SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Ml 4, 1-2a
"Các ngươi sẽ được Mặt Trời công chính mọc lên cho".
Trích sách Tiên tri Malakhi.
"Ðây sẽ đến ngày bừng cháy lên như lò lửa: tất cả những kẻ kiêu căng và những người làm tội ác sẽ như rơm rạ, ngày ấy đến sẽ thiêu đốt họ, và không để sót lại cho họ cội rễ ngành chồi gì cả, Chúa các đạo binh phán như vậy. Phần các ngươi là những kẻ kính sợ thánh danh Ta, các ngươi sẽ được Mặt Trời công chính mọc lên cho, mang theo sự cứu chữa trong cánh Người".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 5-6. 7-8. 9
Ðáp: Chúa ngự tới cai quản chư dân trong đường chính trực (x. c. 9).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa với đàn cầm, với cây đàn cầm, với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua. - Ðáp.
2) Biển khơi và muôn vật trong đó hãy rống tiếng lên, cả địa cầu và những dân cư ngụ ở trong cũng thế. Các sông ngòi hãy vỗ tay reo, đồng thời các núi non hãy hân hoan nhảy nhót. - Ðáp.
3) Trước thiên nhan Chúa vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người cai quản địa cầu với đức công minh, và cai quản chư dân trong đường chính trực. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 2 Tx 3, 7-12
"Nếu ai không muốn làm việc thì đừng có ăn".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, chính anh em biết phải noi gương chúng tôi thế nào, bởi vì chúng tôi đã không lười biếng lúc ở giữa anh em, cũng không ăn bám của ai, nhưng chúng tôi làm lụng khó nhọc vất vả đêm ngày, để không trở nên gánh nặng cho người nào trong anh em. Không phải chúng tôi không có quyền, nhưng là để nêu gương cho anh em, để anh em bắt chước chúng tôi. Bởi vì khi chúng tôi còn ở với anh em, chúng tôi đã truyền dạy anh em rằng: "Nếu ai không muốn làm việc, thì đừng có ăn". Vì chúng tôi nghe tin có một số người trong anh em sống nhàn cư, chẳng làm việc gì hết, nhưng lại dây mình vào mọi việc. Ðối với những hạng người đó, chúng tôi mời gọi và khuyến cáo họ trong Chúa Giêsu Kitô, để họ yên hàn làm việc và dùng lương thực mình tìm ra.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 24, 42a và 44
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21, 5-19
"Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: "Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá". Bấy giờ các ông hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?" Người phán: "Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối. Vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: 'Chính ta đây và thời giờ đã gần đến'. Các con chớ đi theo chúng. Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ, vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu".
Bấy giờ Người phán cùng các ông ấy rằng: "Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi; sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể. Nhưng trước những điều đó, người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt các vua chúa quan quyền vì danh Thầy; các con sẽ có dịp làm chứng. Vậy các con hãy ghi nhớ điều này trong lòng, là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào. Vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con. Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con".
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Tận thế là chủ đề của Phung Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XXXIII Thường Niên Năm C hôm nay. Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca thuật lại lời của Chúa Giêsu nói về Thành Thánh Giêrusalem nguy nga đồ sộ kèm theo thân phận bị tàn phá của thành: "Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: 'Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá'".
Thật ra, Thành Thánh Giêrusalem này là hình ảnh về một Giáo Hội Chúa Kitô vào ngày cùng tháng tận của lịch sử thế giới này. Đó là lý do để trả lời cho thắc mắc được các môn đệ đặt ra: "Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?", Chúa Kitô đã cho biết những dấu hiệu báo trước như thế này: '"Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối. Vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: 'Chính ta đây và thời giờ đã gần đến'".
Qua chính lời của Chúa Kitô cho biết trên đây, chúng ta thấy dấu hiệu đầu tiên là dấu hiệu về thành phần tiên tri giả và kitô giả, tức là về một hiện tượng rối đạo, chối đạo, bỏ đạo và chống đạo, xẩy ra trong Giáo Hội và cho Giáo Hội vào thời điểm ngày cùng tháng tận này. Có thể nói, căn cứ vào dấu hiệu vừa khủng hoảng đức tin vừa phá sản đức tin này, chúng ta biết được là Giáo Hội đang sống vào thời điểm ngày cùng tháng tận.
Đối với thành phần tiên tri giả và tiên tri giả này, Chúa Kitô đã căn dặn thành phần môn đệ của mình, chẳng những bấy giờ mà còn dọc suốt giòng lịch sử của Giáo Hội, nhất là khi xẩy ra hiện tượng tuyên truyền lạc đạo này rằng: "Các con chớ đi theo chúng". Nhưng vấn đề làm sao biết được chân tướng của thành phần tiên tri giả và kitô giả để mà đề phòng và tránh né thì Chúa Kitô không nói rõ cho các môn đệ biết. Tuy nhiên, Tông đồ Gioan và Tông đồ Phaolô đã cống hiến cho chúng ta thêm những chi tiết quan trọng về vấn đề này, như sau:
"Anh em thân mến, anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian. Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến và trở nên người phàm (hay có thể dịch là "đã đến trong xác thịt - come in the flesh"), thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn thần khí nào không tuyên xưng Đức Giê-su, thì không bởi Thiên Chúa; đó là thần khí của tên phản Ki-tô". (1Gioan 4:1-3); "Vì có nhiều người mê hoặc đã lan tràn khắp thế gian, họ là những kẻ không tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến và trở nên người phàm (hay có thể dịch là "đã đến trong xác thịt - coming in the flesh"). Đó là kẻ mê hoặc và là tên Phản Ki-tô" (2Gioan 7).
"Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào. Tên đối thủ tôn mình lên trên tất cả những gì được gọi là thần và được sùng bái, thậm chí nó còn ngồi trong Đền Thờ Thiên Chúa và tự xưng là Thiên Chúa. Khi tôi còn ở với anh em, tôi đã từng nói những điều ấy, anh em không nhớ sao? Anh em biết cái gì hiện đang cầm giữ nó, khiến nó sẽ chỉ xuất hiện được vào thời của nó. Thật vậy, mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành. Chỉ đợi người cầm giữ nó bị gạt ra một bên, bấy giờ tên gian ác sẽ xuất hiện, kẻ mà Chúa Giê-su sẽ giết chết bằng hơi thở từ miệng Người, và sẽ tiêu diệt bằng ánh huy hoàng, khi Người quang lâm. Còn việc tên gian ác xuất hiện là do tác động của Xa-tan, có kèm theo đủ thứ phép mầu, dấu lạ, điềm thiêng, và đủ mọi mưu gian chước dối, nhằm hại những kẻ phải hư mất, vì đã không đón nhận lòng yêu mến chân lý để được cứu độ. Vì thế Thiên Chúa gửi đến một sức mạnh mê hoặc làm cho chúng tin theo sự dối trá; như vậy, tất cả những kẻ không tin sự thật, nhưng ưa thích sự gian ác, thì sẽ bị kết án". (2Thessalonica 2:4-12)
Chính Giáo Hội, qua Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo 1992 của mình, ở khoản 675, cũng minh nhiên công nhận hiện tượng khủng hoảng đức tin nội tại của mình vào thời điểm ngày cùng tháng tận như sau:
"Trước ngày giáng lâm của Chúa Kitô, Giáo Hội sẽ trải qua một cơn thử thách
cuối cùng, làm lung lay niềm tin của nhiều tín hữu (xem Lc 18,8; Mt 24,12).
Cuộc bách hại đi theo một cuộc lữ hành của Giáo Hội trên trái đất (xem Lc
21,12; Ga 15,1920) sẽ vạch trần cho thấy 'mầu nhiệm của sự gian ác', dưới
hình thức của một thứ bịp bợm về tôn giáo, cao rao là mang đến cho người ta
một thứ giải đáp cho những vấn đề của họ, với cái giá là phải chối bỏ chân
lý. Thứ bịp bợm kinh khủng nhất sẽ là thứ bịp bợm của tên Phản Kitô, nghĩa
là một thuyết Messia ngụy tạo, trong đó con người tự tôn vinh mình thay vào
chỗ của Thiên Chúa và của Đấng Messia mà Ngài đã sai đến trong xác phàm (xem
2 Tx 2,412; 1 Tx 5,23; 2 Ga 7; 1 Ga 2,1822)".
Một dấu hiệu kèm theo dấu hiệu khủng hoảng đức tin và phá sản đức tin trong Giáo Hội này là những dấu hiệu khác liên quan đến tình trạng chiến tranh loạn lạc hận thù ghen ghét nhau trên thế giới cũng như dấu hiểu khủnbg hoảng về thiên nhiên cũng như môi sinh nữa, như Chúa Kitô xác nhận trong cùng bài Phúc Âm hôm nay: "Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ, vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu... Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi; sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể". Nếu thế thì trong lịh sử thế giới không còn một thời điểm nào lại ứng nghiệm những gì Chúa Kitô nói về tình trạng khủng hoảng cả về đạo giáo, xã hội và thiên nhiên như thời điểm ở vào đầu thiên niên kỷ thứ 3 Kitô giáo hiện nay. Phải chăng Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công giáo nói riêng đang ở trong thời điểm "trước ngày giáng lâm của Chúa Kitô", như Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo khoản 675 trên đây đề cập?!
Bởi vì, còn một dấu hiệu nữa càng cho thấy ứng nghiệm hơn bao giờ hết thời điểm như ngày cùng tháng tận này, đó là sự kiện càng ngày càng bách hại và sát hại Kitô giáo hiện nay trên thế giới, một thế giới đã lên tới tột đỉnh về nhân bản và nhân quyền, với bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc ngày 10/12/1948, nhưng lại là một thế giới, như lịch sử cận đại và hiện đại chứng thực, đã, đang và sẽ bách hại cùng sát hại Kitô hữu hơn bao giờ hết, chẳng những ở thế giới Hồi giáo cực đoan, mà còn ở ngay cả thế giới văn minh tây phương là nơi vẫn được đồng hóa với Kitô giáo, một thế giới tây phương đã sặc mùi hưởng thụ tự nhiên theo chiều hướng thiết lập một trật tự thế giới mới duy nhân bản và vô thần của Tam Điểm.
Dấu hiệu Kitô giáo bị bách hại và sát hại này đã được Chúa Kitô minh định trong bài Phúc Âm hôm nay: "Nhưng trước những điều đó, người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt các vua chúa quan quyền vì danh Thầy; các con sẽ có dịp làm chứng". Đúng thế, một dấu hiệu ngược chiều khác nữa, cho thấy ngày cùng tháng tận đó là, ngay giữa tình trạng bị bách hại và sát hại, thì công cuộc truyền giáo lại càng mãnh liệt hơn bao giờ hết: "Các con sẽ có dịp làm chứng", như Thánh ký Mathêu cũng đã ghi nhận thêm lời của Chúa Kitô về hiện tượng cuối thời ngược đời này trong Phúc Âm của ngài như sau:
"Bấy giờ, người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy. Bấy giờ sẽ có nhiều người vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhau và thù ghét nhau. Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát. Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết. Và bấy giờ sẽ là tận cùng." (Mathêu 24:9-14)
Theo lời của Chúa Kitô trong Phúc Âm của Thánh ký Mathêu trên đây thì sự kiện "Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết" là dấu hiệu cuối cùng báo hiệu "bấy giờ sẽ là tận cùng". Sự kiện "Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết" đây đã không được ứng nghiệm hơn bao giờ hết hay sao, vào chính thời điểm khủng hoảng cả về đạo giáo, xã hội và thiên nhiên, cũng như vào chính thời điểm Kitô giáo bị bách hại và sát hại, khi mà chính các vị giáo hoàng, thừa kế Thánh Phêrô và là vị đại diện Chúa Kitô, chưa từng thấy trong lịch sử Giáo Hội và loài người, đích thân tông du khắp thế giới, từ Đức Thánh Cha Phaolô VI bắt đầu từ năm 1964, sang Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (104 chuyến tông du), Đức Thánh Cha Biển Đức XVI và Đức Thánh Cha Phanxicô hiện nay.
Chúng ta không biết "bấy giờ sẽ là cùng tận" chính xác vào lúc nào, chỉ biết là theo sau sự kiện "Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết. Và bấy giờ sẽ là tận cùng", nhưng sự kiện loan báo cuối thời này sẽ còn kéo dài cho tới lúc nào mới chấm dứt? Có lẽ cho tới khi "đủ số dân ngoại" (Roma 11:25), nghĩa là cho tới khi "toàn thể Ít-ra-en sẽ được cứu độ", tức cho tới khi dân Do Thái trở lại nhận biết Chúa Giêsu Kitô, để ứng nghiệm lời tiên báo của Chúa Kitô là: "sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử" (Gioan 10:16).
Nếu "Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết" mà vẫn có những con người không tin tưởng và chấp nhận thì sao? Xin thưa, như tiên tri Malachi đã báo trước trong Bài Đọc 1 hôm nay như thế này: "Ðây sẽ đến ngày bừng cháy lên như lò lửa: tất cả những kẻ kiêu căng và những người làm tội ác sẽ như rơm rạ, ngày ấy đến sẽ thiêu đốt họ, và không để sót lại cho họ cội rễ ngành chồi gì cả, Chúa các đạo binh phán như vậy". Tất nhiên, ngược lại, thành phần tin tưởng chấp nhận tin mừng này, cũng đã được cùng vị tiên tri báo trước trong Bài Đọc 1 hôm nay rằng: "Phần các ngươi là những kẻ kính sợ thánh danh Ta, các ngươi sẽ được Mặt Trời công chính mọc lên cho, mang theo sự cứu chữa trong cánh Người".
Thật ra, những ai không chấp nhận ơn cứu độ được loan truyền cho họ thì tự họ đã luận tội mình rồi, đã tự chuốc họa vào thân: "Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian. Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết." (Gioan 12:47-48). Bởi thế nên chủ đích chính yếu Chúa Kitô vinh quang tái giáng không phải là để luận phạt kẻ dữ cho bằng để cứu độ kẻ lành, tức những ai "bền đỗ đến cùng" (Mathêu 24:13), đúng như tác giả Thư Do Thái xác tín như sau: "Đức Ki-tô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người" (9:28).
Sự thật Chúa Kitô "lại đến trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết" (Kinh Tin Kính) mang một ý nghĩa chính yếu, như Thánh Vịnh 97 chiêm ngưỡng ở Bài Đáp Ca hôm nay, đó là "Người ngự tới cai quản địa cầu. Người cai quản địa cầu với đức công minh, và cai quản chư dân trong đường chính trực" (Câu 3). Bởi thế "địa cầu" và "chư dân" được mời gọi: "Hãy ca mừng Chúa với đàn cầm, với cây đàn cầm, với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua" (Câu 1), và "Biển khơi và muôn vật trong đó hãy rống tiếng lên, cả địa cầu và những dân cư ngụ ở trong cũng thế. Các sông ngòi hãy vỗ tay reo, đồng thời các núi non hãy hân hoan nhảy nhót" (Câu 2).
13 Tháng Mười Một
Thánh Frances Xavier Cabrini (1850-1917)
Thánh Frances Xavier Cabrini là công dân Hoa Kỳ đầu tiên được
phong thánh. Chính lòng tin tưởng mãnh liệt vào sự chăm sóc yêu
thương của Thiên Chúa đã ban cho thánh nữ sức mạnh để trở nên
một phụ nữ dũng cảm làm việc cho Ðức Kitô.
