SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 

Tuần XXIII Thường Niên Năm C (Chúa nhật) và Năm Chẵn (ngày trong tuần)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Is 35, 4-7a

"Tai người điếc sẽ mở ra và người câm sẽ nói được".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Các ngươi hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các ngươi.

Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối nước sẽ chảy nơi đồng vắng. Ðất khô cạn sẽ trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở nên suối nước.

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 145, 7. 8-9a. 9bc-10

Ðáp: Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa! (c. 2a)

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Thiên Chúa trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. - Ðáp.

2) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù, Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân. Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. - Ðáp.

3) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời, Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác. - Ðáp. 

Bài Ðọc II: Gc 2, 1-5

"Không phải Thiên Chúa đã chọn người nghèo để hưởng nước Người đó sao?"

Trích thư Thánh Giacôbê Tông đồ.

Anh em thân mến, anh em là những người tin vào Ðức Giêsu Kitô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh em đừng thiên vị. Giả sử trong lúc anh em hội họp, có người đi vào, tay đeo nhẫn vàng, mình mặc áo sang trọng; lại cũng có người nghèo khó đi vào, áo xống dơ bẩn, nếu anh em chăm chú nhìn người mặc áo rực rỡ mà nói: "Xin mời ông ngồi chỗ danh dự này". Còn với người nghèo khó thì anh em lại nói rằng: "Còn anh, anh đứng đó", hoặc: "Anh hãy ngồi dưới bệ chân tôi". Ðó không phải là anh em xét xử thiên vị ở giữa anh em và trở nên những quan xét đầy tà tâm đó sao?

Anh em thân mến, xin hãy nghe: Không phải Thiên Chúa chọn người nghèo trước mắt thế gian, để nhờ đức tin, họ trở nên giàu có và được hưởng nước Người đã hứa cho những kẻ yêu mến Người đó sao?

Ðó là lời Chúa. 

Alleluia: Ga 1, 14 và 12b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia. 

Phúc Âm: Mc 7, 31-37

"Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon, đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Người và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Ðoạn ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: "Effetha!" (nghĩa là "Hãy mở ra!"), tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng. Chúa Giêsu liền cấm họ đừng nói điều đó với ai. Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục mà rằng: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!"

Ðó là lời Chúa.

 Image result for Mk 7, 31-37

Suy Niệm Cảm Nghiệm

“Không phải Thiên Chúa chọn người nghèo trước mắt thế gian, để nhờ đức tin, họ trở nên giàu có và được hưởng nước Người đã hứa cho những kẻ yêu mến Người đó sao?”

Đúng thế, theo dự án thần linh vô cùng khôn ngoan huyền diệu đầy yêu thương của mình, Thiên Chúa quả thực đã, đang và sẽ mãi mãi không thôi tiếp tục đường lối tỏ mình ra của NgàI, ở chỗ: “chọn người nghèo trước mắt thế gian”, thành phần bất hạnh, về thể lý (tàn tật như nạn nhân câm điếc trong bài Phúc Âm hôm nay, hay bần cùng như trong Bài Đọc 2 hôm nay), về tâm lý (khù khờ, yếu đuối, khó tính khó nết) hay luân lý (hoang đàng, khô đạo, tội lỗi), chẳng là gì trước mặt thế gian, bị thế gian khinh bỉ, bỏ rơi hay đán áp hoặc lạm dụng.

Bởi vì Thiên Chúa là Đấng Hóa Công và Quan Phòng Thần Linh thấu suốt mọi sự, biết được tạo vật được mình dựng nên hơn ai hết. Ngài biết được họ thế nào, chung bản tính loài người, cũng như riêng từng con người một. Ngài biết họ cần đến Ngài và không thể sống mà không có Ngài; ngược lại, có thể nói Ngài cũng cần đến họ, không thể không có họ, để tỏ tình yêu thương nhưng không và vô đối của Ngài ra, nơi những bất toàn, bất xứng và bất lực của họ, cho họ nhờ đó mà nhận biết Ngài để được sống, được hiệp thông thần linh với Ngài.

Đó là lý do chúng ta thấy cả Bài Đọc 1 lẫn bài Đáp Ca hôm nay đã chất chứa tất cả những gì về một Vị Thiên Chúa Cứu Độ, một Vị Thiên Chúa Toàn Năng, một Vị Thiên Chúa yêu thương:

Bài Đọc 1: “Các ngươi hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các ngươi. Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối nước sẽ chảy nơi đồng vắng. Ðất khô cạn sẽ trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở nên suối nước”.

Bài Đáp Ca:

1) Thiên Chúa trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội.

2) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù, Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân. Thiên Chúa che chở những khách kiều cư.

3) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời, Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác.

Ở trong Bài Phúc Âm, qua Con của mình là Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa còn tỏ ra chăm sóc cho từng người, cho từng trường hợp: Từng người đây là ở chỗ Người đã chữa lành cho “một kẻ câm điếc được người ta mang đến cùng Người và xin Người đặt tay trên kẻ ấy”; Và từng trường hợp đây là ở chỗ: “Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Ðoạn ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: ‘Effetha!’ (nghĩa là ‘Hãy mở ra!’), tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng”.

Thật là tuyệt vời. Quyền toàn năng và tình yêu thương của Thiên Chúa được dịp tỏ ra nơi nạn nhân câm điếc trong Bài Phúc Âm hôm nay. Phần bản thân của nạn nhân cũng đâu có ngờ rằng chính tật nguyền câm điếc bất hạnh hoàn toàn ngoài ý muốn của mình lại có ngày chẳng những được chữa lành như thế, mà còn nhất là được trở thành dịp tốt cho Thiên Chúa tỏ mình ra, cho vinh quang của Thiên Chúa được tỏ hiện, nơi chính bản thân nạn nhân cũnh như cho cả cộng đồng dân chúng của nạn nhân nữa, những người đưa nạn nhân đến với Vị Thiên Chúa nhập thể là Chúa Giêsu Kitô.

Tuy nhiên, Thiên Chúa lợi dụng tất cả mọi sự nơi loài người tạo vật của Ngài để tỏ mình ra, nhất là nơi những bất hạnh và khốn cùng của họ, không phải chỉ để khoe khoang, trổ tài mình là một Vị Thiên Chúa vô cùng toàn năng, làm gì cũng được, mà là để cho loài người nhận biết Ngài, tin tưởng vào Ngài mà được sống, một sự sống thần linh của Ngài và với Ngài, một sự sống viên mãn làm cho họ không thể không loan truyền về Ngài. Đó là lý do bài Phúc Âm hôm nay đã kết thúc ở chi tiết như thế này:

“Chúa Giêsu liền cấm họ đừng nói điều đó với ai. Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục mà rằng: ‘Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!’"

Ở Bài Đọc 2, Thánh Giacôbê cũng đã ám chỉ đến sự sống thần linh viên mãn này khi ngài khẳng định rằng thành phần “nghèo hèn” được “Thiên Chúa chọn” là những con người sẽ được “trở nên giàu có và được hưởng nước Người đã hứa cho những kẻ yêu mến Người”. Tuy nhiên, vị thánh tác giả này còn nhấn mạnh đến một chi tiết bất khả thiếu nơi thành phần nghèo hèn được Thiên Chúa chọn để tỏ mình ra nơi họ và cho họ, cũng như qua họ cho cả cộng đồng của họ nữa, đó là “đức tin”: “để nhờ đức tin, họ trở nên giàu có và được hưởng nước Người đã hứa cho những kẻ yêu mến Người”.

Thật vậy, mục đích Thiên Chúa tỏ mình ra là để cho con người nhận biết Ngài và tin tưởng vào Ngài mà đươc sống, một sự sống thần linh sung mãn bất tận, chứ không phải một sự sống thể lý, ở chỗ chỉ được chữa lành về phần xác hay được thoát khỏi những bất hạnh về thể lý ở đời này thôi. Thái độ và hành động dám làm trái với ý muốn của Chúa Kitô là Đấng chữa lành cho nạn nhân câm điếc ở cuối bài Phúc Âm hôm nay dầu sao cũng cho thấy rằng họ nhận biết và tin tưởng vào Người.

Tuy nhiên, thực tế sống đạo đã phũ phàng cho thấy không thiếu Kitô hữu thiết tha cầu xin Chúa cho được tai qua nạn khỏi, thậm chí còn hứa hết điều này đến điều kia với Ngài, thế mà sau khi được như ý, họ đã mau quên lời họ hứa, và tiếp tục sống như thể không có Thiên Chúa, tiếp tục sống vô ơn bội nghĩa, coi Chúa như là một phương tiện (means) của mình hơn là cùng đích (end) của mình.

Thành phần Kitô hữu này chẳng khác gì như 9 người phong cùi vô ơn (xem Luca 17:11-19), thà đừng được chữa lành thì hơn, bởi chính vì vô ơn mà ơn họ được chữa lành có thể sẽ trở thành cơ hội để họ phạm tội mất lòng Chúa hơn, đúng như lời Chúa Giêsu cảnh cáo nạn nhân bất toại 38 năm được Người chữa lành cho: “Này anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa kẻo phải khốn hơn trước” (Gioan 5:14).

Như thế, có ít nhất là 5 điều căn bản bất khả thiếu trong việc chúng ta cầu xin Chúa đó là: 

1-     Có những điều chúng ta xin Thiên Chúa, theo ý muốn và nhu cầu của chúng ta, mà chẳng bao giờ được, lại là việc Thiên Chúa làm ơn cho chúng ta! Chúng ta cần phải biết ơn Thiên Chúa hơn là trách móc hay bỏ Ngài, chỉ thiệt hại  cho mình hơn là cho Ngài!

2-     Chúng ta chuyên môn chơi với Chúa kiểu ăn gian, ở chỗ, hầu như chẳng bao giờ chúng ta làm theo ý Chúa, bởi chúng ta luôn phạm tội mất lòng Chúa, mà chúng ta cứ đòi Chúa và bắt Chúa phải làm theo ý mình, phải nghe lời mình cầu xin nghĩa là làm sao?

3-     Chúng ta có nghĩ rằng nếu được Chúa ban theo ý nguyện, chúng ta có sống xứng với những gì Chúa ban hay chăng, có đền đáp cho cân xứng với ơn chúng ta nhận được hay chăng, hoặc trái lại, chính ơn ban ấy trở thành dịp tội cho chúng ta?? Nếu vậy thà đừng có thì hơn!

4-     Bởi thế, ơn cần thiết nhất và căn bản nhất, đáng xin nhất và cần xin nhất, đó là xin cho mình xứng đáng được ơn Chúa ban và nếu được Chúa thương ban cho bất cứ một ơn lớn nhỏ nào thì biết dùng ơn Chúa cho nên. Tóm lại, xin cho chúng ta được nên trọn mọi sự theo Thánh Ý Chúa mà thôi, nghĩa là hoàn toàn sống với Chúa như một trẻ nhỏ!

5-     Hãy nhớ rằng Thiên Chúa biết và yêu chúng ta hơn chúng ta biết và yêu mình, Ngài bao giờ cũng muốn thi ân giáng phúc, và Ngài biết chúng ta cần gì cùng muốn gì trước khi chúng ta ngỏ lời xin, vậy tất cả những gì chúng ta cần xin đó là: “nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời…” (Mt 6:9-13) Amen!

 

 

 

Ngày 08 tháng 9

SINH NHẬT ĐỨC TRINH NỮ MA-RI-A

lễ kính

Tiểu sử 
Sinh nhật của Đức Ma-ri-a vượt hẳn cả sinh nhật của thánh Gio-an, vị tiền hô. Sinh nhật của Đức Ma-ri-a loan báo Sinh Nhật của Đức Giê-su, là khúc dạo đầu của Tin Mừng. Một người con gái ra đời trong gia đình bà An-na và ông Gio-a-kim đã làm cho “niềm hy vọng và bình minh ơn cứu độ mọc lên chiếu soi thế giới”. Chính vì thế, Hội Thánh mời gọi chúng ta cử hành ngày lễ này trong tâm tình hân hoan.

 

Bài Ðọc I: Mk 5, 2-5a

"Ðến khi người nữ phải sinh, sẽ sinh con".

Trích sách Tiên tri Mikha.

Ðây lời Chúa phán: "Hỡi Bêlem Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Ðấng thống trị Israel, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời. Vì thế, Người sẽ bỏ dân Người, cho đến khi một người nữ phải sinh, sẽ sinh con. Số còn lại trong anh em Người sẽ trở về với con cái Israel. Người sẽ đứng vững và chăn dắt trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Chúa là Thiên Chúa của Người. Và họ sẽ trở về, vì bấy giờ Người sẽ nên cao trọng cho đến tận cùng trái đất. Vì vậy, Người sẽ là chính sự bình an".

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc đọc: Rm 8, 28-30

"Những kẻ Chúa đã biết trước thì Người đã tiền định họ".

Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, chúng ta biết rằng những kẻ yêu mến Thiên Chúa, thì Người giúp họ được sự lành. Họ là những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh. Vì chưng, những kẻ Chúa đã biết trước, thì Người đã tiền định cho họ nên giống hình ảnh Con Người, để Ngài trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc. Nhưng những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; và những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho họ được vinh quang.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 12, 6ab. 6cd

Ðáp: Con sẽ hớn hở vui mừng trong Chúa (c. Is 91,9a).

Xướng: 1) Xin chớ để kẻ thù con hân hoan vì con quỵ ngã: bởi con đã tin cậy vào đức từ bi của Chúa. - Ðáp.

2) Xin cho lòng con hân hoan vì ơn Ngài cứu độ; con sẽ hát mừng Chúa, vì Ngài ban ân huệ cho con. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ là người có phúc và rất đáng mọi lời ca tụng, vì Mẹ đã sinh ra Mặt trời Công Chính là Ðức Kitô, Chúa chúng con. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 1, 1-16. 18-23

"Bà đã thụ thai bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham.

Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.

Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.

Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Sala-thiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.

Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, chồng Bà, là người công chính, không muốn tố giác Bà, nên mới định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; Bà sẽ sinh hạ một Con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:

"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc bài vắn này: Mt 1, 18-23

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, chồng Bà, là người công chính, không muốn tố giác Bà, nên mới định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; Bà sẽ sinh hạ một Con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:

"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta".

Ðó là lời Chúa.

 

The Expectation of the Blessed Virgin Mary (A Novena)

Đấng cả địa cầu đại dương tinh tú
Hằng tin yêu và thờ lạy kính tôn,
Đấng trị vì khắp vũ trụ càn khôn,
Nay lại muốn đầu thai trong lòng Mẹ.

Đấng bóng nguyệt vầng ô tuân chỉ thị,
Đấng lấy thời gian điều khiển muôn loài
Đã chẳng nề bằng phép lạ trinh thai
Để cho Mẹ cưu mang tròn chín tháng.

Mẹ diễm phúc vì giờ đây mang nặng
Chúa tạo thành trời đất cõi vô biên,
Đấng Toàn Năng, tay nắm trọn uy quyền :
Thân xác Mẹ là Hòm Bia Giao Ước.

Người trinh bạch, thiên sứ chào diễm phúc,
Đã thụ thai do quyền lực Thánh Thần
Vẫn tinh tuyền khi sinh hạ Thánh Nhân,
Đấng toàn thể muôn dân từng mong đợi.

Ôi Thánh Tử Giê-su đầy lân ái
Đã sinh ra làm con Đức Nữ Trinh,
Kính dâng Ngài, cùng Thánh Phụ, Thánh Linh
Bài ca tụng đến muôn đời muôn thuở.

 

Tấu lạy Bà, quả thật Bà vinh hiển,
Ôi cao vời trên cả chín tầng mây,
Chúa Giê-su, Đấng đã dựng nên Ngài
Là Thánh Tử, chính Ngài cho bú mớm !

Ân sủng mất tại E-và xuẩn động,
Tay Ngài phục hồi nhờ bởi Chúa Con,
Để từ đây nhân loại hết tủi hờn,
Được Ngài dẫn vào thiên đường vinh phúc !

Ngài chính là cửa ngọ môn sáng rực
Đã mở ra cho Thiên Tử giáng trần,
Hãy reo hò, nào muôn nước muôn dân,
Này Trinh Nữ tặng cho ta Nguồn Sống !

Lòng hớn hở, xin hợp lời ca tụng
Dâng Chúa Cha cùng Thánh Tử, Thánh Thần,
Lượng hải hà đã ghé mắt từ nhân,
Cho Ngài mặc áo hồng ân tuyệt diệu. 

Thánh ca Tin Mừng “Chúc tụng Đức Chúa” (Benedictus)

ĐCLạy Trinh Nữ, Đức Mẹ Chúa Trời,
ngày sinh của Mẹ đem Tin Mừng cho cả trần gian,
vì Đức Ki-tô, Chúa chúng con
là Mặt Trời soi đường ngay nẻo chính,
đã từ cung lòng Mẹ sinh ra,
Người là Đấng huỷ bỏ lời chúc dữ,

đem lại muôn phúc lành,
Đấng tiêu diệt thần chết, và ban phúc trường sinh.

 

 

 

 

Cái cũ đã qua, này đây mọi sự đều đổi mới

Trích bài giảng của thánh An-rê, giám mục Cơ-rê-ta.

Cứu cánh của Lề Luật là Đức Ki-tô. Người không đẩy chúng ta xa Lề Luật cho bằng nâng chúng ta lên tới tinh thần của nó. Quả thật, nơi Người, Lề Luật được hoàn tất, vì sau khi kiện toàn và kết thúc mọi sự, thì chính Đấng lập Luật đã chuyển chữ viết sang tinh thần. Thật vậy, Người thâu hồi tất cả nơi bản thân và sống theo luật ân sủng. Luật thì Người bắt phục tùng, còn ân sủng thì Người phối hợp và liên kết với Luật. Đặc tính của bên này, Người không trộn lẫn và hoà tan với bên kia, nhưng hoán chuyển cách thần kỳ, khiến điều xưa kia nặng nề nay trở nên nhẹ nhàng và tự do, để chúng ta không phải làm nô lệ những yếu tố của vũ trụ, như thánh Phao-lô tông đồ đã nói, và chúng ta cũng chẳng phải mang ách nô lệ dựa trên chữ viết của Luật.

