: 1) Hãy ngợi khen, hỡi những
người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh Chúa được
chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời. - Ðáp.
2) Từ mặt trời mọc lên tới khi lặn
xuống, nguyện cho danh Chúa được ngợi khen. Chúa siêu việt trên hết thảy
chư dân, trên muôn cõi trời, là vinh quang của Chúa. - Ðáp.
3) Ai được như Thiên Chúa chúng
tôi, Người ngự trên nơi cao thẳm, và Người để mắt nhìn coi, khắp cả trên
trời dưới đất? - Ðáp.
4) Người nâng cao kẻ túng thiếu
từ chỗ bụi tro, và cất nhắc bạn cơ bần từ nơi phẩn thổ, hầu cho họ ngồi
với những bậc quân vương, với những bậc quân vương của dân Người. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 15, 16
Alleluia, alleluia! - Chúa
phán: "Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các
con, để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn
tại". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 15, 9-17
"Thầy không còn gọi các con là tôi tớ: Thầy gọi các con là bạn
hữu".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:
"Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong
tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong
tình yêu của Thầy; cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên
Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó, để
niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn
vẹn.
"Ðây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến
nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình
yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu
các con thi hành những điều Thầy truyền.
"Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ
không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì
Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. Không phải
các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt,
để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để
những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy
truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau".
Ðó là lời Chúa.
Trong những ngày ấy, ông Phê-rô đứng lên giữa các môn đệ mà nói. Vì
ông là một con người nhiệt thành được Đức Ki-tô giao phó đoàn chiên
và lại là người đứng đầu nhóm, nên bao giờ ông cũng lên tiếng trước
tiên : Thưa anh em,
phải chọn một người trong chúng ta. Ông để cho cộng đoàn cân
nhắc ; như thế, ông vừa làm cho cộng đoàn kính nể những người họ đã
chọn, vừa tránh được lòng ghen ghét có thể xảy ra. Quả thật, những
việc lớn lao như thế thường dễ sinh ra tai hoạ.
Vậy thì sao ? Chính ông Phê-rô không có quyền chọn ư ? Dĩ nhiên, ông
có quyền. Nhưng ông không dùng quyền đó để khỏi bị coi là người
thiên vị. Đàng khác, ông chưa được lãnh nhận Thần Khí. Rồi sách Công
vụ Tông Đồ kể : Họ
đề cử hai người : ông Giu-se, biệt danh là Ba-sáp-ba, cũng gọi là
Giút-tô, và ông Mát-thi-a. Không phải chính ông, nhưng tất cả
mọi người đã đề cử họ. Ý kiến thì chính ông đưa ra, nhưng ông cho
thấy đó không phải là ý kiến riêng của ông, mà là do lời ngôn sứ xưa
kia đã nói ra. Như thế, ông là người giải thích, chứ không phải
người ra lệnh.
Ông nói : Vậy phải
chọn trong số những người đã cùng chúng tôi theo Chúa Giê-su.
Bạn coi, ông muốn họ phải là những người chứng đã thấy tận mắt, mặc
dù còn phải có Chúa Thánh Thần ngự đến. Quả là ông rất quan tâm đến
điều này.
Ông lại nói : Trong
số những người đã cùng chúng tôi theo Chúa Giê-su trong suốt thời
gian Người sống giữa chúng tôi. Ông muốn nói : họ phải là những
người đã ở với Người, chứ không chỉ đơn giản là những môn đệ. Dĩ
nhiên, từ đầu đã có nhiều người đi theo Chúa Giê-su, như có thể thấy
được trong câu này : Một
trong hai người đã nghe ông Gio-an nói và đi theo Đức Giê-su.
Ông nói tiếp : Trong
suốt thời gian Chúa Giê-su sống giữa chúng tôi, kể từ khi Người được
ông Gio-an làm phép rửa. Đúng thế, những gì đã xảy ra trước đó,
chẳng ai biết được, nhưng Thánh Thần đã dạy cho họ biết.
Ông còn nói : Cho
đến ngày Chúa Giê-su lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có
một người trở thành chứng nhân cùng với chúng tôi để làm chứng Người
đã phục sinh. Ông không nói : làm chứng về những điều khác,
nhưng : làm chứng
Người đã phục sinh mà thôi. Quả thật, người đáng
tin hơn là người có thể nói được : Đấng đã ăn, đã uống và đã chịu
đóng đinh vào thập giá, chính Đấng ấy đã sống lại. Vậy, người ấy
không cần phải là chứng nhân về quá khứ, về tương lai hay về các dấu
lạ, nhưng phải là chứng nhân về sự phục sinh mà thôi. Quả thế, những
điều kia đã rõ ràng và hiển nhiên ; còn sự phục sinh thì đã xảy ra
kín đáo và chỉ được tỏ ra cho các vị này mà thôi.
