Vậy họ ở trong Người như thế
nào để Người tiếp tục ở trong họ, tức là lớn lên trong họ, cho đến độ chiếm
đoạt họ, làm chủ họ và qua họ tỏ mình cho thế gian, nhờ đó thế gian nhận
biết Người, nếu không phải nhờ Thánh Thể của Người mà họ thường xuyên nhận
lãnh khi cử hành Thánh Thể, và đặc biệt là bằng Thánh Giá của Người, nghĩa
là bằng những đau khổ thứ thách Người cho họ chia sẻ với Thánh Giá của
Người, như phương thức tỉa cắt cho họ là cành nho đã sinh trái càng sinh hoa
trái dồi dào hơn.
Bài Đọc
1 (Tông Vụ 15:1-6)
Nếu cành
nho Kitô hữu dính liền với thân nho Chúa Kitô sinh hoa kết
trái là do Chúa Kitô thông ban sự sống của Người cho Kitô hữu nhờ lòng tin
của họ nơi Người, thì việc sinh hoa kết trái của họ không phải là do chính
tự cành nho, đúng như bài đọc 1 hôm nay đã trình thuật về hoa trái truyền
giáo của tông đồ Phaolô và barnabê như sau:
"Các ông được Hội Thánh tiễn đưa. Khi đi qua miền Phê-ni-xi và miền
Sa-ma-ri, các ông tường thuật việc các dân ngoại đã trở lại với Thiên Chúa,
khiến tất cả các anh em rất đỗi vui mừng. Tới Giê-ru-sa-lem, các ông được
Hội Thánh, các Tông Đồ và kỳ mục tiếp đón, và các ông kể lại tất cả những
gì Thiên Chúa đã cùng làm với các ông".
Thánh Gioan I – giáo hoàng, tử đạo (523-526)
Ngày 18/5

Thánh Gioan sinh tại
Tuscia. Ngài được chọn làm giám mục Rôma ngày 13 tháng 8 năm 523. Người ta
không biết gì về đời thơ ấu của thánh nhân, nhưng từ ngày lên kế vị thánh
Phêrô, ngài đã nhiệt thành sống khẩu hiệu “tất cả vì danh Chúa”. Ngài đã có
công hoàn thành nhạc bình ca mà các vị tiền nhiệm của ngài là Đức Celestinô
I, Leo Cả và Galesiô khởi xướng.
Năm 624, vua Justinô I
bên Tiểu Á muốn hiệp nhất Giáo hội cũng như nhằm mục đích chính trị đã đàn
áp nhóm theo lạc giáo Ariô. Tại Rôma, vua Theodôricô là người theo lạc giáo
Ariô đã tức giận bắt Đức Giáo hoàng Gioan dẫn đầu phái đoàn đi thương
thuyết. Sau nhiều lần phản đối, ngài đã chấp nhận lên đường. Đây là lần đầu
tiên có một vị giáo hoàng rời khỏi nước Ý. Vua Justinô và toàn dân
Constantinopole hân hoan vui mừng đón tiếp Đức Giáo hoàng. Ngài đã cử hành
lễ phục sinh tại thánh đường thánh nữ Sôphia và phong vương cho vua Justinô.
Trở lại Rôma, ngài bị
vua Thêđôricô cho là đã hành động phản nghịch với mình. Tức giận, ông tính
xử tử ngài, nhưng lại sợ dân chúng nổi loạn, nên bắt giam ngài tại Ravenna.
Tại đây, Đức Giáo hoàng đã từ trần ngày 18 tháng 5 năm 526.
Ngày 27 tháng 5 năm 530
xác ngài được dời về Rôma. Niên lịch phụng vụ cử kính nhớ ngài vào ngày này.
Thánh Gioan I là gương
sáng về lòng can đảm, xây dựng tinh thần hiệp nhất. Nhờ lời chuyển cầu của
thánh nhân, xin Chúa giúp chúng ta luôn cam đảm làm chứng cho công lý và hòa
bình để danh Chúa được rạng rỡ vinh quang.
https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-18-5-thanh-gioan-i-giao-hoang-tu-dao-39840
1. Ghi nhận lịch sử – Phụng Vụ
Lễ nhớ thánh Gioan I
được cử hành vào ngày kỷ niệm ngài qua đời – theo Sách
Giáo Hoàng (Liber
pontificalis) – trong ngục thất tại Ravenne. Cuộc tử đạo của ngài bắt nguồn
từ các cuộc đấu tranh giữa hoàng đế Công giáo Justin với vua Théodoric
(454-526) theo lạc thuyết Arius.
Thánh Gioan I, quê tại Toscane, nước Ý, thuộc thành phần giáo sĩ Rôma trong
tư cách linh mục và Tổng phó tế, trước khi lên ngôi Giáo Hoàng (523 –526).
Triều đại Giáo Hoàng ngắn ngủi của ngài được nổi tiếng qua việc ngài sửa
sang các nghĩa trang của thánh Achille và Nêrée cũng như nghĩa trang của
thánh nữ Priscille và Pétronille. Ngài đã triệu tập nhiều Công đồng miền.
Năm 524, vua Théodoric
ủng hộ nhóm Arius, từ Ravenne cai trị cả nước Ý. Vua phái Đức Giáo Hoàng
Gioan đến Constantinople nhưng ngài từ chối việc tham gia vào bè rối Arius.
Tại Đông Phương, ngài được Đức Thượng phụ Constantinople và hoàng đế Justin
tiếp đón rất trân trọng. Hoàng đế cũng xin Đức Giáo Hoàng phong vương ngày
19 tháng 4 năm 526, trước sự hiện diện của các giáo sĩ Hy Lạp và La Tinh, cả
triều thần và quần chúng. Ngay hôm ấy, Đức Giáo Hoàng đã cử hành Thánh lễ
Phục Sinh trong đại thánh đường Sophia. Nhưng khi trở về Ý, thánh nhân đã bị
cầm tù tại Ravenne: Vì cho mình gạt, nên Théodoric đã bỏ đói ngài cho đến
chết. Trên bia mộ ngài, người ta đọc được giòng chữ: “Bị
tù ngục và chết vì Đức Kitô”.
Bốn năm sau, năm 530, thi hài của ngài được chuyển về Rôma và mai táng trong
đại thánh đường Phêrô, với các nghi thức trang trọng dành cho các vị tử đạo.
2. Thông điệp và tính thời sự
a. Lời nguyện riêng gợi
lại “cuộc tử đạo”, “công đức” và “đức tin kiên vững” của Giáo Hoàng Gioan I.
Lời nguyện vọng lại ý tưởng của bài đọc một (2 Tm 2,8 – 3,12): Vì
Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian
phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích … Đây là lời đáng tin cậy: nếu
ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người.
Bài Tin Mừng Thánh lễ (Ga 15,18-21) trích một trong những lời của Đức Kitô: Nếu
họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ anh em (c. 20)
b. Các bài đọc trong
Kinh sách đưa ra một bản văn trích từ thư của Jean d’Avila gửi cho các bạn
hữu, trong đó ngài diễn giải lời thánh Phaolô: “Vì
cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Kitô, thì nhờ Người,
chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi”.
Rồi Jean d’Avila viết tiếp: “Thiên
Chúa rộng mở đôi tay đón chúng ta, đôi cánh tay nhẹ nhàng thân ái và êm dịu
biết bao, để tiếp rước những kẻ bị thương tích khi chiến đấu cho Người !
Chắc hẳn điều này mang lại một sự êm dịu ngọt ngào hơn mọi thứ mật ong mà
công lao vất vả có thể sản xuất ra ở trên đời !” Nào
là chúng ta bị hiểu lầm, bị bác bỏ và bị bách hại vì Tin Mừng.
Jean d’Avila lại viết: “Đây
là con đường mòn mà Chúa Kitô và những kẻ thuộc về Người đã đi. Người gọi đó
là con đường hẹp, nhưng chính nó lại đưa thẳng tới sự sống.”
Enzo Lodi
https://www.tonggiaophanhanoi.org/ngay-18-5-thanh-gioan-i-giao-hoang-tu-dao-523-526/
Trong buổi tiếp kiến chung được truyền hình trực tiếp từ Dinh Tông tòa vào
sáng thứ Tư 29/4, Đức Thánh Cha Phanxicô đã giải thích Mối phúc cuối cùng: “Phúc
cho ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt
5,10). Sống theo các Mối phúc có thể khiến chúng ta bị thế giới chối từ,
bách hại. Tuy nhiên, bách hại lại là nguyên nhân giúp chúng ta được hưởng
niềm vui trên thiên quốc. Con đường Mối phúc là hành trình phục sinh, đưa
chúng ta từ sự ích kỷ đến cuộc sống theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Cuộc đời
các thánh cho chúng ta thấy rằng bách
hại giúp các Kitô hữu được giải thoát khỏi sự thỏa hiệp với thế gian.” 1 Ta
có thể lấy một ví dụ nơi cuộc đời thánh Giáo hoàng Gioan I, nhìn cuộc đời ấy
dưới lăng kính của mối phúc này để minh chứng rõ ràng rằng bách hại chẳng đủ
sức làm cho ngài thỏa hiệp với thế gian, đồng thời chúng ta cũng cầu nguyện
cho người trẻ được ơn can đảm chiến đấu để bảo vệ đức tin.