Francesca Cabrini sinh năm 1850 ở Sant’Angelo Lodigiano, Lombardi, nước Ý trong một gia đình có đến 13 người con. Khi 18 tuổi, ngài ao ước trở thành một nữ tu nơi ngài theo học sư phạm, nhưng vì sức khỏe yếu kém nên bị từ chối. Sau đó thánh nữ làm việc bác ái ở Cô Nhi Viện Ðấng Quan Phòng ở Cadogne, nước Ý.
Vào tháng 9 năm 1877, ngài tuyên khấn và mặc áo dòng. Khi đức giám mục đóng cửa cô nhi viện vào năm 1880, ngài đặt sơ Frances làm tu viện trưởng tu hội Nữ Tu Thánh Tâm Truyền Giáo (the Missionary Sisters ở the Sacred Heart) và bảy phụ nữ khác làm việc ở cô nhi viện cũng đã gia nhập tu hội này.
Ngay từ khi còn nhỏ, Thánh Frances đã có ý định đi truyền giáo ở Trung Cộng, nhưng theo sự khuyên bảo của Ðức Giáo Hoàng Lêo XIII, cùng với sáu nữ tu khác, ngài đến thành phố Nữu Ước để phục vụ hàng ngàn người Ý di dân đang sinh sống ở đây.
Ngài gặp nhiều chán nản và khó khăn trên bước hành trình. Khi
đến thành phố Nữu Ước năm 1889, căn nhà được hứa để làm cô nhi
viện đầu tiên ở Hoa Kỳ thì lại không có. Ðức tổng giám mục
khuyên ngài trở về Ý. Nhưng Frances, một phụ nữ can đảm có thừa,
đã rời bỏ tư dinh của đức Tổng và tự tay gầy dựng cô nhi viện.
Và ngài đã thành công.
Trong 35 năm, mẹ Frances Xavier Cabrini đã thành lập 67 trung
tâm để chăm sóc người nghèo, trẻ mồ côi, người ít học và bệnh
nhân. Nhận thấy nhu cầu cần thiết của người di dân Ý trước viễn
ảnh bị mất đức tin, ngài mở trường học và các lớp dạy giáo lý
người lớn.
Mẹ Francesca Cabrini qua đời vì bệnh sốt rét ngày 22 tháng 12
năm 1917 tại Chicago, Illinois, USA . Thi hài của mẹ được chuyển
về nhà thờ ở New York kế cận “Mother Cabrini High School” do mẹ
sáng lập. Tu hội của Mẹ ngày nay đã có mặt tại các nước Anh,
Pháp, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ và Nam Mỹ.
Đức Chân Phước Giáo Hoàng Pius XI đã tôn phong Chân Phước cho mẹ
Frances Xavier Cabrini ngày 13 tháng 11 năm 1938 liên quan đến
một phép lạ chữa lành đôi mắt của một cậu bé do sự chuyển cầu
của Đấng Đáng Kính Frances Xavier Cabrini.
Tám năm sau, Đức Giáo Hoàng Pius XII đã tuyên phong Mẹ Frances
Xavier Cabrini lên hàng hiển thánh ngày 07 tháng 7 năm 1946 liên
quan đến một phép lạ chữa lành căn bệnh lâu năm của một nữ tu và
đặt Thánh Frances Xavier Cabrini là quan thầy của người di dân.
Trong nghi lễ phong thánh cho Mẹ Cabrini Ðức Giáo Hoàng Piô XII
tuyên bố: “Mặc dù hiến pháp của tu hội ngài rất đơn sơ, nhưng
ngài được ban cho một tinh thần phi thường đến nỗi, một khi tin
rằng đó là ý Chúa, ngài không để bất cứ điều gì cản trở việc
thực hiện mà những công trình ấy vượt quá sức lực của một phụ
nữ.”
Lời Bàn
Lòng thương người và sự tận tụy của Mẹ Cabrini vẫn còn được nhận
thấy qua hàng trăm ngàn nữ tu của ngài, họ chăm sóc bệnh nhân ở
bệnh viện, viện dưỡng lão và các trung tâm quốc gia. Chúng ta
than phiền về sự tốn kém y tế trong một xã hội giầu có, nhưng
tin tức hàng ngày cho thấy hàng triệu người khác trên thế giới
không có một chút gì được gọi là y tế, và họ đang mời gọi những
người noi gương Mẹ Cabrini đến, để phục vụ người dân trên đất
nước của họ.
https://www.songtinmungtinhyeu.org/index.php?open=contents&display=1&id=564 (trừ lời bàn cuối cùng)
Thứ Hai
Bài Ðọc I: (Năm II) Kh 1, 1-4; 2, 1-5a
"Hãy nhớ lại ngươi đã sa sút từ mức nào và hãy hối cải".
Khởi đầu sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Mạc khải của Ðức Giêsu Kitô mà Thiên Chúa đã ban cho Người, để Người tỏ cho các tôi tớ Người các điều sắp xảy ra. Vậy Người đã sai thiên thần loan báo cho tôi tớ người là Gioan, và Gioan làm chứng rằng tất cả những gì ông đã thấy là lời của Thiên Chúa và lời chứng của Ðức Giêsu Kitô. Phúc cho ai đọc và nghe các lời tiên tri này, cùng tuân giữ những điều đã chép trong đó, vì thời giờ đã gần.
Gioan kính gởi bảy Giáo đoàn ở Tiểu Á. Nguyện chúc ân sủng và bình an cho anh em do từ Ðấng đang có, đã có và sẽ đến và do từ bảy thần linh đứng trước ngai của Người.
Tôi nghe Chúa phán bảo tôi: "Hãy viết cho thiên thần Giáo đoàn Êphêxô rằng: 'Ðây là lời của Ðấng cầm bảy ngôi sao trong tay hữu và đi giữa bảy chân đèn bằng vàng. Ta biết việc làm của ngươi nổi bật và lòng kiên nhẫn của ngươi; Ta biết ngươi không thể dung kẻ bất lương; ngươi đã thử thách những kẻ tự cho mình là tông đồ, mà kỳ thực thì không phải, nhưng ngươi đã thấu rõ họ là hạng gian dối. Ngươi có lòng kiên nhẫn, ngươi đã chịu đựng vì danh Ta mà không sờn lòng. Nhưng Ta trách ngươi điều này, là ngươi đã bỏ lòng yêu mến thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã sa sút từ mức nào, hãy ăn năn hối cải và làm lại những việc thuở ban đầu' ".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6
Ðáp: Ta sẽ cho kẻ thắng trận ăn trái cây sự sống (Kh 2, 7b).
Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.
2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa: lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.
3) Kẻ gian ác không được như vậy: họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.
Alleluia: Lc 16, 31
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 18, 35-43
"Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi? - Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa đến gần thành Giêricô, thì có một người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Khi nghe tiếng đám đông đi qua, anh liền hỏi có chuyện gì đó. Người ta nói cho anh biết có Ðức Giêsu Nazareth đang đi qua. Bấy giờ anh liền kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Những người đi trước mắng bảo anh nín đi, nhưng anh lại càng kêu lớn tiếng hơn: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Vậy Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người. Khi anh đến gần bên Người, Người hỏi anh: "Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?" Anh thưa: "Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy". Chúa Giêsu bảo anh: "Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Một con người mù tối mà vẫn thấy được ánh sáng chiếu soi
1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày.
2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa: lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.
3) Kẻ gian ác không được như vậy: họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong.
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Kh 3, 1-6. 14-22
"Ai mở cửa cho Ta, Ta sẽ vào dùng bữa tối ở nhà người ấy".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Tôi là Gioan, tôi đã nghe Chúa phán bảo tôi rằng: "Hãy viết cho thiên thần Giáo đoàn Sarđê rằng: 'Ðây là lời Ðấng có bảy thần linh Thiên Chúa và bảy ngôi sao: Ta biết các việc của ngươi làm; ngươi có tiếng là đang sống, nhưng ngươi đã chết. Hãy lo tỉnh dậy, hãy bồi dưỡng chút sinh khí sắp tàn. Vì Ta không thấy các việc ngươi làm trọn hảo trước mặt Thiên Chúa Ta. Vậy hãy nhớ lại ngươi đã đón nhận và nghe lời Chúa thế nào, hãy giữ lấy lời ấy và hãy ăn năn hối cải. Vì nếu ngươi không tỉnh thức, Ta sẽ đến với ngươi như một kẻ trộm, ngươi sẽ không biết giờ nào Ta sẽ bất chợt đến cùng ngươi. Nhưng tại Sarđê ngươi có một số người đã không làm dơ bẩn áo của họ; và họ sẽ tháp tùng Ta trong bộ áo trắng của họ vì họ xứng đáng. Như vậy kẻ chiến thắng sẽ mặc áo trắng, và Ta sẽ không xoá bỏ tên người ấy khỏi Sách hằng sống, và Ta sẽ tuyên danh người ấy trước mặt Cha Ta và các thiên thần Người. Ai có tai thì hãy nghe điều Thần linh phán với các giáo đoàn.
"Hãy viết cho giáo đoàn Laođicia rằng: 'Ðây là lời của Amen, chứng nhân trung thực, nguyên thuỷ công trình sáng thế của Thiên Chúa. Ta biết các việc làm của ngươi: ngươi không lạnh mà cũng không nóng; phải chi ngươi lạnh hẳn hoặc nóng hẳn đi! Bởi vì ngươi hâm hẩm, không lạnh không nóng, nên Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta. Bởi vì ngươi nói rằng: Tôi giàu có, tôi sung túc, tôi không thiếu thốn gì nữa. Bởi vì ngươi không biết rằng thực ra ngươi vô phúc, đáng thương, nghèo khó, đui mù và trần trụi. Vậy ngươi hãy nghe lời Ta khuyên bảo: Hãy mua vàng ròng mà làm giàu, mua áo trắng tinh mà mặc, hầu che giấu sự trần trụi xấu hổ của ngươi; hãy mua thuốc nhỏ vào mắt, cho mắt ngươi được sáng. Ta răn bảo và sửa dạy những kẻ Ta yêu thương. Vậy hãy sốt sắng hơn lên và hối cải đi. Này Ta đứng ngoài cửa, Ta gõ; nếu ai nghe tiếng Ta mà mở cửa cho Ta, Ta sẽ vào nhà người ấy và dùng bữa tối với nó, và nó sẽ dùng bữa với Ta. Ai chiến thắng, Ta sẽ cho ngồi với Ta trên ngai của Ta, cũng như Ta đã chiến thắng và ngự với Cha Ta trên ngai của Người. Ai có tai thì hãy nghe điều Thần linh phán với các giáo đoàn".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 14, 2-3ab. 3cd-4ab. 5
Ðáp: Ai chiến thắng, Ta sẽ cho ngồi với Ta trên ngai của Ta (Kh 3, 21).
Xướng: 1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống. - Ðáp.
2) Người không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa. - Ðáp.
3) Người không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay. - Ðáp.
Alleluia: Lc 21, 28
Alleluia, alleluia! - Các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19, 1-10
"Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa, có một người tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó. Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: "Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi". Ông vội vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi". Ông Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn". Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điễu gì đã hư mất".
Ðó là lời Chúa.
Đang kín đáo tò mò ... thì bị gọi đích danh ... giật nẩy cả mình!
1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống.
2) Người không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa.
3) Người không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay.
15/11
Thánh Albertô Cả, Giám mục Tiến sĩ Hội thánh
I. ĐÔI HÀNG LỊCH SỬ
Thánh Albert Cả là linh mục Ða Minh người Ðức có ảnh hưởng đến lập trường dứt khoát của Giáo Hội đối với triết lý của Aristote được du nhập vào Âu Châu do sự phát triển của Hồi Giáo.
Các sinh viên triết biết đến ngài như vị thầy của Thánh Tôma Aquinas. Sự hiểu biết về triết Aristote của Thánh Albert tạo môi trường thích hợp cho Thánh Tôma Aquinas phát triển cái nhìn tổng hợp của ngài về văn hóa Hy Lạp và thần học Kitô Giáo. Nhưng Thánh Albert vẫn xứng đáng là một học giả am tường, trung thực và cần cù.
Ngài sinh năm 1206 tại Lauingen (Bavaria). Là con cả của một lãnh chúa quyền thế và giàu có ở Ðức. Ngay từ nhỏ ngài đã nổi tiếng thông minh. Lớn lên, ngài vào trường đại học ở Padua, nước Ý, và chính ở đây ngài gia nhập dòng Ða Minh khiến gia đình thật khó chịu.
Sự lưu tâm vô bờ của ngài đến các lãnh vực khác nhau đã thúc giục ngài viết các tổng lược về: khoa học tự nhiên, hùng biện, toán học, thiên văn, luân lý, kinh tế, chính trị và siêu hình học. Công trình này phải mất 20 năm mới hoàn tất. Ngài nói, “Mục đích của chúng tôi là đưa ra tất cả những học thuật trước đây để Giáo Hội Tây Phương có thể lĩnh hội được.”
Ngài đạt được mục đích ấy trong khi vừa giảng dạy tại Paris và Cologne, khi làm bề trên dòng Ða Minh và ngay cả khi là giám mục của Regensburg từ năm 1260 đến 1262.
Ngài bảo vệ các dòng Ða Minh và Phanxicô chống
lại sự tấn công của William ở Thành Amour, và giúp Thánh Tôma chống lại với
tà thuyết Averroi.Thánh
Thánh Albert là vị tiến sĩ uyên bác về mọi
phương diện (Universal Doctor), một nhà học giả, một quản trị gia, một nhà
triết gia, vạn vật học, và một nhà thần học siêu đẳng, nêu gương các đức
tính của một nhà thông thái ngày nay.
Ngài qua đời ngày 15 tháng 11 năm 1280 tại Cologne, Prussia (modern Germany) và được mai táng trong nhà thờ Thánh Andrea, Cologne.
Ngài được Đức Giáo Hoàng Gregory XV tôn phong Chân Phước năm 1622 và Đức Giáo Hoàng Pius XI phong thánh và tuyên xưng Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 16 tháng 12 năm 1931. Đức Pius XII đặt làm quan thầy những nhà chuyên môn tự nhiên học năm 1941.
II. SỰ NGHIỆP.
Nhìn lại cuộc đời của thánh Albertô, chúng ta thấy Ngài quả thực là một thiên tài Chúa ban cho Giáo Hội, là vị tiến sĩ uyên bác về mọi phương diện (Universal Doctor), một nhà học giả, một quản trị gia, một nhà triết gia, vạn vật học, và một nhà thần học siêu đẳng, nêu gương các đức tính của một nhà thông thái ngày nay, thế nhưng sau những đức tính nổi bất đó, tôi còn thấy một đức tính tuy không nổi bất nhưng lại rất sáng chói cho rất nhiều người ngày hôm nay. Đó là biết rút lui đúng thời đúng lúc nhường GHẾ cho những người có khả năng hơn.
Lịch sử ghi lại: “ Khi đã hoàn thành công cuộc hết sức có thể, Ngài xin từ chức để trở lại đời sống một tu sĩ đơn giản.”
Tấm gương của Ngài phải nói là một bài học cho nhiều người hôm nay.