Quả thế, đây là hồng ân cao cả nhất Đức Ki-tô ban cho chúng ta, đây là mặc khải mầu nhiệm cứu độ, đây là sự trút bỏ vinh quang, khi Thiên Chúa làm người, để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa nhờ mầu nhiệm Nhập Thể. Vì khi Thiên Chúa vinh hiển và rất mực quang minh đến với nhân loại, thì cần phải có Đức Mẹ là niềm vui đi trước để chuẩn bị ơn cứu độ lớn lao cho chúng ta. Đó là ý nghĩa của buổi lễ hôm nay, mà khởi điểm là biến cố Mẹ Thiên Chúa chào đời, còn kết thúc và tận điểm là biến cố Ngôi Lời mặc lấy xác phàm. Quả thật, Đức Trinh Nữ nay được sinh ra, được cho bú mớm và được chuẩn bị để xứng đáng trở nên Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của Vua muôn đời.

Điều đó đem lại cho chúng ta hai mối lợi : một là đưa chúng ta tới chân lý, hai là giải thoát chúng ta khỏi làm tôi và sống theo nghĩa đen của Lề Luật. Điều đó xảy ra thế nào và vì lý do gì ? Thưa, ánh sáng đến đẩy lui bóng tối và ân sủng mang lại tự do thay cho mặt chữ. Lễ hôm nay là mốc phân ranh giữa hai điều đó, vì lễ này nối kết chân lý với hình ảnh tượng trưng, lấy cái mới thay cho cái cũ.

Vậy, mọi loài thụ tạo hãy đồng ca, hãy nhảy múa và biểu lộ niềm vui thích hợp với ngày lễ. Hôm nay, mọi loài trên trời dưới dất hãy cùng nhau hoan hỷ và bất cứ vật nào ở trong trần gian cũng như bên trên trần gian hãy hợp nhau mừng lễ. Quả thật, hôm nay thánh điện của Đấng tạo thành muôn vật đã được xây lên, và một thụ tạo, vì một lý do mới mẻ và thích đáng, đã được chuẩn bị làm nơi cư trú mới cho Đấng Hoá Công.

 

Lạy Chúa, ngày sinh nhật của Đức Giê-su Con Một Chúa, Chúa đã mở đầu kỷ nguyên cứu độ, thì hôm nay, ngày sinh nhật của Thánh Mẫu Người, xin Chúa cũng rộng ban muôn phúc lộc, và cho chúng con hưởng bình an. Chúng con cầu xin

 

Thần Đô Huyền Nhiệm (Đoạn truyện về biến cố Mẹ Maria được sinh vào trần gian)

Ngày mồng tám tháng chín, thánh nữ Anna hiểu rằng bà sắp sinh Người Con bà hằng ước nguyện. Bà xấp mình cầu xin Thiên Chúa chúc phúc cho con mình. Lúc đó, Mẹ Maria được Chúa cho xuất thần rất cao cả, không thấy được mình sinh vào trần gian như thế nào. Lúc ra khỏi cơn xuất thần ấy, Mẹ đã thấy mình đẹp đẽ nằm trên tay thân mẫu mình.

Thánh nữ Anna được gìn giữ khỏi mọi đau đớn thông thường nơi các bà mẹ sinh con, bà dâng lên Thiên Chúa lời nguyện rằng: "Lạy Đấng Sáng Tạo mọi loài, con xin dâng Chúa người con mà con vừa được lòng lành Chúa ban cho. Con xin cảm tạ Chúa. Xin Chúa định đoạt cho mẹ con con theo ý Chúa. Con xin chúc tụng Chúa muôn đời. Con là một kẻ bất xứng, xin dạy con biết cách nuôi nấng người con của Chúa".

Thiên Chúa trả lời trong lòng bà, là bà cứ cư xử như mọi người Mẹ cư xử với con mình, đừng tỏ ra một niềm tôn kính nào bề ngoài, cứ tôn kính trong tâm hồn là đủ. Nhưng phải hết sức cẩn trọng và yêu đương.

Các thiên thần hầu cận Mẹ, cùng với vô số thiên thần khác tháp tùng, đến tỏ niềm tôn kính Mẹ. Họ hát lên một khúc ca thiên đàng, rồi bắt đầu phục vụ Mẹ. Lần đầu tiên Mẹ nhìn thấy họ dưới hình người. Mẹ mời họ ca tụng Chúa với Mẹ và nhân danh Mẹ.

Đức tổng thiên thần Gabrien được Thiên Chúa sai đến báo cho các thánh ở u ngục biết tin mừng Mẹ sinh ra, một tin mừng làm các ngài hoan hỉ và tri ân vô ngần.

Tất cả những sự việc đó qua đi rất mau chóng. Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ Maria nhiều sự việc rất lạ lùng khác nữa. Việc đầu tiên là sai các thiên thần rước Mẹ lên thiên đàng. Các ngài chỉnh đốn hàng ngũ thành một cuộc khải hoàn long trọng, vừa rước Mẹ lên cao vừa ca hát cho tới trước uy nghi Thiên Chúa. Mẹ xấp mình thờ lạy Chúa.

Ngôi Lời nâng Mẹ lên, đặt bên hữu mình. Lĩnh nhận nhiều mạc khải mới, tất cả các tài năng của Mẹ tăng triển thêm. Mẹ được nhìn thấy thần tính Thiên Chúa tỏ ra ở một góc độ tuyệt vời. Bừng cháy nhiệt tâm cho danh Chúa cả sáng, Mẹ nài xin Thiên Chúa mau thi hành ơn Nhập Thể để cứu chuộc thế gian. Thiên Chúa đoan quyết với Mẹ là ước nguyện ấy của Mẹ sắp được thực hiện.

Thiên Chúa Ba Ngôi tỏ cho các thiên thần biết rằng từ đời đời Ngài đã tác tạo cho Mẹ và cho Ngôi Con danh hiệu Maria và Giêsu. Trong hai danh hiệu đó, Ngài được thỏa lòng hoàn toàn. Rồi Ngài phán: "Danh hiệu Maria phải được hiển vinh lạ thường. Những ai thành thực sốt sắng kêu cầu danh hiệu ấy sẽ được ban nhiều ân sủng. Những ai kính cẩn đọc lên sẽ được ủi an. Mọi người đều tìm được trong danh hiệu ấy phương dược trị liệu bệnh tật mình; được ánh sáng soi đường; được kho tàng cứu giúp sự túng nghèo. Danh hiệu Maria làm run sợ hoả ngục và đạp nát đầu cựu xà Satan".

Chính Chúa đặt danh hiệu ấy cho Mẹ. Mẹ đón nhận với những lời ca ngợi lạ lùng. Lúc Thiên Chúa đọc danh hiệu ấy lên, các thiên thần đều phủ phục, bái chào, hát lên thánh ca tán tụng, nhất là những vị mang biểu hiệu danh hiệu ấy càng nhiệt liệt tán tụng hơn. Sau đó, cũng các Thiên Thần đã rước Mẹ lên trời lại rước Mẹ xuống đặt trên tay Thánh Nữ Anna nhưng bà không hề biết gì về sự mẹ vắng mặt. Trong lúc đó, bà được ơn xuất thần, biết được nhiều sự kiện cao cả về chức phẩm Mẹ Thiên Chúa.

Tám ngày sau, rất đông thiên thần từ trời xuống, mang theo một biểu ngữ sáng láng, ghi danh hiệu Maria. Họ nói với Thánh Nữ Anna phải mau kíp đặt tên ấy cho Con bà. Bà đi nói với Thánh Gioan Kim. Ông bà liền tổ chức một bữa tiệc thịnh soạn, mời bà con thân thuộc và một tư tế đến dự. Trong niềm trịnh trọng hân hoan, ông bà đặt tên rất dịu dàng Maria cho Con Rất Thánh của mình. Các thiên thần lại tấu lên một khúc nhạc tuyệt vời, chỉ có hai mẹ con bà Anna được thưởng thức. Hạnh phúc cho trái đất biết bao, vì đã có Mẹ Đấng Cứu Chuộc.

Luật ghi trong chương 12 sách Lêvi buộc mọi người mẹ, 60 ngày sau khi sinh hạ một con gái, phải lên Đền Thờ Giêrusalem dâng một con chiên một tuổi và một con chim gáy hay một bồ câu nhỏ. Thánh nữ Anna sung sướng vì được dâng lên Thiên Chúa Người Con chí thánh Chúa đã ban cho bà, Người Con chính bà đang ẵm trên tay.  Khi bà tới Đền Thờ, đại tư tế Simeon đã ra tiếp đón. Thánh nữ Anna dâng của lễ cách sốt sắng đến rơi lệ.  Bà tuyên lại lời khấn sẽ hiến dâng Con gái mình vào Đền Thờ Thiên Chúa khi con tới tuổi thích hợp. 

Khi các nghi lễ đã xong, hai mẹ con hoan hỉ trở về Nagiarét.  Ở đây, Mẹ Maria được nuôi dưỡng y như các trẻ đương thời.  Lương thực Mẹ dùng cũng là lương thực chung mọi người, nhưng Mẹ dùng rất ít.  Mẹ ngủ đã ngắn giấc, mà còn phải ru phải dỗ mới ngủ được.  Mẹ rất ngoan ngoãn, nhưng cũng rất đoan trang, ai đến gần cũng phải tôn kính.  Mẹ cũng hay khóc và khóc nức nở, song chỉ là khóc để thương cho tội lỗi thế gian, và nài xin Đấng Cứu Chuộc đến.  Nơi Mẹ, không bao giờ có chút gì là con nít, tuy vậy Mẹ cũng sẵn lòng để thánh nữ Anna chiều chuộng.

M liên lỉ cầu nguyện cùng Thiên Chúa, dù giấc ngủ cũng không gián đoạn việc cầu nguyện ấy, vì trí năng có thể hoạt động không cần giác quan giúp đỡ.  Mẹ được hưởng đặc ân ấy cho tới khi ly trần. Không bao giờ Mẹ ngưng chuyện vãn với Chúa. Nhưng với loài người  suốt 18 tháng đầu tiên đời Mẹ, Mẹ đã im lặng y như các trẻ thơ khác. Sau mười tám tháng, Mẹ mới bắt đầu nói. Chúa dạy Mẹ cầu nguyện mỗi ngày nhiều lần để Con Chúa mau Nhập Thể, và hãy khóc lóc vì tội lỗi loài người. Trong mười tám tháng tiếp đó, nghĩa là cho tới khi Mẹ lên ba tuổi, Mẹ nói rất ít.

Cha mẹ của Mẹ không giầu lắm, cũng không nghèo lắm.  Ông bà có đủ của để may sắm cho Mẹ những bộ y phục đẹp đẽ nhưng rất đoan trang.  Trong thời gian Mẹ chưa nói, Mẹ để mặc thánh nữ Anna sắm liệu cho Mẹ, không tỏ dấu gì cưỡng lại.  Nhưng khi đã được Chúa ban lệnh nói năng,  Mẹ xin thân mẫu may cho mình những y phục vải thô, nghèo nàn, đơn bạch, mầu tro xám và, nếu có thể,  đã cũ, đồ thừa.  Thánh nữ Anna rất kính nể và tôn trọng con mình như Bà Chủ, nhưng bà không đành lòng để cho con còn thơ dại yếu đuối phải mặc áo thô.  Bà chỉ theo ý con về mầu áo và kiểu cắt may, tức mầu xám và kiểu áo của những trẻ nữ cha mẹ đã khấn hứa cho một điều nào đó.

Trong ba năm đầu đời Mẹ, Mẹ luôn thực hiện đức vâng lời hoàn thiện này.  Mẹ thường đón trước ý của thánh nữ Anna mà làm.

Khi đã lên trọn hai tuổi, Mẹ bắt đầu thi hành đức ái đối với người nghèo.  Mẹ đến xin thân mẫu của này vật nọ bố thí cho họ.  Đôi lần Mẹ còn bớt cả phần ăn của mình để cho họ nữa.  Mẹ cũng cầu nguyện cho linh hồn họ.

Mặc dầu Mẹ đầy tràn tri thức thiên phú về mọi sự vật thụ tạo, Mẹ cũng sẵn sàng được người ta dạy dỗ y như các trẻ khác, như là không biết gì. Mẹ hết sức ngoan ngoãn học hỏi nơi cha mẹ. Khi có ai chỉ dẫn thêm điều gì, hoặc khiển trách điều gì, Mẹ luôn luôn cúi đầu chấp nhận, không hề cãi trả.

Lời Mẹ nhắn nhủ:

Con hãy gắng noi gương Mẹ trong việc Mẹ đã làm suốt đời Mẹ từ khi Mẹ sinh ra. Lúc ngày mới bắt đầu, Mẹ sấp mình dưới chân Chúa, ca tụng Chúa vì những ưu phẩm vô cùng của Ngài, rồi nhìn nhận chủ quyền tuyệt đối của Ngài trên vạn vật. Mẹ cũng cảm tạ Chúa vì Ngài đã kéo Mẹ ra khỏi hư vô. Mẹ hoàn toàn phó thác dâng mình cho Ngài, để Ngài định đoạt về Mẹ tùy ý Ngài muốn trong ngày, cũng như trong suốt cuộc sống của Mẹ. Mẹ cầu xin Ngài cho Mẹ biết được những gì đẹp lòng Ngài để Mẹ chu toàn. Mẹ xin Ngài hướng dẫn, ban phép lành và chúc phúc cho hết mọi việc Mẹ làm. Mẹ còn nhắc đi nhắc lại những hành vi đó nhiều lần trong ngày.

Càng thực tâm nhiệt thành tôn kính danh hiệu rất dịu ngọt của Mẹ, con càng đi trên đường của Mẹ. Con nên biết rằng Thiên Chúa đã ban cho Danh Hiệu ấy không biết bao nhiêu là ân sủng và đặc ân. Mẹ không thể nghĩ đến hay nghe đọc đến Danh Hiệu ấy mà lại không dâng lời cảm tạ Chúa. Cho nên Mẹ quyết định làm những việc cả thể cho Chúa là Đấng đã ban cho Mẹ Danh Hiệu quí báu ấy. 

 

 

Thứ Hai

(PVLC của ngày Thứ Hai này vẫn được cử hành nếu không bị Lễ Sinh Nhật Đức Mẹ ở bậc Lễ kính át đi)


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 5, 1-8

"Anh em hãy tẩy trừ men cũ, vì Chiên Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, người ta nghe nói giữa anh em có chuyện tà dâm, thứ tà dâm mà nơi dân ngoại cũng không có như vậy, là có người lấy vợ cha mình. Thế mà anh em còn lên mặt kiêu căng, đáng lẽ anh em phải để tang mà loại trừ khỏi anh em con người làm chuyện đó. Tuy tôi vắng mặt phần xác, nhưng hiện diện bằng tinh thần, tôi đã tuyên án kẻ làm chuyện đó, như tôi đang hiện diện, nhân danh Chúa chúng ta là Ðức Giêsu Kitô, tập họp anh em lại với tâm trí tôi, lấy quyền năng của Chúa chúng ta, là Ðức Giêsu, tôi trao con người như thế cho Satan, để xác nó chết đi, hầu cho tâm hồn nó được cứu thoát trong ngày của Chúa chúng ta, là Ðức Giêsu Kitô.

Việc anh em lên mặt kiêu căng không tốt đâu. Nào anh em chẳng biết rằng chỉ một dúm men là đủ làm hư cả khối bột đó sao? Anh em hãy tẩy trừ men cũ, để nên bột mới, như anh em là bánh không men. Vì Chiên Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế. Vì thế, chúng ta hãy mừng lễ không phải với men cũ, cũng không phải với men gian tà và độc ác, nhưng với bánh không men tinh tuyền và chân chính.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 5, 5-6. 7. 12

Ðáp: Lạy Chúa, xin dẫn con trong đức công minh (c. 9a).

Xướng: 1) Chúa không phải là Chúa tể ưa điều gian ác, kẻ độc dữ không được cư trú nhà Ngài, đứa bất nhân không thể đứng trước thiên nhan. Chúa ghét những kẻ làm điều gian ác. - Ðáp.

2) Ngài tiêu diệt những đứa nói man; người độc ác và gian giảo, thì Chúa ghê tởm không nhìn. - Ðáp.

3) Nhưng hết thảy ai tìm đến Chúa sẽ mừng vui, họ sẽ hân hoan cho tới muôn đời. Chúa che chở họ, họ sẽ mừng vui bởi Chúa, đó là những kẻ yêu mến danh Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Pl 2, 15-16

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 6-11

"Các ông quan sát xem Người có chữa lành bệnh trong ngày Sabbat không".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào hội đường và giảng dạy. Khi ấy ở đó có một người tay hữu bị khô bại. Những luật sĩ và biệt phái quan sát xem Người có chữa lành người ấy trong ngày Sabbat không, để có cớ tố cáo Người. Nhưng Người biết tư tưởng các ông, liền bảo người có tay khô bại rằng: "Ngươi hãy chỗi dậy mà đứng ra giữa đây". Người đó đứng thẳng dậy. Ðoạn Chúa Giêsu bảo các ông ấy rằng: "Tôi hỏi các ông, ngày Sabbat được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?" Rồi đưa mắt nhìn mọi người, Chúa bảo người đó rằng: "Ngươi hãy giơ tay ra". Người ấy giơ ra, và tay người ấy được lành.

Bấy giờ các ông đầy lòng tức giận, và bàn định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu.

Ðó là lời Chúa.

Jesus heals a man's withered hand on the Sabbath Matthew 12:9-13

Suy Niệm Cảm Nghiệm

Tối tăm thách thức ánh sáng

 

Lại xẩy ra một trận đụng độ nữa, liên tục, giữa Chúa Giêsu và "những luật sĩ và biệt phái", thành phần hình như luôn theo dõi nhân vật Giêsu Nazarét xuất đầu lộ diện một cách hết sức lạ kỳ, hầu như lập dị, rất ư là cấp tiến này, mà "quan sát xem Người có chữa lành người ấy trong ngày Sabbat không, để có cớ tố cáo Người". 

Vì không phải là một con người bình thường, sợ áp lực đám đông và sợ áp lực quyền thế, Chúa Giêsu tỏ ra làm chủ tình hình, ở chỗ "Người biết tư tưởng các ông", thậm chí Người còn lợi dụng yếu điểm của đối phương để hạ gục họ: "Tôi hỏi các ông, ngày Sabbat được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?", nhưng họ vẫn bất chấp cho dù tận mắt chứng kiến thấy phép lạ Người làm "vào một ngày hưu lễ trong hội đường":

"'Ngươi hãy chỗi dậy mà đứng ra giữa đây'. Người đó đứng thẳng dậy. ... Rồi đưa mắt nhìn mọi người, Người bảo người đó rằng: 'Ngươi hãy giơ tay ra'. Người ấy giơ ra, và tay người ấy được lành".