Thánh Giáo hoàng Gioan I là linh mục của Rôma, sử sách không cho chúng ta
biết gì về thời niên thiếu của ngài, chỉ biết rằng ngài sinh tại miền Tuscia
nước Ý, là vị Giáo hoàng thứ 53 và lên ngôi Giáo hoàng năm 523. Lúc ấy, nhà
cầm quyền nước Ý là Thêôđôric, thuộc gốc người Gôtíc, theo bè rối Ariô. Ông
cho người đại diện đến thương lượng với hoàng đế Justinô I, dẫn đầu đoàn đại
biểu là Đức Giáo hoàng Gioan I. Sứ vụ của Đức Giáo hoàng Gioan I hoàn thành
tốt đẹp nhưng hoàng đế Thêôđôric vẫn không hài lòng. Sau khi trở về Rôma,
Đức Giáo hoàng Gioan I bị các vệ sĩ của Thêôđôric bắt cóc bỏ tù. Trải qua
nhiều gian khổ đói khát trong tù, thánh nhân qua đời ba năm sau đó.
Trong những lúc tù đày, Đức thánh Giáo hoàng Gioan I suy niệm về những khó
khăn mà thánh Phaolô đã trải qua, ngài đã để lại những lời đầy thuyết phục
như sau: “Trong
tất cả những nỗi khổ cực ấy, người không kêu ca trách móc Thiên Chúa như
những người yếu đức tin thường làm, cũng không buồn phiền như những kẻ háo
danh và ham khoái lạc, không
đòi Thiên Chúa giải gỡ cho khỏi những nỗi khổ cực ấy, như những kẻ không
hiểu biết giá trị của những thứ đó nên tìm cách xa tránh. Người cũng không
coi nhẹ như những kẻ khinh thường giá trị của những thứ đó. Nhưng một khi
dẹp bỏ mọi ngu xuẩn và hèn nhát, người chúc tụng Thiên Chúa trong chính
những nỗi gian truân và tạ ơn Đấng thi ân, như nhận được phần thưởng lớn.
Người cho mình là hạnh phúc khi có thể chịu được một đôi điều để tôn kính
Chúa, Đấng đã chịu biết bao ô nhục cách lạ lùng để cứu chúng ta khỏi những
nỗi ô nhục chúng ta phải chịu vì tội.” 2
Đọc lại tiểu sử Đức thánh Giáo hoàng Gioan I, ta cảm thấy tiếc nuối cho một
con người thánh thiện, tài cao, lại phải bỏ lại hành trình sứ vụ còn dang
dở. Tuy nhiên, ngài đã hoàn tất cuộc đời trong đức tin một cách trọn vẹn.
Điều đó thật không dễ dàng! Và rất đáng ca ngợi.
Cảm thấu những khó khăn trong việc giữ đức tin, Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn
Thuận đã nói: “Không
ai bắt con chối Chúa, nhưng có thể bắt con đi ngược lại với đường lối Chúa,
lấy cớ ‘để giữ đức tin.’ Thật là mâu thuẫn: Đức tin của con sẽ chết vì con
sợ chết, sợ đau, sợ cực.” 3 Đây
cũng là trăn trở mà chúng ta lo cho chính mình và cho các bạn trẻ trong thời
đại này. Chắc chắn, có những bất trắc trở ngại khi người ta hành động vì đức
tin. Vẫn biết, mỗi ngày người trẻ phải chống chọi với nhiều tư tưởng vô thần
với những câu hỏi chất vấn niềm tin. Những lời động viên đầy nhiệt khí của
Đức thánh Giáo hoàng Gioan I như thêm động lực giúp người tín hữu đặc biệt
là những tín hữu trẻ được thêm mạnh mẽ: “Từ
nỗi đau buồn hiện tại mà vinh quang dành cho chúng ta rực rỡ biết chừng nào!
Thiên Chúa rộng mở đôi tay đón chúng ta, đôi cánh tay nhẹ nhàng thân ái và
êm dịu biết bao, để tiếp rước những kẻ bị thương tích khi chiến đấu cho
Người. Chắc hẳn điều này mang lại một sự êm dịu ngọt ngào hơn mọi thứ mật
ong mà công lao vất vả có thể sản xuất ra ở trên đời.” 4
Lạy Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Thánh Giáo hoàng Gioan I, xin Chúa hướng
dẫn chúng con biết cách trở nên những Kitô hữu can trường, xin Chúa ban cho
các bạn trẻ biết sẵn sàng chấp nhận những thua thiệt ngang trái và biết cách
đáp trả cho những chất vấn về niềm tin của mình một cách xứng hợp. Amen
1 https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-04/dtc-phanxico-ngay-nay-nhieu-kito-huu-bi-bach-hai-hon.html
2 Trích
thư của Thánh Gioan Avila, bài đọc 2 - BĐKS, ngày 18/5.
3 Đường
Hy Vọng, số 286.
4 Trích
thư của Thánh Gioan Avila, bài đọc 2 - BĐKS, ngày 18/5.
http://daminhrosalima.net/phut-cau-nguyen-moi-ngay/ngay--185---thanh-gioan-i-giao-hoang--tu-dao-29190.html
Thứ Năm sau Chúa
Nhật V Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 15,
7-21
"Tôi xét là không nên làm khó dễ
các người dân ngoại trở về với Thiên Chúa".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, khi đã cứu xét kỹ
càng, Phêrô đứng lên nói: "Hỡi anh em, anh em biết rằng từ những ngày đầu,
Thiên Chúa đã chọn tôi để dân ngoại được nghe lời Phúc Âm do miệng tôi và
tin. Thiên Chúa đã thấu biết các tâm hồn và đã minh chứng bằng cách ban
Thánh Thần cho họ, như đã ban cho chúng ta; Người không phân biệt chúng ta
với họ, vì dùng đức tin thanh tẩy tâm hồn họ. Vậy giờ đây sao anh em thách
thức Thiên Chúa khi anh em đặt lên cổ các môn đồ cái ách mà cả tổ phụ chúng
ta lẫn chúng ta không sao mang nổi? Nhưng chúng ta tin rằng nhờ ơn của Chúa
Giêsu Kitô mà chúng ta được cứu độ cùng một thể thức như họ". Tất cả đám
đông đều im lặng, rồi họ nghe Barnaba và Phaolô kể lại bao nhiêu phép lạ, và
việc kỳ diệu Thiên Chúa đã nhờ các ngài mà thực hiện giữa các dân ngoại.
Khi hai ngài dứt lời, Giacôbê lên
tiếng nói rằng: "Hỡi anh em, hãy nghe tôi. Simon đã thuật lại cách thức
Thiên Chúa trước tiên đã thương chọn cho danh Người một dân giữa chư dân.
Lời các tiên tri cũng phù hợp như vậy, như đã chép rằng: "Sau đó Ta sẽ trở
lại và tái thiết lều của Ðavít đã sụp đổ. Ta sẽ tu bổ những chỗ hư hại và sẽ
dựng nó lên, để các kẻ còn lại và tất cả dân ngoại kêu cầu danh Ta, sẽ tìm
kiếm Chúa. Chúa phán và thực hành các việc đó. Từ đời đời Chúa biết các việc
Chúa làm". Vì vậy, tôi xét là không nên làm khó dễ các người dân ngoại trở
về với Thiên Chúa, nhưng truyền cho họ kiêng những ô uế của tượng thần, đừng
gian dâm, và kiêng thịt các con vật chết ngạt và kiêng máu. Vì chưng từ thời
xưa người ta đã rao giảng Môsê trong mỗi thành, họ đọc sách của người mọi
ngày Sabbat trong các hội đường".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 95,
1-2a. 2b-3. 10
Ðáp: Hãy tường
thuật phép lạ Chúa giữa chư dân (c. 3).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa bài ca mới,
hãy ca mừng Chúa đi, toàn thể địa cầu! Hãy ca mừng Chúa, hãy chúc tụng danh
Người. - Ðáp.
2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người
cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân và phép lạ Người ở nơi
vạn quốc. - Ðáp.