Cụ thể nhất là việc Đức Thánh Cha Bênêđictô Ngày 11 tháng 2 năm 2013, tuyên bố sẽ từ chức Giám mục Rôma, Giáo hoàng Giáo hội Công giáo kể từ ngày 28 tháng 2 năm 2013.
Trong công nghị lúc 11 giờ sáng ngày 11 tháng 2 năm 2013, trước sự hiện diện của các hồng y và giám mục, ngài tuyên bố:
“Anh em rất thân mến.
Tôi triệu tập anh em đến dự Công nghị này không phải để chỉ nói về 3 cuộc phong thánh, nhưng còn để thông báo cho anh em một quyết định rất quan trọng đối với đời sống Giáo hội. Sau khi nhiều lần xét mình trước mặt Thiên Chúa, tôi đã đi tới sự chắc chắn rằng sức lực của tôi, vì tuổi cao, không còn thích hợp nữa để thi hành sứ vụ Phêrô một cách thích đáng nữa. Tôi ý thức rõ sứ vụ này, do yếu tính thiêng liêng, phải được chu toàn không những bằng hoạt động và bằng lời nói, những còn bằng đau khổ và cầu nguyện. Tuy nhiên, trong thế giới ngày nay, đang chịu những biến chuyển mau lẹ và bị dao động vì những vấn đề có tầm quan trọng lớn đối với đời sống đức tin, để cai quản con thuyền của Thánh Phêrô và loan báo Tin Mừng, cần có nghị lực cả thể xác lẫn tâm hồn, nghị lực mà trong những tháng gần đây bị suy giảm nơi tôi đến độ tôi phải nhìn nhận mình không có khả năng thi hành tốt sứ mạng đã được trao phó cho tôi. Vì thế, với ý thức rõ ràng về hành vi hệ trọng này, với tự do hoàn toàn, tôi tuyên bố từ bỏ sứ vụ Giám mục Roma, người kế vị Thánh Phêrô, được ủy thác cho tôi do tay các hồng y ngày 19 tháng 4 năm 2005, để từ ngày 28 tháng 2 năm 2013 sắp tới, Tòa Roma, Tòa Thánh Phêrô sẽ trống tòa từ lúc 20 giờ và những ai có thẩm quyền cần phải triệu tập Mật Nghị Hồng y để bầu vị giáo hoàng mới.
Anh em rất thân mến, tôi chân thành cảm ơn anh em vì tất cả lòng quý mến và công việc mà anh em đã cùng mang gánh nặng sứ vụ của tôi, và tôi xin lỗi vì tất cả những thiếu sót của tôi. Giờ đây, chúng ta hãy phó thác Hội Thánh cho vị Mục Tử Tối cao, là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, và cầu xin Mẹ Maria của Ngài, với lòng từ mẫu xin Mẹ trợ giúp các Hồng y trong việc bầu vị giáo hoàng mới. Về phần tôi, cả trong tương lai, tôi muốn hết lòng phục vụ Hội Thánh của Thiên Chúa bằng cuộc sống dành trọn cho việc cầu nguyện.”
Thật là tấm gương sáng chói cho tất cả những ai đang sống trong Giáo hội của Chúa.
Một câu chuyện khác cũng thật cảm động: “Ngày 28/8/2020, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tuyên bố từ chức. Ông nói trong cuộc họp báo:
“Tôi đã quyết định từ chức Thủ tướng”. “Tôi không muốn bệnh tật dẫn tới những sai lầm trong các quyết sách quan trọng”.
“Tôi xin lỗi từ tận đáy lòng mình rằng mặc dù được sự ủng hộ của người dân Nhật Bản, nhưng tôi vẫn quyết định từ chức dù vẫn còn 1 năm nhiệm kỳ. Tôi không thể làm Thủ tướng nếu tôi không thể đưa ra những quyết định tốt nhất cho người dân”
Ngày 03/9/2021, người kế nhiệm ông Shinzo Abe là đương kim Thủ tướng Nhật Bản Yoshihide Suga lại tuyên bố từ chức. Ông Suga cho biết:
“Như tôi đã nhiều lần nói với mọi người, bảo vệ mạng sống và sức khỏe của người dân là trách nhiệm của tôi với tư cách thủ tướng. Đó là những gì mà bản thân tôi cống hiến”.
“Tôi nhận ra tôi cần nguồn năng lượng rất lớn. Tôi không thể làm cả hai việc (tái tranh cử và xử lý đại dịch). Tôi phải chọn một việc thôi”
Các Thủ tướng Shinzo Abe và Yoshihide Suga đã đặt quyền lợi nhân dân Nhật Bản lên trên quyền lợi cá nhân và đảng phái chính trị. Tuy còn sức khoẻ, còn rất minh mẫn, được nhân dân ủng hộ, nhưng ông Shinzo Abe từ chức trước nhiệm kỳ 1 năm vì “tôi không muốn bệnh tật dẫn tới những sai lầm trong các quyết sách quan trọng”, “tôi không thể làm Thủ tướng nếu tôi không thể đưa ra những quyết định tốt nhất cho người dân”. Còn ông Yoshihide Suga thì “bảo vệ mạng sống và sức khỏe của người dân là trách nhiệm của tôi với tư cách thủ tướng”, “tôi cần nguồn năng lượng rất lớn”, “tôi không thể làm cả hai việc”, “tôi phải chọn một việc thôi”.
Nước Nhật hùng mạnh là bởi họ có những nhà lãnh đạo như thế. Họ không tranh luận về chủ thuyết. Họ không hô khẩu hiệu. Họ hành động. Họ biết tuy họ vĩ đại, nhưng còn có nhiều người vĩ đại hơn - nên phải nhường bước. Nếu họ là người vĩ đại nhất thì nước Nhật hết đường tiến.”
ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Albertô Cả
Thứ Tư
Phụng Vụ
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Kh 4, 1-11
"Thánh, Chúa là Thiên Chúa toàn năng, Ðấng đã có, hiện có và sẽ đến".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Tôi là Gioan, tôi đã thấy: kìa cửa trời mở ra và tiếng tôi đã nghe trước kia nói cùng tôi như tiếng loa rằng: "Hãy lên đây, Ta sẽ cho ngươi thấy điều phải xảy ra sau này". Bỗng tôi xuất thần, và kìa, một ngai đã đặt trên trời, có Ðấng ngự trên ngai, và Ðấng ngự trên ngai rực rỡ như bích ngọc hoặc như hồng thạch; có mống cầu vồng màu lục thạch bao bọc ngai. Chung quanh ngai có hai mươi bốn toà, và trên đó, có hai mươi bốn trưởng lão, mặc áo trắng tinh, đầu đội triều thiên vàng. Từ nơi ngai phát ra những tia chớp, tiếng nói và tiếng sấm; lại có bảy cây đèn cháy trước ngai, đó là bảy Thần linh của Thiên Chúa. Phía trước ngai coi như có biển trong ngần như pha lê.
Còn chính giữa và chung quanh ngai có bốn con vật, đàng trước đàng sau chỗ nào cũng có mắt: Con vật thứ nhất giống như sư tử; con vật thứ hai giống như con bò; con thứ ba có dung mạo như mặt người; con thứ tư như chim phượng hoàng đang bay. Bốn con vật ấy con nào cũng có sáu cánh quanh mình, và trong mình đầy những mắt, ngày đêm không ngớt tung hô:
"Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa toàn năng, Ðấng đã có, hiện có, và sẽ đến".
Và mỗi lần bốn con vật tôn vinh, chúc tụng và cảm tạ Ðấng ngự trên ngai, là Ðấng hằng sống muôn đời, thì hai mươi bốn trưởng lão phủ phục trước Ðấng ngự trên ngai và thờ lạy Ðấng hằng sống muôn đời; họ gỡ triều thiên của họ mà đặt trước ngai và tung hô rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, Chúa đáng được vinh quang, danh dự và quyền năng, vì chính Chúa đã tạo thành vạn vật, chính do ý Chúa mà muôn vật mới có và được tạo thành".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 150, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Thánh, thánh, thánh! Chúa là Thiên Chúa toàn năng (Kh 4, 8b).
Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa trong Thánh đài của Chúa, ngợi khen Chúa nơi thanh không cao cả của Người. Hãy ngợi khen Người vì những kỳ công vĩ đại, ngợi khen Người bởi sự Người tuyệt đối oai nghiêm. - Ðáp.
2) Hãy ngợi khen Người với tiếng kèn rầm rộ, ngợi khen Người với cây đàn sắt đàn cầm. Hãy ngợi khen Người với trống rung và ca vũ, ngợi khen Người với tiếng tơ đàn, với ống tiêu. - Ðáp.
3) Hãy ngợi khen Người với âm vang não bạt, ngợi khen Người với tiếng rền rĩ mã la. Phàm vật chi có hơi thở, hãy ngợi khen Thiên Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Tv 110, 8ab
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, mọi gới răn Chúa được lập ra cho tới muôn đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19 11-28
"Sao ngươi không gửi bạc Ta ở ngân hàng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán thêm một dụ ngôn nữa, vì Người đã đến gần Giêrusalem, mà dân chúng lại cứ tưởng là Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện trong giây lát. Vậy Người phán rằng:
"Có người quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở về. Ông cho gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và dặn rằng: "Hãy làm lợi cho đến khi ta trở về". Nhưng các người dân của ông ấy ghét ông, sai người đi theo mà rằng: "Chúng tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi". Ðược phong vương rồi ông trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia ông đã giao tiền cho, để biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu.
"Người thứ nhất đến và thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được mười nén". Nhà vua bảo: "Ðược, hỡi người tôi tớ tốt lành, ngươi đã trung tín trong điều nhỏ mọn, ngươi sẽ được quyền cai trị mười thành". Người thứ hai đến thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được năm nén". Nhà vua đáp: "Ngươi cũng vậy, hãy cai quản năm thành".
"Người thứ ba đến thưa: "Tâu vua, đây nén bạc của vua, tôi còn giữ trong khăn, vì tôi sợ ngài: ngài là người hà khắc, và lấy cái ngài không gửi, gặt cái ngài không gieo". Vua phán rằng: "Hỡi đầy tớ bất lương, ta cứ lời ngươi mà xử ngươi. Ngươi đã biết ta là người hà khắc, lấy cái ta không gửi, gặt cái ta không gieo, sao ngươi không gửi bạc ta ở ngân hàng, để rồi khi ta trở về, ta có thể lấy cả vốn lẫn lời".
"Vua liền bảo những người đứng đó rằng: "Hãy lấy nén bạc của nó mà trao cho người đã có mười nén". Họ tâu rằng: "Tâu vua, người ấy đã có mười nén rồi". Vua đáp: "Ta nói cùng các ngươi: Ai có sẽ cho thêm, và người đó sẽ được dư dật; còn ai không có, người ta sẽ lấy đi cả cái nó đang có. Còn những kẻ nghịch cùng ta, không muốn ta làm vua, hãy đem chúng ra đây và giết chúng trước mặt ta". Nói thế rồi Chúa liền dẫn họ lên Giêrusalem.
Ðó là lời Chúa.
Không muốn đối phương làm vua của mình mà lại giúp cho đối phương được phong vương
"Kìa, một ngai đã đặt trên trời, có Ðấng ngự trên ngai, và Ðấng ngự trên ngai rực rỡ như bích ngọc hoặc như hồng thạch; có mống cầu vồng màu lục thạch bao bọc ngai. Chung quanh ngai có hai mươi bốn toà, và trên đó, có hai mươi bốn trưởng lão, mặc áo trắng tinh, đầu đội triều thiên vàng. Từ nơi ngai phát ra những tia chớp, tiếng nói và tiếng sấm... 'Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa toàn năng, Ðấng đã có, hiện có, và sẽ đến'. Và mỗi lần bốn con vật tôn vinh, chúc tụng và cảm tạ Ðấng ngự trên ngai, là Ðấng hằng sống muôn đời, thì hai mươi bốn trưởng lão phủ phục trước Ðấng ngự trên ngai và thờ lạy Ðấng hằng sống muôn đời; họ gỡ triều thiên của họ mà đặt trước ngai và tung hô rằng: 'Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, Chúa đáng được vinh quang, danh dự và quyền năng, vì chính Chúa đã tạo thành vạn vật, chính do ý Chúa mà muôn vật mới có và được tạo thành'".
Đúng thế, tất cả thành phần đầy tớ, kể cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, được biểu hiệu nơi 24 vị trưởng lão (12 chi tộc và 12 tông đồ), thành phần sống đúng tinh thần Phúc Âm (4 cuốn) của Thiên Chúa, được biểu hiệu nơi 4 con vật, tỏ ra trung tín với Đấng đã trao phó trách nhiệm phục vụ cho mình, chính là thần dân, bằng đời sống của mình, hằng tôn vinh Vị Chủ Nhân Ông Tối Cao của mình, với tất cả tâm tình của Thánh Vịnh 150 trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Hãy ngợi khen Chúa trong Thánh đài của Chúa, ngợi khen Chúa nơi thanh không cao cả của Người. Hãy ngợi khen Người vì những kỳ công vĩ đại, ngợi khen Người bởi sự Người tuyệt đối oai nghiêm.
2) Hãy ngợi khen Người với tiếng kèn rầm rộ, ngợi khen Người với cây đàn sắt đàn cầm. Hãy ngợi khen Người với trống rung và ca vũ, ngợi khen Người với tiếng tơ đàn, với ống tiêu.
3) Hãy ngợi khen Người với âm vang não bạt, ngợi khen Người với tiếng rền rĩ mã la. Phàm vật chi có hơi thở, hãy ngợi khen Thiên Chúa.
16-11
(1045-1093)
Toàn lãnh thổ Anh Quốc xôn xao náo động khi hay tin nhà vua tử trận, ngai vàng rơi vào tay quân xâm lăng! Hoàng tử Edgar tuyên bố lên ngôi thế quyền vua cha chống giặc xâm lăng. Ðể tránh đổ máu, hoàng hậu Agatha và công chúa Margaret trốn sang Tô Cách Lan. Họ được vua Malcolm niềm nở tiếp đón. Sự đón nhận thân thiện và ấm cúng hơn khi vua Tô Cách Lan “phải lòng” Margaret, công chúa Anh Quốc.
Nàng công Chúa Margaret nhan sắc tuyệt vời; tính tình thùy mỵ, đoan trang và trầm lặng. Chính những tư cách đó đã “thu hồn” nhà lãnh đạo Tô Cách Lan, vốn bẩm tính nóng nẩy bồng bột. Tuy nhiên, Margaret đã khám phá nơi Malcolm sự chân thành đạo hạnh như những kho tàng quí giá ẩn sâu dưới bề mặt gập ghềnh như vùng đồi núi xứ Tô. Hai người yêu nhau. Lễ thành hôn cử hành năm 1070 vừa khi Margaret tròn 24 tuổi đời. Thật là ngày trọng đại cho toàn dân Tô Cách Lan nói chung và cho vua Malcolm nói riêng. Margaret trở thành Hoàng Hậu Tô Cách Lan.
Là người Công Giáo chân chính, ngay từ khởi đầu cuộc đời hôn nhân, Margaret đã hướng tâm trí chồng vào công cuộc từ thiện bác ái. Tay nàng luôn mở rộng, đón nghe lời van nài của người nghèo khổ. Chẳng bao lâu, Margaret nhận thấy “quê hương thứ hai” của nàng cần phải đổi thay. Vì trong nhiều trường hợp, Linh Mục cũng như giáo dân lơ là việc thực hành Ðức Tin. Sự giáo dục trẻ em bị bỏ rơi. Việc giữ chay và mừng kính các ngày lễ đã dần rơi vào quên lãng.