Họ chẳng những không bị thuyết phục bởi cả lý lẽ không thể chối cãi của Người, cũng như bởi phép lạ tỏ tường Người làm, trái lại, họ vẫn tiếp tục ngoan cố, đến độ: "Bấy giờ các ông đầy lòng tức giận, và bàn định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu". 

Việc Chúa Giêsu, Đấng đến để cứu độ con người cả hồn lẫn xác, cố ý chữa lành cho "một người tay hữu bị khô bại" trong hội đường "vào ngày hưu lễ", như là một việc hoàn toàn trái luật hay phạm luật hoặc phá luật của ngày hưu lễ, theo quan niệm của thành phần thông luật và dạy luật trong dân chúng đây, không phải chỉ để chữa lành thể lý cho nạn nhân bị khô bại ở tay hữu, nhưng nhất là để nhờ phép lạ và qua phép lạ chữa lành này, Người khai trí mở lòng cho thành phần vốn sống giả hình, mù quáng, duy luật, chỉ sống theo chữ nghĩa chết chóc của lề luật hơn là tinh thần sống động của lề luật là lòng nhân ái. 
Sự kiện Người hầu như liên tục đụng độ với hai thành phần sư phụ trong dân chúng này, nhưng vẫn hết sức nhẫn nại làm cho họ mở mắt ra mà hầu như bất thành, chứng tỏ cho thấy: một đàng tâm thức duy luật đã trở thành bản chất tự nhiên của họ, khó lòng, nếu không muốn nói là hầu như bất khả, tẩy não, đàng khác, chính nhờ cái tâm thức cứ mù quáng này của họ mà Chúa Kitô cho thấy Người thật sự "là ánh sáng thế gian" (Gioan 12:8), "ánh sáng thật" (Gioan 1:9), "ánh sáng chiếu soi trong tăm tối, một thứ tăm tối không át được ánh sáng"(Gioan 1:5), "nơi Người tiềm ẩn mọi kho tàng khôn ngoan và thông hiểu" (Colose 2:3), như Thánh Phaolô đã xác tín và tuyên xưng. 

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, qua Thư Thứ Nhất gửi cho Kitô hữu giáo đoàn Corinto, tông đồ Phaolô, nguyên là một tay biệt phái Saulê ngày xưa rất nhiệt thành với chung Do Thái giáo và với riêng lề luật, sau khi bất ngờ được hội ngộ với Đấng bị ngài bách hại, đã trải nghiệm được kinh nghiệm sống đức tin chân chính ra sao, một đức tin không thể chấp nhận chẳng những tội lỗi xấu xa đến ghê tởm, như trường hợp trong giáo đoàn này đã có "người lấy vợ cha mình
", mà cả cái tính "lên mặt kiêu căng" nữa. Bởi vì, như Thánh nhân cảnh giác họ và kêu gọi họ hãy sống xứng đáng với Chúa Kitô như sau:

"Việc anh em lên mặt kiêu căng không tốt đâu. Nào anh em chẳng biết rằng chỉ một dúm men là đủ làm hư cả khối bột đó sao? Anh em hãy tẩy trừ men cũ, để nên bột mới, như anh em là bánh không men. Vì Chiên Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế. Vì thế, chúng ta hãy mừng lễ không phải với men cũ, cũng không phải với men gian tà và độc ác, nhưng với bánh không men tinh tuyền và chân chính".

Những gì được Thánh Phaolô đề cập đến trong Bài Đọc 1 hôm nay liên quan đến tội lỗi, đã tội lỗi lại còn kiêu căng mù quáng như thành phần duy luật trong Bài Phúc Âm hôm nay, đều được Thánh Vịnh 5 nhắc nhở là hoàn toàn không hợp với Chúa, với Đấng Thánh của Israel, Đấng chỉ đoái thương những tâm hồn cởi mở và thành tâm tìm kiếm Ngài mà thôi:

1) Chúa không phải là Chúa tể ưa điều gian ác, kẻ độc dữ không được cư trú nhà Ngài, đứa bất nhân không thể đứng trước thiên nhan. Chúa ghét những kẻ làm điều gian ác.

2) Ngài tiêu diệt những đứa nói man; người độc ác và gian giảo, thì Chúa ghê tởm không nhìn.

3) Nhưng hết thảy ai tìm đến Chúa sẽ mừng vui, họ sẽ hân hoan cho tới muôn đời. Chúa che chở họ, họ sẽ mừng vui bởi Chúa, đó là những kẻ yêu mến danh Ngài.

 

 

Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 6, 1-11

"Anh em có việc kiện tụng nhau, và đem đến trước mặt người ngoại".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, làm sao trong anh em có người dám đem việc bất bình với kẻ khác ra thưa kiện trước mặt kẻ gian ác, chứ không trước mặt các thánh? Hay anh em lại không biết các thánh sẽ phán xét thế gian này sao? Và nếu anh em có quyền phán xét thế gian, thì anh em không xứng đáng xét xử những việc rất nhỏ mọn như thế sao? Anh em lại không biết chúng ta sẽ phán xét các thiên thần sao, phương chi là các việc đời này?

Vậy nếu anh em phải kiện cáo nhau về những việc đời này, anh em lại cắt đặt những người không đáng kể trong Hội thánh mà xét xử sao? Thật là một điều nhục cho anh em mà tôi phải nói như vậy. Chớ thì trong anh em không có người nào khôn ngoan có thể xét xử giữa anh em sao? Nhưng khi có việc kiện cáo giữa anh em với nhau mà lại đem đến trước mặt người ngoại ư? Nguyên việc anh em kiện tụng nhau, cũng đã là một lỗi rồi. Tại sao anh em không đành chịu một chút bất công? Tại sao anh em không đành chịu một chút thiệt thòi? Trái lại chính anh em ăn ở bất công và lừa đảo, mà lại xử như thế với chính anh em mình. Hay anh em lại không biết rằng: những kẻ gian ác sẽ không được hưởng nước Thiên Chúa sao? Anh em chớ lầm tưởng: những kẻ gian dâm, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, xấu nết, loạn dâm, trộm cắp, tham lam, say sưa, vu khống hay bóc lột đều không được hưởng nước Thiên Chúa đâu.

Xưa kia trong anh em đã có ít người như vậy. Nhưng anh em đã được rửa sạch, đã được thánh hoá, đã được công chính hoá, nhân danh Chúa chúng ta là Ðức Giêsu Kitô, và trong Thánh Thần của Thiên Chúa chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 149, 1-2. 3-4. 5-6a và 9b

Ðáp: Chúa yêu thương dân Người (c. 4a).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân; con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ. - Ðáp.

2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người. Hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. - Ðáp.

3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang. Hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Pl 2, 15-16

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống. Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 12-19

"Suốt đêm, Người cầu nguyện, Người chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ: Ðó là Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt là kẻ phản bội.

Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.

Ðó là lời Chúa.

 

Luke 9 Bible Pictures: Jesus teaching twelve disciples

THE EIGHT BEATITUDES OF JESUS


Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

... Ở tầm mức lưng chừng núi...



Theo Phúc Âm của Thánh ký Luca từ Thứ Hai đầu Tuần XXII Thường Niên tới nay, thì sau khi đụng độ với dân làng của Người ngay lần Người vừa xuất đầu lộ diện (trong bài Phúc Âm Thứ Hai tuần trước), sau khi kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên (trong bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước), và sau 4 lần đụng độ với thành phần luật sĩ với biệt phái (theo các bài Phúc Âm Thứ Năm, Thứ Sáu, Thứ Bảy tuần trước và Thứ Hai tuần này), h
ôm nay, Thứ Ba Tuần XXIII Thường Niên, bài Phúc Âm Thánh Luca mới thuật lại biến cố Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ, thành phần, như sẽ thấy ở các bài Phúc Âm ngay sau đó trong tuần này, sẽ đặc biệt được Người huấn luyện để các vị xứng đáng trở nên thành phần chứng nhân tiên khởi của Người và là nền tảng của Giáo Hội sẽ được Người thiết lập. 
Chính vì tính cách quan trọng của công cuộc tuyển chọn này mà Phúc Âm đã thuật lại rằng: "Đức Giêsu đi lên núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ". 
Chỉ có 12 tông đồ mà Chúa Giêsu Con Thiên Chúa hằng sống đã phải thâu đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa là Cha của Người cũng chính là Đấng đã sai Người. Chắc bấy giờ Chúa Giêsu chưa có hay chưa đủ 72 môn đệ. Nhưng con số môn đệ theo Người bấy giờ chắc cũng phải trên 12 người, trong đó có cả một số không được Người tuyển chọn bấy giờ, chẳng hạn như 2 chàng Giuse và Matthia là những người đã ở với Người ngay từ đầu như các vị khác, trong đó chàng Matthia là vị sau này được chọn thay cho tông đồ Giuđa Íchca (xem Tông Vụ 1:21-26).
Như thế, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Thiên Chúa không phải để xem có nên tuyển chọn 12 tông đồ hay chăng, một việc bất khả thiếu theo khuôn mẫu 12 chi tộc Israel trong Cựu Ước như chính Thiên Chúa đã thực hiện, vì Dân Tân Ước được hình thành theo khuôn mẫu của Dân Cựu Ước và Dân Cựu Ước được nên trọn nơi Dân Tân Ước. Danh sách 12 tông đồ được Phúc Âm hôm nay liệt kê như sau: "Đó là ông Simôn mà Người gọi là Phêrô, rồi đến ông Anrê, anh của ông ; sau đó là các ông Giacôbê, Gioan, Philípphê, Batôlômêô, Mátthêu, Tôma, Giacôbê con ông Anphê, Simôn biệt danh là Quá Khích, Giuđa con ông Giacôbê, và Giuđa Ítcariốt, người đã trở thành kẻ phản bội". 
Chúa Giêsu cầu nguyện trước hết là để hội ý với Cha của Người về những ai trong số thành phần môn đệ của Người bấy giờ xứng đáng trở thành 12 tông đồ trụ cột cho Giáo Hội Người sẽ thiết lập cho đến tận thế. Có thể lúc ấy Người cũng cầu nguyện để lĩnh ý Cha của Người về đường lối huấn luyện thành phần tông đồ nồng cốt này, về sứ vụ chứng nhân thừa sai của các vị trong tương lai, về vai trò quản trị, giảng dạy và thánh hóa của các vị được thừa kế bởi hàng giáo phẩm sau này. 

Tóm lại, trong đêm nguyện cầu này của mình, Chúa Giêsu có thể đã có một viễn ảnh về riêng 
Giáo Hội Người sẽ thiết lập để làm bí tích cứu độ cho toàn thể nhân loại. 

Thế nhưng, sở dĩ "
Người đã (phải) thức suốt đêm cầu nguyện", cầu nguyện lâu đến như vậy, phải chăng là vì Người cầu nguyện cho từng người môn đệ sẽ trở thành tông đồ của Người, trong đó đặc biệt có 2 người môn đệ cần đến lời cầu nguyện của Người hơn cả, đó là một Simon Phêrô sau này sẽ chối Người 3 lần mà Người vẫn tiếp tục tin tưởng đặt làm thủ lãnh tông đồ đoàn, và một Giuđa Íchca sau này sẽ phản nộp Người. Bấy giờ Người cũng có thể nghĩ đến người môn đệ được Người yêu thương cách riêng là Gioan, nhất là đến một đệ nhất môn đệ hoàn hảo của Người là Mẹ Maria, vị sẽ thay Người chăm sóc các tông đồ sau khi Người về Trời vì Mẹ là Mẹ của Giáo Hội. 

Vấn đề được đặt ra ở đây là nếu Chúa Giêsu đã cầu nguyện thâu đêm như thế thì với tác động thần linh vô ngộ thì làm sao Người lại chọn một người môn đệ phản nộp Người một cách sai lầm như vậy được chứ? Đó là lý do không phải cứ cầu nguyện là mọi việc sẽ được tốt đẹp theo ý của mình đâu, mà là cho ý của Thiên Chúa được nên trọn. Bởi thế nên trong chính Kinh Lạy Cha mới có lời nguyện "ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời". Vậy cầu nguyện không phải chỉ để biết được ý Chúa mà làm theo, nhất là để nguyện cho ý Chúa được nên trọn nơi chính bản thân mình cũng như trong mọi sự, để biết chấp nhận mọi sự theo Thánh ý Chúa, tức là để phó mình cho Chúa: "Xin cất chén này cho con, nhưng đừng theo ý Con một theo ý Cha" (Luca 22:42).

Ở cuối bài Phúc Âm hôm nay chúng ta còn thấy một hình ảnh đặc biệt khác nữa, liên quan đến chính việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ, đó là "Đức Giêsu đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xiđôn đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật". 

Phần cuối bài Phúc Âm hôm nay quả thực đã cho thấy việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ là để cùng Người phục vụ toàn thể nhân loại, ở chỗ: "Đức Giêsu đi xuống cùng với các ông". Và hành động "đi xuống" này chỉ xẩy ra sau hành động đi lên: "Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại" với Người bấy giờ đang ở trên núi cầu nguyện vừa xong. Có nghĩa là các vị môn đệ trở thành tông đồ này phải có một đời sống vươn lên với Người và sống như Người, ở chỗ sống trổi vượt trên trần gian, các vị mới có thể làm chứng cho Người như "ánh sáng thế gian", như "một thành xây trên núi không thể nào khuất được nữa" (Mathêu 5:14).
Tuy nhiên, địa điểm dừng lại của hành động sau khi đi "lên núi" "Đức Giêsu đi xuống cùng với các ông" đây, như Phúc Âm cho thấy "ở một chỗ đất bằng", chứ không phải ở một thung lũng hay ở đồng bằng hoặc trong sa mạc. Nghĩa là ở một nơi lưng chừng núi, có thể hiểu là ở sườn núi, một tầm mức không cao không thấp, vừa tầm với dân chúng, nhờ đó họ có thể "đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật". 

Chính vì trong bài Phúc Âm Chúa Giêsu chọn gọi 12 tông đồ và giảng dạy về các phúc đức trọn lành cho các vị, để các vị có thể trở thành chứng nhân tiên khởi của Người và là nền tảng của Giáo Hội mà trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô mới đặt vấn đề với Kitô hữu giáo đoàn Corinto về thẩm quyền phân xử của các thánh, cùng với việc nên trọn lành của chung cộng đồng dân Chúa của họ như thế, trong 2 câu được trưng dẫn dưới đây:

"Anh em thân mến, làm sao trong anh em có người dám đem việc bất bình với kẻ khác ra thưa kiện trước mặt kẻ gian ác, chứ không trước mặt các thánh? Hay anh em lại không biết các thánh sẽ phán xét thế gian này sao? Và nếu anh em có quyền phán xét thế gian, thì anh em không xứng đáng xét xử những việc rất nhỏ mọn như thế sao? Anh em lại không biết chúng ta sẽ phán xét các thiên thần sao, phương chi là các việc đời này?"

"Nguyên việc anh em kiện tụng nhau, cũng đã là một lỗi rồi. Tại sao anh em không đành chịu một chút bất công? Tại sao anh em không đành chịu một chút thiệt thòi? Trái lại chính anh em ăn ở bất công và lừa đảo, mà lại xử như thế với chính anh em mình. Hay anh em lại không biết rằng: những kẻ gian ác sẽ không được hưởng nước Thiên Chúa sao? Anh em chớ lầm tưởng: những kẻ gian dâm, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, xấu nết, loạn dâm, trộm cắp, tham lam, say sưa, vu khống hay bóc lột đều không được hưởng nước Thiên Chúa đâu".

Việc Kitô hữu trong cùng một cộng đồng dân Chúa kiện cáo nhau trước tòa đời, theo Thánh Phaolô, đã "là một lầm lỗi", mà lại "bất công" nữa, vì chính bản thân mình sống bất công mà đi kiện cáo để lấy lại công lý. Tuy nhiên, lòng người và đời người luôn sống mâu thuẫn và giả hình là như vậy. Bởi thế, chỉ khi nào họ nhận biết tình yêu Thiên Chúa, họ mới có thể sống với nhau theo tình huynh đệ mà thôi. Bài Đáp Ca hôm nay, trích Thánh Vịnh 149, cho chúng ta thấy một cộng đồng dân Chúa nhận biết Chúa và ca tụng Thiên Chúa sẽ hoàn toàn khác hẳn  

1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân; con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ.

2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người. Hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang.

3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang. Hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa.


Thứ Tư

 


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 7, 25-31

"Ngươi bị ràng buộc với vợ ư? Ngươi đừng tìm cách tháo gỡ. Ngươi không còn ràng buộc với vợ ư? Ngươi đừng tìm cưới vợ nữa".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, về những người đồng trinh, tôi không có lời Chúa truyền dạy nào, nhưng tôi đã được Chúa thương, nên tôi cho ý kiến như một người đáng tin cậy. Vậy tôi nghĩ rằng đó là một điều tốt theo nhu cầu hiện tại. Phải, người ta ở vậy quả là một điều tốt. Ngươi bị ràng buộc với vợ ư? Ngươi đừng tìm cách tháo gỡ. Ngươi không còn bị ràng buộc với vợ ư? Ngươi đừng tìm cưới vợ nữa. Nhưng nếu ngươi cưới vợ, ngươi chẳng có tội gì. Và nếu kẻ đồng trinh kết bạn, thì chẳng có tội gì. Nhưng những người thể ấy, sẽ chuốc lấy khốn khổ vào thân. Phần tôi, tôi muốn cho anh em tránh được điều đó.

Anh em thân mến, tôi nói cùng anh em điều này là: Thời giờ vắn vỏi; còn có cách là những ai có vợ, hãy ăn ở như không có; những ai than khóc, hãy ăn ở như không than khóc; những kẻ hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những người mua sắm, hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời này, hãy ăn ở như không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian này đang qua đi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 44, 11-12. 14-15. 16-17

Ðáp: Xin hãy nghe, thưa nương tử, hãy coi và hãy lắng tai (c. 11a).