3) Người giữ vững địa cầu cho nó khỏi
lung lay; Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. - Ðáp.
Alleluia: Ga 16, 17
và 13
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy
sẽ sai Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật". -
Alleluia.
Phúc Âm: Ga 15,
9-11
"Các con hãy ở trong tình yêu của
Thầy, để niềm vui của các con được trọn vẹn".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại
trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân giữ lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở
trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên
Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó, để niềm
vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn".
Ðó là lời Chúa.

Chủ đề
"Thày là sự sống" cho Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh theo
chiều kích Liên Hệ Thần Linh cho Tuần Lễ V Phục Sinh tiếp tục càng được
thể
hiện trong bài Phúc Âm Thứ Năm hôm
nay:
"Chúa Cha đã
yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại
trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ
ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy
và ở lại trong tình thương của Người. Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để
anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn
vẹn".
Mối
Liên Hệ Thần Linh trong bài
Phúc Âm hôm nay chẳng những giữa Chúa Kitô và các tông đồ, mà còn giữa
các tông đồ và Cha trên trời qua trung gian của Chúa Kitô nữa. Ở chỗ: "Chúa
Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy".
Trong bài
Phúc Âm
hôm nay, Chúa Kitô còn cho các tông đồ biết cách thức các vị có thể "ở lại trong tình
thương" của Người, đó là "giữ các điều răn" của Người, nghĩa là
làm theo ý muốn của Người, hay nói ngược lại, để cho ý muốn của Người trở
thành hiện thực trong đời sống của Kitô hữu, hay để cho Người sống trong
Kitô hữu, nhờ đó họ mới có thể suy tưởng, ước muốn, phát biểu, tác hành và
phản ứng như Chúa Kitô và với Chúa Kitô, Đấng, qua họ và nhờ chứng từ của họ, tiếp
tục tỏ
mình ra cho những ai nhìn thấy họ, lắng nghe họ và gần gũi họ!
Nếu việc
"ở lại trong tình
thương"
của Chúa Kitô là ở chỗ
“giữ các giới răn”
của Người, mà giới răn cao
cả nhất Người dạy đó là
“các con hãy
yêu nhau như Thày đã yêu thương các con”
(Gioan 13:34, 15:12), thì việc
"ở lại trong tình
thương"
của Chúa Kitô nghĩa là để cho Người yêu thương tha nhân trong chúng
ta và qua chúng ta. Như thế, theo những gì Chúa Giêsu nói trong bài phúc âm
hôm nay, thì mối liên hệ thần linh ở chỗ tình yêu từ Cha qua Chúa Kitô sang
nhiệm thể Giáo Hội và từng phần thể của Giáo Hội đến toàn thể nhân loại vậy.
Bài Phúc Âm hôm nay vẫn tiếp tục chiều hướng sự sống thần linh như các
bài Phúc Âm trong tuần Phục Sinh thứ V này. Nếu bài Phúc Âm Thứ Ba hôm kia
cho thấy sự sống thần linh chính là sự sống nội tâm của Kitô hữu, ở nơi bình
an đích thực họ cảm nghiệm thấy như Chúa Kitô Phục Sinh ban cho họ, và nếu
bài Phúc Âm Thứ Tư hôm qua cho thấy sự sống thần linh cũng bao gồm cả sự
sống tông đồ, sự sống sinh hoa trái thiêng liêng là phần rỗi của các linh
hồn bằng đức ái trọn hảo như Thày và của Thày (như bài Phúc Âm Chúa Nhật đầu
tuần), thì bài Phúc Âm thứ năm hôm nay cho thấy sự sống thần linh ấy phải
được tỏ hiện bằng một "niềm vui... trọn vẹn", một niềm vui như của
một người đàn bà sinh nở (xem Gioan 16:21) sau cơn đau, một niềm vui của
cành nho "được cắt tỉa cho càng sai trái hơn" (Gioan 15:2).
Chỉ có những tâm hồn nào "ở lại trong tình yêu của Thày", một
tình yêu Thày đã yêu họ như Cha đã yêu Người, và là một tình "yêu cho
đến cùng" (Gioan 13:1), bằng cách "giữ các giới răn của Thày",
nhất là "giới răn mới" là giới răn "các con hãy yêu thương nhau
như Thày đã yêu thương các con" (Phúc Âm Chúa Nhật đầu tuần), mới thực
sự cảm nghiệm được "niềm vui ... trọn vẹn" này như Thày và với Thày
mà thôi. Bởi vì họ, như cành nho được "cắt tỉa cho càng sai trái hơn",
đã diễm phúc "được thông phần với Thày" (Gioan 13:8) trong cuộc Khổ
Nạn và Tử Giá của Thày, như Mẹ Maria đứng kề bên Thánh Giá Con Mẹ (xem Gioan
19:25). Bởi thế nên, chỉ có họ mới cảm nghiệm thấy lời Chúa Kitô đã nió một
cách ngược đời rằng: "Nỗi sầu thương của các con sẽ trở thành niềm vui"
(Gioan 16:20), như hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Giaon đã "vui vì được chịu
khổ vì danh Thày" (Tông Vụ 5:41).
Các vị "được thông phần với Thày" không phải chỉ ở nơi "niềm
vui... trọn vẹn", mà còn ở chỗ "buồn đến nỗi chết được"
(Mathêu 26:38) với Người, mỗi khi
các vị
thấy anh chị em
các vị sa ngã phạm tội; bấy
giờ,
các vị chẳng những không khinh bỉ, nói xấu hay xa lánh họ, mà còn, trái
lại, cầu nguyện cho họ, hy sinh đền tội thay cho họ, để họ có thể ăn năn
thống hối trở về cùng Chúa, như Chúa Kitô trên Thánh Giá: "Lạy Cha, xin
tha cho họ vì họ lầm không biết việc họ làm" (Luca 23:34). Cuộc đời của
các vị
có thể nói là một cuộc hành trình Chúa Kitô tìm kiếm con chiên lạc của
Người vậy. Và vì thế, "niềm vui... trọn vẹn" của
các vị
chính là niềm vui thiên
đường khi tìm được con chiên lạc: "trên
trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối"
(Luca 15:7), và là niềm vui của người cha "hôn lấy hôn để"
(Luca 15:20)
đứa con phung phá trở về như nó "đã chết mà sống lại vậy" (Luca
15:32).
Bài Đọc
1 (Tông Vụ 15:7-21)
Vấn đề
"giữ các điều răn của Thày"
trong bài phúc âm hôm nay cũng được
tỏ hiện trong bài đọc
1 hôm nay, qua quyết định
tối hậu của công đồng Giêrusalem về vấn đề không cần cắt bì theo nghi thức
Do Thái giáo xưa mới trở thành Kiô hữu, mới được cứu rỗi, mà việc cứu rỗi là
do ân sủng của Chúa Kitô được chấp nhận bởi những ai tin
vào Người,
kèm theo những việc làm tương xứng với đức tin Kitô giáo của họ:
"Sau
khi các ông đã tranh luận nhiều, ông Phê-rô đứng lên nói: 'Thưa anh em, anh
em biết: ngay từ những ngày đầu, Thiên Chúa đã chọn tôi giữa anh em, để các
dân ngoại được nghe lời Tin Mừng từ miệng tôi và tin theo. Thiên Chúa là
Đấng thấu suốt mọi tâm can đã chứng tỏ Người chấp nhận họ, khi ban Thánh
Thần cho họ cũng như đã ban cho chúng ta. Người không phân biệt chút nào
giữa chúng ta với họ, vì đã dùng đức tin để thanh tẩy lòng họ.... Chính nhờ
ân sủng Chúa Giê-su mà chúng ta tin mình được cứu độ, cùng một cách như họ."
Thứ Sáu sau Chúa
Nhật V Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 15,
22-31
"Thánh Thần và chúng tôi xét rằng
không nên buộc thêm cho anh em gánh nặng nào khác".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, các Tông đồ, kỳ
lão cùng toàn thể Hội Thánh, chấp thuận chọn ít người trong các ngài, và sai
đi Antiôkia với Phaolô và Barnaba: đó là Giuđa, gọi là Barsaba, và Sila,
những vị có uy thế giữa anh em. Các ngài nhờ tay hai ông chuyển bức thư viết
như sau: "Anh em Tông đồ và kỳ lão chúng tôi kính chào các anh em thuộc dân
ngoại ở Antiôkia, Syria và Cilicia. Chúng tôi nghe tin rằng có mấy người
trong chúng tôi đã đến nói những lời gây hoang mang và làm cho tâm hồn anh
em xao xuyến, chúng tôi không uỷ quyền cho họ, vì thế chúng tôi họp lại,
đồng ý chọn một ít người và sai đến anh em làm một với Barnaba và Phaolô,
những anh em yêu quý của chúng tôi, tức là những người đã liều mạng sống
mình vì danh Ðức Giêsu, Chúa chúng tôi. Vậy chúng tôi đã sai Giuđa và Sila
đến nói miệng với anh em cũng chính những lời này: Thánh Thần và chúng tôi
xét rằng không nên đặt thêm cho anh em gánh nặng nào khác ngoài mấy điều cần
kíp này là anh em hãy kiêng đồ cúng thần, huyết, thịt thú chết ngạt và gian
dâm; giữ mình khỏi các điều đó, là anh em làm phải. Chúc anh em vạn an".