Ngoài sắc đẹp duyên dáng và lòng đạo hạnh đáng yêu của vợ, vua Malcolm còn thấy Margaret có một trí thông minh xuất chúng, biết nhìn xa trông rộng. Bởi đó, nhiều lần Malcolm đã tham khảo ý kiến nàng về việc nước và trao đặt công cuộc ích quốc lợi dân nơi tay nàng.
Công việc đầu tiên nhân danh quyền bính của chồng, Margaret kêu gọi họp công đồng toàn quốc. Các vị Giám Mục và Linh Mục trong nước hội họp và bàn luận để chấn chỉnh cách sống đạo của Giáo Hội Tô Cách Lan. Kết quả trông thấy! Giáo Hội Tô Cách Lan ngày một cải tiến. Người ta xây nhà thờ mới, sửa chữa nhà thờ cũ. Các nhà truyền giáo ngoại quốc được mời đến truyền đạo. Nhiều tu viện được thành lập, trong đó có đan viện Dunfermline do chính hoàng hậu Margaret và vua Malcolm thiết lập. Con em được giáo dục chu đáo.
Thánh Margarita ở Tô Cách Lan quả thật là một phụ nữ đã được giải phóng nghĩa là ngài hoàn toàn tự do để trở thành chính bản thân mình theo đúng nghĩa. Ðối với ngài, điều đó có nghĩa được tự do để yêu mến Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
Margarita không phải sinh ra là người Tô Cách Lan. Ngài là con gái của Công Chúa Agatha Hung Gia Lợi và Thái Tử Edward Atheling của xứ Anglo-Saxon. Thời niên thiếu, ngài sống trong triều đình của người bác là vua thánh Edward, vua nước Anh. Khi bị William xâm chiếm, trên đường chạy trốn, gia tộc ngài bị đắm tầu ở bờ biển Tô Cách Lan. Vua Malcolm của Tô Cách Lan làm quen với hoàng tộc này và ông đã say mê sự duyên dáng cũng như vẻ đẹp của Margarita. Và họ đã kết hôn ở lâu đài Dunfermline năm 1070.
Vua Malcolm là người tốt bụng, nhưng cộc cằn và không có học thức, cũng giống như quê hương của ông. Vì tình yêu của Malcolm dành cho Margarita mà bà có thể thay đổi tính tình nóng nẩy của ông, cũng như chỉ bảo cách đối xử và giúp ông trở nên một vị vua nhân đức. Bà đã biến triều đình thành một nơi lịch thiệp và mỹ miều. Ông đã để mọi việc trong nước cho bà quản trị và thường hỏi ý của bà khi có vấn đề quốc sự.
Margarita là một ơn huệ Chúa ban cho người dân Tô Cách Lan. Trước khi bà đến đây, có rất nhiều người dốt nát và nhiều hủ tục trong nước. Bà tìm cách cải tiến quê hương chồng bằng cách cổ võ việc giáo dục và nghệ thuật. Về cải cách tôn giáo, bà khích lệ tổ chức các thượng hội đồng và đích thân tham dự các buổi thảo luận nhằm chấn chỉnh những tệ đoan tôn giáo rất phổ thông thời ấy của tu sĩ cũng như giáo dân, tỉ như vấn đề buôn thần bán thánh, cho vay lời cắt cổ và loạn luân. Cùng với đức lang quân, bà xây dựng nhiều nhà thờ trong nước và chính tay bà thêu áo lễ cho các linh mục.
Dù bận rộn với đại cuộc nhưng Margaret không hề bê trễ việc gia đình. Nàng luôn thiết tha sủng ái và phục vụ chồng. Thêm vào đó nàng phải nuôi nấng và giáo gục 8 người con: 6 hoàng tử và 2 công chúa. Ngày ngày cung điện hoàng gia vang dội lời cầu kinh hai buổi sáng chiều. Nàng dậy các con yêu thương người nghèo khổ, chăm lo việc học hành, dậy chúng học lịch sử hai nước tổ tiên.
Vừa bước ra khỏi lâu đài, hoàng hậu Margaret liền được bọn nghèo khổ, kẻ túng đói, người tật nguyền vây quanh. Họ biết rõ lòng từ ái của nàng. Ai ai cũng được nàng tận tình giúp đỡ. Nàng đến từng căn nhà tồi tàn săn sóc bệnh nhân, thăm nom người nghèo. Giữa những công việc bề bộn hầu như không ngừng đó, Margaret luôn xếp giờ dự lễ, cầu nguyện và đọc Thánh Kinh hằng ngày.
Lúc này hoàng hậu Margaret đã 47 tuổi. Công việc nàng làm đã bằng cả chục người đàn bà khác. Sức nàng yếu kém dần. Thánh giá lần lượt đè trên vai. Vua Malcolm, chồng nàng, và hai hoàng tử phải xuất chinh bảo vệ giang sơn, chống giặc ngoại xâm. Quân ngoại bang quá lớn mạnh, lại thêm giặc nội công, nhà vua và quân đội Tô Cách Lan thật vất vả để chống đỡ giang sơn.
Tại hoàng cung, hoàng hậu Margaret đang bệnh nặng. Nàng thiết tha cầu cho chồng và hai con. Nàng dâng mọi nỗi thương đau bệnh tật, nguyện cầu cho cuộc trở về an toàn của chồng con, cách riêng cho phúc lợi tinh thần của họ.
Một hôm, một thân hình xác xơ, thiểu não, mình đầy thương tích, xuất hiện trước cửa phòng hoàng hậu. Ðó chính là hoàng tử Edgar, con nàng. Với bộ mặt rướm máu, phủ bụi đường, Edgar tiến đến bên giường mẹ, gối quì trong trầm mặc thương đau! Margaret đã cảm biết sự thật phũ phàng, nhẹ nhàng hỏi con:
-Cha con thế nào?
-Mẹ ơi, cha và Edward đã tử trận!
Nói xong, hoàng tử Edgar vùi mặt khóc thảm thương. Hoàng hậu Margaret thều thào trong hơi thở:
-Chúa ơi, còn đau thương nào lớn hơn đau thương này!?Cầu mong thánh giá này thanh tẩy con khỏi mọi tội nhơ!
Sau khi an ủi Edgar và gọi đầy tớ băng bó vết thương cho chàng, Margaret cho mời cha tuyên úy đến.
-Hai điều tôi xin cha, bao lâu cha còn sống, xin vui lòng nhớ cầu cho linh hồn hai vợ chồng tôi qua Thánh Lễ và kinh nguyện hằng ngày; đồng thời trông nom các con tôi, dậy chúng biết Chúa và thực hiện Thánh Ý Ngài.
Sau khi cha tuyên úy hứa thi hành các điều hoàng hậu xin, Margaret xưng tội và rước Mình Thánh Chúa lần sau hết. Thế rồi linh hồn nàng an bình giã từ vương quốc bé nhỏ vừa bị xé rách nơi trần gian, để bay về vương quốc vĩnh cửu thần tiên trên trời. Hôm đó là ngày 16 tháng 11 năm 1093, bốn ngày sau khi vua Malcolm và hoàng tử Edward tử trận.
Hoàng hậu Margaret được chôn cất tại nguyện đường đan viện Dunfermline, và được phong thánh năm 1250.
Lời Bàn
Có hai cách thi hành việc bác ái: cách “sạch sẽ” và cách “bẩn thỉu.” Cách “sạch sẽ” là tặng tiền bạc, quần áo cho các tổ chức phục vụ người nghèo. Cách “bẩn thỉu” là dùng chính bàn tay của mình để phục vụ mà không sợ dơ bẩn. Nhân đức trổi vượt của Thánh Margarita là lòng thương người nghèo. Mặc dù rất giầu sang, nhưng ngài đã đích thân thăm viếng người bệnh hoạn và chăm sóc họ với chính đôi tay của mình. Trong mùa Vọng và mùa Chay, hai ông bà đã quỳ xuống để phục vụ các trẻ em mồ côi và người nghèo hèn. Giống như Ðức Kitô, bà đã thi hành bác ái trong phương cách “bẩn thỉu.”
Lời Trích
“Khi bà lên tiếng, trong lời nói đầy sự khôn ngoan ấy có sức thay đổi lòng người. Khi bà im lặng, sự thinh lặng đầy suy tư. Toàn thể bề ngoài của bà phù hợp với tính tình trầm lặng mà dường như bà được sinh ra với một cuộc đời nhân đức” (Turgot, cha giải tội của Thánh Margarita).
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ 2 vị
linh mục: Cha Raymond Nguyễn Mạnh Thư, CRM
và
Cha Đaminh Phạm Xuân Uyển, SDB
Thánh Giêtruđê, “Người Nữ duy nhất gốc Đức quốc được gọi là ‘Cả’”
(ĐTC Biển Đức XVI)
Thứ Năm
Bài Ðọc I: (Năm II) Kh 5, 1-10
"Chiên con đã bị sát tế và đã lấy máu mình mà cứu chuộc chúng tôi thuộc mọi nước".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Tôi là Gioan, tôi đã thấy nơi tay hữu Ðấng ngự trên ngai một cuốn sách viết cả trong lẫn ngoài, có ấn niêm phong. Và tôi thấy một thiên thần hùng dũng lớn tiếng tuyên bố rằng: "Ai xứng đáng mở sách và tháo ấn?" Nhưng cả trên trời, dưới đất và trong lòng đất không ai có thể mở và đọc sách ấy. Tôi khóc lớn tiếng vì chẳng có ai xứng đáng mở và đọc sách ấy. Rồi một trong các trưởng lão nói với tôi rằng: "Thôi đừng khóc nữa, này đây sư tử của chi tộc Giuđa, dòng dõi của Ðavít đã toàn thắng, chính Người sẽ mở sách và tháo bảy ấn niêm phong".
Tôi đây cũng trông thấy khoảng giữa ngai và bốn con vật cùng các trưởng lão, có một Chiên Con đang đứng như đã bị sát tế, có bảy sừng và bảy mắt: tức là bảy thần linh của Thiên Chúa được sai đi khắp địa cầu. Chiên Con tiến đến lấy cuốn sách nơi tay hữu Ðấng ngự trên ngai. Khi Chiên Con vừa cầm sách, thì bốn con vật phủ phục trước Chiên Con, cả hai mươi bốn trưởng lão cũng làm như thế, mỗi người mang đàn huyền cầm và chén vàng đầy hương thơm, tức là lời cầu nguyện của các thánh. Họ hát một bài ca mới rằng:
"Lạy Ngài, Ngài đáng lãnh sách và tháo ấn, vì Ngài đã chịu chết và đã lấy máu Ngài mà cứu chuộc chúng con thuộc mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ, mọi dân và mọi nước, về cho Thiên Chúa. Ngài đã làm chúng con trở thành vương quốc và tư tế cho Thiên Chúa; và chúng con sẽ được cai trị địa cầu".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 149, 1-2. 3-4. 5-6a và 9b
Ðáp: Ngài đã làm cho chúng tôi trở thành vương quốc và tư tế cho Thiên Chúa (Kh 5, 10).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới; hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân; con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ. - Ðáp.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người; hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. - Ðáp.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. - Ðáp.
Alleluia: x. Cv 16, 14b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời Con Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19, 41-44
"Chớ chi ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem, trông thấy thành thì Người khóc thương thành ấy mà rằng: "Chớ chi hôm nay ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi! Nhưng giờ đây, sứ điệp ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi. Vì sẽ đến ngày quân thù đắp luỹ bao vây ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi cùng con cái ở trong thành. Chúng sẽ không để lại hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng".
Ðó là lời Chúa.
Chúa Giêsu khóc thương Thành Thánh Giêrusalem phải chăng vì nó cho thấy một Giáo Hội cuối thời?!
Và chính vì được "Ngài đã làm cho chúng tôi trở thành vương quốc và tư tế cho Thiên Chúa" như thế mà những ai nhận biết người đều thuộc về giòng dõi của 24 vị trưởng lão thuộc cả Cựu Ước Dân Chúa lẫn Tân Ước Giáo Hội, theo tinh thần của toàn bộ Phúc Âm 4 cuốn được biểu hiệu nơi 4 con vật, mà họ hân hoan mang tâm tình của Thánh Vịnh 149 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới; hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân; con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người; hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa.
Ngày 17 tháng 11
Thánh nữ Ê-li-sa-bét Hung-ga-ri
lễ nhớ bắt buộc
Thánh nữ Ê-li-sa-bét nhận ra và yêu mến Đức Ki-tô nơi người nghèo
(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 17/11)
Trích thư của cha Côn-rát thành Mác-bua, linh hướng của thánh nữ, gửi đức thánh cha Ghê-gô-ri-ô IX, năm 1232.
Bà Ê-li-sa-bét sớm bắt đầu trổi vượt về các nhân đức. Cũng như suốt đời, bà đã là người an ủi những người nghèo, thì bây giờ bà hoàn toàn trở nên vị cứu tinh của những người đói. Bà ra lệnh xây một nhà thương gần lâu đài của mình, đón về đó nhiều người đau yếu tàn tật. Đối với mọi người đến xin của bố thí, bà đã làm các việc từ thiện cách rộng rãi, ở đây cũng như trong toàn lãnh thổ thuộc quyền cai trị của chồng bà. Bà đã phân phát tất cả hoa lợi do bốn lãnh địa của chồng bà đem lại, thậm chí cuối cùng bà đã cho bán hết cả đồ trang sức và y phục quý giá để giúp người nghèo.
Bà có thói quen mỗi ngày hai lần, sáng và chiều, đích thân thăm viếng tất cả các bệnh nhân của bà. Những người bị bệnh ghê tởm nhất thì bà trực tiếp săn sóc, cho người này ăn, đỡ người kia nằm xuống, vác kẻ khác trên vai, và còn làm nhiều việc từ thiện khác nữa. Chồng bà, một người mà ai cũng thương nhớ, không bao giờ tỏ ra khó chịu vì những việc bà làm. Sau khi ông qua đời, bà muốn hướng tới sự hoàn thiện cao nhất, nên đã khóc lóc nài van con cho phép bà được đi ăn xin từ nhà này qua nhà khác.
Một ngày thứ Sáu Tuần Thánh kia, sau khi người ta đã lột khăn các bàn thờ, bà đã đặt tay trên bàn thờ một nhà nguyện trong thành của bà, nơi bà đã cho các Anh Em Hèn Mọn ở, trước sự hiện diện của một số nhân chứng, bà đã nguyện từ bỏ ý riêng, từ bỏ mọi vinh hoa của thế gian và những gì mà trong Tin Mừng, Đấng Cứu Thế đã khuyên từ bỏ. Sau đó, vì bà thấy rằng mình có thể bị chi phối bởi cảnh huyên náo của thế gian và vinh quang trần thế, trong đó bà đã sống cách vẻ vang khi chồng bà còn sống, nên bà đã theo con đến Mác-bua mặc dầu con không muốn. Trong thành này, bà xây một nhà thương, đón về đó những người đau yếu tàn tật, và cho những người khốn khổ nhất, những người bị khinh rẻ nhất, ngồi ăn cùng bàn với bà.