Xướng: 1) Xin hãy nghe, thưa nương tử, hãy coi và hãy lắng tai, hãy quên dân tộc và nhà thân phụ, để Ðức Vua Người sủng ái dong nhan: chính Người là Chúa của cô nương, hãy phục vụ Người. - Ðáp.

2) Tất cả huy hoàng là nàng công chúa đi vào cung nội, áo nàng dệt bằng những sợi chỉ vàng. Bận áo gấm sặc sỡ, nàng được dẫn tiến Ðức Vua, theo sau nàng là những cô trinh nữ bạn bè, họ cũng được bệ kiến long nhan. - Ðáp.

3) Họ bước đi trong niềm hân hoan vui vẻ, tiến vào trong cung điện Ðức Vua. Người sẽ có con nối gót tiên vương liệt vị, và phong họ làm quan trên cả sơn hà. - Ðáp.

 

Alleluia: Ep 1, 17-18

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được sáng suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi chúng ta. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 20-26

"Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn các môn đệ và nói:

"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ các ngươi như kẻ bất lương, ngày ấy các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.

"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả".

Ðó là lời Chúa. 

 

Sermon on the Plain (Luke 6:20-26) — Tribe Church

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Tứ Phúc khốn - Tứ Họa lành



T
ừ hôm nay, Thứ Tư Tuần XXIII Thường Niên, cho đến hết Thứ Bảy tuần này, Giáo Hội chọn đọc đoạn 6 của Phúc Âm Thánh ký Luca, đoạn về Bài Giảng Sống Thương Xót của Chúa Giêsu, nhưng chỉ có gần 1 đoạn 6 ngắn gọn hơn của Thánh ký Mathêu (dài tới 3 đoạn, từ đầu đoạn 5 đến hết đoạn 7). 
Tuy nhiên, nội dung của cả hai Phúc Âm cũng giống nhau, ở chỗ: 1- Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Người hơn là dạy chung dân chúng, và ở chỗ: 2- Chúa Giêsu muốn cho thành phần môn đệ của Người, nhất là các tông đồ, phải "nên trọn lành như Cha của các con ở trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48), tức là phải biết "cảm thương như Cha của các con là Đấng thương xót" (Luca 6:36). 
Thật vậy, bài giảng trọn lành (theo Thánh Mathêu) cũng là bài giảng thương xót (theo Thánh Luca), được Chúa Giêsu giảng dạy cho riêng các môn đệ của Người hơn là cho chung dân chúng. Bởi thế, trong bài Phúc Âm hôm nay, ngay mở đầu, Thánh ký Luca đã viết một chi tiết rất quan trọng như sau: "Khi ấy, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn các môn đệ và nói". 
Người đã nói những gì? Trong bài Phúc Âm theo Thánh ký Luca hôm nay, trước hết, Chúa Giêsu đã nói về bốn điều lành được Người khẳng định là "phúc", cho dù trái với lý lẽ tự nhiên, và bốn cái dữ mà Người xác quyết là "khốn", bất chấp bản chất tốt lợi của chúng, trong khi đó ở Phúc Âm Thánh ký Mathêu (đầu đoạn 5) chỉ có 8 Mối Phúc Thật, hoàn toàn không có 4 sự dữ tiêu cực như trong Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay.
Trước hết là bốn điều lành được Người khẳng định là "phúc":
"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà  các ngươi bị người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng, và loại trừ như kẻ bất lương, ngày ấy các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế".
Sau nữa là bốn cái dữ mà Người xác quyết là "khốn":

"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được đầy đủ no nê, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi các ngươi được mọi người ca tụng, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả". 

Chúng ta thấy cái tương phản hoàn toàn với nhau một cách nẩy lửa giữa 4 điều lành và 4 cái dữ trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, thứ tự như sau: 

1- "Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có";

2- "Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ đã được đầy đủ no nê";

3- "Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười";

4- "Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người các ngươi b người ta thù ghéttrục xuất và phỉ bángvà loại trừ như kẻ bất lương" >< "Khốn cho các ngươi khi các ngươi được mọi người ca tụng".

Thật ra, 4 cái Người gọi là "khốn" này, tự bản chất của chúng, không có gì là xấu, nhưng nếu con người vốn thiên về tự nhiên và hưởng thụ chúng có thể trở thành "dịp tội" nơi họ và cho họ, khiến họ, nhất là thành phần theo Chúa, thành phần sống trọn lành hơn, thành phần chứng nhân của Người, bị hòa đồng với thế gian và biến mất trong thế gian, đến độ có thể trở thành phản chứng Kitô giáo, thành những tiên tri giả hay kitô giả, như vẫn thấy xẩy ra trong lịch sử Giáo Hội, đặc biệt là trong thời đại mà nhiều người cho là tận thế đến nơi rồi đây. 

Một điển hình có thể áp dụng một cách cụ thể vào cái "khốn" cho những ai "no nê" đó là những ai thích thưởng thức loại bữa ăn "all you can eat / ăn tha hồ mặc sức". Thật vậy, để có thể "ăn thả dàn, ăn mặc sức" những gì mình thích, nhiều món mình thích mà giá cũng không mắc lắm hay cũng đáng, người ta, trước hết phải nhịn ăn trước đó để có sức mà thưởng thức tối đa. Cái đói trước bữa ăn này đã là một cái "khốn" đầu tiên. Thế rồi, cái đói trong bữa ăn kiểu này nữa, đó là một khi ăn món này nhiều thì các món còn lại cũng ngon không thể ăn nhiều được nữa, tiếc tiền, đó là cái "khốn" thứ hai. Cái "khốn" thứ ba đó là sau khi ăn xong cái bụng sao mà nó nặng nề khó chịu quá sức. Chưa hết, cái "khốn" cuối cùng và là cái "khốn" nguy hiểm nhất đó là bị cao mỡ, vì đã ăn quá nhiều tôm hùm hay cua là những hải sản mắc tiền hiếm quí.

Trái lại, cũng thế, 4 điều được Chúa Giêsu gọi là "phúc" đây, tự bản chất của chúng, quả thực là dữ, là xấu, là bất lợi, khiến con người bản tính vốn vướng mắc nguyên tội cảm thấy bất hạnh, nên họ bao giờ cũng hoàn toàn muốn tránh né hay được giải thoát. Thế nhưng, với thành phần sống đức tin và vượt thoát, sống gần với Đấng đã đến để phục vụ hơn hưởng thụ (xem Mathêu 20:28), sống chứng nhân cho Đấng đã sống thân phận mục nát của hạt lúa miến trong lòng đất (xem Gioan 12:24), thì những cái bất hạnh ấy lại trở thành phương tiện siêu thoát của họ và cứu độ trần gian.

Đúng thế, cái phúc thật của Kitô hữu theo Chúa không phải là ở đời này, mà ở tại đời sống trọn lành, cho dù là sống đời đồng trinh hay góa bụa, thậm chí cả khi sống đời hôn nhân gia đình nữa. Trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô đã cho thấy cả 3 thành phần trên đây có thể sống trọn lành như thế này: "Về những người đồng trinh, tôi không có lời Chúa truyền dạy nào.... Ngươi không còn bị ràng buộc với vợ ư? Ngươi đừng tìm cưới vợ nữa.... những ai có vợ, hãy ăn ở như không có".

Tóm lại, nếu chúng ta sống đức tin, sống trọn lành, sống vượt trên trần gian, (hơn là sống ngược với trần gian ở những gì tự nó không xấu như đời sống hôn nhân), sống như tinh thần của Bài Phúc Âm về tứ phúc khốn khó và tứ họa may lành, bao gồm tất cả những gì là thăng trầm trong cuộc đời của mình, thì không gì có thể làm chúng ta mất bình an, một khi Kitô hữu là môn đệ của Người như chúng ta, theo lời Thánh Phaolô huấn dụ trong Bài Đọc 1 qua Thư ngài gửi cho cộng đoàn Corintô lần đầu, chúng ta sẽ: "than khóc như không than khóc; hân hoan như không hân hoan; mua sắm như không có gì; dùng sự đời này như không tận hưởng". Bởi tất cả chỉ là phương tiện và là đường lối nên trọn lành mà thôi!

Những tâm hồn Kitô hữu sống trọn lành trên thế gian này như thế, chẳng khác nào như thành phần "nương tử" trong Thánh Vịnh 44 ở Bài Đáp Ca hôm nay, thành phần có được một bản thân "huy hoàng" diễm lệ và một cuộc đời "hân hoan" hạnh phúc, như các câu xướng của cùng bài Đáp Ca diễn tả như sau:

1) Xin hãy nghe, thưa nương tử, hãy coi và hãy lắng tai, hãy quên dân tộc và nhà thân phụ, để Ðức Vua Người sủng ái dong nhan: chính Người là Chúa của cô nương, hãy phục vụ Người.

2) Tất cả huy hoàng là nàng công chúa đi vào cung nội, áo nàng dệt bằng những sợi chỉ vàng. Bận áo gấm sặc sỡ, nàng được dẫn tiến Ðức Vua, theo sau nàng là những cô trinh nữ bạn bè, họ cũng được bệ kiến long nhan.

3) Họ bước đi trong niềm hân hoan vui vẻ, tiến vào trong cung điện Ðức Vua. Người sẽ có con nối gót tiên vương liệt vị, và phong họ làm quan trên cả sơn hà.

 

 

Thứ Năm
 


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 8, 1b-7, 11-13

"Anh em làm tổn thương lương tâm yếu đuối của họ, là anh em phạm đến Ðức Kitô".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, sự thông thái làm cho người ta ra kiêu căng, còn lòng yêu thương thì xây dựng. Nếu ai tưởng mình biết điều gì, thì kẻ ấy chưa biết mình phải biết đúng cách. Nhưng nếu ai yêu mến Thiên Chúa, thì kẻ ấy được Thiên Chúa nhận biết. Còn về đồ ăn đã cúng tế cho các ngẫu tượng, chúng ta biết ngẫu tượng ở thế này là hư vô, và chẳng có Chúa nào khác ngoài một Thiên Chúa. Vì chưng, dù trên trời dưới đất, có những vị được người ta gọi là thần, (thật ra người ta cho rằng có nhiều thần nhiều chúa), nhưng đối với chúng tôi, chỉ có một Thiên Chúa là Cha, bởi Người mà mọi sự đều có và chúng ta phải quy về Người. Và có một Chúa là Ðức Giêsu Kitô, nhờ Người mà có mọi sự, và cũng nhờ chính Người mà có chúng ta. Nhưng không phải mọi người đều có sự thông biết, vì cho đến nay, còn có ít kẻ giữ thói quen thờ ngẫu thần, nên họ ăn của cúng tế cho ngẫu tượng, và lương tâm họ vốn yếu đuối, nên ra nhơ nhớp.

Và tại sự thông biết của ngươi, mà người anh em yếu đuối phải hư đi, người anh em mà Ðức Kitô đã chết cho. Và làm tổn thương lương tâm yếu đuối của họ, là anh em phạm đến Ðức Kitô. Vì thế, nếu thức ăn làm cho người anh em tôi vấp phạm, thì tôi sẽ không ăn thịt cho tới muôn đời, kẻo làm cho người anh em tôi vấp phạm.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 138, 1-3. 13-14ab. 23-24

Ðáp: Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời (c. 24b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con, Ngài biết con lúc con ngồi, khi con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con từ đàng xa. Khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết; Ngài để ý tới mọi đường lối của con. - Ðáp.

2) Chính Ngài đã nặn ra thận tạng con, đã dệt ra con trong lòng thân mẫu. Con ngợi khen Ngài đã tạo nên con lạ lùng như thế, vì công cuộc của Ngài thực diệu huyền. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin dò xét con và nhận biết lòng con; xin thử thách con và biết tỏ tư tưởng con. Xin Chúa nhìn coi hoặc giả con đi đường bất chính, và xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời. - Ðáp.

 

Alleluia: 2 Cr 5, 19

Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa ở trong Ðức Kitô đã giải hoà thế gian với Người, và đã đặt lời giải hoà trên môi miệng chúng tôi. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 27-38

"Các con hãy tỏ lòng thương xót như Cha các con hay thương xót".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại.

Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng.

Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác.

Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được thứ tha. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

Reflection on Matthew 22:37 – Those Who Love God Live a More Meaningful Life

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Bài Thánh Ca Thương Xót

 

 

 

Tiếp tục đề tài sống trọn lành hay sống cảm thương với các môn đệ, nhất là với thành phần 12 vị vừa được tuyển chọn làm tông đồ của mình, Chúa Giêsu đã đi thẳng và đi ngay vào những gì chính yếu nhất và thiết yếu nhất Người muốn nói với các vị và muốn các vị sống như vậy.

Thật thế, ngay sau khi mở màn như một dạo khúc cho bài huấn dụ trọn lành cũng là bài huấn dụ về lòng cảm thương này, một dạo khúc bao gồm 4 "phúc" hạnh và 4 "khốn" nạn tương phản nhau, một dạo khúc đã được Chúa Giêsu tài tình hòa âm cho hai bè hát xung khắc nhau, nhưng một khi trình diễn với tất cả hồn sống của mình thì chính ca sĩ mới cảm thấy thấm thía hơn bao giờ hết, nhất là khi hát đến các phiên khúc chính yếu và các kết thúc của bản thánh ca thương xót huyền diệu siêu vời này.

Bản Thánh Ca Thương Xót này, mà điệp khúc là phần hòa âm hai bè "phúc/khốnđầy tính chất giằng co nhức nhối, có tất cả 2 phiên khúc và 2 đoạn kết thứ tự được liệt kê như sau:

Bài Thánh Ca Thương Xót - Phiên khúc thứ nhất:

"Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại".

Bài Thánh Ca Thương Xót - Phiên khúc thứ hai:

"Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng".

Bài Thánh Ca Thương Xót - Đoạn tuyệt kết:

"Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác".

Bài Thánh Ca Thương Xót - Đoạn tổng kết:

"Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được thứ tha. Hãy ban tặng, thì các con sẽ tặng lại; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".

Tất cả nội dung và ý nghĩa của bản Thánh Ca Thương Xót này, tức là tột đỉnh của bản Thánh Cha Trọn Lành này đều được cô đọng ở chung đoạn tổng kết và ở riêng câu đầu của đoạn tổng kết ấy, đó là: "các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ". Mà "nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ" ở chỗ nào, nếu không phải, cũng trong đoạn tổng kết, ở 4 thái độ thứ tự là: 1- "Ðừng xét đoán", 2- "Ðừng kết án", 3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng".

Trong 4 thái độ để phản ảnh lòng nhân từ của Cha trên trời xót thương nhân loại vừa được tóm kết trên đây, có 2 thái độ mang tính cách tránh những gì là tiêu cực: 1- "Ðừng xét đoán", 2- "Ðừng kết án", và 2 thái độ có tính cách thực hiện những gì là tích cực: 3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng". 

1- "Ðừng xét đoán" và 2- ừng kết án": bởi vì, "Thiên Chúa không sai Con Ngài đến thế gian để luận án thế gian nhưng là để thế gian nhờ Người mà được cứu độ" (Gioan 3:16). Bởi vậy, những ai muốn "thương xót như Cha thương xót", nhất là thành phần môn đệ của Chúa Kitô được Người tuyển chọn làm chứng nhân cho Người, cũng "đừng xét đoán" và "đừng kết án".  

3- "Hãy tha thứ" và 4- "Hãy ban tặng": bởi vì, "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến ban Người Con duy nhất của Ngài, để ai tin vào Người thì không phải chết ("tha th") nhưng được sự sống đời đời ("ban tặng")" (Gioan 3:16). Bởi vậy, những ai muốn "thương xót như Cha thương xót", nhất là thành phần môn đệ của Chúa Kitô được Người tuyển chọn làm chứng nhân cho Người, cũng "hãy tha thứ" và "hãy ban tặng", ở chỗ vừa "tha thứ" vừa "ban tặng" đúng như phiên khúc 1 đã khuyên dạy: "(Tha Thứ) - Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. (Ban Tặng) - Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại".

 Tuy nhiên Bài Thánh Ca Thương Xót trên đây chỉ có thể tuyệt diệu trình diễn hay trình bày một cách điêu luyện, khi người ca sĩ hay giọng ca tiếng hát chuyên nghiệp nào đó hội đủ những gì được Thánh Phaolô nhắc nhở Kitô hữu Giáo đoàn Corintô trong Thứ Thứ 1 của ngài ở Bài Đọc 1 hôm nay: "Anh em thân mến, sự thông thái làm cho người ta ra kiêu căng, còn lòng yêu thương thì xây dựng. Nếu ai tưởng mình biết điều gì, thì kẻ ấy chưa biết mình phải biết đúng cách. Nhưng nếu ai yêu mến Thiên Chúa, thì kẻ ấy được Thiên Chúa nhận biết".

Đúng thế, không phải là thứ kiến thức "thông thái kiêu căng" mà là "yêu thương xây dựng", mà là "được Thiên Chúa nhận biết", nghĩa là được Thiên Chúa chiếm đoạt, được Thiên Chúa sống trong bản thân mình, bấy giờ họ mới có thể  không còn tôn thờ ngẫu tượng ở bất cứ một hình thức nào, mà "chỉ có một Thiên Chúa là Cha" và "một Chúa là Ðức Giêsu Kitô", nhờ đó, họ cũng mới có những tác hành "thương xót như Cha" và cứu độ hơn là hủy diệt (xem Gioan 3:17) như Chúa Kitô, chẳng hạn trong việc, như trường hợp cụ thể được Thánh Phaolô đề cập tới trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay: "nếu thức ăn làm cho người anh em tôi vấp phạm, thì tôi sẽ không ăn thịt cho tới muôn đời, kẻo làm cho người anh em tôi vấp phạm".

Vậy, để có thể chẳng những thưởng thức mà còn trình diễn Bài Thánh Ca Thương Xót bất khả thiếu này nơi bản thân và đời sống của một Kitô hữu là môn đệ Chúa Kitô như chúng ta, chúng ta hãy cùng với Thánh Vịnh 138 ở Bài Đáp Ca hôm nay dâng lên Thiên Chúa tâm nguyện sau đây:

 

1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con, Ngài biết con lúc con ngồi, khi con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con từ đàng xa. Khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết; Ngài để ý tới mọi đường lối của con.

2) Chính Ngài đã nặn ra thận tạng con, đã dệt ra con trong lòng thân mẫu. Con ngợi khen Ngài đã tạo nên con lạ lùng như thế, vì công cuộc của Ngài thực diệu huyền.