Các ngài giã từ và đi xuống Antiôkia,
triệu tập dân chúng lại và trao cho họ bức thư. Ðọc thư xong, họ vui mừng vì
được an ủi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 56, 8-9.
10-12
Ðáp: Lạy Chúa, con
sẽ ngợi khen Chúa giữa chư dân (c. 10a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Lòng con bền vững, lạy Chúa,
lòng con bền vững; con sẽ hát xướng, con sẽ đàn ca. Hãy thức dậy, linh hồn
tôi ơi, hãy thức dậy, hỡi đàn sắt với đàn cầm, tôi sẽ làm cho bình minh thức
giấc. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, con sẽ ngợi khen Chúa
giữa chư dân; con sẽ hát mừng Ngài trong các nước: vì đức từ bi Chúa cao tới
cõi trời, và lòng trung tín Ngài chạm ngàn mây. Lạy Chúa, xin Ngài hiện ra
cao cả trên trời, xin tỏ vinh quang Ngài trên toàn cõi đất! - Ðáp.
Alleluia: Mt 28, 19
và 20
Alleluia, alleluia! - Các con hãy đi
giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. -
Alleluia.
Phúc Âm: Ga 15,
12-17
"Ðây là lệnh truyền của Thầy: Các
con hãy yêu mến nhau".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Ðây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã
yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng
vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những
điều Thầy truyền. Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết
việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe
biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. Không phải các con đã chọn
Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi, và
mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin
Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các con điều
này là: các con hãy yêu mến nhau".
Ðó là lời Chúa.

Chủ đề
"Thày là sự sống" về chiều kích Liên Hệ Thần Linh cho Tuần Lễ V Phục
Sinh tuần này tiếp tục được
bài Phúc Âm hôm nay cho thấy không
thể tách rời với đức bác ái yêu thương nhau nữa, một đức ái trọn
hảo như chính Người đã nói đến trong Bữa Tiệc Ly với các tông đồ ở Bài Phúc
Âm Chúa Nhật V đầu tuần, cũng theo Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 13 (hơn là
đoạn 15 như hôm nay), chứ không phải chỉ Liên Hệ
Thần Linh với Chúa Kitô thôi:
"Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương
anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh
tính mạng vì bạn hữu của mình".
Tuy nhiên
mối
Liên Hệ Thần Linh theo hàng ngang
là yêu thương nhau này lại hoàn toàn lệ thuộc vào mối Liên Hệ Thần Linh theo
hàng dọc giữa các tông đồ hay các môn đệ với Chúa Kitô, bằng không, họ không
thể nào "yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em".
Như
thế, bác ái
yêu thương giữa các môn đệ với nhau và với tha nhân đồng loại chính là
hoa trái của mối
Liên Hệ Thần Linh giữa họ và Chúa Kitô, một mối Liên hệ Thần Linh thân mật
như giữa bạn hữu với nhau, chứ không phải giữa chủ
và tớ,
một
mối Liên Hệ Thần Linh bằng hữu hiệp nhất nên một đến độ
có gì cũng cho nhau biết để
cùng thông hưởng, nhờ đó có thể tác hành một cách thích đáng và mang lại tác
dụng tối đa:
"Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh
em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ
nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì
tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết. Không
phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em
để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất
cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh
em. Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau".
Căn cứ vào toàn bộ bài Phúc Âm hôm nay
về đức bác ái yêu thương, dường như chúng ta không thấy chủ đề "Thày là sự
sống" của Mùa Phục Sinh hậu Tuần Bát Nhật đâu hết. Tuy nhiên, nếu tình yêu
là sự sống hiệp thông và yêu là sống hiệp thông, ngược lại, nếu không yêu
thương thì ở trong sự chết và ai ghét anh em mình là kẻ sát nhân, như Thánh
Gioan đã khẳng định (xem 1 Gioan 3:14-15).
Bởi thế, sự sống ở đây chính là bác ái
yêu thương, và trong bài Phúc Âm này sự sống là chính đức ái trọn hảo -
perfect love / perfectae caritatis, ở chỗ: "Các
con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con". Mà Người yêu mến
thành phần môn đệ của Người như thế nào, nếu không phải cho đến hy sinh
chính mạng sống mình cho họ, coi họ còn cao quí và cao trọng hơn cả mạng
sống mình nữa:
"Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu
mình". Chưa hết, Người còn yêu họ "đến cùng" (Gioan 13:1), đến con
chiên lạc cuối cùng là tông đồ Giuđa Íchca trong việc Người rửa chân cho cả
người môn đệ đáng thương này. Còn nữa, Người còn yêu thương cả kẻ thù của
Người là thành phần lên án tử cho Người và ra tay hành khổ, xỉ nhục cùng sát
hạt Người: "Lạy Cha xin Cha tha cho họ vì họ lầm không biết việc họ làm"
(Luca 23:34). Tóm lại, tình yêu của Chúa Kitô là tình yêu cứu độ, một tình
yêu đến gánh lấy tất cả tai vạ của tội nhân nhân loại để đền tội cho họ và
nhờ đó họ có thể "được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn"
(Gioan 10:10).
"Bạn hữu" đây không phải hiểu theo nghĩa
thường, ngoài liên hệ ruột thịt, mà là theo nghĩa thân thiết, như vợ chồng
không ruột thịt với nhau nhưng lại là bạn trăm năm của nhau. Và chính vì
thân thiết trong tình bạn bè mới tỏ cho nhau biết hết bầu tâm sự của mình,
một bầu tâm sự không thể bạ ai cũng chia sẻ, như người lạ mặt ngoài đường
hay người "đầy tớ" đối với chủ được Chúa Giêsu nhắc đến trong bài Phúc Âm
hôm nay.
Bầu tâm sự của Chúa Giêsu muốn tỏ cho thành phần môn
đệ bạn hữu của Người, thành phần được Người coi trọng hơn chính sự sống của
Người, đó là
"tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con
biết", ám chỉ "Cha Thày yêu Thày thế nào Thày cũng yêu các con như
vậy" (Gioan 15:9). Chúa Giêsu thực sự là hiện thân của tình yêu vô cùng
thương xót của Thiên Chúa đối với chung loài người và riêng Giáo Hội của
Người, hay nói đúng hơn Người chính là Tình Yêu Thương Xót của Thiên Chúa
vậy, một tình yêu tự mình không một tạo vật nào xứng đáng nếu Ngài không tự
tỏ ra trước, bất chấp thân phận bất xứng hay bất cân xứng của đối tượng được
Ngài yêu.
Đó là ý nghĩa sâu xa ở câu Chúa Giêsu đã nói tiếp ngay sau đó: "Không
phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con". Chính vì
được Thiên Chúa yêu thương nhưng không và yêu cho tới cùng như vậy nơi Chúa
Giêsu Kitô (xem Gioan 13:1), mà thành phần bạn hữu môn đệ của
Con Ngài, thành phần thật ra thân phận chỉ là đầy tớ của Ngài và của
Con Ngài, nhưng được thăng hóa thành bạn hữu của Con Ngài nhờ tình yêu của
Ngài, phải đáp ứng tình yêu của Ngài, hay đúng hơn để cho Ngài yêu thương,
bằng việc hoàn toàn tin tưởng phó thác vào tình yêu vô cùng nhân hậu của
Người, cho đến độ Người chiếm đoạt họ và làm chủ họ, để nhờ đó họ có thể yêu
nhau và yêu tha nhân như: "Thày đã yêu" (Gioan 13:34; 15:12). Đó là lý do trong cùng bài Phúc Âm hôm nay Chúa
Giêsu đã nói đến mục đích của việc "Thày đã chọn các con" đó
là: "để các con đi, và mang lại hoa trái" - Hoa Trái yêu
thương: "các con hãy yêu mến nhau", như Người lập lại ở cuối bài
Phúc Âm hôm nay.