Ngoài những hoạt động bác ái bà làm, con xin tuyên bố trước mặt Thiên Chúa rằng con hiếm thấy một người phụ nữ nào có đời sống chiêm niệm cao hơn. Một số tu sĩ nam nữ đã nhiều lần thấy rằng : khi bà cầu nguyện một mình xong và đi ra thì bộ mặt bà toả sáng lạ lùng, và từ mắt bà phát ra những tia sáng như tia sáng mặt trời.
Trước lúc bà qua đời, con đã giải tội cho bà ; khi hỏi bà phải định đoạt thế nào về của cải và đồ đạc bà để lại, bà trả lời rằng tất cả những gì bà xem ra còn sở hữu đều là của người nghèo. Bà xin con phân phát tất cả cho họ trừ chiếc áo cũ bà đang mặc, và bà muốn được chôn cất cùng với chiếc áo ấy. Nói xong, bà rước Mình Thánh Chúa. Từ đó đến chiều, bà năng nói về những điều hay nhất bà đã nghe trong các bài giảng. Sau đó, bà sốt sắng phó thác cho Thiên Chúa mọi người đang hiện diện, rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng như thiếp ngủ vậy.
Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh nữ Ê-li-sa-bét nhận ra và tôn kính Đức Ki-tô nơi người nghèo khổ, xin nhậm lời thánh nữ chuyển cầu, mà ban cho chúng con luôn hết lòng mến yêu phục vụ những ai đang lâm cảnh khốn cùng. Chúng con cầu xin
Thánh Nữ Elisabeth thành Thüringen - Đức
- Ngày lễ kính hàng năm trong Giáo Hội: 17 tháng 11
- Ngày lễ kính tại Giáo Hội Đức: 19 tháng 11
- Sinh năm 1207 tại Sárospatak miền Bắc Hung Gia Lợi
- Qua đời ngày 17-11-1231 tại Marburg - Đức
- Tên Elisabeth có nghĩa theo tiếng Do Thái: Thiên Chúa là sự giàu có
- Phong thánh vào năm 1235 bởi ĐGH Gregor IX.
Elisabeth là con gái đức vua Andreas II của Hung Gia Lợi. Trong năm sinh
của Elisabeth có một cuộc giao lưu thi hòa nhạc nổi tiếng trong thành
Wartburg gần thành phố Eisenach thuộc miền Thüringen. Tương truyền trong
thơ phú và huyền thoại cho rằng lúc đó có mặt của các tài danh Hung Gia
Lợi và nơi đây nói về tương lai của công chúa Elisabeth.
Vào năm 4 tuổi Elisabeth đã được hứa hôn với quận chúa Herman lúc đó 11
tuổi. Từ đó Elisabeth được giáo dục theo lối người Đức và sau đó
Elisabeth được gửi đến Thüringen dưới sự dẫn dắt của mẹ chồng tương lai
là bà Sophie. Cách thế này đã có người dì ruột (em của mẹ) của Elisabeth
đã làm gương, đó là quận chúa Hedwig của Schlesien (sinh năm 1174 và qua
đời ngày 15.10.1243, sau này được phong thánh và là vị nữ thánh nổi
tiếng của người Đức, Thánh Hedwig được kính vào ngày 16 tháng 10). Nhưng
vào năm 1216 Herman chết sớm khi Elisabeth mới được 9 tuổi. Năm sau cha
của Herman cũng qua đời. Việc nối ngôi cai trị vùng Thüringen được trao
cho người em là Ludwig lúc đó còn là vị thiếu niên. Đến lúc trưởng thành
Ludwig lên ngôi và lấy danh hiệu Ludwig IV. Elisabeth khi ấy còn nhỏ và
vẫn sống trong dinh quận chúa. Elisabeth sống đời đạo hạnh, hiền từ và
có vẻ đẹp nhu mì. Điều này làm cho quận vương Ludwig để ý đến chị. Từ
khi Herman qua đời cho đến lúc này thì có sự quyết định đưa Elisabeth
trở về Hung Gia lợi. Nhưng Ludwig nhung nhớ yêu thương Elisabeth và tỏ ý
cầu hôn giữ chị lại trong thành Wartburg. Năm 1221 Ludwig cưới Elisabeth
lúc đó đúng 14 tuổi.
Một gia đình trẻ hạnh phúc và Elisabeth sinh được 3 người con. Vào năm
1225 các cha dòng Phanxicô đến Eisanach giảng dạy. Elisabeth thích đường
lối nhà dòng là sống không cần của cải. Từ đó chị Elisabeth chăm sóc đến
người bệnh hoạn, nghèo khó, thăm viếng các khu nhà ổ chuột. Việc này
được chồng chị ủng hộ, nhưng họ hàng bên chồng chê bai cho là hoang phí
tiền của. Họ nhà chồng vu oan chị lan ra những vùng xung quanh, nhưng
chị luôn can đảm xác tín việc mình làm.
Truyền thuyết tường truyền rằng khi chị chăm sóc một người bệnh cùi và
bị người nhà bắt gặp. Chị dấu người cùi trong chiếc mền đắp, người nhà
lật tung lên và lúc đó chỉ thấy một cây thánh giá Chúa Giêsu bị đóng
đinh trong chiếc mền ấy. Khi nạn đói vào năm 1226 xảy ra trong vùng, chị
Elisabeth đã lấy hết thóc gạo và tiền của trong quỹ trợ giúp người
nghèo. Lúc này nhà chồng khắc nghiệt lên án chị, thì chính lúc đó tự
nhiên trong sân rơi đầy và phủ kín những hạt lúa mì. Người ta chất chứa
vừa đủ vào các kho nẫm như cũ. Khi vua Friedrich II đến thăm Wartburg và
quận chúa Ludwig tổ chức tiệc đón chào nhà vua thì lúc đó Elisabeth
không còn chiếc áo đẹp nào cả để mặc chào đón đức vua, khi ấy có một
thiên thần hiện đến trang điểm cho chị Eliasabeth lộng lẫy nhất trong
bữa tiệc.
Phép lạ giỏ hoa hồng nổi tiếng nhất được truyền tụng cho đến ngày nay
khi nói về Thánh Nữ Elisabeth. Người chồng Ludwig bị họ hàng lung lạc và
reo vãi sự nghi kỵ về sự hoang phí nơi chị Elisabeth. Một hôm Elisabeth
từ trên thành đi xuống với chiếc giỏ được cất dấu bánh mì vào trong đó.
Bỗng chị nghe được tiếng của chồng: “Em đang mang gì vậy?”. Ludwig vội
vàng đến bên chi hất tung tấm khăn che chiếc giỏ và chỉ thấy những cánh
hồng đẹp nằm gọn trong đó. Tương truyền này được vẽ thành những bức họa
chiếc giỏ bông hồng tượng trưng cho Thánh Nữ Elisabeth.
Vào năm 1227 Quận chúa Ludwig tham dự vào đoàn quân thứ 5 của Thập Tự
Quân tại vùng Brindisi của Ý. Nơi đây ông ngã bệnh và qua đời sau 6 năm
thành hôn với Elisabeth. Chị thật đau khổ thổn thức: „Với người chồng
thương yêu một thế giới đã chết trong tôi”. Đau khổ hơn nữa, khi chưa
đón được xác chồng từ mặt trận thì chị Elisabeth bị em chồng là Heinrich
Raspe xua đuổi khỏi thành Wartburg với lý do phung phí tài sản chung vì
người nghèo. Xuống phố Eisenach không tìm được chỗ nương náu, chị và 3
đứa con phải tá túc trong một chuồng nuôi heo. Sau một thời gian đoàn
quân viễn chinh trở về với hài cốt của chồng cũng như chiếc nhẫn cưới
được bảo quản trao lại cho Elisabeth. Sau khi chôn cất và qua sự can
thiệp của ĐGH Gregror IX chị Elisabeth và 3 con được hưởng một phần gia
tài.
Năm 1229 theo lời khuyên của cha linh hướng dòng Phanxicô là linh mục
Konrad, chị Elisabeth rời Eisanach đến Marburg sinh sống theo tinh thần
khó nghèo dòng Ba Phanxicô và hãm mình theo luật dòng. Chị đi gõ cửa
từng nhà để xin ăn. Chị từ chối tất cả của cải mình được hưởng. Tuy
nhiên theo sự hướng dẫn của cha linh hướng chị Elisabeth dùng gia sản
này xây dựng một nhà thương lớn phục vụ người nghèo tại Marburg vào năm
1229 và đặt tên là nhà thương Thánh Phanxicô. Nơi đây chị phục vụ người
nghèo như là một y tá cho đến khi qua đời.
Vào tháng 11 năm 1231 sức khỏe của Elisabeth yếu đuối và sa sút. Vài
ngày trước khi qua đời chị được nhìn thấy một viễn tượng: một con chim
bay đến gần chị hót vang như muốn mời gọi chị cùng hát lên. Khuôn mặt
chị trở nên tươi sáng và trút hơi thở cuối cùng lúc 24 tuổi. Một cuộc
sống kết thúc vì hy sinh tận tụy vì người nghèo, vì lo lắng cho người
khác. Chị Elisabeth được chôn cất ngay trong nhà thương Thánh Phanxicô
tại Marburg.
Chỉ 4 năm sau, vào năm 1235 công cuộc phong thánh đã được thực hiện
nhanh chóng cho chị Elisabeth bởi ĐGH Gregor IX vì những nhân đức tuyệt
vời phục vụ tha nhân. Người cùng thời là thánh nữ Mechthild von
Magdeburg (von Helfta) - sinh năm 1208 và mất năm 1282 đã nhận định về
chị Elisabeth như sau: “Đây là một sứ giả cho giới phụ nữ với cuộc sống
tiết hạnh, tránh xa được lối cuốn xa hoa, diệt trừ các ích kỷ nhỏ nhen.
Elisabeth được sinh ra như thế. Chị là gương mẫu cho những người nữ, là
mẫu đo về sức mạnh và ý muốn”.
Tôn Kính Chị Thánh Elisabeth tại Đức:
- Năm 1245 trên hộp đựng xương thánh của Elisabeth được khắc ghi các
dòng chữ “Gloria Teutonia” (Vinh danh nước Đức)
- Năm 1283 một đại thánh đường kiểu Gotik đầu tiên tại Đức thuộc thành
phố Marburg được xây dựng kính Thánh Nữ Elisabeth.
- Vào thế kỷ 13 những dòng thác hành hương đến Marburg kính Thánh
Elisabeth rất đông, người ta ví tầm quan trọng như nơi hành hương nổi
tiếng Santiago de Compostela, vì ảnh hưởng của Thánh Elisabeth thời đó
rất rộng lớn.
- 1907 sự tôn kính Thánh Nữ Elisabeth được lan rộng trong vùng Đức và Áo
vào dịp mừng sinh nhật thứ 700 của chị Thánh.
- 2007 toàn nước Đức tổ chức năm hành hương Thánh Elisabeth tại giáo
phận Erfurt dịp mừng sinh nhật thứ 800 của chị Thánh.
- Thành phố Kosice, phiá bắc nơi Elisabeth sinh ra đã trở thành một
trung tâm tôn kính chị Thánh.
- Tại Đức hoa hồng là biểu tượng của Thánh Nữ Elisabeth
- Tại Đức nhiều địa danh và các hội đoàn nhận Thánh Nữ Elisabeth làm bổn
mạng bảo trợ: Tiểu bang Thüringen và Hessen, Caritas Đức, các lò bánh
mì, trẻ em mồ côi, người xin ăn, người bệnh nhân, người đau khổ, những
người vô tội bị bắt bớ.
- Caritas Đức mỗi năm đều tổ chức cho hàng trăm ngàn thành viên thiện
nguyện mừng lễ quan thày kính Thánh Nữ Elisabeth vào ngày 19 tháng 11.
Lm. Paul Phạm Văn Tuấn
http://dongcong.net/CacThanh/GuongCacThanh/Thang11/Nov17.htm
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Kh 10, 8-11
"Tôi cầm lấy cuốn sách mà nuốt".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Tôi là Gioan, tôi đã nghe có tiếng từ trời phán cùng tôi rằng: "Ngươi hãy đi lấy cuốn sách mở sẵn trên tay thiên thần đứng trên biển và trên đất". Tôi liền đến xin thiên thần trao cho tôi cuốn sách ấy và người nói với tôi: "Ngươi hãy cầm lấy sách mà nuốt đi; nó sẽ làm cho ruột gan ngươi đầy cay đắng, nhưng miệng ngươi lại cảm thấy ngọt ngào như mật". Tôi cầm lấy cuốn sách từ tay thiên thần mà nuốt; miệng tôi cảm thấy ngọt ngào như mật, nhưng khi tôi đã nuốt rồi thì nó làm cho ruột gan tôi đầy cay đắng. Bấy giờ tiếng lại phán cùng tôi rằng: "Ngươi còn phải nói tiên tri cho nhiều dân, nhiều nước, nhiều ngôn ngữ và nhiều vua chúa nữa".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 14. 24. 72. 103. 111. 131
Ðáp: Những lời sấm của Chúa ngon ngọt thay cho cổ họng con (c. 103a).
Xướng: 1) Con vui vì đường lối lời Ngài nghiêm huấn, dường như được mọi thứ giàu sang. - Ðáp.
2) Vì lời nghiêm huấn của Ngài là điều con ưa thích, các thánh chỉ Ngài là những bậc cố vấn của con. - Ðáp.
3) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn. - Ðáp.
4) Những lời sấm của Ngài ngon ngọt thay cho cổ họng con, ngọt hơn cả mật ong đổ miệng con. - Ðáp.
5) Lời Ngài nghiêm huấn là sản nghiệp của con muôn đời, vì những điều đó khiến cho lòng con hoan hỉ. - Ðáp.
6) Con há miệng để hút nguồn sinh khí, vì con ham muốn những chỉ thị của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 34
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa, và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19, 45-48
"Các ngươi đã biến đền thờ Thiên Chúa thành sào huyệt trộm cướp".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào đền thờ, Người liền xua đuổi các người buôn bán tại đó và phán bảo họ rằng: "Có lời chép rằng: Nhà Ta là nhà cầu nguyện, các ngươi đã biến thành sào huyệt trộm cướp". Và hằng ngày Người giảng dạy trong Ðền thờ. Các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão trong dân tìm cách hại Người, nhưng họ không biết phải làm cách nào, vì dân chúng hết thảy đều chăm chú nghe Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Thanh tẩy Đền
Thờ - Uy quyền của đối phương được phong vương
1) Con vui vì đường lối lời Ngài nghiêm huấn, dường như được mọi thứ giàu sang.
2) Vì lời nghiêm huấn của Ngài là điều con ưa thích, các thánh chỉ Ngài là những bậc cố vấn của con.
3) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn.
4) Những lời sấm của Ngài ngon ngọt thay cho cổ họng con, ngọt hơn cả mật ong đổ miệng con.
5) Lời Ngài nghiêm huấn là sản nghiệp của con muôn đời, vì những điều đó khiến cho lòng con hoan hỉ.
6) Con há miệng để hút nguồn sinh khí, vì con ham muốn những chỉ thị của Ngài.