3) Lạy Chúa, xin dò xét con và nhận biết lòng con; xin thử thách con và biết tỏ tư tưởng con. Xin Chúa nhìn coi hoặc giả con đi đường bất chính, và xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời.

 

 

LỄ THÁNH DANH MARIA CỦA ĐỨC MẸ NGÀY 12/9

Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp từ 3 nguồn khác nhau, bao gồm cả một chút chia sẻ của mình

Say the Most Holy Name of “Mary” - The Best Catholic

 

 

 

Thánh thi (Giờ Kinh Phụng Vụ Tối Lễ Sinh Nhật Đức Mẹ 8/9)

 

Kính chào Mẹ là Sao Bắc Đẩu,
Đấng mệnh danh Hiền Mẫu Chúa Trời,
Chói loà trinh tiết gương soi,
Cửa vào cõi phúc tuyệt vời thiên cung.

Khi nhận tiếng “Kính Mừng” vinh dự,
Gáp-ri-en thần sứ tặng ban,
Chữ “E-va” Mẹ đảo vần
Thành “A-ve” gửi bình an cho đời.

Xin cởi dây trói người tội lỗi,
Mở mắt ai tăm tối đui mù,
Đuổi xa hoạn nạn rủi ro,
Đổ tuôn hồng phúc tựa hồ mưa sa.

Xin chứng tỏ Mẹ là Từ Mẫu,
Chuyển lời cầu đạt thấu Hoàng Thiên,
Toà cao Thánh Tử uy quyền,
Vua Trời Cứu Thế đã nên người trần.

Ôi Trinh Nữ siêu phàm khôn ví,
Ôi hiền hoà tuyệt thế Nữ Trinh,
Cứu đoàn con khỏi tội tình,
Trở nên thanh khiết hiền lành từ đây !

Xin giúp sống chuỗi ngày trong trắng,
Mẹ dẫn đường là chẳng phải lo,
Mai ngày gặp Chúa Giê-su,
Vui mừng hưởng phúc thiên thu chan hoà.

Lạy Thiên Chúa Ngôi Cha từ ái,
Lạy Ngôi Con quảng đại vô lường,
Thánh Thần trải rộng tình thương,
Ba Ngôi hiển trị thiên đường quang vinh.

 

I. THÁNH DANH MARIA - PHỤNG VỤ

Năm 1683, sau khi chiếm nước Hungary, quân Thổ Nhĩ Kỳ tiến vào nước Áo và dùng hai vạn quân binh để vây hãm kinh đô Vienna của nước này.

Dân thành Vienna hiệp nhau phòng thủ hết sức cẩn thận vì họ biết rằng sa vào tay quân Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ thì thế nào cũng bị hành hạ rất dã man.

Trong lúc dân thành Vienna sống trong phập phồng lo sợ, thì họ lại hú vía khi biết được rằng một nhà thờ đang bị bốc lửa, và lửa lan rộng rất nhanh, lan đến gần kho vũ khí. Nếu lửa chạm vào kho vũ khí, kho vũ khí sẽ nổ lớn, thành phố sẽ thiệt hại nặng về tài sản và nhân mạng, và quân địch sẽ vào chiếm thành dễ dàng.

Hôm đó là ngày Lễ Đức Mẹ Mông Triệu Thăng Thiên. Toàn dân thành Vienna sốt sắng kêu xin Đức Mẹ cứu họ khỏi thảm cảnh lửa cháy này. Họ van lên lớn tiếng Danh Thánh Mẹ “Lạy Mẹ Maria! Lạy Mẹ Maria!

Lạ thay! Ngọn lửa đang cháy rùng rợn, bỗng dừng lại trước kho vũ khí và tắt. Kho vũ khí không nổ.

Trong khi đó, dân thành Vienna lại nhận được tin vui: viện binh Ba Lan của tướng Sobieski và việnh binh Đức của ông hoàng Carlo di Lorena đang tìm cách đến giải vây thành Vienna. Hai toán quân này gặp nhau trên đường đi cứu viện. Trước khi tiến quân ra trận giải cứu, họ tham dự thánh lễ. Và sau khi tham dự thánh lễ, họ đồng thanh hô to: “Chúng ta hãy lên đường! Đức Mẹ Maria sẽ ở cùng chúng ta!

Một trận chiến nẩy lửa xảy ra. Quân Thổ bại trận, rút lui, để lại rất nhiều vũ khí, trong đó có 200 khẩu đại bác. Một nữa quân lính của họ bị thương và chết.

Đức Giáo Hoàng Inôxenxiô XI tuyên bố lập Thánh lễ dâng kính Thánh Danh Đức Mẹ Maria để kỷ niệm trận thắng lạ lùng này.

(Website của Cộng Đoàn Dũng Lạc)

 

II. THÁNH DANH MARIA - TÊN GỌI

Thánh Danh Maria theo tiếng Do Thái trong Cựu ước là Myriam, tiếng Aram là Maryam, tiếng Hy Lạp dịch Cựu ước là Mariam, tiếng Hy Lạp dịch Tân ước là Maria, tiếng Anh là Mary, tiếng Pháp là Marie, tiếng Latinh là Maria.

Trong Thánh kinh có tám người mang tên như Thánh Danh Đức Mẹ:
1. Chị ông Maisen thường gọi là Miriam (Xh 15:20-21; Ds 12:1-10);
2. Một phụ nữ con gái của Ezra (1 Sb 4:17);
3. Maria Mađalêna, người phụ nữ được trừ khỏi bảy quỉ (Lc 8:2);
4. Maria chị Lagiarô và em của Martha (Lc 10:38-42);
5. Maria mẹ của Thánh Giacôbê và Gioan (Mc 15:40-47);
6. Maria vợ ông Clopas (Ga 19:25) có lẽ là mẹ của Thánh Giacôbê và Gioan;
7. Maria mẹ của Thánh Marcô tác giả Phúc âm II (Cv 12:12);
8. Maria là một Kitô hữu ở Rôma mà Thánh Phaolô gửi lời chào (Rm 16:6).

III. THÁNH DANH MARIA - Ý NGHĨA

Thánh Danh Maria có những ý nghĩa:

1. Theo Thánh Giêrônimô, Maria tiếng Do Thái có nghĩa là "biển". Do đó, Thánh Bênađô gọi Đức Mẹ là "Sao biển". Giáo hội có Thánh thi "Ave Maris Stella".

2. Cũng theo Thánh Giêrônimô, Maria tiếng Aram là "Marta = Bà Chúa". Tiếng Latinh là Domina, tiếng Ý là Madona, tiếng Pháp là Notre Dame, tiếng Anh là Our Lady.

3. Maria tiếng Ai Cập là "mari" nghĩa là được yêu, là "mara" nghĩa là phương phi, hợp với vẻ thẩm mỹ của Á Đông là "lộng lẫy diễm lệ".

4. Maria tiếng Ugarit là "mrym" nghĩa là cao sang, uy nghi, tuyệt vời.

5. Theo nhà Thánh Mẫu học Scheeben, Maria tiếng Do Thái là Miryam biến thành myrrha maris, stilla maris, stella maris.

6. Maria nghĩa hay nhất là "làm sáng tỏ" vì Mẹ là bức gương trong, phản chiếu ánh sáng hằng hữu, là trung gian ánh sáng ơn thánh, là rạng đông và là mỹ nữ lồng bóng mặt trời.

7. Maria có nghĩa Tân Evà đem lại ơn Cứu rỗi, tương phản với Evà đem lại ác hoạ.

L.m. Phêrô Ngô Minh Châu, CRM (phần II + III trên đây)

 

IV. THÁNH DANH MARIA - XUẤT XỨ

Thiên Chúa Ba Ngôi tỏ cho các thiên thần biết rằng từ đời đời Ngài đã tác tạo cho Mẹ và cho Ngôi Con danh hiệu Maria và Giêsu. Trong hai danh hiệu đó, Ngài được thỏa lòng hoàn toàn. Rồi Ngài phán: "Danh hiệu Maria phải được hiển vinh lạ thường. Những ai thành thực sốt sắng kêu cầu danh hiệu ấy sẽ được ban nhiều ân sủng. Những ai kính cẩn đọc lên sẽ được ủi an. Mọi người đều tìm được trong danh hiệu ấy phương dược trị liệu bệnh tật mình; được ánh sáng soi đường; được kho tàng cứu giúp sự túng nghèo. Danh hiệu Maria làm run sợ hoả ngục và đạp nát đầu cựu xà Satan".

Chính Chúa đặt danh hiệu ấy cho Mẹ. Mẹ đón nhận với những lời ca ngợi lạ lùng. Lúc Thiên Chúa đọc danh hiệu ấy lên, các thiên thần đều phủ phục, bái chào, hát lên thánh ca tán tụng, nhất là những vị mang biểu hiệu danh hiệu ấy càng nhiệt liệt tán tụng hơn.

Càng thực tâm nhiệt thành tôn kính danh hiệu rất dịu ngọt của Mẹ, con càng đi trên đường của Mẹ. Con nên biết rằng Thiên Chúa đã ban cho Danh Hiệu ấy không biết bao nhiêu là ân sủng và đặc ân. Mẹ không thể nghĩ đến hay nghe đọc đến Danh Hiệu ấy mà lại không dâng lời cảm tạ Chúa. Cho nên Mẹ quyết định làm những việc cả thể cho Chúa là Đấng đã ban cho Mẹ Danh Hiệu quí báu ấy.

(Trích từ Thần Đô Huyền Nhiệm, bản dịch của Phạm Duy Lễ)

 

V. THÁNH DANH MARIA - CĂN TÍNH

Xét cho cùng thì Thánh Danh Maria của Đức Mẹ là chính căn tính của Mẹ. Bởi thế, trong lời chào của Tổng sứ thần Gabiên mở đầu cho biến cố Truyền Tin, chỉ là "Kính mừng đầy ơn phúc" (Luca 1:28), chứ không phải "Kính mừng Maria đầy ơn phúc", như trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn đọc. Nếu bình thường, khi chào ai thì chào tên người ấy, thì khi Tổng sứ thần Gabiên chào "kính mừng đầy ơn phúc" ngài thật sự đã ám chỉ "Maria", "một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a" (Luca 1:27). Như thế, quả thực "đầy ơn phúc" là chính Thánh Danh của Mẹ, một con người lịch sử mang tên gọi là "Maria, "mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô" (Mathêu 1:16).

Tên gọi bao giờ cũng chất chứa, nói lên hay phản ảnh chính căn tính của một hữu thể. Nếu tên của Thiên Chúa, được Ngài trả lời cho Moisen từ cuộc thần hiển bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi là "I am who am - Ta là Đấng hiện hữu (hay) Ta là Đấng có" (Xuất Hành 3:14), nghĩa là, Thiên Chúa là Đấng tự hữu, hằng hữu, toàn hữu, theo bản tính thần linh của Ngài, không ai dựng nên Ngài, trái lại, Ngài đã chẳng những tạo dựng nên tất cả mọi tạo vật hữu hình và vô hình trên trời dưới đất, mà còn quan phòng tất cả mọi sự một cách vô cùng khôn ngoan và toàn năng trong giòng lịch sử của chung tạo vật, nhất là của riêng loài người.

Thế nên, trong Lịch sử Cứu độ của dân Do Thái, Ngài mới liên lỉ hiện hữu, thủy chung, "bởi Ngài không thể nào chối bỏ chính mình Ngài" (2Timôthêu 2:13), không bao giờ thay đổi, không bao giờ bỏ họ dù họ có bỏ Ngài, đến độ, Ngài luôn ra tay cứu độ họ rất nhiều lần, trước hết và trên hết, nơi biến cố vượt qua từ Ai Cập, nơi họ mang thân phận nô lệ bất xứng, mà đem họ vào mảnh đất hứa chảy sữa sự sống và mật tự do của thành phần dân riêng của Ngài. Nên Ngài đã tự động xác nhận thêm về danh xưng của Ngài với Moisen cho rõ ràng hơn nữa: "Thiên Chúa lại phán với ông Mô-sê: 'Ngươi sẽ nói với con cái Ít-ra-en thế này: ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia'." (Xuất Hành 3:15).

Như thế, nếu danh xưng của Thiên Chúa trong lịch sử nghĩa là "thủy chung" đối với dân của Ngài, tức Ngài "là Alpha và là Omega, là nguyên thủy và là cùng tận" (Khải Huyền 21:6), "Đấng hiện có, đã có và đang đến, Đấng toàn năng" (Khải Huyền 1:8), mà "thủy chung" gắn liền với "tình yêu mạnh như sự chết" (Diễm Tình Ca 8:6), một "thủy chung" là chính bản chất của tình yêu, là căn tính của Vị "Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16), dám "chết cho người mình yêu" (xem Gioan 15:13), thì "đầy ơn phúc", ám chỉ Maria, là phản ảnh trung thực và sống động tình yêu thủy chung muôn thuở bất diệt này của Thiên Chúa, hay đúng hơn, là phản ảnh trung thực và sống động chính Vị "Thiên Chúa là tình yêu". Do đó nên đệ nhất tạo vật về ân sủng "đầy ơn phúc" Maria mới được Diễm Tình Ca trong Cựu Ước tỏ ra bàng hoàng ngỡ ngàng khi thấy "Kìa bà nào đang tiến lên ... rực rỡ như mặt trời" (6:10).

Có nghĩa là Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương trên hết mọi thụ tạo của Ngài: "Thiên Chúa ở cùng trinh nữ" (Luca 1:28), không phải chỉ bắt đầu vào chính lúc vị Tổng sứ thần chào Mẹ, mà ngay từ khi Mẹ được hoài thai trong lòng thai mẫu, với ơn vô nhiễm nguyên tội Chúa ban cho Mẹ, và chính bản thân Mẹ đã nhận biết đặc ân ấy của mình, nên Mẹ đã "được ơn nghĩa với Chúa (hay) đẹp lòng Chúa" (Luca 1:30).

Về phần mình, Mẹ đã luôn sống xứng đáng với tình yêu thương vô cùng ấy của Thiên Chúa, nghĩa là, Mẹ đã để cho Thiên Chúa yêu thương Mẹ cho đến cùng, đã để Ngài được tự do tỏ tất cả mình ra cho Mẹ và qua Mẹ, trong cả mầu nhiệm Nhập Thể và Vượt Qua của Con Ngài, tùy theo cách thức của Ngài, tùy Ngài định đoạt tất cả mọi sự về Mẹ và nơi Mẹ, ở chỗ, Mẹ chỉ biết hoàn toàn và tuyệt đối phó thác tất cả bản thân của Mẹ và cuộc đời của Mẹ cho Ngài: "Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Xin hãy thực hiện nơi tôi những gì ngài truyền" (Luca 1:38). Bởi đó, Mẹ mới "có phúc vì đã tin" (Luca 1:45), và mới được "hết mọi đời chúc khen diễm phúc" (Luca 1:48): "Kính mừng Maria đầy ơn phúc", như "một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao" (Khải Huyền 12:1).

Có thể nói, đối với satan và bọn ngụy thần hỏa ngục đang tấn công Giáo Hội hơn bao giờ hết đây, còn kinh sợ Thánh Danh Maria của Đức Mẹ hơn cả Thánh Danh Giêsu nữa. Không phải vì Thánh Danh Maria hơn Thánh Danh Giêsu, hay Mẹ Maria cao hơn Chúa Giêsu, mà chỉ vì Thánh Danh Maria chỉ là một thụ tạo thuần túy đã trở thành Mẹ Thiên Chúa, mà chúng vô cùng kiêu hãnh bị thua bại thì mới nhục nhã hơn là chúng thua Chúa Kitô dầu sao cũng là Vị Thiên Chúa Làm Người. Và chúng đã thực sự bị thua ngay từ giây phút hoài thai của nhân vật lịch sử "đầy ơn phúc" Maria này, và cũng nhân vật "đầy ơn phúc" Maria ấy đã đạp nát cái đầu rắn quỉ kiêu căng ngạo mạn quỉ quyệt gian dối của luxiphe nơi satan cùng bọn ngụy thần, ở dưới chân Thánh Giá Chúa Kitô Con Mẹ, để rồi cuối cùng, nhân vật "đầy ơn phúc" Maria này sẽ tiếp tục đạp nát đầu hắn cho tới tận thế, nơi từng thành phần con cái hèn nọn như gót chân của Mẹ bị hắn rình cắn..., như Mẹ đã tiên báo ở Fatima ngày 13/7/1917 ở cuối Bí Mật Fatima phần thứ 2: "Cuối cùng, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng!" .

(Đaminh Maria cao tấn tĩnh, lễ Thánh Danh Mẹ 12/9/2020)

Thiên Chúa đã cho Thánh Mẫu của Đức Ki-tô trổi vượt hơn muôn loài trên trời dưới đất ; chúng ta hãy thiết tha cầu nguyện :

Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con một người mẹ và một gương mẫu là Đức Ma-ri-a,

-  vì lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin làm cho chúng con được nên thánh.

Chúa đã làm cho Đức Ma-ri-a biết để tâm nghe lời Chúa, và phụng sự Chúa như một nữ tỳ trung tín,

– vì lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin làm cho chúng con trở thành môn đệ chân chính của Đức Ki-tô.

Chúa đã nhờ quyền năng Thánh Thần mà làm cho Đức Ma-ri-a thụ thai Con Một Chúa,

– vì lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin rộng ban cho chúng con những ân huệ Thánh Thần.

Chúa đã ban cho Đức Mẹ đầy sức mạnh mà đứng gần thập giá, và được vui mừng khi Con Chúa sống lại,

– vì lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin ra tay nâng đỡ chúng con trong lúc ngặt nghèo, và cho chúng con vững lòng trông cậy.

Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 


Thứ Sáu

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 9, 16-19. 22b-27

"Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, nếu tôi rao giảng Tin Mừng, thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi. Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Giả như nếu tôi tự ý đảm nhận việc ấy, thì tôi có công; nhưng nếu tôi bị ép buộc, thì tôi phải làm trọn nghĩa vụ đã giao phó cho tôi. Vậy thì phần thưởng của tôi ở đâu? Khi rao giảng Tin Mừng, tôi đem Tin Mừng biếu không, tôi không dùng quyền mà Tin Mừng dành cho tôi.