Rồi mọi người cùng nhau cầu nguyện rằng : Lạy
Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người, xin chỉ cho thấy.
Chúa, chứ không phải chúng con. Họ kêu cầu Đấng thấu suốt lòng mọi
người là phải, vì việc chọn lựa phải do Đấng ấy thực hiện, chứ không
phải do những ai khác. Như thế, họ cầu xin với niềm tin tưởng, vì
nhất thiết phải chọn cho được một người. Họ không nói : Xin Ngài
chọn, nhưng xin chỉ
cho thấy Ngài chọn ai, vì họ biết rằng mọi sự đều do Thiên Chúa
ấn định trước. Rồi họ
rút thăm. Quả thế, lúc ấy họ chưa nghĩ mình xứng đáng tự làm lấy
việc lựa chọn, nên họ muốn được một dấu chỉ nào đó tỏ cho biết.
Xin đọc
bài Giáo Lý của ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Matthia ở cái link dưới đây:
Thứ Tư 18/10/2006 - Bài 22 về Tông Đồ Giuđa Ích Ca và Tông
Đồ Matthia
Lạy Chúa, Chúa đã chọn thánh Mát-thi-a để bổ sung nhóm mười hai Tông
Đồ. Cúi xin Chúa nhậm lời người cầu thay nguyện giúp, mà cho chúng
con nay đang vui hưởng tình yêu của Chúa, thì mai sau cũng được kể
vào số những người Chúa chọn. Chúng con cầu xin
Thứ Bảy
(ngày trong tuần nếu không bị Lễ Thánh Matthia TĐ lễ kính át đi)
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 13,
44-52
"Ðây chúng tôi quay về phía các dân
ngoại".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Ðến ngày Sabbat sau, hầu hết cả thành
đều đến nghe lời Thiên Chúa. Các người Do-thái thấy đám đông dân chúng, thì
đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy. Phaolô
và Barnaba can đảm nói rằng: "Phải giảng lời Thiên Chúa cho các ngươi trước
tiên, nhưng vì các ngươi từ chối lời Thiên Chúa và tự cho mình không xứng
đáng sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía các dân ngoại; vả lại Chúa
đã truyền lệnh cho chúng tôi rằng: Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để
ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất". Nghe vậy, các dân ngoại hân
hoan ca tụng lời Chúa; những ai được Chúa tiền định hưởng sự sống đời đời,
thì tin theo, nên lời Chúa được rao giảng khắp cả vùng.
Những người Do-thái xúi giục các phụ
nữ khá giả đã tòng giáo, các thân hào trong thành, bắt bớ Phaolô và Barnaba,
rồi trục xuất hai ngài ra khỏi ranh giới xứ họ. Còn hai ngài, sau khi phủi
bụi chân lại cho họ, hai ngài đi đến Icôniô. Còn các môn đồ thì đầy hân hoan
và Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1.
2-3ab. 3cd-4
Ðáp: Khắp nơi bờ
cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta (c. 3c).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca
mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho
Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của
Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng
nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn
thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa,
hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.
Alleluia: Cl 3, 1
Alleluia, alleluia! - Nếu anh em sống
lại làm một với Ðức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự cao siêu trên
trời, nơi Ðức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14,
7-14
"Ai thấy Thầy là xem thấy Cha".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ,
các con biết và đã xem thấy Người".
Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho
chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con". Chúa Giêsu nói cùng
ông rằng: "Philipphê, Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết
Thầy ư? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: Xin tỏ cho chúng con
xem thấy Cha? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư?
Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha
ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và
Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin, vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy
bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã
làm; người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và
điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh
hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ
làm cho".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Lời Chúa
Vai trò
"Mục Tử Thần Linh"
của Chúa Kitô là vai trò của một Đấng Thiên Sai, đến để làm theo ý Đấng đã sai
chứ không phải theo ý của mình, đến độ làm cho thế gian nhờ mình mà nhận biết
Cha, và đến độ bất cứ ai tin vào Người thì được sự sống, đúng như Người đã
khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần IV Phục Sinh về chủ đề
"Thày là sự sống".
"Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: 'Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa
Cha'? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?
Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng
luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy:
Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công
việc Thầy làm".
Trong câu khẳng định trên đây của mình, Chúa Giêsu đã ngầm tái xác nhận lời
tuyên xưng của Tông Đồ Phêrô
“Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mathêu 16:16)
là chính xác.
Vì là
“Đức Kitô”
Thiên Sai mà Người đến chỉ
“nói”
và
“làm”
những gì Cha là Đấng đã sai Người muốn mà thôi, chứ không phải những gì
Người muốn, và chính vì thế, Người cho thấy
“Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày”,
và cho thấy Người là
“Con Thiên Chúa hằng sống”, “đồng bản thể với Cha” (Kinh Tin Kính),
đến độ,
“ai thấy Thày là thấy Cha”,
nơi nhân tính của Người, qua những gì Người nói và làm trong bản tính của
con người, một bản tính loài người được Người mặc lấy để
“tỏ Cha ra” (Gioan 1:18),
hay để Cha tỏ mình ra nơi Người và qua Người.
Nếu Chúa Giêsu tỏ mình ra là hiện thân của Cha
như thế, thì
thành quả hay tác dụng của niềm tin vào Vị Mục Tử Thần Linh Thiên Sai là ở chỗ
làm cho kẻ tin vào Người được hiệp nhất nên một với Người, được Người biến đổi,
thậm chí đến độ còn làm được những việc hơn Người làm nữa, như cành nho dính
liền với thân nho thì sinh muôn vàn hoa trái nhờ nhựa sống từ thân cây, trong
khi chính thân nho lại chẳng sinh hoa trái gì:
"Thật,
Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc
Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa
Cha. Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa
Cha được tôn vinh nơi người Con. Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì,
thì chính Thầy sẽ làm điều đó".
“Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người
đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha”
nghĩa là gì? Nếu không phải nghĩa là một khi Người Thăng Thiên
"về cùng Cha"
thì nhân tính của Người, một bản tính Người mặc lấy khi nhập thể vốn được
Ngôi Hiệp với thần tính của Người trên thế gian, nhờ phục sinh đã trở thành
linh thiêng, bấy giờ được hoàn toàn hoan hưởng Thực Tại Thần Linh là
Thánh Thần với Cha và như Cha. Bởi thế, ai tin vào Người thì được hiệp nhất
nên một với Người là Đấng từ Cha sẽ sai Thánh Thần đến (xem Gioan 15:26) để
nhờ đó họ có thể làm chứng về Người cho đến tận cùng trái đất (xem Tông Vụ
1:8).
"Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa"
là vì thế - vì Chúa Kitô Phục Sinh và Thăng Thiên ở trong họ bằng Thánh Thần
của Người, và
"Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa"
là như thế - ở chỗ nhờ Thánh Thần và cùng với Thánh Thần của Người họ có thể
làm chứng về Người, nhờ đó Người được nhận biết và yêu mến khắp thế giới chứ
không phải chỉ ở nơi dân Do Thái là thành phần vốn không tin Người cho dù
Người đã tỏ hết mình ra cho họ, và nhờ đó Người là hạt lúa miến mục nát đi
nơi mầu nhiệm khổ giá trổ sinh muôn vàn hoa trái là phần rỗi các linh hồn
(xem Gioan 12:24).
Bài Đọc I (Tông
Vụ ):
Vai trò Mục Tử Thần Linh của Chúa Kitô Thiên Sai tiếp tục sinh hoa trái nơi
thành phần môn đệ được Người sai đi làm chứng về Người, như bài đọc một hôm nay
cho thấy, đến độ, càng bị chống đối và thử thách, các vị càng sinh nhiều hoa
trái như cành nho đã sinh trái thì cần được cắt tỉa đi cho càng sai trái hơn
(xem Gioan 15:2):
"Tại I-cô-ni-ô cũng xảy ra như vậy: hai ông vào hội đường người Do-thái và giảng
dạy, khiến rất đông người Do-thái và Hy-lạp tin theo. Nhưng những người Do-thái
không tin theo thì xúi giục những người ngoại và làm cho họ có ác cảm với các
anh em. Vậy hai ông ở lại một thời gian khá lâu, mạnh dạn vì dựa vào Chúa, là
Đấng chứng nhận lời giảng về ân sủng của Người, khi cho tay các ông thực hiện
những dấu lạ điềm thiêng".