I. Ghi nhận lịch sử - phụng vụ
Ngày kỷ niệm cung hiến giáo đường thánh Phêrô (khoảng 350) và thánh Phaolô trên đường Ostia (khoảng 390), cử hành vào ngày 18 tháng 11, đã được nhắc đến ngay từ thế kỷ XI trong một quyển sách viết về cuộc tử đạo của thánh Phêrô. Năm 1568, Đức Giáo Hoàng Piô V đã cho ghi vào lịch phụng vụ Rôma ngày mừng lễ cung hiến này chung cho cả hai thánh đường.
Truyền thống kể rằng vương cung thánh đường thánh Phêrô nguyên thuỷ được hoàng đế Constantinô và các người kế vị xây dựng, được hoàn thành và cung hiến khoảng năm 350. Thánh đường này xây trên mộ của thánh tông đồ Phêrô ở Vaticanô, nằm trên khu nghĩa trang cổ (thế kỷ I và II) của người ngoại giáo và Kitô giáo, tại đây vào cuối thế kỷ II, người ta đã đào xuống thành ba tầng kế tiếp nhau. Một linh mục người Rôma tên là Caius, dưới thời Đức giáo hoàng Zéphirin († 217), đã để lại một chứng từ về tầng thứ ba của khu nghĩa trang, và được giám mục sử gia Eusèbe thành Césarê thuật lại: “Phần tôi, tôi có thể chỉ cho bạn thấy những chứng tích (phần mộ hay hài cốt) của các tông đồ. Nếu bạn đến Vatican hay trên đường Ostia, bạn sẽ thấy chứng tích của các vị đã sáng lập Hội Thánh.” (Lịch Sử Hội Thánh II, 25-7). Những cuộc khai quật ở thánh đường thánh Phêrô (1940-1949), dưới thời Đức Piô XII, đã khám phá ra khu nghĩa trang này, và có vẻ như đã khám phá ra phần mộ của thánh Phêrô.
Vào thế kỷ XV, dưới thời Đức Giáo Hoàng Nicolas V, người ta phá ngôi thánh đường cổ lúc đó đã đổ nát, nhưng việc xây dựng lại ngôi thánh đường này chỉ bắt đầu dưới thời Đức Giáo Hoàng Jules II (1503-1513). Đức giáo hoàng đã chọn mẫu thiết kế hình chữ thập Hy lạp của Bramante (1506). Công trình được kiến trúc sư Maderna thực hiện từ 1606 đến 1617. Theo lệnh Đức Giáo Hoàng Phaolô V, ông Maderna nối dài lòng nhà thờ thành hình chữ thập la-tinh và vẽ thiết kế phần mặt tiền. Michel-Angelo (1546) vẽ phần vòm thánh đường và phần này đã hoàn tất năm 1590. Bên dưới vòm là khu Thánh Phê-rô tuyên xưng, gồm nhà hầm mộ thánh tông đồ và bàn thờ chính đặt trên một phương du bằng đồng, tác phẩm của Bernin (1624). Công trường thánh Phê-rô, với hai hàng cột đặt theo hình bán bầu dục, cũng là tác phẩm của Bernin. Thánh đường thánh Phêrô được Đức Đức Giáo Hoàng Urbain VIII cung hiến lại năm 1626.
Vương cung thánh đường thánh Phaolô ngoài thành, theo truyền thống, cũng do hoàng đế Constantin và các người kế vị xây dựng trên mộ thánh Tông đồ. Được Đức Giáo Hoàng Sirice cung hiến vào cuối thế kỷ IV; một cuộc hỏa hoạn đã tàn phá thánh đường vào năm 1823 và được xây dựng lại theo cùng mẫu thiết kế cũ. Thánh đường được Đức Giáo Hoàng Piô IX cung hiến lại ngày 10 tháng 12 năm 1854, với sự tham dự của các giám mục từ khắp nơi trên thế giới qui tụ về nhân dịp công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tuy nhiên, vì việc mừng kính thánh Phaolô trong phụng vụ không thể tách rời việc mừng lễ thánh Phêrô, nên lễ kỷ niệm cung hiến thánh đường này (ngày 10 tháng 12) cũng được gộp chung vào ngày kỷ niệm cung hiến thánh đường thánh Phêrô (18 tháng 11).
Hoàng đế Roma Constantino năm 323, sau khi công nhận đạo Công Giáo, mở ra kỷ
nguyên chấm dứt thời kỳ Giáo Hội Công Giáo bị bắt bớ bách hại trong toàn đế
quốc Roma, đã cho xây dựng Vương cung thánh đường trên ngôi mộ Thánh Phêrô ở
chân đồi Vatican. Phần phía Nam của thánh đường nằm ở bên phần sân diễn trò
xiếc giải trí của vua chúa Roma, nơi đây Thánh Phêrô dưới thời Hoàng đế Nero
đã bị hành quyết đóng đinh ngược tử vì đạo năm 67 sau Chúa giáng sinh.
Ngôi mộ của Thánh Phêrô nằm ngay dưới bàn thờ chính của đền thờ. Dưới thời
Đức Giáo Hoàng Pio XII. vào thế kỷ 20. đã có cuộc khai quật khảo cổ, và tìm
thấy ngôi mộ cùng dấu tích sùng kính Thánh Phêrô của giáo hữu thời xa xưa
hồi thế kỷ thứ nhất và thứ hai.
Theo truyền thuyết kể lại, ngôi đền thờ thời Constantino được Đức Giáo Hoàng
Silvester I thánh hiến ngày 18.11.326, và ngôi đền thờ được xây dựng hoàn
thành vào giữa thế kỷ thứ 4 sau khi hoàng đế Constantino qua đời.
Trong thời kỳ các Đức Giáo Hoàng sống lưu vong ở Avignon bên Pháp từ 1309 –
1377, đền thờ bị xuống cấp hư hại. Nhưng sau đó từ năm 1450 đền thờ được sửa
chữa lại. Sau cùng dười thời Đức Giáo Hoàng Julius II. năm 1506 ngôi đền thờ
cũ có tuổi thọ 1200 năm bị phá hủy hoàn toàn. Và ngài đặt viên đá đầu tiên
xây dựng ngôi đền thờ mới như đang thấy ngày nay.
Công trình xây dựng đền thờ mới do Kỹ sư Bramente vẽ họa đồ và Kỹ sư
Michelangelo thực hiện. Công việc xây dựng kéo dài trên 100 năm. Ngôi đền
thờ mới cũng được xây ngay trên ngôi mộ của Thánh tông đồ Phêrô, và là thánh
đường lớn nhất của Giáo Hội Công Giáo. Đức Giáo Hoàng Urbano VIII. đã làm
phép thánh hiến khánh thành ngôi đền thờ mới cũng vào ngày 18.11.1626, mà
trước đó 1300 năm ngôi đền thờ cũ thời vua Constantino ngày 18.11.326 cũng
đã được làm phép thánh hiến.
Đền thờ Thánh Phêrô là công trình xây dựng trổi vượt về hình thức nghệ
thuật, và mang ý nghĩa trung tâm điểm của Giáo Hội Công Giáo hoàn cầu.
Công trình này được các vị kỹ sư cùng điêu khắc danh họa góp công sức thực
hiện từ Bramante đến Raffael, Peruzzi, Michaelangelo, Giacomo della Porta,
phần trang trí nghệ thuật do những kiệt tác của danh họa thiên tài
Michaelangelo, Bernini và nhiều người khác nữa.
Thánh Phaolô là vị Tông đồ dân ngoại đã loan truyền tin mừng Chúa Giêsu Kitô
từ bên vùng Trung Đông nước Do Thái sang tận Âu châu. Đi tới đâu Ông thành
lập Giáo đoàn Kitô giáo, và viết 14 thư mục vụ, như nền tảng giáo lý, gửi
các Giáo đoàn Kitô giáo. Và sau cùng vào khoảng năm 64. chết chịu tử vì đạo
dưới thời hoàng đế Nero ở Roma.
Ngay từ năm 200 đã có bảng ghi nhớ tưởng niệm ngôi mộ Thánh Phaolô ở Via
Ostia. Hoàng đế Constantino theo dấu chứng đó đã cho xây ngôi đền thờ ở
ngoài thành Roma năm 324 để kính Thánh Phaolô, và được Đức Giáo Hoàng
Sylvester thánh hiến.
50 năm sau, năm 374 Hoàng đế Theodosius I. cho xây mở rộng ngôi đền thờ to
lớn thêm ra. Đến thời Đức Giáo Hoàng Leo I (trị vì từ 440-461) ngôi đền thờ
được xây dựng hoàn thành. Tháng Bảy 1823 ngôi đền thờ thời Constantino bị
trận hỏa hoạn thiêu hủy hư hại nặng, chỉ phần hậu cung thánh với những bức
tranh Mosaic từ thế kỷ thứ 5 và 13 còn nguyên vẹn không bị cháy.
Ngôi đền thờ mới kính thánh Phaolô ngoại thành được xây dựng lại ngày
10.12.1855 dưới thời Đức Giáo Hoàng Pio IX. được làm phép thánh hiến.
Trong vương cung thánh đường Thánh Phaolô ở trên phần đầu tường chung quanh
có hình vẽ khắc kiểu Mosaic các Đức Giáo Hoàng của Hội Thánh Công Giáo từ
Thánh Phêrô, vị giáo hoàng tiên khởi cho tới vị Giáo hoàng đương kim.
Ngày 25.01.1959, vào ngày lễ kính Thánh Phaolô tông đồ trở lại, Đức Giáo
Hoàng Gioan XXIII. trong đền thờ này đã tuyên bố mở Công đồng chung Vaticano
II 1960-1965. Đền thờ gọi là ngoại thành, vì nằm ở ngoài tường thành Roma do
hoàng đế Aureliano xây bức tường bao quanh Roma năm 271 để ngăn chống các
tấn công của các sắc dân từ bên ngoài vào trong thành Roma.
BIỂU
TƯỢNG Ý NGHĨA THẦN HỌC:
Hai ngôi đền thờ vĩ đại Thánh Phêrô và Thánh Phaolô ở Roma không chỉ to lớn
bề thế về công trình lối kiến trúc đồ sộ vững chắc, và những trang hoàng ấn
tượng mang dấu ấn rất nghệ thuật thời
trung cổ có một không hai từ xưa nay. Nhưng hai ngôi đền thờ còn là hình ảnh
nói lên dấu chỉ về Thiên Chúa vô hình đang hiện diện giữa con người, với
những hàng cột cao trong ngoài thán đường, những vòm chỏm tháp vươn cao lên
không trung giữa thiên nhiên, những mầu sắc hài hoà của những tảng đá cẩm
thạch cùng đường vân thiên nhiên hòa hợp với ánh sáng chiếu tỏa sự trong
sáng nét đẹp của thiên nhiên.
Có thể nói được những ý tưởng mà các vị Kỹ sư và các vị danh Họa điêu khắc
đã khắc ghi vào công trình gỗ đá xây dựng hai ngôi đền thờ này, bắt nguồn
như thức ăn gợi hứng cho họ là con người, là người có lòng tin vào Chúa, là
kỹ sư kiến trúc, là nhà danh hoạ chuyên môn, từ ba cuốn sách về thiên nhiên,
cuốn sách Kinh Thánh và cuốn sách về Phụng vụ.
Vì thế, hai ngôi đền thờ kết hợp được cả ba mặt kiến trúc trong thời đại
trần gian, về lịch sử ơn cứu độ của Chúa phần thiêng liêng, như Kinh thánh
thuật lại, và về phụng vụ, nơi con người trần thế cử hành lễ nghi thờ phượng
Thiên Chúa.
Hai ngôi đền thờ được xây dựng để kính hai Thánh tông đồ Phêrô và Phaolô,
nhưng họ không phải là nền tảng cho hai đền thờ này. Chính Chúa Giesu Kitô
mới là đá nền tảng niềm tin cho đền thờ (1 cor 3,10-11). Vì nơi hai đền thờ
này mỗi khi mọi tín hữu Chúa Kitô tụ họp đọc kinh cầu nguyện, cử hành nghi
lễ phụng vụ , là tưởng niệm sự sinh ra, chịu chết và sống lại của Chúa Kitô.
Đó là nền tảng đức tin của Kitô giáo.
Chúa Giêsu Kitô là đá tảng nâng đỡ cho ngôi đền thờ đức tin của Giáo Hội
được vững chắc. Nơi Chúa Giêsu chúng ta học và đọc được Lời của Chúa, cũng
như từ nơi Ngài Giáo Hội nhận được sức sống, giáo lý và sự sai đi đến với
con người.
Hai ngôi đền thờ này như hình ảnh biểu tượng cho Giáo Hội Công Giáo Roma,
cũng đã trải qua những lần bị hư hại xuống cấp, bị hỏa hoạn cháy thiêu rụi,
và được sửa chữa lại, xây dựng mới lại. Hai ngôi đền thờ kiến trúc công
trình nghệ thuật đứng vững từ hàng bao thế kỷ nay là do luôn được quyét dọn,
tân trang bảo trì sửa chữa liếp tục.
Đời sống trong Giáo Hội cũng vậy, có những giai đoạn thoái hóa lên xuống về
mặt tinh thần đạo giáo cũng như tổ chức điều hành quản lý. Những khúc ngoặt
hay bóng tối đó gây ra những tiếng tăm không tốt, hậu qủa tiêu cực.
Nhưng đồng thời đó cũng là dịp tốt để Giáo Hội nhìn ra biết mình mà điều
chỉnh sửa chữa làm mới lại cho tốt lành đúng như ý Chúa muốn, cùng là nhân
chứng cho Chúa giữa lòng xã hội con người trần thế. Có thế ngôi nhà đức tin
Giáo Hội mới đứng vững được.
_______________________
Hai ngôi đền thờ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô ở Roma như cột trụ của Giáo Hội
Công Giáo vừa về mặt tinh thần vừa về mặt kiến trúc cùng bề thế.
Hai vị Thánh tông đồ này cùng được mừng kính chung trong một lễ mừng ngày 29
tháng 06 hằng năm. Và hai ngôi đền thờ kính hai vị Thánh cùng được mừng nhớ
đến ngày thánh hiến chung ngày 18.11. hằng năm.
Thánh
Phaolô viết nhắn nhủ về Giáo Hội Chúa Kitô: “Tôi muốn nói là trong anh em có
những luận điệu như: ”Tôi thuộc về ông Phao-lô, tôi thuộc về ông A-pô-lô,
tôi thuộc về ông Kê-pha, tôi thuộc về Đức Ki-tô.” (1 cor 1,12)...
“Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể. Thật vậy, chúng tôi là cộng sự viên của Thiên Chúa. Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên.” (1 cor 3,6-9).
http://conggiao.info/cung-hien-den-tho-thanh-phero-va-den-tho-thanh-phaolo-o-roma-d-52198
Từ cây tháp bút ở giữa quảng trường (hình bên dưới) tới mặt tiền Ðền Thờ có khoảng cách 191 mét, trong khi khoảng cách giữa hai tượng thánh Phêrô và Phaolô là 76.73 mét.
Cả Ðền Thờ cũ cũng như Ðền Thờ mới đều được xây trên mộ của Thánh Phêrô tông đồ, được an táng trên sườn đồi Vatican, trong khu vực nghĩa trang cạnh hí trường của Hoàng Ðế Nerone.
Nhưng hiện nay mộ của ngài đang ở ngay bên dưới Bàn Thờ Chính của Đền Thờ Thánh Phêrô.