Mặc dầu tôi được tự do đối với tất cả mọi người, tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người, hầu thu hút được nhiều người hơn. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng. Anh em không biết rằng những kẻ chạy trong vận động trường, thì mọi người đều chạy nhưng chỉ có một người đoạt giải đó sao? Cũng vậy, anh em hãy chạy sao để đoạt được giải. Mọi tay đua đều phải kiêng cữ đủ điều, và những kẻ ấy kiêng cữ để đoạt lấy triều thiên hay hư nát, còn chúng ta, chúng ta nhắm đoạt triều thiên không hay hư nát.

Phần tôi cũng chạy như thế, chứ không phải chạy lẩn quẩn; tôi đấu võ, không phải như đấm vào không khí, nhưng tôi chế ngự thân xác, bắt nó tùng phục tôi, kẻo lỡ ra tôi giảng dạy cho kẻ khác, mà chính tôi phải bị loại ra chăng.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 83, 3. 4. 5-6. 12

Ðáp: Ôi Chúa thiên binh, khả ái thay cung điện của Ngài (c. 2).

Xướng: 1) Linh hồn tôi khát khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Thiên Chúa. Tâm thần và thể xác tôi hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa trường sinh. - Ðáp.

2) Ðến như chim sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để làm nơi ấp ủ con mình, cạnh bạn thờ Chúa. Ôi Chúa là Thiên Chúa thiên binh, ôi Ðại Vương và Thiên Chúa của con. - Ðáp.

3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa tới muôn đời. Phúc thay người được Chúa nâng đỡ, họ tiến lên ngày càng thêm hăng hái. - Ðáp.

4) Vì Thiên Chúa là thuẫn khiên, thành lũy. Thiên Chúa rộng ban ân sủng với vinh quang. Ngài không từ chối ơn lành với những ai sống sạch trong vô tội. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 39-42

"Người mù có thể dẫn người mù được chăng?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi.

"Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: "Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh", trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi. Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi".

Ðó là lời Chúa.

The Gospel of the day: 11th September – Archdiocese of Malta

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Cái đấu đong thương xót

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXIII Thường Niên, Thánh ký Luca tiếp tục thuật lại Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Người về lòng "cảm thương như Cha thương xót", mô phạm tối cao của chung nhân loại, của riêng thành phần con cái của Cha trên trời và nhất là của thành phần môn đệ Chúa Kitô, thành phần tông đồ làm chứng cho Chúa Kitô.

Ý tưởng chính trong bài Phúc Âm hôm nay đó là câu Chúa Giêsu nói ở ngay đầu: "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư?" Ngay sau câu này, Chúa Giêsu còn thêm một câu nữa, đó là: "Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi", như thế có nghĩa là gì, câu trước và câu sau có liên hệ gì với nhau chăng? 

Tất nhiên một khi Chúa Giêsu đã nói là phải có ý nghĩa của nó, phải có lý của nó. Phải chăng ở đây Người có ý nói rằng người mù không thể nào dẫn người mù được, chắc chắn cả hai sẽ lọt xuống hố mà thôi? 

Bởi vậy, con người cần phải học hỏi bởi những người khôn ngoan hơn, cần được họ dẫn dắt như là những bậc sư phụ của mình, đặc biệt là Chúa Giêsu, một Đại Sư đệ nhất thiên hạ, là chính "chân lý" (Gioan 14:6), thì mới có thể tránh được lầm lỗi, thất bại, và nếu con người làm trò tỏ ra biết dễ dạy lắng nghe tuân thủ những gì được các bậc sư phụ khôn ngoan hướng dẫn thì con người mới có thể đạt tới chỗ khôn ngoan "hoàn hảonhư bậc thày của mình.

Một trong những trường hợp hay khuynh hướng chứng thực con người vốn sống mù quáng, đó là con người không "tri kỷ tri bỉ", không biết mình biết người, như Chúa Giêsu đã nêu lên trong bài Phúc Âm hôm nay:

"Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh', trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi. Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi".

Thật thế, theo tâm lý tự nhiên, thường ai cũng cho mình là hay là tốt, hiếm người hay ít người tự nhận mình là kém tài kém đức thua nhiều người khác. Thậm chí miệng nói tôi tài hèn sức mọn, ấy thế mà không được trọng dụng thì bất mãn, hay thấy ai nổi hơn mình thì chọc phá tìm cách hạ bệ. Hoặc bị phê bình hay chê trách là choảng lại liền, hay đổ lỗi cho người khác hoặc cho hoàn cảnh, vì lý do kỹ thuật v.v. 

Với tâm tính đầy tự cao tự đại và nặng tự ái như thế, con người tự nhiên chẳng những tìm cách bênh vực mình bao nhiêu có thể trong mọi sự, không muốn bị ai dò xét, không muốn bị người nào bình phẩm hay đụng chạm tới, ngược lại, họ cứ thích pha mình vào cuộc đời của người khác, ở chỗ xét đoán người khác, thường là xét đoán xấu hơn là xét đoán tốt, thậm chí còn tự suy diễn và kết tội người khác, chẳng những trong lòng của họ mà còn công khai trước cộng đồng của họ nữa. 

Nếu người ta đeo kính râm thì nhìn mọi sự mờ mờ hơn là sáng tỏ thế nào, thì bản chất con người vốn hướng hạ và hướng xấu, nhất là dễ tin những điều xấu hơn điều tốt, họ sẽ thấy anh chị em của mình một cách thiển cận, không rõ ràng, thậm chí còn có khuynh hướng suy bụng ta ra bụng người nữa - mình xấu thì không ai được tốt hơn. Đó là lý do nguyên tắc và đường lối sáng suốt khôn ngoan mà Vị Đại Sư dạy trong bài Phúc Âm hôm nay cần phải được áp dụng: "hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi".

Chính vì con người rất khó bỏ tật xét đoán tha nhân một cách thiển cận và ngặt nghèo mà, theo tu đức, vì lòng nhân từ của mình, muốn cho một tâm hồn nào đó biết mình, nhờ đó họ không dám khinh người nào nữa, Cha trên trời hay sử dụng chiêu "các con lấy đấu nào mà đong cho ai thì sẽ bị đong lại cho đấu ấy" (Mathêu 7:2). Cái đấu ấy cũng có thể là chính lòng thương xót: "Ai có lòng xót thương ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được thương xót vậy" (Mathêu 5:7).

Cha trên trời hay sử dụng chiêu "các con lấy đấu nào mà đong cho ai thì sẽ bị đong lại cho đấu ấy" (Mathêu 7:2) bằng cách để cho người xét đoán xấu cho anh chị em mình bị người khác xét đoán xấu y như vậy hay hơn vậy nữa. Nếu nạn nhân bị người khác đong trả cho đấu mà họ đong cho người khác, bấy giờ, tâm hồn thiện chí thấy được Thiên Chúa thật tốt lành, đã sử dụng chính những xét đoán xấu của người khác để làm cho họ mở mắt ra không dám xét đoán xấu cho ai nữa, trái lại, hoàn toàn thông cảm với mọi người hơn trước, không dám khinh thường một ai. 

Nếu trong Bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã nói đến tình trạng mù quáng tâm linh của thành phần lãnh đạo dân Chúa trong tương lai là các vị tông đồ đang nghe Người bấy giờ, một tình trạng nguy hiểm, chẳng những làm hại chính bản thân mình mà còn kéo theo cả cộng đồng dân Chúa được mình phục vụ nữa: "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư?", thì có một vị tông đồ sinh non là Vị Tông Đồ Dân Ngoại đã thực sự ý thức được tầm quan trọng nơi sứ vụ "rao giảng Tin Mừng" của ngài, thậm chí còn " một nhu cầu đối với tôi".

Thế nhưng, ngài đã thực hiện sứ vụ và nhu cầu rao giảng tin mừng này một cách khôn ngoan sáng suốt, chứ không lơ mơ vớ vẩn, cứ chạy "lẩn quẩn" hay "đấm vào không khí", giống như một kẻ chẳng biết mình là ai, như say rượu, như mộng du v.v., như chính ngài đã xác nhận ở cuối Bài Đọc 1 được trình từ Thứ 1 gửi Giáo đoàn Corintô của ngài, về chính bản thân ngài, đồng thời ngài cũng kêu gọi cả thành phần Kitô hữu ở cộng đoàn này nữa:

"Cũng vậy, anh em hãy chạy sao để đoạt được giải. Mọi tay đua đều phải kiêng cữ đủ điều, và những kẻ ấy kiêng cữ để đoạt lấy triều thiên hay hư nát, còn chúng ta, chúng ta nhắm đoạt triều thiên không hay hư nát. Phần tôi cũng chạy như thế, chứ không phải chạy lẩn quẩn; tôi đấu võ, không phải như đấm vào không khí, nhưng tôi chế ngự thân xác, bắt nó tùng phục tôi, kẻo lỡ ra tôi giảng dạy cho kẻ khác, mà chính tôi phải bị loại ra chăng".

Chính những lời huấn dụ của vị tông đồ dân ngoại ở Bài Đọc thứ 1 hôm nay, phản ảnh trung thực giáo huấn của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm cùng ngày, đã cho thấy chỉ những tâm hồn nào sống gắn bó với Thiên Chúa mới có thể sống như vậy, mới có thể sáng suốt, nhất là mới có thể, như Chúa Kitô phán trong Bài Phúc Âm hôm nay, "được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi". Những tâm hồn được tuyển chọn phục vụ cộng đoàn dân Chúa, hơn ai hết, cần phải luôn hiệp thông thần linh với Đấng đã tuyển chọn mình và mình đáp ứng, bằng tất cả tâm tình của Thánh Vịnh 83 trong Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Linh hồn tôi khát khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Thiên Chúa. Tâm thần và thể xác tôi hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa trường sinh.

2) Ðến như chim sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để làm nơi ấp ủ con mình, cạnh bạn thờ Chúa. Ôi Chúa là Thiên Chúa thiên binh, ôi Ðại Vương và Thiên Chúa của con.

3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa tới muôn đời. Phúc thay người được Chúa nâng đỡ, họ tiến lên ngày càng thêm hăng hái.

4) Vì Thiên Chúa là thuẫn khiên, thành lũy. Thiên Chúa rộng ban ân sủng với vinh quang. Ngài không từ chối ơn lành với những ai sống sạch trong vô tội.

 

 

Ngày 13 tháng 9

Thánh Gio-an Kim Khẩu, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử 
Thánh nhân sinh quãng năm 349 tại An-ti-ô-khi-a. Người học cao hiểu rộng, cuộc sống khắc khổ. Sau khi làm linh mục, người nhận nhiệm vụ giảng thuyết, thu hoạch được kết quả khả quan. Năm 397, người được chọn làm giám mục Công-tăng-ti-nốp. Người là mục tử tận tuỵ, lo chấn chỉnh phong hoá cho giáo sĩ và giáo dân. Vì can đảm làm chứng cho Tin Mừng và bênh vực người nghèo trước cảnh xa hoa vô tâm của người giàu, người đã bị hoàng gia ghen ghét và hai lần bị đi đày, rồi chết ở Cô-ma-na, Pon-tô nơi lưu đày, ngày 14 tháng 9 năm 407. Người đã giảng dạy nhiều và viết nhiều tác phẩm để giải thích giáo lý Công Giáo và huấn luyện đời sống Ki-tô hữu. Vì thế người được mệnh danh là “Kim Khẩu”.

Thánh Gioan Kim Khẩu, Giám mục, tiến sĩ Hội Thánh, Ngày 13 tháng 09 - Giáo  phận Long Xuyên

 

Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi

(Phụng vụ giờ kinh sách)

Trích bài giảng của thánh Gio-an Kim Khẩu, giám mục.

Dù sóng nước mênh mông hay dông tố phũ phàng, chúng ta cũng không sợ bị chìm đắm vì chúng ta đứng vững trên đá tảng. Biển có thét gào cũng không thể làm đá tiêu tan ; sóng có trào lên cũng không thể nhận chìm thuyền của Đức Ki-tô. Vậy, chúng ta sợ gì ? Sợ chết ư ? Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi. Hay là sợ phải lưu đày, bạn hãy nói đi. Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài. Hay sợ tài sản bị sung vào công quỹ ? Chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. Tôi coi khinh những hình khổ của thế gian này và cho lợi lộc của nó là chuyện nực cười. Tôi không sợ nghèo, chẳng ham giàu có, không ngại chết, cũng chẳng muốn sống, trừ khi là để làm ích cho anh em. Vì thế, tôi nhắc lại những gì đang xảy ra và xin anh em lấy lòng yêu mến mà tin tưởng vào Chúa.

Chẳng lẽ bạn không nghe Chúa nói thế này sao : Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy giữa họ ? Vậy, giữa một dân đông đảo được liên kết bằng dây bác ái, Người lại không có mặt sao ? Tôi nắm được bảo chứng của Người, tôi có dựa vào sức riêng đâu ! Lời của Người, tôi đang nắm giữ. Đó là chiếc gậy bảo đảm cho tôi được an toàn, là cảng yên hàn cho thuyền tôi cập bến. Dù cả trái đất có đảo lộn, tôi vẫn nắm giữ sắc chỉ của Chúa, vẫn đọc tâm thư của Người. Đó là tường thành che chở, là chiến luỹ bảo vệ tôi. Tâm thư nào thế ? Thưa lời này : Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.

Đức Ki-tô ở với tôi, tôi còn sợ gì ai ? Dù ba đào, dù biển cả, dù quan quyền hung dữ có nổi lên chống lại tôi, tất cả những thứ đó, tôi coi tựa lông hồng. Nếu không phải vì yêu mến mà anh em giữ tôi lại, thì tôi đã không ngần ngại đi nơi khác ngay hôm nay rồi. Quả thật, tôi vẫn thưa với Thiên Chúa : Lạy Cha, xin cho ý Cha được thể hiện. Con sẽ làm không phải điều người này người kia muốn nhưng là điều Cha muốn. Thánh ý Chúa là đồn luỹ bảo vệ tôi, là đá tảng kiên cố cho tôi nương tựa, là cây gậy giúp tôi vững bước. Nếu Thiên Chúa muốn thế nào, thì xin xảy ra như vậy. Nếu Người muốn tôi ở lại đây, tôi xin tạ ơn Người. Người muốn tôi đi đâu, tôi vẫn dâng lời cảm tạ.

Tôi ở đâu, anh em cũng ở đó ; anh em ở đâu, tôi cũng ở đó : Chúng ta là một thân thể ; thân không lìa đầu, đầu không lìa thân. Chúng ta xa cách nhau về nơi chốn, nhưng liên kết với nhau nhờ đức ái, đến nỗi cái chết cũng không thể phân ly. Quả vậy, dù thân xác tôi có chết, thì linh hồn tôi vẫn sống để nhớ đến đoàn dân.

Đối với tôi, anh em là đồng bào, là cha mẹ, là anh em, là con cái, là chi thể, là thân mình, là ánh sáng, mà còn êm dịu hơn cả ánh sáng ban ngày nữa. Ánh sáng ban ngày đối với tôi, đâu có quý bằng đức ái của anh em. Ánh sáng có ích cho tôi trên đời này, còn đức ái của anh em kết triều thiên cho tôi ở đời sau.

Lạy Chúa là nguồn sức mạnh cho những kẻ cậy trông, Chúa đã ban cho Giáo Hội một khuôn mặt sáng chói là thánh giám mục Gio-an Kim Khẩu, nhờ tài hùng biện lạ lùng và lòng can đảm hiên ngang trước mọi cơn thử thách. Xin Chúa cũng ban cho chúng con được thấm nhuần lời thánh nhân giảng dạy và có sức chịu đựng như người. Chúng con cầu xin

 

ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Gioan Kim Khẩu ở 2 cái links dưới đây:

Thứ Tư 19/9/2007, Bài Giáo Lý 50 -  Thánh Giáo Phụ Gioan Kim Khẩu

 

Thứ Tư 26/9/2007 – Bài Giáo Lý 51 - Thánh giáo phụ John Chrysostom (tiếp)

 

 

 

Ngày 14 tháng 9

Lễ Suy Tôn Thánh Giá

Lễ Kính

 

Bài Ðọc I: Ds 21, 4-9

"Kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống".

Trích sách Dân số.

Trong những ngày ấy, dân chúng đi đường và mệt nhọc, nên nản chí, họ kêu trách Chúa và Môsê rằng: "Tại sao các người dẫn chúng tôi ra khỏi Ai-cập, cho chúng tôi chết trong hoang địa. Không bánh ăn, không nước uống, chúng tôi đã ngán thức ăn nhàm chán này". Bởi đó Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Họ chạy đến cùng Môsê và thưa rằng: "Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn".

Môsê cầu nguyện cho dân. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống". Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 77, 1-2. 34-35. 36-37. 38

Ðáp: Chúng ta đừng quên lãng những kỳ công của Chúa (c. 7c).

Xướng: 1) Hỡi dân tôi, hãy nghe lời huấn dụ, hãy lắng tai nhận lấy những lời miệng tôi. Tôi sẽ xuất khẩu nói ra lời ngạn ngữ, sẽ trình bày những điều bí nhiệm của thời xưa. - Ðáp.

2) Khi Người sát phạt họ, bấy giờ họ kiếm tìm Người, và họ trở lại kiếm tìm Thiên Chúa. Họ nhớ lại rằng Thiên Chúa là Ðá Tảng của họ, và Thiên Chúa Tối Cao là Ðấng cứu chuộc họ. - Ðáp.

3) Nhưng rồi miệng họ đã phỉnh phờ, và lưỡi họ ăn nói sai ngoa với Người. Ðối với Người, lòng họ không ngay thẳng; họ cũng không trung thành giữ lời minh ước của Người. - Ðáp.

4) Phần Người từ bi, tha lỗi và không huỷ diệt họ; nhiều khi Người đã tự kiềm chế căm hờn, và không để cho thịnh nộ hoàn toàn tuôn đổ. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11

"Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.

Anh em thân mến, Chúa Giêsu Kitô, tuy là [thân phận] Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh quang.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa Kitô, chúng con thờ lạy Chúa; chúng con chúc tụng Chúa, vì Chúa đã dùng cây Thập giá mà cứu chuộc thế gian. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 3, 13-17

"Con Người phải bị treo lên".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô rằng: "Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.

"Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ".

Ðó là lời Chúa.