Bài Đọc
1 (Tông Vụ 15:22-31)
Mối
Liên Hệ Thần Linh giữa Chúa Kitô và các tông đồ của Người ngay từ khi Giáo
Hội còn sơ khai đã cho thấy Người luôn ở cùng các vị, cũng như các vị luôn ở
cùng Người, do đó các vị đã có những quyết định đúng như những gì Người mong
muốn, hoàn toàn ngược lại với những ai có tinh thần khác biệt với các vị,
gây rắc rối trong Giáo Hội bấy giờ. Đoạn thư được các vị gửi để công bố
quyết định "đồng tâm nhất trí" của
các vị đã thực sự phản ảnh Mối Liên hệ Thần linh của các vị với Chúa
Kitô, Đấng sống trong từng cá nhân họ và chung cộng đồng Giáo Hội bằng Thánh
Thần của Người, Đấng
"đã quyết định" với các vị:
"Anh em Tông Đồ và kỳ mục chúng tôi
gửi lời chào anh em gốc dân ngoại tại An-ti-ô-khi-a, tại miền Xy-ri và
Ki-li-ki-a. Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được
chúng tôi ủy nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm
anh em hoang mang. Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn
một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân
mến của chúng tôi là ông Ba-na-ba và ông Phao-lô, những người đã cống hiến
cuộc đời vì danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi cử ông
Giu-đa và ông Xi-la đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây: Thánh
Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào
khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng,
kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em
cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh."
Thánh Bênađinô Siêna
 |
Bênađinô Siêna có tâm hồn nhạy cảm. Ngài rất thương mến
những người nghèo khổ. |
THÁNH BÊNAĐINÔ SIÊNA HIỂN TU
Ngày 20 tháng 05
Thánh Bênađinô nổi tiếng là một chiến sĩ Phúc âm vì suốt đời ngài đã
tận tụy rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô cho dân miền Tuscia, Lombađia,
Rôma và Mác Ancônê... Thật ngài quả xứng đáng được người đương thời
xưng tụng là “cán bộ trung kiên của Vua Trời”.
Bênađinô sinh ra và chịu phép rửa tội trong cùng một ngày 08-9-1380,
sau này nhớ lại ngày hạnh phúc đó, Bênađinô đã viết những giòng đầy
cảm động: “Ôi ngày hạnh phúc, ngày mà tôi được sinh ra làm người, và
làm con đích thực của Thiên Chúa hằng sống”. Quả thế, vì muốn
Bênađinô sớm trở thành người con riêng của mình, Thiên Chúa đã để
cho ngài chịu số phận mồ côi mẹ hồi mới lên ba tuổi, và mất cha khi
chưa được sáu tuổi. Cha mẹ Bênađinô là những tín hữu nhân đức, biết
kính sợ Thiên Chúa và quảng đại với tha nhân. Sau hai lần chịu tang,
Bênađinô được Chúa giao cho mấy bà dì đạo đức, là Điana, Poa và
Batôlômêa. Các bà thay người chị quá cố, nuôi dưỡng và dậy dỗ cháu
về mọi phương diện, nhất là đời sống trọn lành. Đáp lại lòng tốt của
các dì, Bênađinô luôn sống ngoan ngoãn, vâng lời và cần mẫn. Năm 12
tuổi, cậu được gửi học tại Siêna, để chuyên về văn chương, triết lý,
giáo luật, thần học và Kinh thánh. Năm 17 tuổi, Bênađinô xin gia
nhập hội “Anh em con Đức Mẹ” và bắt đầu đời sống hiến thân cho Đức
Mẹ. Gặp kỳ dân thành bị bệnh dịch, sinh viên Bênađinô hăng hái lao
mình phục vụ bệnh nhân trong nhiều nhà thương. Làm việc như vậy suốt
bốn tháng cho đến khi người dì cuối cùng, bà Batôlômêa được Chúa cất
về, Bênađinô mới được tự do theo tiếng Chúa kêu gọi.
Không trì hoãn, sáng ngày 08-9-1402, thánh nhân đem tất cả gia tài
phân phát cho người nghèo khó, rồi tiến thẳng đến gõ cửa một tu viện
dòng thánh Phanxicô tại Siêna. Cha tu viện trưởng niềm nở đón nhận
và năm sau cho Bênađinô mặc áo dòng. Nhưng hai tháng sau, Bênađinô
lại xin rút lui vào một tu viện lập giữa rừng xanh. Ở đây thầy
Bênađinô được sống những ngày thinh lặng và gần Chúa hơn lúc nào
hết. Nhờ đó nhân đức của thầy không bao lâu đã trổi vượt hơn các tu
sĩ khác. Thầy để ý riêng đến nhân đức trinh khiết. Ngày 08-9-1403
thầy Bênađinô được khấn dòng và năm sau chịu chức linh mục. Trong
buổi lễ mở tay, cha Bênađinô đã giảng một bài rất sốt sắng về “Mầu
nhiệm Sinh nhật của Đức Maria”. Cha cũng rất mộ mến sự thương khó
Chúa nên đã có lần tự vác cây thánh giá rất nặng, đi chân không tới
một làng gần miền Sangana để ôn lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.
Năm 1405, cha Bênađinô được lệnh bề trên cả sai đi giảng đạo. Mùa hè
năm ấy, ngài giảng tại Siêna và Alberinô. Để duy trì ảnh hưởng lâu
dài, cha Bênađinô đã lập tu viện Capriola tại Alberinô. Không những
là một linh mục đi thuyết giáo, năm 1417, cha còn giữ chức giám thị
tại tu viện Fiêôsôlê. Cha làm việc tại đấy cho đến khi được bài sai
đi giảng đạo tại Lombađia.
Sung sướng như con trẻ được quà của mẹ, cha Bênađinô hân hoan lên
đường. Cuối năm ấy, cha đến thành Milanô, một thành ngột những ảnh
hưởng đồi phong bại tục. Mùa chay năm 1418, cha giảng tại nhà thờ
chính toà Milanô. Dân chúng lũ lượt đến nghe lời cha. Lúc ra về, vẻ
phấn khởi hiện trên nét mặt mỗi người, họ chuyền miệng nhau một lời
quyết đoán: “Cha Bênađinô nhân đức quá, cha là sứ giả đích thực của
Thiên Chúa...” Người ta còn kể, một lần kia đang giảng, cha bỗng yên
lặng, mắt nhìn trời. Dân chúng bỡ ngỡ, trố mắt nhìn theo... Đến sau
mới hay là chính lúc đó cha Bênađinô được Chúa cho trông thấy linh
hồn trinh bạch của bà dì Điana, một thiếu phụ nhân đức đã giúp cha
rất nhiều trong thời thơ ấu, được Chúa gọi về trời. Mọi người sung
sướng và không ngớt lời ca tụng nhân đức của người tôi tớ Thiên
Chúa! Tín nhiệm đời sống thánh thiện của cha, năm 1419, bề trên lại
sai cha đi giảng tại nhiều tỉnh khác ở về phía bắc.
Công việc truyền giáo của cha Bênađinô được kết quả tốt đẹp một phần
là nhờ ở những phép lạ Chúa đã làm qua tay cha. Năm 1420, tại
Mantua, một tên lái đò ghét đạo, không chịu chở ngài qua sông, nhưng
được ơn soi sáng cha cởi áo choàng, giơ tay làm dấu thánh giá rồi
trải ra làm mảng qua sông. Tại Bergnô và Brescia cha đã khéo léo dàn
xếp và gây tình đoàn kết giữa nhiều đảng phái. Năm 1423, tại
Vêronnê, cha lại cải tử hoàn sinh một người bị chết vì hoả hoạn.
Từ đó tiếng nhân đức của cha Bênađinô càng vang xa. Nhiều Giám mục
và cha xứ biên thư xin cha đến giảng các tuần đại phúc. Lợi dụng
những dịp đặc biệt này cha Bênađinô cổ võ việc tôn sùng Thánh Danh
Chúa Giêsu. Số người đến nghe cha giảng rất đông. Có lần tới hai vạn
người chen chúc nhau không kể chi những cơn mưa giông của chiều hè.
Trong số thính giả trung thành của cha, người ta kể đến Đức Piô II
khi đó còn là một sinh viên đại học thành Siêna. Ngoài ra cha
Bênađinô còn vận động dựng nhiều tượng đài đặt tượng Đức Mẹ để giáo
hữu lui tới cầu nguyện. Kết quả và hoạt động tông đồ của cha là một
số rất đông người khô khan trở nên sốt sắng, người chưa biết đức tin
được ánh sáng Phúc âm chiếu dọi.