Mộ Thánh Phêrô ngay bên dưới bàn thờ Thánh Phêrô ở tầng trên của Đền Thờ Thánh Phêrô
Khu vực xây Ðền Thờ Thánh Phêrô trước kia là một nghĩa trang thời La Mã, và được khám phá trong thập niên 1930, được khai quật trong hai đợt: từ 1939 đến 1949, rồi từ 1953 đến 1958.
Hai hàng nhà mồ với những hốc mộ được khám phá, với rất nhiều bích họa,
tranh khảm, cùng với một khu vực với những ngôi mộ đơn sơ hơn.
Các cuộc khai quật dưới Bàn Thờ tuyên xưng Ðức Tin đưa tới sự khám phá mà Ðức Phaolô VI tuyên bố ngày 26-6-1968:
"Hài cốt thánh Phêrô được nhận diện đến độ chúng tôi coi là có lý".
(4 tấm hình chụp trên đây ngày 18/11/2021 của
TĐCTT cao tấn tĩnh trong chuyến Hành hương Đức tin Chứng tích Phục sinh 12
ngày 8-19/2021)
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Kh 11, 4-12
"Hai vị tiên tri ấy đã làm cho dân trên hoàn cầu chịu nhiều khổ cực".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Có lời phán cùng tôi là Gioan rằng: "Hai chứng tá của Ta là hai cây ôliu và hai cây đèn đặt trước mặt Chúa Tể địa cầu. Và nếu ai toan hãm hại các ngài, thì sẽ có lửa từ miệng các ngài phun ra tiêu diệt các địch thù; ai toan làm hại các ngài thì chính kẻ ấy phải bị giết như vậy. Các ngài có quyền đóng cửa trời, khiến trời không mưa trong những ngày các ngài nói tiên tri. Các ngài lại có quyền biến nước thành máu, và gieo tai hoạ cho trần gian bất cứ lúc nào tùy ý. Và khi các ngài đã hoàn tất nhiệm vụ chứng tá rồi, thì con mãnh thú từ vực thẳm lên sẽ giao chiến với các ngài, nó sẽ thắng và giết chết các ngài. Thi thể các ngài sẽ bị bêu nơi công trường của Thành lớn, gọi cách bóng bảy là Sôđôma và Ai-cập, là nơi Chúa các ngài đã bị đóng đinh. Thiên hạ thuộc mọi chi tộc, mọi dân, mọi nước, và mọi ngôn ngữ, đã xem thấy thi thể các ngài trong ba ngày rưỡi, và người ta không để cho thi thể các ngài được chôn cất trong mộ. Dân chúng trên khắp mặt đất sẽ vui mừng vì cái chết của các ngài và hoan hỉ tặng quà cho nhau, vì hai vị tiên tri ấy đã từng làm cho họ chịu nhiều khổ cực. Nhưng sau ba ngày rưỡi, (sinh khí từ) Thiên Chúa nhập vào các ngài. Và các ngài đứng dậy, khiến cho những người trông thấy phải khiếp sợ. Rồi các ngài nghe có tiếng vang lớn từ trời phán cùng các ngài rằng: 'Hãy lên đây'. Các ngài liền lên trời, trong đám mây trước mắt các địch thù của các ngài.
Chính lúc đó đất chuyển động dữ dội, và một phần mười của thành thị bị sụp đổ, làm bảy ngàn người thiệt mạng trong cơn động đất ấy. Còn các người sống sót thì kính sợ và cao rao vinh danh Ðức Chúa Trời".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 143, 1. 2. 9-10
Ðáp: Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa! (c. 1a).
Xướng: 1) Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa là Ðấng rèn luyện cho tay con biết đấu tranh, cho các ngón tay con thiện nghề chinh chiến. - Ðáp.
2) Chúa là tình thương và là chiến luỹ, là Ðấng phù trợ và giải phóng con. Chúa là khiên thuẫn, là chỗ con nương náu; Ngài bắt chư dân phải khuất phục con. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, con sẽ hát mừng Ngài bài ca mới; với cây đàn mười dây, con sẽ ca mừng Ngài, vì Ngài đã ban cho các vua chiến thắng, đã giải phóng Ðavít là tôi tớ của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Pl 2, 15-16
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 20, 27-40
"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ đó để anh mình có kẻ nối dòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ, rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào. Sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy, vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ?"
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng; họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho Chúa".
Bấy giờ có mấy luật sĩ lên tiếng thưa Người rằng: "Lạy thầy, Thầy dậy đúng lắm". Và họ không dám hỏi Người điều gì nữa.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Không có vấn đề luân hồi mà là phục sinh, là được biến đổi...
1) Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa là Ðấng rèn luyện cho tay con biết đấu tranh, cho các ngón tay con thiện nghề chinh chiến.
2) Chúa là tình thương và là chiến luỹ, là Ðấng phù trợ và giải phóng con. Chúa là khiên thuẫn, là chỗ con nương náu; Ngài bắt chư dân phải khuất phục con.
3) Ôi Thiên Chúa, con sẽ hát mừng Ngài bài ca mới; với cây đàn mười dây, con sẽ ca mừng Ngài, vì Ngài đã ban cho các vua chiến thắng, đã giải phóng Ðavít là tôi tớ của Ngài.
Ngày 21 tháng 11
Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ
lễ nhớ bắt buộc
Bài đọc 1 – Dcr 2, 14-17
"Hỡi thiếu nữ Sion, hãy hân hoan, đây Ta ngự đến".
Bài trích sách Tiên tri Giacaria.
Chúa phán: “Hỡi thiếu nữ Sion hãy ca tụng và hân hoan: vì này đây Ta đến ngự giữa ngươi. Trong ngày ấy, sẽ có nhiều dân tộc quy phục Chúa, họ sẽ là dân Ta và Ta sẽ ngự giữa ngươi. Ngươi sẽ biết rằng Chúa các đạo binh đã sai Ta đến cùng ngươi”. Thiên Chúa sẽ chiếm lấy Giuđa làm sản nghiệp của Người trong thánh địa, và sẽ còn tuyển chọn Giêrusalem. Mọi xác phàm hãy thinh lặng trước nhan thánh Chúa, vì Người đã chỗi dậy trong thành thánh của Người.
Đó là lời Chúa.
Đáp Ca: 1 Sm 2, 1.4-5.6-7.8
Đáp: Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, Đấng Cứu độ tôi (c. 1a).
1) Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, và sức mạnh tôiđược gia tăng trong Thiên Chúa tôi; miệng tôi mở rộng ra trước quân thù, vì tôi reo mừng việc Chúa cứu độ tôi.
2) Chiếc cung những người chiến sĩ đã bị bẻ gãy, và người yếu đuối được mạnh khoẻ thêm. Những kẻ no nê phải làm thuêđộ nhật, và những người đói khát khỏi phải làm thuê; người son sẻ thì sinh năm đẻ bảy, còn kẻ đông con nay phải héo tàn.
3) Chúa làm cho chết và Chúa làm cho sống, Chúa đày xuống Âm phủ và Chúa dẫn ra. Chúa làm cho nghèo và làm cho giàu có, Chúa hạ xuống thấp và Chúa nâng lên cao.
4) Từ nơi cát bụi, Chúa nâng người yếu đuối; từ chỗ phân nhơ, Chúa nhắc kẻ khó nghèo, để cho họ ngồi chung với các vương giả, và cho họ dự phần ngôi báu vinh quang.
Allêluia – Lc 1, 28
All. All. - Kính chào Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ; Trinh Nữ được chúc phúc giữa các người phụ nữ. - All.
PHÚC ÂM – Mt 12, 46-50
"Người giơ tay trên các môn đệ mà nói: Đây là mẹ Ta và là anh em Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu còn đang nói với dân chúng, thì mẹ Người và anh em Người đứng ngoài tìm cách nói chuyện với Người. Có kẻ thưa rằng: "Kìa, mẹ Ngài và anh em Ngài đang đứng tìm Ngài ngoài kia". Nhưng Người trả lời kẻ ấy rằng: "Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta?" Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ mà nói: "Đây là mẹ Ta và là anh em Ta, vì hễ ai làm theo ý Cha Ta trên trời, thì người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta vậy".
Đó là lời Chúa.
Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ
Lễ Dâng Mình vào Đền Thánh của Ấu Nhi Maria được bắt đầu từ Đông Phương từ thế kỷ thứ 6, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 15 mới được phổ biến ở Tây phương. Thánh Giáo Hoàng Piô V đã bỏ qua lễ này, nhưng sau đó ĐTC Sixtus V tái thiết lập. Theo tài liệu từ cuốn Protevangelium of James, một tác phẩm từ thế kỷ thứ 2, nhưng không được Giáo Hội nhận vào sổ bộ Thánh Kinh, thì có nói đến việc tưởng nhớ đến biến cố này của Ấu Nhi Maria vào năm 3 tuổi, và việc Ấu Nhi Maria được cha mẹ của mình thực hiện là để hoàn tất lời hứa của các vị trong thời gian cả 2 son sẻ không sinh con cho đến khi có người con gái duy nhất là Bé Maria.
Ngoài ra, theo truyền thống Do Thái, người ta thường dâng con trẻ vào đền thờ để được thánh hiến và sau đó con trẻ sẽ ở trong đền thờ một thời gian giúp việc các vị chủ tế... Phúc Âm không đề cập đến thời thơ ấu của Ðức Trinh Nữ Maria. Nhưng theo Thánh Truyền thì Ðức Mẹ cũng đã thi hành tập tục nói trên. Tại đền thánh Giêrusalem, ngài đã thực hành biết bao hy sinh với một tâm hồn quảng đại.
Biến cố Ấu Nhi Maria dâng mình vào đền thánh, bề ngoài, có thể như là một truyền thống tự nguyện của người Do Thái, nhưng theo tinh thần và ý hướng của bản thân Mẹ, một con người duy nhất trên trần gian này được đặc ân vô nhiễm nguyên tội, được đầy ân phúc ngay từ giây phút hoài thai trong lòng thai mẫu, được đầy Thánh Linh ngay khi mới vào đời, nhờ đó Mẹ đã nhận biết Thiên Chúa ngay lúc ấy, và kính mến Ngài trên hết mọi sự, bằng tất cả con người của mình, bao gồm cả hồn lẫn xác, một thân xác mà Mẹ đã chỉ muốn thuộc trọn về Ngài thôi, không hề biết đến nam nhân nào, như Mẹ đã rõ ràng và thực sự bày tỏ vào giây phút truyền tin Lời Nhập Thế (xem Luca 1:34)
Mười hai năm suy gẫm và cầu nguyện, chính là thời gian chuẩn bị cho chức vụ Mẹ Thiên Chúa. Theo thánh Hiêronimô, chương trình ngày sống của Ðức Mẹ trong đền thờ được phác họa như sau: Từ hừng đông đến 9 giờ sáng, Ngài cầu nguyện; từ 9 giờ sáng đến 3 giờ chiều, Ngài làm việc chân tay và sau đó ngài lại cầu nguyện, sốt sắng suy gẫm Thánh Kinh và siêng năng đọc Thánh Vịnh.
Ngày lễ Mẹ dâng mình như bước đầu dẫn tới Ðức Khiết Tịnh Kitô giáo. Sau Ngài, biết bao trinh nữ đã tận hiến toàn thân cho Thiên Chúa. Vì thế Mẹ Maria thực là gương mẫu bất diệt, là Ðấng bảo trợ nhiệt thành và là Ðấng hướng dẫn chắc chắn trên đường nhân đức vậy.
Thật vậy, Giáo Hội tưởng nhớ biến cố Mẹ Maria Dâng Mình Vào Đền Thánh, một biến cố chẳng những chứng tỏ đức tin diễm phúc của Mẹ (xem Luca 1:45), ở chỗ, Mẹ muốn thuộc trọn về Chúa, hoàn toàn tin vào Chúa, để Ngài muốn làm gì thì làm cho bản thân Mẹ và trong cuộc đời của Mẹ, một tinh thần tôi tớ xin vâng sửa soạn cho biến cố Truyền Tin vô cùng trọng đại cho chung loài người, mà còn là một biến cố mở màn cho đời sống tu trì của Giáo Hội Tân Ước, một Giáo Hội noi gương bắt chước Mẹ là một Trinh Nữ Sinh Con, mẫu gương của một người môn đệ trung thực của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa Làm Người.
Sau đây, chúng ta hãy đọc lại những gì do
chính Mẹ Maria mạc khải về biến cố dâng mình này của Mẹ, và sau đó, đọc
những gì Thánh Âu Quốc Tinh viết về đức tin của Mẹ, như mới được suy
diễn trên đây về biến cố dâng mình này của Mẹ.
Dâng Mình trong Đền Thờ
(Trích Thần Đô Huyền Nhiệm, bản dịch của Phạm Duy Lễ, CRM)
Thánh Gioakim và thánh nữ Anna từ Nagiarét đưa Mẹ lên Đền Thờ Giêrusalem với mấy người thân thuộc đơn sơ. Khi tới Đền Thờ, ông bà cầm tay Con dẫn vào bên trong. Cả ba cùng sốt sắng cầu nguyện, rồi ông bà dâng hiến Mẹ cho Thiên Chúa. Mẹ cũng tự hiến dâng trọn vẹn trót mình dứt khoát cho Người.
Sau khi cầu nguyện, thánh Gioakim và Anna dẫn Mẹ ra giới thiệu với một vị tư tế. Vị này chúc lành cho Mẹ. Rồi tất cả cùng đưa Mẹ tới khu nhà dành riêng cho việc giáo dục những thiếu nữ theo một kỷ luật đạo hạnh. Muốn tới khu nhà ấy, phải đi qua một cầu thang 15 bậc. Vị có nhiệm vụ hướng dẫn Mẹ là một tư tế phẩm trật thấp nhất. Ông đặt Mẹ lên bậc đầu cầu thang. Rồi quay về phía song thân, Mẹ quì gối xin phép lành, hôn kính tay cha mẹ và xin cha mẹ dâng hiến mình cho Thiên Chúa. Thánh Gioakim và Anna vừa bùi ngùi rơi lệ, vừa âu yếm chúc lành cho Con. Sau đó, một mình Mẹ quả quyết bước lên thang, không quay nhìn lại, không rơi một giọt lệ, không chút phàn nàn vì phải lìa cha mẹ.
Thượng tế Simeon, đón nhận Mẹ và trao cho những cô giáo đạo đức việc đào tạo Đức Maria. Trong các cô giáo này, có bà tiên tri Anna, bà này đã được Chúa ban ơn soi sáng riêng, chỉ định làm giáo chức đảm nhiệm coi sóc Đức Nữ. Sau khi tiếp xúc với bà giáo Anna, Mẹ đi gặp mọi thiếu nữ trong viện, chào hỏi niềm nở đoan trang. Khi ở một mình trong phòng nhỏ, Me sấp mình xuống, thờ lậy cảm tạ Chúa và khấn cùng Chúa sẽ giữ khiết trinh, thanh bần, tuân phục và vĩnh viễn ở trong Đền Thờ.
Mẹ đi tìm bà Anna, nộp cho bà tất cả những gì song thân đã cho, để bà định đoạt tùy ý bà. Được Chúa soi sáng, bà Anna nhận lấy tất cả các đồ Mẹ nộp, chỉ để cho Mẹ y phục Mẹ mặc, cho nên Mẹ hoàn toàn nghèo khó. Trong khi các thiếu nữ khác trong viện vẫn còn giữ trọn của cải mình và sử dụng tùy ý. Sau đó, hội ý với Thượng tế Simêon, bà Anna vạch ra một luật sống cho Mẹ, đã vạch một chương trình sống cho Mẹ như sau:
“Con hãy đem hết lòng nhiệt thành tham dự các giờ tán tụng Thiên Chúa. Hãy cầu nguyện cho Đền Thờ của Ngài, cho dân riêng Ngài và cho Đấng Cứu Chuộc mau đến. Buổi tối, con sẽ đi ngủ lúc tám giờ. Tảng sáng con sẽ thức dậy cầu nguyện cho tới chín giờ. Từ giờ đó tới chiều, con sẽ làm các việc thủ công và học tập Thánh Kinh. Trong bữa ăn con hãy dùng lương thực cách điều độ nghiêm cẩn. Trong mọi sự con hãy ở khiêm nhu, dễ yêu và hết sức tuân phục bà giáo, bà sẽ dạy con mọi việc phải làm”.
Mẹ nêu lên một đức khiêm nhượng cao cả khi xin cô giáo cho phép được phục vụ các bạn đồng song, được dùng vào những việc rất thấp hèn như quét nhà, rửa chén đĩa. Mẹ hết sức tiết độ trong bữa ăn, và sẵn sàng chịu mất ngủ, một giấc ngủ vốn đã rất ngắn. Không hề cho phép mình dùng một vật dụng nào thừa thãi, Mẹ tự cắn xén cả một đôi dụng cụ cần thiết. Mẹ dùng thời giờ rất thận trọng, giờ nào việc ấy khít khao nhau. Thời giờ Mẹ dùng nhiều nhất là thời giờ đọc Thánh Kinh, nhất là những trang liên quan tớiơn Nhập Thể Cứu Chuộc. Mẹ am tường ý nghĩa việc Nhập Thể, nhờ có tri thức Chúa ban dư tràn. Mẹ hiểu biết tất cả các nghi lễ cử hành trong Đền Thờ mà Mẹ tham dự, nhưng bề ngoài Mẹ vẫn đi học hỏi y như khoâng biết gì. Nhi nữ Maria cần phải được đau khổ làm cho nên hoàn thiện và phú quí.
Nỗi phiền sầu đầu tiên Mẹ phải chịu là không được thị kiến thấy Thiên Chúa và cả các thiên thần. Bất thình lình Mẹ phải rơi vào một đêm tối tăm. Con thử thách này không lâu, nhưng Mẹ đã chịu đựng nó trong dằn vặt thiêng liêng hơn tất cả các thánh. Với thử thách đó, Chúa Quan Phòng đã chuẩn bị cho Mẹ mạnh mẽ để chiến thắng một trận khác do rắn già hỏa ngục bày ra.
Thật vậy, Satan với cặp mắt hờn giận, vẫn dõi theo cuộc tiến bộ thánh thiện của Mẹ. Nó đã triệu tập một đại hội những tên quỉ hung dữ nhất trong hỏa ngục, tiết lộ mối lo sợ của nó là: Có lẽ Đức Maria là Người Nữ mà Thiên Chúa đã tỏ cho nó thấy ngày trước, và đe rằng Người sẽ đạp nát đầu nó. Nó thú nhận rằng Người làm cho nó rất kinh hoảng: nó căm giận, nó muốn giết Người đi cho rồi. Nhiều phương pháp xảo trá được các quỉ dữ mang ra thảo luận trong đại hội. Sau cuộc âm mưu nham hiểm ấy, chúng kéo nhau lên tấn công Đô Thành Thiên Chúa là Đức Nữ Maria. Vẫn theo thói thường của chúng, Luxiphe chỉ huy các cuộc tấn công này. Vá nó là tên tấn công trước hết, rồi sau đó, cả bọn chúng mới đồng loạt xung phong.
Lúc Mẹ Maria còn đang chìm ngập trong đau khổ vì vắng mặt Thiên Chúa, bỗng Mẹ cảm thấy bị những cám dỗ rất lạ xông đánh, muốn lôi kéo Mẹ rất xa khỏi những tư tưởng thánh đức cao cả tuyệt vời khôn tả của Mẹ. Không thể hiểu được tâm hồn rất trong trắng của Mẹ phải khổ sở vì chước quái ấy đến đâu. Rắn già thấy Mẹ sầu não khóc lóc, nó vội kết luận rằng chước quỉ quyệt của nó đã tiến bộ. Nhưng tất cả đều uổng công: Người ta càng đập vào một viên đá cứng rắn, viên đá càng nẩy lửa. Mẹ Maria là một viên đá kiên cố với những nhân đức tuyệt vời, nên những đợt tấn công của quỉ dữ càng mạnh, càng làm bắn thêm ra những khối lửa tình yêu mến Chúa nóng hổi. Vừa bị chói mắt, vừa bẽ mặt, vừa náo động, vừa căm giận, Satan thất vọng không thể thắng được một Nữ Nhi non nớt. Giữa những cám dỗ rất nhiều rất mạnh ấy, Mẹ Maria không hề mất bình tĩnh và thản nhiên. Linh hồn Mẹ vẫn cố định trên những tầng trời cao thẳm, rút ra từ những kinh nguyện liên lỉ một sức kháng cự vô địch.
Nhưng Satan không sao nhẫn nhục được với cuộc thất bại vừa chịu. Nó lại bắt đầu môn giảo quyệt của nó qua trung gian những thiếu nữ đồng tu với Mẹ để mưu hại Mẹ. Nó nhóm lên trong lòng các cô một ngọn lửa ganh ghét căm hờn, đến nỗi các cô nhỏ đó đồng ý nhau hành hạ Đức Nữ Maria. Các cô xúm nhau buông lời nặng nhẹ chê bai, nói xấu Đức Maria đủ thứ. Cứ hễ gặp Maria đâu là các cô xỉa xói, chua cay. Các cô hùa nhau xử với Mẹ rất tàn nhẫn, buộc tội cho Mẹ là kẻ gây xáo trộn, kẻ giả hình, kẻ đưa điều, báo cáo ton hót với bề trên. Trước những sỉ vả bêu riếu đó, Mẹ vẫn khiêm nhượng tự nhận là kẻ hèn hạ nhất.
Các cô nói thẳng vào mặt Mẹ là trước mặt các cô, Mẹ chỉ là một con quỉ con thôi. Trước những sỉ vả beêu riếu đó, Mẹ vẫn khiêm nhượng trả lời: “Các chị đối xử với em như vậy là phải lắm. Em đúng là một kẻ hèn hạ nhất. Xin các chị tha cho em, và chỉ bảo cho em để từ nay, em làm vui lòng các chị hơn. Các chị đừng thôi thân ái với em. Em rất muốn thân ái với các chị, em vẫn tôn trọng, vẫn yêu thương các chị lắm. Các chị cứ ra lệnh cho em như tôi tớ các chị, em xin vâng lời các chị tất cả”.
Những lời lành đó không uốn mềm được cõi lòng chai cứng của những cô nhỏ đáng thương kia. Bị rắn già hỏa ngục xúi bẩy, tiêm nọc độc căm phẫn của nó vào, các cô dám mưu giết chết Mẹ cho rảnh. Nhưng Thiên Chúa không cho phép các cô thi hành những ý định đen tối dại dột đó.
Nhưng chưa hết đâu. Nhiều ngày sau, những cô nhỏ cuồng tín đáng thương ấy, say niềm phẫn nộ, kéo Đức Nữ Nhi Maria vào một phòng kín đáo xa Đền Thờ nhất. Ở đó, nghĩ mình được hoàn toàn tự do, các cô tha hồ rủa sả, nhục mạ Mẹ cho thỏa mối hờn thâm gan tím ruột, mong làm sao Mẹ hết nhẫn nại hiền từ, tỏ một vẻ tức giận nào ra cho hả. Nhưng không thể Mẹ Maria lại làm nô lệ cho một khuyết điểm nào dầu một phút một giây, Mẹ cứ nhẫn nhục vô địch, vì lúc đó là lúc cần nhẫn nhục nhất. Nổi tam bành vì không đạt được mục đích quá nham hiểm ấy, các cô vừa xô vào vừa đánh đập vừa la lối om xòm.
Tiếng ồn ào mắng nhiếc vang tới tận Đền Thờ. Các cô giáo và tư tế bèn chạy đến ngay, hỏi xem duyên cớ. Thế là các cô đồng thanh lớn tiếng tố cáo Maria, đổ mọi tội lỗi lên đầu Mẹ: Nào là con nhỏ Maria Nagiarét rất khó nết, tính nó kỳ quặc không ai chịu nổi. Nào là không thể chung sống với nó được, cứ hễ vắng mặt thầy cô là nó chửi bới chúng con. Nào là nó không lúc nào để chúng con yên tâm học hành, chỉ phá phách chọc nhạo mọi người. Nào là nó kiêu căng hợm hĩnh, phách lối làm tàng: Có trách bảo nó, nó lại lên mặt bà cụ non, sấp mình xuống đất, giả bộ khiêm nhượng xin lỗi, nhưng rồi chứng nào tật ấy. Nào là con quỉ con Maria còn đưa điều, ăn không nói có, làm rộn chúng con không còn ai tin ai nữa. Thôi thì đủ thứ tội mà các cô có thể tưởng tượng ra. Lời các cô quả quyết làm cho các tư tế bị lừa.
Các ông dẫn Mẹ vào một căn phòng gần đó, quở trách và đe đuổi Mẹ ra khỏi Đền Thờ, nếu không chịu sửa mình. C3m động sa nước mắt, Mẹ trả lời: “Kính thưa các thày, con xin cám ơn các thày đã sửa mắng con. Con yếu đuối quá, xin các thày tha cho con. Xin các thày chỉ bảo cho con biết cách từ nay làm đẹp lòng Chúa và chị em con hơn”.
Các tư tế còn quở trách Mẹ ít điều nữa, rồi cho Mẹ đi. Mẹ đến gặp các bạn, sấp mình xuống dưới chân họ, khóc lóc xin họ tha thứ. Họ cũng tiếp nhận họ một cách hiền hòa hơn, ngờ là Mẹ khóc vì phải phạt, vì bị thày cô trách mắng. Tưởng mình đã gây được ảnh hưởng nơi các tư tế, các cô tiếp tục cố gắng nghĩ mưu mô hủy diệt tâm tình ưu ái thày cô từng có đốùi với Đức Nữ Maria. Do mưu quỉ lừa dối, các cô ngụy tạo nhiều chứng cớ gian manh để làm các tư tế và các cô giáo quở phạt Mẹ nhiều lần hơn nữa.
Nhưng điều làm Mẹ phiền não tê tái là cứ tiếp tục vắng mặt Chúa mãi. Các tư tế và cô giáo đã được Chúa giác ngộ, không còn tin lời vu khống của các nhi nữ, nên các cô nhỏ ấy dần dần bỏ cuộc, không bắt nạt Mẹ nữa. Nhưng một điều rất lạ lùng là Chúa kéo dài sự vắng mặt của Ngài đối với Mẹ trong mười năm trời. Mẹ phải chịu sự vắng mặt Chúa và thiên thần này tám ngày trước khi Thánh Gioakim giã thế, tức hồi Mẹ lên ba tuổi rưỡi, cho đến lúc Mẹ được mười hai tuổi, tức là tới khi thân mẫu của Mẹ qua đời. Tính ra là mười năm.
Đức Mẹ đã nhờ lòng tin mà tin, thì cũng nhờ lòng tin mà thụ thai
(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 21/11)
Trích bài giảng của thánh Âu-tinh, giám mục.
Tôi xin anh em hãy để ý xem Chúa nói gì khi Người giơ tay chỉ các môn đệ : Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi. Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã không thi hành ý muốn của Chúa Cha sao ? Người là đấng đã nhờ lòng tin mà tin, thì cũng nhờ lòng tin mà thụ thai ; Người được chọn để nhờ Người, Đấng cứu độ chúng ta ra đời ; Người được Đức Ki-tô tạo thành trước khi Đức Ki-tô được tạo thành nơi Người. Đức Ma-ri-a đã thi hành, hoàn toàn thi hành ý Chúa Cha ; vì thế, đối với Người, làm môn đệ của Đức Ki-tô thì quan trọng hơn là làm Mẹ của Đức Ki-tô. Mẹ càng sung sướng vì được làm môn đệ của Đức Ki-tô hơn là vì được làm Mẹ của Đức Ki-tô. Vậy, Đức Ma-ri-a được hạnh phúc vì đã cưu mang Thầy trước khi sinh ra Thầy.
Bạn hãy xem tôi nói có đúng không. Khi Chúa cùng đi đường với đám đông và làm phép lạ thì một bà nói : Sung sướng thay người mẹ đã cưu mang Thầy ! Phúc thay người mẹ đã cưu mang Thầy ! Nhưng, để người ta đừng tìm sung sướng theo lẽ tự nhiên, thì Chúa đã trả lời ra sao ? Đúng hơn phải nói rằng : Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Do đó, Đức Ma-ri-a diễm phúc vì đã nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa ; Người gìn giữ sự thật trong tâm trí hơn là cưu mang xác phàm trong lòng. Đức Ki-tô là sự thật, Đức Ki-tô là xác phàm : là sự thật, Đức Ki-tô ở trong tâm trí Đức Ma-ri-a ; là xác phàm, Đức Ki-tô ở trong lòng Đức Ma-ri-a. Việc Đức Ki-tô ở trong tâm trí Mẹ thì quan trọng hơn việc Người ở trong lòng Mẹ.
Đức Ma-ri-a thánh thiện, Đức Ma-ri-a diễm phúc, nhưng Hội Thánh còn hơn Đức Ma-ri-a. Vì sao ? Thưa vì Đức Ma-ri-a là một thành phần của Hội Thánh, là một chi thể thánh, chi thể cao trọng, chi thể tuyệt vời, nhưng vẫn là một chi thể của toàn thân. Nếu Người thuộc về toàn thân, thì chắc chắn thân mình phải hơn một chi thể. Đầu của thân thể là Chúa nhưng Đức Ki-tô toàn thể gồm đầu và thân mình. Tôi phải nói gì đây ? Chúng ta có vị thần linh là đầu, chúng ta có Thiên Chúa là đầu.
Vậy, anh em thân mến, xin anh em để ý : anh em vừa là chi thể của Đức Ki-tô, vừa là thân mình Đức Ki-tô. Hãy để ý xem anh em là thế nào mà Chúa lại nói : Đây là mẹ tôi, là anh em tôi. Anh em là mẹ Đức Ki-tô thế nào ? Thưa : Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi. Tin tôi đi, tôi hiểu thế nào là anh em, là chị em của Đức Ki-tô : bởi vì chỉ có một gia sản, do đó, vì lòng thương xót, Đức Ki-tô, tuy là Con Một, đã không muốn chỉ mình được hưởng, nhưng muốn chúng ta được làm kẻ thừa tự của Chúa Cha và đồng thừa tự với Đức Ki-tô.
Lạy Chúa, ngày hôm nay chúng con họp mừng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a vinh hiển, cúi xin Chúa nhậm lời Người chuyển cầu mà ban cho chúng con được dư đầy ơn phúc. Chúng con cầu xin