 

mountain pray church symbol cross jesus christ chr Women's Vintage Sport  T-Shirt | Spreadshirt


PHỤNG VỤ GIỜ KINH LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ

 

Thay vì bài suy niệm, chúng ta hãy cùng với Giáo Hội chiêm ngưỡng và suy tôn Thánh Giá ở những giờ Kinh Phụng Vụ  sau đây:

 

Lễ Suy Tôn Thánh Giá được cử hành sau lễ Cung Hiến Thánh Đường Phục Sinh, được xây ở Giê-ru-sa-lem trên mồ thánh (năm 335).

Từ cõi chết phục sinh, Chúa Ki-tô đã chiến thắng sự chết. Thánh giá của Người tiêu biểu cho cuộc chiến thắng này.

Truyền thống còn thấy ở đây dấu chỉ của Con Người, Đấng sẽ xuất hiện trên trời để loan báo ngày Người trở lại.

 

Sầu chất nặng, thêm giấm chua mật đắng,
Đinh sắt, lưỡi đòng, gai nhọn đâm thâu,
Thân nát tan, và máu nước tuôn trào
Cho vũ trụ càn khôn được thanh tẩy !

Ta tin thật : muôn rừng xanh chẳng thấy
Một cây nào : cành, hoa, quả như ngươi !
Mấy mũi đinh nhẹ quá, thập tự ơi,
Sao mang nổi tấm hình hài vô giá ?

Rủ cành xuống, hỡi cây cao bóng cả,
Giãn thớ ra cho thân cứng hoá mềm
Như chiếc giường vừa trải nệm ấm êm
Chờ Vua Cả đến đặt mình nằm xuống.

Ôi thập tự, chỉ ngươi là xứng đáng
Giá chuộc đời, đem cất giữ trong tim !
Biển trần gian, tàu cờ hiệu Máu Chiên,
Ngươi rước kẻ đắm chìm cho cặp bến.

Cung trầm bổng dệt bài ca cầu nguyện,
Xin khấu đầu thượng tiến Chúa Ba Ngôi
Đã đổ hồng ân cứu chuộc loài người
Muôn muôn thuở, xin dâng lời vinh chúc !

 

 

Thánh giá là vinh quang của Chúa Ki-tô,
thánh giá nâng Người lên cao

(Phụng vụ giờ Kinh sách)

Trích bài giảng của thánh An-rê, giám mục Cơ-rê-ta.

Hôm nay chúng ta mừng lễ thánh giá ; thánh giá đã xua tan bóng tối và đem lại ánh sáng. Chúng ta mừng lễ thánh giá, và cùng với Đấng bị đóng đinh, chúng ta được đưa lên cao. Vì thế, chúng ta hãy từ bỏ trần gian và tội lỗi để được những của trên trời. Có được thánh giá là điều lớn lao biết mấy ! Ai có thánh giá là có một kho tàng. Tôi vừa dùng chữ kho tàng để chỉ điều người ta gọi, -và sự thật là như thế-, đó là của tốt nhất và đẹp nhất trong mọi của cải, vì trong đó, nhờ đó và vì đó mà tất cả điều cốt yếu của ơn cứu độ chúng ta được tạo lập và phục hồi.

Quả vậy, nếu không có thánh giá, thì Chúa Ki-tô cũng đã không bị đóng đinh, sự sống cũng đã không bị đóng đinh vào cây gỗ và nguồn mạch trường sinh, máu cùng nước thanh tẩy thế giới cũng không vọt ra từ bên sườn Người, văn khế tội nợ cũng đã không bị xé, chúng ta cũng đã không được đón nhận tự do, cũng không được hưởng nhờ cây ban sự sống, thiên đàng cũng đã không mở ra. Nếu không có thánh giá thì sự chết đã không bị quật ngã, hoả ngục cũng đã không bị tước đoạt vũ khí.

Vậy thánh giá vừa cao cả, vừa quý báu. Cao cả, vì thánh giá đã sinh ra nhiều ơn ích, bởi lẽ Chúa Ki-tô càng làm nhiều phép lạ và chịu đau khổ bao nhiêu thì Người lại càng chiến thắng lẫy lừng hơn bấy nhiêu. Quý báu, vì thánh giá vừa là sự đau khổ, vừa là chiến tích của Thiên Chúa. Là sự đau khổ, bởi vì Người đã tự nguyện chết trên đó ; là chiến tích, bởi vì ma quỷ đã bị trọng thương và bị đánh bại ở đó, thần chết cũng đã bị thua cùng với nó ; then sắt hoả ngục bị đập tan và thánh giá trở thành nguồn ơn cứu độ cho toàn thế giới.

Thánh giá là vinh quang của Chúa Ki-tô, thánh giá nâng Người lên cao. Thánh giá là chén đắng Người khát khao, là bảng thâu tóm mọi cực hình Người đã chịu vì chúng ta. Thánh giá là vinh quang của Chúa Ki-tô, điều ấy, anh em hãy nghe chính Người nói : Giờ đây Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình. Vậy lạy Cha, giờ đây xin Cha tôn vinh Con bên Cha. Xin ban cho Con vinh quang mà Con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian. Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha. Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống : Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa. Điều ấy ám chỉ vinh quang Người sẽ được trên thánh giá.

Thánh giá nâng Chúa Ki-tô lên cao, anh em biết đó, điều ấy là do chính Người nói ra : Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ lôi kéo mọi người lên với tôi. Bạn thấy đó : thánh giá là vinh quang của Chúa Ki-tô, thánh giá nâng Người lên cao.

 

Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Con Một Chúa chịu khổ hình thập giá để cứu chuộc loài người. Xin cho chúng con mai sau được hưởng nhờ quả phúc cây thập giá, mà ngày nay chúng con vẫn một lòng yêu mến suy tôn. Chúng con cầu xin....

 

 

Ca Vịnh (Giờ Kinh Sáng: 3 câu mở và kết ở từng Ca Vịnh)

 

1- Đấng cam chịu khổ hình thập giá đã đập tan âm phủ, và đến ngày thứ ba đã sống lại đầy vinh hiển quyền năng.2- Ôi thập giá huy hoàng diễm phúc, thân xác Đấng nằm nghỉ trên ngươi, và máu đào Người đổ ra chan chứa sẽ chữa lành mọi thương tích phàm nhân.

3- Ôi thập giá cao sang rực rỡ, mang ơn cứu độ đến trần gian, ôi thập giá toàn thắng và hiển trị, thập giá xua đuổi mọi tội tình.

Thánh Ca Tin Mừng (Giờ Kinh Sáng: câu mở và kết)

Chúng con tôn thờ thánh giá Chúa, hát mừng Ngài sống lại hiển vinh; ấy chính vì bởi cây thập giá, niềm hân hoan tràn ngập địa cầu.

Lời cầu 

Đức Ki-tô đã chết trên thập giá để chúng ta khỏi chết muôn đời. Vậy ta hãy tin tưởng cầu xin :

Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.

Lạy Chúa Ki-tô là Con Thiên Chúa, xưa trong sa mạc, Chúa đã cứu dân Do-thái bằng dấu hiệu con rắn đồng, - nay xin dùng thập giá mà cứu chúng con khỏi vết thương tội lỗi.

Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.

Chúa là Vị Cứu Tinh Chúa Cha ban tặng cho loài người, để ai tin vào Chúa thì không phải hư mất, - xin cho những người đang tìm kiếm Chúa được hưởng cuộc sống muôn đời.

Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.

Chúa đã được Chúa Cha sai đến, không phải để lên án, nhưng là để cứu độ trần gian, - xin ban ơn đức tin cho thân bằng quyến thuộc chúng con, để họ được an vui hạnh phúc.

Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.

Chúa đã đến thắp lửa tin yêu trên toàn trái đất, và muốn cho lửa ấy bừng lên mãnh liệt, - xin cho chúng con biết sống theo sự thật và tìm đến cùng ánh sáng của Chúa.

Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.

 

Cờ Vua Cả tung bay phất phới,
Thánh giá Người chói lọi oai phong,
Ai ngờ chính Đấng Hoá Công
Thân treo thập giá lạ lùng xiết bao.

Người chịu đóng đinh vào khổ giá,
Mũi giáo đâm thấu cả cạnh sườn,
Máu đào cùng nước chảy tuôn,
Rửa ta sạch hết ngàn muôn tội tình.

Cây tô điểm đôi cành rực rỡ,
Thấm máu Vua thắm đỏ cẩm bào,
Lựa từ gốc rễ thanh cao,
Xứng cho Thánh Thể tựa vào thân ngươi !

Phúc thay giá chuộc đời treo sẵn,
Trên cành ngươi trĩu nặng giờ đây,
Thân hình Chúa Tể quyền oai
Cứu người dương thế khỏi tay tử thần.

Ôi Tế Phẩm, Tế Đàn cao sáng
Đã chung phần khổ nạn quang vinh,
Chúa Trời hằng sống dâng mình,
Chết đi để phúc trường sinh cho đời.

Lạy thánh giá, người người hy vọng,
Trong ngày này, mở rộng thiên ân :
Tôi trung phúc đức tăng phần,
Khoan hồng tha thứ tội nhân quy hồi.

Xin tán tụng Ba Ngôi một Chúa
Chính là nguồn cứu độ trào dâng,
Nhờ ơn thập giá đỡ nâng,
Đoàn con khải thắng hát mừng thiên thu.

 

Lời cầu (Giờ Kinh Chiều)

 

 

Ta hãy nhìn lên Đức Ki-tô, Đấng chịu đóng đinh vào thập giá, và ta hãy tha thiết khẩn cầu Người :

Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.

Lạy Chúa Ki-tô, Chúa đã khước từ tất cả, mặc lấy thân phận nô lệ thấp hèn, và trở nên giống một kẻ phàm nhân, - xin cho mọi người trong Hội Thánh biết noi gương khiêm nhường của Chúa.

Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.

Chúa đã tự hạ, sống phục tùng, đến nỗi bằng lòng chết, và chết trên thập giá, - xin cho các tín hữu cũng biết sống kiên nhẫn và tùng phục lẫn nhau.

Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.

Chúa đã được siêu tôn, và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu, - xin cho các tín hữu Chúa được bền đỗ đến cùng.

Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.

Chúa đã được mọi nước mọi dân tuyên xưng là Đức Chúa, đồng vinh hiển với Chúa Cha, - xin cho những kẻ đã một lòng tin theo Chúa được vào hưởng vinh quang Nước Trời.

Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.

 

Suy Tôn Thánh Giá: Nguồn Gốc Và Ý Nghĩa 

Trần Văn Trí

Hằng năm, Giáo Hội Công Giáo dành ngày 14 tháng 9 làm Lễ Suy Tôn Thánh Giá, lễ kính...

Thánh Giá là ảnh tượng được tôn kính, sùng mộ, rất thân thuộc trong đời sống đạo đức của người Kitô hữu. Nhưng, dần dần vì quá quen người tín hữu có thể giảm bớt hoặc mất đi sự quan tâm. Ngay cả dấu Thánh Giá, nhiều lúc, vì ảnh hưởng của thói quen, chỉ được giáo hữu “làm dấu” qua loa lấy lệ, không còn nhớ đến ý nghĩa cao quý về hồng ân châu báu Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế để lại dưới thế trần.

 Để góp phần cùng quý giáo hữu dọn lòng sốt sắng, tăng thêm tinh thần đạo đức tôn vinh Thánh Giá một cách có ý thức trọn vẹn, chúng tôi xin giới thiệu một ít học hỏi về Thánh Giá; về nghi lễ biểu dương Thánh Giá; về lễ Suy Tôn Thánh Giá; về dấu Thánh Giá và mầu nhiệm Thập Giá.

Thánh Giá

Thập giá hay cái “giá” hình chữ “thập” mang xác Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết để chuộc tội cho nhân loại, nên được gọi là Thánh Giá. Ngay từ thời Giáo Hội tiên khởi vào thế kỷ thứ nhất, vì biết lòng mến mộ Thánh Giá gia tăng lòng đạo đức, ảnh hưởng đến việc mở mang Kitô Giáo, các vua chúa quan quyền, từ các hoàng đế Roma đến quan chức tại Trung Đông, đã tìm đủ mọi cách quyết xóa bỏ niềm tin vào Thánh Giá. Thập giá được dùng để thử thách, cưỡng bách người có đạo bước qua hoặc chà đạp trước khi lãnh án “tử vì đạo”.

Thâm độc nhất là hơn hai thế kỷ đầu theo niên lịch công nguyên, Kitô Giáo bị đàn áp và bách hại kịch liệt. Vua Adriano ( 76 – 138 ), khi lên ngôi hoàng đế Roma ( 117 – 138 ) đã ra lệnh triệt hạ hay phá hủy các di tích về Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, như nơi Chúa Chịu Khổ Nạn, Chịu Chết và Mai Táng. Rồi khoảng năm 135, ông còn cho xây nhiều đền thờ bụt thần trên Mộ Thánh của Đức Kitô và tìm mọi cách chôn giấu Thánh Giá Chúa Giêsu chịu đóng đinh, không cho giáo hữu tôn kính. Dù vậy, trong khi đó tại Giêrusalem, Giáo Hội lại đi tiên phong trong các lễ nghi và nghi thức Phụng Vụ liên quan đến Đấng Cứu Thế cũng như tôn vinh Thánh Giá.

Mãi đến thế kỷ thứ tư, thời vua Constantino ( khoảng năm 270, 280 đến 337 ), làm hoàng đế Roma ( 306 – 337 ), đạo Chúa mới được tự do. Sau khi nhờ phép lạ Thập Giá để được đại thắng quân xâm lăng của Maxentio, vua ban hành lệnh tự do tôn giáo, dẹp bỏ đàn áp bắt bớ Kitô Giáo. Ông trở lại đạo và bà Helena, mẹ vua, cũng trở lại đạo Công Giáo. Vì lòng kính mến Chúa Giêsu Cứu Thế và nhiệt thành sùng mộ Thánh Giá, năm 326, dù đã 80 tuổi, bà cũng thân hành qua Thánh Địa, cộng tác chặt chẽ với Đức Cha Macario, Giám Mục thành Giêrusalem, để cho tiến hành tìm các nơi Thánh, di tích sau hết của cuộc đời Chúa Cứu Thế.

Nhờ các nguồn thông tin có cơ sở, bà cho xúc tiến đào bới về khảo cổ tại chân núi Calvario và đã lần lượt tìm được các di tích về Khổ Nạn, Chịu Chết và Mai Táng Chúa Giêsu trong Mộ. Thành công lớn lao nhất là tìm được ba cây Thập Giá: một của Đức Kitô và hai của hai tên trộm. Theo nghiên cứu về Thánh địa, Linh Mục Jaud cho biết: Nhờ phép lạ cứu sống một bệnh nhân đang hấp hối và một người đã chết được sống lại, khi mỗi người chạm đến gỗ Thánh, Đức Giám Mục Macario xác định thập giá thực trên đó Chúa Giêsu đã bị đóng đinh và gọi tên là Thánh Giá.

Nghi lễ biểu dương Thánh Giá

Sự tôn kính Thánh Giá đã có từ lâu đời trong Giáo Hội Giêrusalem là nghi lễ biểu dương Thánh Giá vào Thứ Sáu Tuần Thánh mà dần dần lan rộng trong Giáo Hội Đông và Tây Phương. Sau đó, Đức Giáo Hoàng Gregorio ( 590 – 604 ) đưa vào Phụng Vụ Roma như nghi lễ Thứ sáu Tuần Thánh ngày nay. Chính yếu là việc biểu dương “Gỗ thập giá”, với lời kêu mời long trọng: Ecce lignum Crucis. Xướng: Đây là gỗ Thánh Giá, nơi treo Đấng cứu độ trần gian. Đáp: Chúng ta hãy đến thờ lạy. ( Ecce lignum crucis in quo salus mundi pependit. Venite adoremus. )

Vì thế, khi tham dự nghi lễ Thờ lạy Thánh Giá vào Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta hãy nhớ đến ý chỉ chính của phụng vụ là tôn vinh “Gỗ thập giá” ( chứ không phải Thánh Giá có hình Chúa Giêsu. )

Lễ Suy Tôn Thánh Giá

Lòng mến mộ và tôn kính Thánh Giá đã có từ lâu đời trong Kitô Giáo. Cụ thể, khi đề cập đến Giáo Hội từ thời sơ khởi, vào thế kỷ đầu của ngàn năm thứ nhất, nhiều chuyên gia về giáo sử, đặc biệt như Giáo Phụ Tertuliano, đều cho biết: “Bất kỳ làm một việc gì có ý nghĩa, người Kitô hữu đều làm dấu Thánh Giá.” Thậm chí người Kitô hữu có thói quen làm dấu Thánh Giá trên người và vật như dấu chỉ sự chúc lành. Nhưng, phải đến thế kỷ thứ 4 trở đi mới có ngày lễ dành để tôn vinh Thánh Giá.

Đầu tiên, khi tìm được di tích Thánh Giá vào năm 326, bà Helena cho xây cất hai đền thờ, một tại núi Calvario và một tại Mộ Thánh ở Thánh Địa. Lễ khánh thành và cung hiến hai đền thờ này được tổ chức trọng thể tại Giêrusalem vào hai ngày 13 và 14 tháng 9 để mừng Đền Thờ Calvario và Mộ Thánh. Năm 335, ngày 14 tháng 9 cũng mừng kính ngày tìm được Thánh Giá thực vào 14 tháng 9 năm 326. Vì gỗ Thánh Giá thực rất quý, nên được phân ra nhiều phần rất nhỏ, chia cho các Giáo Hội tại mỗi nơi. Thành Constantinopoli được phần Gỗ Thánh lớn hơn và phần còn lại được lưu niệm tại Giêrusalem. Từ đó, ở Giêrusalem lễ tìm được Thánh Giá mừng kính trọng thể vào ngày 14 tháng 9.

Tiếp đến, Lễ Suy Tôn Thánh Giá được thiết lập tại Giêrusalem vào 14.9.629 như chứng tích sau:

Thế kỷ thứ 6, khi giặc giã nổi lên, vua Ba Tư Khosroès 1 ( 531 – 579 ), đem quân đến Cận Đông và đánh thắng quân của đế quốc Roma ở Phương Đông, chiếm đóng và tàn phá Thánh Địa, rồi cướp luôn cả Thánh Giá thực ở Giêrusalem. May thay, lúc ấy có ông Heraclius ( 575 – 641 ), vị tướng tài giỏi mới 35 tuổi, con của tổng trấn thành Carthage, đã lật đổ bạo chúa Phocas, rồi lên nắm quyền ở Constantinopoli ngày 3.10.610, và làm hoàng đế Byzantin, lấy hiệu là vua Heraclius 1 ( 610 – 641 ). Ông đã anh dũng điều khiển trận đánh và chiến thắng đầu tiên ngày 12.12.627. Ông rượt đuổi vua Khosroès 1 đến Ctésiphon, và tại đây, con trai của Khosroès là Siroes Shirva đã giết cha và giao nộp Thánh Giá thực lại cho vua Heraclius 1.