Năm 1427, cha Bênađinô lần lượt giảng mùa chay tại Ombria và
Viterbê. Sau đó cha sang Rôma để biện bạch những lời vu cáo của bè
rối. Trước mặt Đức Giáo Hoàng Máctinô V và một số các cha dòng
Đaminh, cha Bênađinô đã trả lời khiêm tốn, gẫy gọn và xác đáng những
vấn nạn hội đồng nêu lên. Và kết quả sau cùng là Đức Giáo Hoàng
tuyên bố chuẩn nhận lời rao giảng của cha Bênađinô là không có gì
trái với đức tin và luân lý công giáo. Sau đó cha lại được mời giảng
tại Rôma. Cha giảng 114 bài kèm theo nhiều phép lạ. Vì cảm mến, giáo
dân thành Siêna đệ đơn xin Đức Giáo Hoàng đặt cha làm Giám mục,
nhưng cha đã khôn khéo và khiêm tốn từ chối.
Năm 1431, cha Bênađinô lại đến giảng tuần đại phúc tại Tuscia,
Lombađia, Macancônê. Cuốn biên niên sử do một số sử gia thành Forli
chép, cho chúng ta biết phần nào kết quả rực rỡ Chúa đã ban cho cha
trong thời gian này. Lời Thánh vịnh sau đây áp dụng về cha thật rất
đúng: “Miệng người công chính giảng lời khôn ngoan” (Tv.31,30).
Sau nhiều năm đi rao giảng, năm 1438, cha Bênađinô được làm bề trên
tỉnh dòng Phanxicô cải tổ tại Italia. Với lòng nhiệt thành sẵn có,
cha tận tâm giúp các tu sĩ sống nhiệm nhặt theo đúng tinh thần luật
dòng. Nhưng mấy năm sau, vì có nhiều tu viện tỏ ý phản đối nếp sống
khắc khổ của cha, cha Bênađinô bèn xin Đức Giáo Hoàng Êugiêniô IV
cho từ chức. Từ đó cha Bênađinô lại tiếp tục lăn mình vào công việc
truyền giáo, dù khi đó cha đã tuổi già sức yếu! Cha giảng thuyết tại
Milanô, phản đối những tư tưởng rối đạo của một giáo sư đại học tên
là Amêđi. Mùa chay năm 1443, theo lời mời của hai hầu tước thành
Ferrarê và Pađôva, cha đến giảng tại nhà thờ chính toà của mỗi thành
và được dân chúng nhiệt liệt hưởng ứng!
Năm sau, cha Bênađinô đến ngụ tại tu viện Capriôla. Tại đây ngài dọn
nhiều bài giảng về “Tám mối phúc thật” và viết một cuốn sách nhỏ
nhan đề là “Đời sống Kitô hữu” (Christiana vita). Mùa chay năm ấy
cha đi giảng tại Missa. Nơi đây cha đã làm phép lạ chữa khỏi một
người bất toại từ nhỏ. Sau đó cha tiếp tục đi diễn thuyết tại thành
Đômê với đề tài “Đức thanh liêm của chính quyền...”. Cha làm việc
liên lỉ như thế... cho đến ngày 20-5, ngày vọng lễ Chúa Lên Trời,
bất ưng cha ngã bệnh nặng. Biết giờ đã đến, cha xin chịu các phép
sau hết và êm ái trút hơi thở cuối cùng.
Tin buồn loan đi, dân chúng nô nức kéo đến viếng xác cha, vì số dân
đông quá, người ta phải để thi hài cha tại nhà thờ suốt 20 ngày;
trong thời gian đó, như để thưởng công đời sống đạo đức của cha,
Chúa đã ban ơn cho nhiều người được khỏi bệnh khi chạm đến thi thể
hay đồ dùng của cha. Vì thế số người tứ xứ kéo đến xin các đồ dùng
của cha về làm vật kỷ niệm cứ mỗi ngày một đông.
Vì lòng sùng mộ, ngay năm đó nhiều nơi đã đệ lên xin Đức Giáo Hoàng
cho phép kính cha như một vị thánh. Riêng cha Gioan Capitranô còn
đến Napôli cộng tác với Hoàng đế Anphong Aragon cổ động phong trào
phong thánh cho cha Bênađinô. Hàng trăm lá đơn thỉnh cầu được đệ lên
Đức Giáo Hoàng. Đầu tiên Đức Nicôla V chỉ muốn giãn lại để việc điều
tra được kỹ lưỡng. Nhưng vì phong trào vận động mỗi ngày một sôi
nổi, nên ngày 24-5-1450, ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống, Đức
Giáo Hoàng đã long trọng tuyên bố ghi tên cha Bênađinô vào sổ các vị
hiển thánh.
http://tinmung.net
http://bangiaoly.org/tu-duc/phung-vu-chu-thanh/19-05-thanh-benadino-siena/
Nhờ việc tôn sùng Thánh Danh Chúa Giêsu và lòng sùng kính Mẹ Maria,
Bênađinô Siêna đã đem hàng ngàn người trên khắp nước Ý trở về với
Giáo hội.
Thánh Bênađinô Siêna sinh năm 1380 tại một thị trấn gần thành phố
Siêna, nước Ý. Ngài là con trai của một nhà chức sắc người Ý. Song
thân Bênađinô qua đời khi ngài mới lên bảy. Những người bà con của
Bênađinô quý mến ngài như con ruột của họ. Họ cũng cho Bênađinô ăn
học đến nơi đến chốn. Bênađinô trưởng thành với dáng vẻ một cậu trai
cao to đĩnh đạc. Bênađinô có tính pha trò nên các bạn bè của
Bênađinô thích được ở bên ngài. Tuy nhiên, họ biết rằng không nên
nói bất cứ lời thô tục nào khi có sự hiện diện của Bênađinô, vì ngài
sẽ không khoan thứ cho điều ấy. Hai lần khi một gã thanh niên kia dụ
dỗ Bênađinô phạm tội, cả hai lần Bênađinô đã tặng cho hắn một quả
đấm và đuổi hắn đi.
Thánh Bênađinô Siêna có một tình yêu đặc biệt nồng nàn đối với Đức Trinh
Nữ Maria. Chính Đức Mẹ là Đấng gìn giữ tâm hồn ngài trong sạch. Ngay khi
còn ở tuổi niên thiếu, Thánh Bênađinô Siêna đã đơn sơ cầu nguyện với Đức
Mẹ y như một con trẻ thưa truyện với mẹ nó vậy.
Bênađinô Siêna có tâm hồn nhạy cảm. Ngài rất thương mến những người
nghèo khổ. Lần kia, người cô của Bênađinô Siêna không còn thức ăn cho
thêm một người hành khất nữa, cậu bé liền la lớn tiếng: “Thà con chịu bỏ
đói còn hơn là để cho người đàn ông đáng thương ấy phải ra đi mà chẳng
được chút gì!” Năm 1400, khi cơn dịch tả tấn công thành phố, Thánh
Bênađinô và các đồng bạn của ngài đã tình nguyện tới giúp bệnh viện. Họ
ngày đêm săn sóc những người đau yếu và hấp hối suốt sáu tuần lễ cho tới
khi cơn dịch chấm dứt.
Khi lên hai mươi hai tuổi, Bênađinô Siêna gia nhập dòng Thánh Phanxicô
khó khăn. Rồi Bênađinô Siêna làm linh mục. Sau nhiều năm phục vụ, thánh
nhân được chỉ định tới các thị trấn và thành phố rao giảng. Thánh
Bênađinô Siêna đã nhắc nhớ cho mọi người về lòng yêu thương của Đức Chúa
Giêsu. Trong những ngày ấy, các thói xấu làm suy vi tinh thần đạo đức
của cả người già lẫn con trẻ. “Làm sao con có thể tự mình cứu lấy những
người này?” trong lời kinh, Bênađinô Siêna đã hỏi Thiên Chúa. “Con có
thể dùng thứ vũ khí nào để chống lại ma quỷ?” và Thiên Chúa trả lời:
“Thánh Danh Ta đủ cho con!” Vì thế, Bênađinô Siêna đã rao giảng lòng tôn
sùng Thánh Danh Chúa Giêsu. Ngài sử dụng Thánh Danh này rất nhiều lần
trong mỗi bài giảng. Thánh nhân xin người ta in Thánh Danh Chúa Giêsu và
dán trên các cổng ra vào của thành phố, trên khắp các cánh cửa... Nhờ
việc tôn sùng Thánh Danh Chúa Giêsu và lòng sùng kính Mẹ Maria, Bênađinô
Siêna đã đem hàng ngàn người trên khắp nước Ý trở về với Giáo hội.
Thánh Bênađinô Siêna đã trải qua bốn mươi hai năm trong đời tu dòng
Phanxicô. Thánh nhân qua đời ngày 20 tháng Năm năm 1444 tại Aquila, nước
Ý, hưởng thọ sáu mươi tư tuổi. Chỉ sáu năm sau, năm 1450, Bênađinô Siêna
được đức thánh cha Nicôla V tôn phong hiển thánh.
Thánh
Bênađinô Siêna đã thực sự quan tâm đến mọi người. Thánh nhân đã dùng tất
cả nghị lực và niềm vui của mình để phục vụ Đức Chúa Giêsu và làm cho
người ta yêu mến Thánh Danh Chúa. Chúng ta cũng hãy năng cầu xin “Thánh
Danh Chúa Giêsu.”
Nguồn:https://dongten.net
https://dongten.net/2019/05/19/hanh-cac-thanh-20-05-thanh-benadino-siena/
http://www.cgvdt.vn/lich/hanh-cac-thanh/thanh-benadino-siena_a2242
http://www.donggioanthienchua.net/hanh-cac-thanh-20-05-thanh-benadino-siena.html
Một trung gian cần thiết
Chúng tôi lại kiên quyết chủ trì
quan điểm của chúng tôi nhờ uy tín thánh Giêrônimô, hoặc, theo ý kiến một ít
người, nhờ uy tín của một văn gia cổ nhân, tác giả một bài giảng được in gồm
trong tác phẩm của thánh tiến sĩ. Trong bài đó, ta còn đọc thấy những lời
này: “Trong Chúa Giêsu, ân sủng dư đầy như trong đầu, để từ đó phát nguyên;
còn trong Mẹ Maria, thì ân sủng sung mãn như trong cổ, dẫn lộ ban phát ra”.
Ý nghĩa câu trên là Chúa Giêsu choán gồm sung mãn mọi ân sủng, và chúng ta,
những chi thể của Chúa, chúng ta phải đến lĩnh nhận từ Chúa mọi sức sống,
tức là những cứu trợ chí linh cần thiết để được sống đời đời. Nhưng Mẹ Maria
thì choán gồm mọi ân sủng như cổ gồm chứa sức sống để thông lưu mọi phần chi
thể. Tư tưởng đó cũng là của thánh Bênađinô Siêna; thánh nhân còn giảng rõ
ràng hơn nữa rằng: “Nhờ Mẹ Maria điều hành, hết mọi ân sủng của đời sống
thiêng liêng phát nguyên từ Chúa là đầu, đã chan hòa đổ xuống trên các tín
hữu là nhiệm thể Chúa”.
Thánh Bonaventura cũng luận lý như
sau: “Thiên Chúa đã đoái đến cư ngụ trong lòng Mẹ Đồng Trinh chân phúc, nên
tôi không ngại quả quyết rằng từ đó, Mẹ đã thu dụng một quyền lợi trên toàn
thể các ân sủng, vì từ cõi lòng trinh vẹn của Mẹ, như từ một đại dương thiên
quốc, hết mọi dòng sông ân tứ đã phát nguyên cùng với Chúa Giêsu”. Thánh
Bênađinô Siêna còn trình bày tư tưởng trên bằng những lời văn trang trọng và
quả quyết hơn nữa, ngài viết: “Từ ngày Mẹ Đồng Trinh phôi dựng Ngôi Lời
Thiên Chúa, Mẹ đã được sử dụng toàn quyền tài phán đối với tất cả những cuộc
nhiệm sinh của Thánh Linh nơi trần gian – nghĩa là hết mọi linh ân Thánh
Linh thông ban cho loài người – đến nỗi từ ngày đó, không một ai được Chúa
ban ân sủng, mà lại không phải đến lĩnh nhận qua trung gian và qua bàn tay
của Mẹ Maria, Người Mẹ nhân từ âu yếm của chúng ta”.
Cũng theo cùng một chiều hướng vấn
đề chúng ta đang theo dõi, một tác giả đã chú giảng một câu trong sách tiên
tri Giêrêmia, lúc nhà tiên tri nói đến mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, đã tiên
báo một nữ nhân sẽ vòng quanh Thiên Chúa làm Người (Gr 31, 22). Tác giả đó
viết: “Như một đường thẳng kéo từ tâm một vòng tròn không thể ra miền ngoài
vòng tròn được, nếu không cắt đường tròn, thì cũng không thể có ân sủng nào
phát xuất từ Chúa Giêsu, tâm điểm mọi ơn lành, đến với chúng ta được mà
không qua Mẹ Maria, Người đã thực sự vòng quanh Con Thiên Chúa mọi chiều,
khi thụ thai trong lòng Mẹ”.
Căn cứ vào những lẽ trên, thánh
Bênađinô Siêna kết luận: “Tất cả mọi ơn trời, tất cả mọi nhân đức cũng như
tất cả mọi ân sủng đều do tay Mẹ Maria ban phát, phát cho ai, phát lúc nào,
phát thế nào, tùy ý Mẹ cả”. Và cha Risa cũng làm dội lại lời thánh nhân:
“Trong tất cả các ơn lành ban cho thụ tạo, Chúa không muốn một ơn nào được
ban ra mà không qua tay Mẹ Maria”. Thế nên, đức viện phụ đáng kính đan viện
Celles khuyến khích mọi người chúng ta chạy đến cùng Đấng mà ngài xưng tụng
là “Quản Thủ kho trời ân sủng”. Ngài kêu gọi: Đến đi, anh em, đến với Mẹ
Đồng Trinh vinh phúc, vì phải nhờ Mẹ làm trung gian, thế giới và toàn thể
nhân loại mới thấy các nguyện vọng của mình đựơc thực hiện, khi giơ tay lĩnh
nhận ơn lành.
Điều đó thực quá rõ ràng. Khi quả
quyết rằng hết mọi ân sủng chỉ trào xuống chúng ta qua Mẹ Maria, các thánh
và các tác giả, mà chúng tôi hân hạnh được viện chứng, hẳn đã chỉ chú ý nói
rằng: chúng ta đã nhờ Mẹ Maria mà được Chúa Giêsu là nguyên ủy mọi ơn lành,
như tác giả chúng tôi đã nói trên kia chủ trương, nhưng các ngài cũng lại
quả quyết rằng: ban Chúa Giêsu cho chúng ta rồi, Thiên Chúa còn muốn phàm
bất cứ ân sủng nào đã, đang và sẽ được ban ra cho đến tận thế nhờ công trạng
Chúa Cứu Thế lập, đều phải được ban ra hết thảy nhờ Mẹ Maria can thiệp và
ban phát.
Thánh Anphong Ligouri
http://www.dongcong.net/MeMaria/VinhQuangDM1/73.htm
Thứ Bảy sau Chúa
Nhật V Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 16,
1-10
"Xin đi sang Macêđonia mà cứu giúp
chúng tôi".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô đến Ðerbê
và Lystra. Ở đó có một môn đồ tên là Timôthêô, con của một bà Do-thái đã tin
đạo, còn cha là người dân ngoại. Các anh em ở Lystra và Icôniô chứng nhận
anh là người tốt. Phaolô muốn anh đi theo mình, vì nể người Do-thái ở trong
vùng ấy, nên Phaolô đã đem anh đi cắt bì, vì mọi người biết cha anh là người
dân ngoại. Khi hai ngài đi ngang qua các thành phố, hai ngài truyền lại cho
họ tuân giữ những giáo lý do các tông đồ và kỳ lão tại Giêrusalem đã quyết
định. Nhờ vậy, các giáo đoàn được vững mạnh trong đức tin và mỗi ngày càng
tăng thêm đông số.
Các ngài đi qua Phrygia và vùng
Galatia, vì Thánh Thần ngăn cản không cho rao giảng lời Chúa tại Tiểu Á. Khi
đến Mysia, các ngài tìm cách đi Bithynia; nhưng Thánh Thần của Chúa Giêsu
không cho phép. Vậy các ngài đi sang Mysia, xuống Trôa, và ban đêm Phaolô
được thị kiến thấy một người Macêđô đứng đó và van xin ngài rằng: "Xin đi
sang Macêđônia mà cứu giúp chúng tôi".
Vừa thấy vậy, chúng tôi liền tìm cách
đi sang Macêđônia, tin chắc rằng Thiên Chúa đã kêu gọi chúng tôi rao giảng
Tin Mừng cho họ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 99, 2.
3. 5
Ðáp: Toàn thể địa
cầu, hãy reo mừng Chúa! (c. 2a)
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Toàn thể địa cầu, hãy reo
mừng Chúa! Hãy phụng sự Chúa với niềm vui vẻ; hãy vào trước thiên nhan với
lòng hân hoan khoái trá. - Ðáp.
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa,
chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người. - Ðáp.
3) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo,
lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín còn tới muôn muôn thế
hệ. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 16
Alleluia, alleluia! - Thầy sẽ xin Chúa
Cha và Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác, để ở cùng các con
luôn mãi. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 15,
18-21
"Các con không thuộc về thế gian,
vì chính Thầy đã chọn các con khỏi thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng họ đã ghét Thầy
trước. Nếu các con thuộc về thế gian, thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó,
nhưng các con không thuộc về thế gian, vì chính Thầy đã chọn các con khỏi
thế gian, nên thế gian ghét các con. Các con hãy nhớ lại lời Thầy đã nói với
các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ. Nếu họ đã bắt Thầy, thì họ cũng sẽ bắt
bớ các con; nếu họ tuân giữ lời Thầy, thì họ cũng tuân giữ lời các con. Tại
vì danh Thầy mà họ sẽ làm cho các con tất cả những điều đó, bởi vì họ không
biết Ðấng đã sai Thầy".
Ðó là lời Chúa.

Chiều
kích "Liên Hệ Thần Linh" của chủ đề "Thày là sự sống" cho Tuần
Lễ Thứ V Mùa Phục Sinh là ở nơi việc hiệp nhất nên một với Chúa Kitô, nhờ đó
các môn đệ của Người mới có thể sinh hoa kết trái yêu thương như Người yêu
thương họ, như các bài Phúc Âm trong tuần đã cho thấy, cũng là mối Liên Hệ
Thần Linh nhờ đó làm cho các vị nên giống
Người nơi thân phận bị thế gian ghét bỏ và sát hại, chỉ
vì danh của Người, như
lời Người khẳng định và tiên báo cho các tông đồ trong bài phúc âm hôm nay:
"Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả
như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó.
Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi
thế gian, nên thế gian ghét anh em. Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: tôi
tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.
Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. Nhưng họ sẽ làm
tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ
không biết Đấng đã sai Thầy".
Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần V theo Thánh Gioan hôm nay là bài Phúc Âm chất
chứa những lời Chúa Giêsu tiên báo cho các môn đệ của Người về thân phận
chịu khổ của các vị trong thế gian nay, bị thế gian thù ghét, chỉ vì các vị
đã được Người
"chọn" và "tách ra khỏi thế gian". Nghĩa là những ai thuộc
về Người và theo Người thì phải chịu chung số phận với Người và như Người:
"Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em".
Chính
thân
phận bị thế gian ghét bỏ và bách hại như Thày và vì Thày của thành phần
môn đệ Chúa Kitô là những gì chứng tỏ họ thực sự thuộc
về Chúa Kitô, hoàn
toàn ở
trong Chúa Kitô và Chúa Kitô hằng ở
trong họ hơn
ai hết và hơn bao giờ hết. Đúng thế, chính những gian nan khốn khó gặp phải trong cuộc hành trình đức
tin trần thế nói chung và nhất là trong sứ vụ làm chứng cho Chúa Kitô đã
chứng thực ai là môn đệ đích thực của Chúa Kitô và ai không/chưa.
Mà thành phần môn đệ của Chúa Kitô nói chung, sau thời các
thánh tông đồ, được Người tuyển chọn khi nào và ra sao? Nếu không phải khi
Người gọi họ trở thành môn đệ Kitô hữu của Người qua các chứng nhân của
Người (xem Mathêu 28:20), hay hơn thế nữa, khi Người gọi một số môn đệ Kitô
hữu của Người theo sát Người hơn nữa theo 3 lời khuyên của Phúc Âm, nhất là
khi Người gọi họ trở thành linh mục thừa tác của Người; và chính họ cũng đã
đáp lại bằng việc lãnh nhận phép rửa, lãnh nhận Bí Tích Truyền Chức Thánh,
cũng như bằng việc tuyên khấn các lời khấn sống đời thánh hiến trọn lành hơn
theo tinh thần và gương sống của Người.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, những môn đệ Kitô hữu nào được "Thày
đã chọn, đã tách ra khỏi thế gian", và cũng đã theo Người
như thế,
mà chỉ tìm kiếm và theo đuổi một Chúa Kitô Phục Sinh chẳng có
các dấu thánh trên thân xác sống lại từ trong kẻ chết của Người, thì thực tế cho thấy họ vẫn tiếp tục
"thuộc về thế gian", và vì thế họ được "thế gian yêu thích
cái gì là của nó". Chẳng hạn như những người môn đệ thuộc về một thứ Giáo
Hội Nhà Nước trong thế giới cộng sản, hay những môn đệ có biệt tài nào đó
trở thành nổi tiếng, được dân
chúng mộ mến đến bất chấp Giáo Quyền, hoặc những môn đệ mị dân không dám
khuyên bảo hay giảng dạy dân chúng "vào qua cửa hẹp" (Mathêu 7:13), bởi sợ bị
dân ghét bỏ, hay những môn đệ chỉ vì danh tiếng, vì nghề nghiệp, mà về chính trị
đã bỏ phiếu chấp thuận hay ủng hộ các đạo
luật phản tín lý và luân lý Công giáo của mình v.v.
Trái lại, những môn đệ bị bách hại vì lẽ công lý (xem Mathêu 5:11) chính là
các cành nho tốt lành đã sinh hoa kết trái trong đời sống thiêng liêng, ở
chỗ họ càng ngày càng được kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô, qua việc thương
xuyên tham dự các Bí Tích Thánh và thiết tha lắng nghe cùng đáp ứng Lời
Chúa, và vì thế, họ còn được cắt tỉa thêm cho càng sai trái (xem Gioan
15:2), cho càng được nên giống Chúa Kitô là Thày của mình hơn ai hết và hơn
bao giờ hết. Đến độ sự sống đã chiến thắng tội lỗi và sự chết của Chúa Kitô
Phục Sinh nơi họ đã trở thành như một ngọn lửa thần linh bừng lên thiêu đốt
bụi gai bản thân thấp hèn yếu đuối của họ, nhưng bụi gai là bản thân của họ
đầy thương tích đớn đau ấy chẳng những vẫn không bị thiêu rụi (xem Xuất Hành
3:2), trái lại, chính bụi gai ấy lại còn thần hiển "rạng ngời
chân lý - veritatis splendor" (Thông Điệp của ĐTC GP II ngày
6/8/1993) như một Chúa Kitô Tử Giá!
Đến đây, chúng ta thấy, căn cứ vào chính Lời Chúa dạy, có 3 dấu hiệu chứng
thực Kitô hữu chúng ta là môn đệ thật sự của Chúa Kitô, chứ không chỉ "hữu
danh vô thực", là thành phần chứng nhân trung thực và sống động của Người,
đó là: đức ái trọn hảo (1), sinh nhiều hoa trái (2) và bị đời thù ghét (3).
1- Đức ái trọn hảo:
"Các
con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Mọi
người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy ở điểm này, đó là các con yêu
thương nhau." (Gioan 13:34-35);
2-
Sinh hoa kết trái:
"Điều
làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn
đệ của Thầy" (Gioan 15:8); "Không phải anh em đã chọn Thầy,
nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được
hoa trái" (Gioan 15:16);
3-
Bị đời thù ghét: "Tôi tớ không lớn hơn chủ. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ
cũng sẽ bắt bớ anh em" (Gioan 15:20).
Bài Đọc
1 (Tông Vụ 16:1-10)
Mối
Liên Hệ Thần Linh tràn đầy sự sống còn có thể được thấy nơi trường hợp của
phái đoàn môn đệ Chúa Kitô, trong đó chính yếu là Tông Đồ
Phaolô, những
vị luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô, Đấng ở với họ, sống trong họ và
hướng dẫn họ bằng Thánh Thần của Người trong công cuộc truyền giáo chứng
nhân của họ, thậm chí hướng dẫn họ đến những nơi Người muốn họ tới, như
bài đọc 1 hôm nay cho thấy:
"Các ông đi qua miền Phy-ghi-a và
Ga-lát, vì Thánh Thần ngăn cản không cho các ông rao giảng lời Chúa ở
A-xi-a. Khi tới sát ranh giới My-xi-a, các ông thử vào miền Bi-thy-ni-a,
nhưng Thần Khí Đức Giê-su không cho phép. Các ông bèn đi qua miền My-xi-a mà
xuống Trô-a. Ban đêm, ông Phao-lô thấy một thị kiến: một người miền
Ma-kê-đô-ni-a đứng đó, mời ông rằng: 'Xin ông sang Ma-kê-đô-ni-a giúp chúng
tôi!' Sau khi ông thấy thị kiến đó, lập tức chúng tôi tìm cách đi
Ma-kê-đô-ni-a, vì hiểu ra rằng Thiên Chúa kêu gọi chúng tôi loan báo Tin
Mừng cho họ".