Năm 629, Thánh Giá được kiệu về Constantino, rồi từ đó rước khải hoàn về Giêrusalem. Vua Heraclius muốn vác Thập Giá vào đền thờ để tạ ơn Chúa. Ông mặc vương phục và đội mũ hoàng đế. Nhưng khi vác Thánh Giá lên vai, ông thấy quá nặng. Tức thì, Đức Zacharias, Giáo Chủ Giêrusalem, liền nói với vua: “Xin hoàng đế thận trọng vì với mũ miện và y phục vương quyền mà ngài đang mặc, ngài không hợp để vác Thập Giá giống như thân phận khó nghèo, khiêm tốn của Chúa Giêsu Kitô.”

Nhà vua nghe theo lời Đức Giáo Chủ, bỏ hết mũ miện, vương phục. Tức thì gỗ Thập Giá trở nên nhẹ nhàng và Heraclius 1 vác Thập giá gỗ vào đền thờ. Với gỗ Thập giá Thánh, Thiên Chúa còn ban nhiều phép lạ, trong số có một người chết được sống lại; bốn người bất toại được lành bệnh; mười người phong cùi được trở nên sạch sẽ, bình phục; mười lăm người mù được sáng mắt; vô số người bị quỷ ám được giải thoát...” ( Viết theo nghiên cứu của Abbé L. Jaud, Vie des Saints, 1950 )

Từ đó, tại Giêrusalem, Đức Giám Mục đã cử hành trọng thể lễ Suy Tôn Thánh Giá ngày 14 tháng 9 năm 629, mà sau này trở thành Lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng 9 ngày nay.

Dấu Thánh Giá

Suy tôn Thánh Giá có ý nghĩa nhất là suy gẫm và làm Dấu Thánh Giá cách sốt sắng.
Sự tích Dấu Thánh Giá như sau: Điềm đã xảy đến đem lại chiến thắng cho hoàng đế Roma Constantino là “một dấu chỉ lạ về Thập Giá”. Khi phải tuyên chiến với quân của Maxentio xâm lược nước Ý, vua Constantino 1 ( 306 – 337 ) đã nhìn thấy xuất hiện trên trời điềm lạ “một thập giá sáng ngời” với lời phán: “Dưới dấu chỉ này, người sẽ chiến thắng – In hoc signo vinces”. Vua ra lệnh giương cao “dấu Thánh Giá – signum Crucis” làm cờ hiệu và đã chiến thắng quân Maxentio tại chân tường Roma, gần cầu Milvian, vào ngày 28.10.312. Vua nhìn nhận đó là “dấu chỉ Thiên Chúa ban ơn”, nên đã ra lệnh dep bỏ mọi hình thức bắt đạo và truyền loan “Kitô Giáo là tôn giáo chính thức của hoàng triều Roma.”

Làm dấu Thánh Giá

Theo Phụng Vụ, Thánh Giá được tôn vinh trong Giáo Hội Đông và Tây Phương. Thông thường, khi làm Dấu Thánh Giá trên mình, người Kitô hữu đọc kinh: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.” Nhưng vẫn có nhiều trường hợp làm Dấu Thánh Giá mà không đọc Kinh Dấu Thánh Giá, như trong Thánh Lễ với câu: “Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa”, và sau Kinh cáo mình: “Xin Thiên Chúa toàn năng...” Hoặc, trước khi đọc Phúc Âm, vị Chủ Tế hoặc Phó Tế làm Dấu Thánh Giá nhỏ trên khởi đầu Tin Mừng, rồi làm Dấu Thánh Giá nhỏ trên trán, trên môi miệng và trên ngực.

Hoặc, trong Phụng Vụ Giờ Kinh khi đọc “Lạy Chúa, xin hãy phù trợ chúng tôi – Deus in adjutorium nostrum intende”, hay khởi đầu các bài “Magnificat”, “Benedictus”, hay “Nunc Dimitis”, hoặc làm một Dấu Thánh Giá nhỏ trên môi khi đọc: “Lạy Chúa xin mở môi con ra – Domine labia mea aperies”.

Trong Giáo Hội Chính Thống Giáo, việc làm Dấu Thánh Giá được thực hiện nghiêm chỉnh bằng “bàn tay phải với ba ngón tay “ngón trỏ, ngón chỉ và ngón giữa” tụm lại, tiêu biểu niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa; còn hai ngón đeo nhẫn và ngón út thì sát vào nhau, để chỉ sự kết hợp của “thiên tính và nhân tính của Chúa Giêsu”.

Mầu nhiệm Thánh Giá

Giáo huấn của Hội Thánh rất phong phú về Suy Tôn Thánh Giá. Theo hướng dẫn của Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, suy tôn Thánh Giá chính là:

1. Minh chứng Đức Tin qua gương Mẹ Maria. “Khi chứng kiến Chúa Giêsu bị treo trên Thập Giá, Đức Tin của Mẹ không bao giờ dao động vì Mẹ tin rằng Thiên Chúa sẽ hoàn tất lời hứa của Ngài cứu chuộc nhân loại.” ( Giáo Lý 149 ).

2. Cổ võ sự thống hối và tôn thờ Thiên Chúa, như được ghi trong Sách Công Vụ Tông Đồ: “Khi nói cùng toàn thể nhà Ítraen, Phêrô quả quyết: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên Thập giá thì Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài là Chúa và là Đức Kitô.” ( Cv 2, 36; Giáo Lý 440 ).

3. Kêu gọi yêu thương, hiệp nhất, như lời Thánh Phaolô Tông Đồ: “Chúa Kitô bị treo trên Thập Giá thu hút mọi người đến với Ngài” ( Ga 12, 32; Giáo Lý 160 ), “lôi cuốn hết thảy cùng hiệp nhất với nhau.” ( Giáo Lý 542 ).

4. Tuyên rao Nước Chúa trị đến, như lời ca tôn vinh gỗ Thập Giá “Vexilla Regis” Thứ Sáu Tuần Thánh ghi lại: “Chính nhờ cây Thánh Giá của Chúa Kitô mà Nước Thiên Chúa được thiết lập cách dứt khoát... Thiên Chúa đã cai trị từ trên cây gỗ này” ( Giáo Lý 550 ).

5. Thánh Giá là bằng chứng Chúa Giêsu tiếp tục bênh vực cho chúng ta trên Nước Trời. Thánh Phaolô Tông Đồ nói: “Sự nâng lên trên cây Thập Giá ngụ ý và báo trước việc Chúa lên Trời. Ngài là Đấng ra trước Thiên Chúa để bênh vực chúng ta” ( Dt 9, 24; Giáo Lý 662 ).

Công Đồng Vaticano 2 ( 1962 – 1965 ) khai triển Suy Tôn Thánh Giá hướng đến:
Mầu nhiệm Phục Sinh. “Sau khi chịu chết trên Thập giá, Đức Kitô đã phục sinh” ( GH ). “Nhờ Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại, thế gian đã được giải thoát” ( MV, 2 ).
Thánh Lễ: Mỗi lần hy tế Thập Giá được cử hành trên bàn thờ, Chúa Kitô, Chiên Vượt Qua của chúng ta chịu hiến tế” ( 1Cr 5, 7 ) thì công trình cứu chuộc được thực hiện” ( GH, 3 ).

Ơn cứu độ. “Nhờ Người đã hoàn tất công trình cứu chuộc trên Thập Giá, mang lại cho con người ơn cứu độ và tự do” ( TD, 11 ).

Hòa giải. “Đức Kitô đã hòa giải con người với Chúa Cha bằng Thập Giá” ( MV, 78 ).

Vác Thánh Giá theo chân Chúa Giêsu. “Tưởng niệm Thập Giá và sự Phục Sinh của Đức Kitô, người tín hữu vác Thập Giá bước theo Chúa Giêsu” ( TĐ, 4; GH, 41 ).

Ghi chú các chữ tắt: GH = Hiến chế Tín lý về Giáo Hội; MV = Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay; TD = Tuyên ngôn về Tự Do tôn giáo.

(nguồn: webiste tinmung)

 

 

"Giêsu ơi, con tin nơi Chúa!" - Dưới chân Thánh Giá trên đỉnh đồi ở Linh Địa La Salette Pháp quốc - Nhóm TĐCTT Hành Hương Thánnh mẫu Thời Điểm Maria ngày 19/5/2017

 

 

 

Thứ Bảy

(Năm 2024 ngày Thứ Bảy này trùng với Lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa, ở bậc Lễ kính, nên đã bị át đi)



Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 10, 14-22a

"Chỉ có một bánh, nên chúng ta tuy nhiều, cũng chỉ làm thành một thân xác".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, anh em hãy xa lánh sự thờ lạy các ngẫu tượng. Tôi muốn nói với những người biết điều! Ðiều tôi tuyên bố, anh em hãy xét thử! Chén chúc tụng mà chúng ta cầm lên chúc tụng Chúa, chẳng phải là thông hiệp với Máu Chúa Kitô sao? Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra, chẳng phải là thông phần vào Mình Chúa đó sao? Bởi vì chỉ có một bánh, mà tất cả chúng ta đều thông phần vào một bánh đó, nên chúng ta tuy nhiều, cũng chỉ làm thành một thân xác. Anh em hãy xem Israel về phần xác: Nào những kẻ ăn của tế lễ, chẳng phải là thông phần vào bàn thờ sao?

Vậy nói thế nghĩa là gì? Tôi nói, của lễ dâng lên ngẫu tượng có là cái gì đâu? Hay ngẫu tượng có là cái gì đâu? Nhưng các dân ngoại tế lễ, là tế lễ cho ma quỷ, chứ không phải cho Thiên Chúa. Nhưng tôi không muốn anh em giao kết với ma quỷ. Anh em không thể uống cả chén của Chúa, cả chén của ma quỷ được. Anh em không thể thông phần vừa vào bàn tiệc Chúa, vừa vào bàn tiệc ma quỷ được. Hay là chúng ta muốn chọc tức Chúa?

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 115, 12-13. 17-18

Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ (c. 17a).

Xướng: 1) Tôi lấy gì dâng lại cho Chúa, để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi? Tôi sẽ lãnh chén cứu độ, và tôi sẽ kêu cầu danh Chúa. - Ðáp.

2) (Lạy Chúa,) con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: x. Cv 16, 14b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 6, 43-49

"Tại sao các con gọi Thầy "Lạy Chúa, lạy Chúa", mà không thi hành điều Thầy dạy bảo?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái trái vả nơi bụi gai, và người ta cũng không hái trái nho nơi cây dâu đất. Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, và kẻ xấu phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của nó, vì lòng đầy thì miệng mới nói ra. Tại sao các con gọi Thầy: "Lạy Chúa, lạy Chúa", mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành. Thầy sẽ chỉ cho các con biết người ấy giống ai. Người ấy giống như người xây nhà: ông ta đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá. Trái lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống như người xây nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào nhà, nó liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề".

Ðó là lời Chúa.

Thought of the Day – The Fruit – ReDeemed Christian Church

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Không thể theo Chúa mà lại không thực hành giáo huấn của Người

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần XXIII Thường Niên, là phần kết của những lời Chúa Giêsu huấn dụ các môn đệ của Người về đời sống trọn lành bằng Lòng Thương Xót như Cha trên trời, cho dù bài Phúc Âm hôm nay không trực tiếp đến chủ đề chính yếu ấy. Tuy nhiên, không phải vì bài Phúc Âm hôm nay không trực tiếp đến chủ đề chính yếu ấy mà Chúa Giêsu không nói đến như một phần bất khả thiếu của tất cả những gì Người muốn huấn dụ thành phần môn đệ của Người, bằng không, bài huấn dụ quan trọng này có thể sẽ trở thành vô bổ. 

Chủ ý Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở trong bài Phúc Âm hôm nay đó là hãy đem những gì Người truyền dạy ra thực hành chứ đừng nghe suông thì chẳng bổ ích chi: "Tại sao các con gọi Thầy: 'Lạy Chúa, lạy Chúa', mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành". 

Qua câu vừa có tính cách chất vấn (khúc đầu) vừa có tính cách khẳng định (khúc cuối) này, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ vừa nghe xong chủ đề sống lòng thương xót như Cha trên trời rằng: nếu các con coi Thày là Thày của các con thì các con hãy thi hành những gì Thày đã truyền dạy cho các con, như thế các con mới chứng tỏ các con quả thực là môn đệ của Thày và thật sự muốn theo Thày.

Không biết khi nói câu này, Chúa Giêsu có nghĩ đến một trong thành phần 12 tông đồ được Người tuyển chọn sau cả một đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa là Giuđa Íchca hay chăng? Bởi vì, nếu người tông đồ được liệt kê cuối cùng này đem những gì Người truyền dạy ra thực hành thì người tông đồ đáng thương này đã không đi đến chỗ phản nộp Người. 

Phải chăng đó là lý do ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã nêu lên nguyên tắc "trong sao ngoài vậy" và đường lối "xem quả biết cây" để thấy được chân tướng của những ai có thực hành lời Người hay chăng và họ để cho lời của Người tác dụng nơi họ hay chăng

"Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái trái vả nơi bụi gai, và người ta cũng không hái trái nho nơi cây dâu đất. Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, và kẻ xấu phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của nó, vì lòng đầy thì miệng mới nói ra". 

Đường lối xem quả biết cây như thế không phải chỉ liên quan đến thiên nhiên nơi loại thảo mộc mà còn liên quan đến chính vấn đề khôn ngoan và công sức của con người nữa, như trong việc con người có biết xây nhà trên nền tảng vững chắc hay không. Chúa Giêsu đã so sánh thành phần nghe lời của Người mà đem ra thực hành hay không đem ra thực hành như sau:

"Người ấy (Người thực hành lời Chúa) giống như người xây nhà: người ấy đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá. Trái lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống như người xây nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào nhà, nó liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề".

Nếu ở câu đầu bài Phúc Âm hôm nay, khi nói đến nguyên tắc "trong sao ngoài vậy" và đường lối "xem quả biết cây" có thể Chúa Giêsu đã nghĩ đến tông đồ Giuđa Íchca thế nào, thì trong câu Phúc Âm cuối bài này, Chúa Giêsu cũng có thể đã nghĩ đến tông đồ Phêrô sẽ được Người đổi tên là "đá", một người môn đệ cho dù sau này có lỡ chối bỏ Người, nhưng tự bản chất rất chân tình và nhiệt tình, luôn đơn sơ dễ dậy lắng nghe và thực hành lời của Người, như bài Phúc Âm Thứ Năm tuần trước về mẻ cá lạ cho thấy, vẫn được Người đặt làm nền tảng cho Giáo Hội Người thiết lập (xem Mathêu 16:18).

"Đá" liên quan đến tên gọi "Phêrô, con là đá" (Mathêu 16:18) ở đây có một ý nghĩa thiêng liêng hơn là tự nhiên. Thật vậy, theo tự nhiên, đã là đá thì tự bản chất của nó phải cứng rắn và vững chắc, bằng không không phải là hay không còn là đá, như đã là ánh sáng thì phải chiếu soi, bằng không, không chiếu soi, không phải là hay không còn là ánh sáng. Nhưng "đá" được Chúa Giêsu sử dụng để làm nền tảng cho Giáo Hội Người thiết lập đây lại bao gồm 2 đặc tính hoàn toàn tương phản nhau, ở chỗ vừa cứng lại vừa mềm: mềm ở bản chất của con người lãnh đạo tông đồ đoàn mang tên Simon này, và cứng ở lòng tin tưởng của ngài nơi Đấng đã kêu gọi và tuyển chọn ngài. Đó là lý do Chúa Giêsu đã nhắn nhủ ngài rằng: 

"Simôn, Simôn ơi, kìa Satan đã xin được sàng tất cả các con như người ta sàng gạo. Thế nhưng Thầy đã cầu nguyện cho con để con không bị mất lòng tin. Phần con, một khi đã trở lại, con hãy kiên cường củng cố cho anh em của con" (Luca 22:31-32). 

Nếu trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu khuyên dạy các tông đồ môn đệ của Người hãy thực hành lời Người giảng dạy cho các vị về phúc đức trọn lành: "nghe lời Thầy và đem ra thực hành", "giống như người xây nhà: ông ta đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá", như thế các vị mới xứng đáng và mới có thể làm chứng nhân tiên khởi cho Người và trở thành nền tảng vững chắc của Giáo Hội được Người thiết lập sau này, thì trong Bài Đọc 1 hôm nay cũng thế, Thánh Phaolô đã khuyên Kitô hữu Giáo đoàn Corintô phải dứt khoát với ngẫu tượng, vừa nhân tạo và giả tạo, từ "ma quỉ", mà chỉ hoàn toàn dứt khoát theo một mình Chúa Kitô thôi, bằng việc "thông hiệp" với "Máu Chúa Kitô" và "Mình Chúa": "tôi không muốn anh em giao kết với ma quỷ. Anh em không thể uống cả chén của Chúa, cả chén của ma quỷ được. Anh em không thể thông phần vừa vào bàn tiệc Chúa, vừa vào bàn tiệc ma quỷ được".

Thánh Vịnh 115 trong Bài Đáp Ca hôm nay đã chất chứa tâm tình của những ai sống gắn bó với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, như được Ngài mạc khải trong toàn bộ Cựu Ước, cũng như với "Chúa Kitô là Đấng Cha sai" (Gioan 17:3), những con người đã được Chúa tuyển chọn, sử dụng và tỏ mình ra, như một phương tiện, một bí tích, trong giòng Lịch Sử cứu độ của dân Do Thái, cũng như của Dân Tân Ước, trong giòng lịch sử của loài người cho đến ngày cùng tháng tận:

1) Tôi lấy gì dâng lại cho Chúa, để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi? Tôi sẽ lãnh chén cứu độ, và tôi sẽ kêu cầu danh Chúa.

2) (Lạy Chúa,) con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài.