Chúa Nhật
Năm C
LỄ ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ
(Lễ trọng)
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: 2 Sm 5,
1-3
"Họ xức dầu phong Ðavít làm vua
Israel".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, toàn thể chi tộc
Israel đến cùng Ðavít tại Hebron mà nói rằng: "Ðây chúng tôi là cốt nhục của
ngài. Nhưng từ trước đến giờ, khi Saolê đang làm vua chúng tôi, thì chính
ngài đã dẫn dắt Israel. Và Chúa đã nói với ngài rằng: 'Chính ngươi sẽ chăn
dắt Israel dân Ta, và sẽ trở nên thủ lãnh Israel'".
Vậy tất cả các vị kỳ lão Israel đều
đến tìm nhà vua tại Hebron, và tại đó, vua Ðavít ký kết với họ một giao ước
trước mặt Chúa. Họ liền xức dầu phong Ðavít làm vua Israel.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 121,
1-2. 3-4a. 4b-5
Ðáp: Tôi
vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa" (c. 1).
Xướng: 1) Tôi vui mừng khi người ta
nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi
đang đứng nơi cửa thành rồi. - Ðáp.
2) Giêrusalem được kiến thiết như
thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ
lạc của Chúa tiến lên. - Ðáp.
3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi
khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Ðavít. -
Ðáp.
Bài Ðọc II: Cl 1,
12-20
"Người đã đem chúng ta về Nước Con
yêu dấu của Người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín
hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, chúng ta hãy cảm tạ
Chúa Cha, Ðấng đã làm cho anh em xứng đáng lãnh phần gia nghiệp các thánh
trong ánh sáng. Chúa đã cứu chúng ta thoát khỏi quyền lực u tối, đem chúng
ta về nước Con yêu dấu của Chúa, trong Người chúng ta được ơn cứu rỗi nhờ
máu Người, và được ơn tha tôi.
Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô
hình, là trưởng tử mọi tạo vật; vì trong Người, muôn loài trên trời dưới đất
đã được tác thành, mọi vật hữu hình và vô hình, dù là các Bệ thần hay Quản
thần, dù là Chủ thần hay Quyền thần: Mọi vật đã được tạo thành nhờ Người và
trong Người. Và Người có trước mọi loài, và mọi loài tồn tại trong Người.
Người là đầu thân thể tức là Hội
thánh, là nguyên thuỷ và là trưởng tử giữa kẻ chết, để Người làm bá chủ mọi
loài. Vì chưng Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người, và Thiên
Chúa đã giao hoà vạn vật nhờ Người và vì Người; nhờ máu Người đổ ra trên
thập giá, Thiên Chúa ban hoà bình trên trời dưới đất.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mc 11, 10
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðấng
nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước Ðavid tổ phụ chúng ta đã đến. -
Alleluia.
Phúc Âm: Lc 23,
35-43
"Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài,
xin nhớ đến tôi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, các thủ lãnh cùng với dân
chúng cười nhạo Chúa Giêsu mà rằng: "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu
mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn". Quân lính
đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là vua dân
Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi". Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ
Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người Này Là Vua Dân Do Thái".
Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh
trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu
ông và cứu chúng tôi nữa". Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng
một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích
đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn ông này, ông có
làm gì xấu đâu?" Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước
Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay,
ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Lời Chúa
sự
sống vương
giả
Chủ đề
sự sống của Mùa Phục Sinh đã đạt
tới tột đỉnh ở Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, Chúa Nhật Trọng Kính Chúa Giêsu
Kitô Vua, thời điểm kết thúc cho bất cứ phụng
niên nào, dù
là chu kỳ A, B hay C.
Thật vậy, nếu Chúa
Kitô "là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25), (lưu ý Chúa Kitô
xưng Người là "sự sống lại" trước và là "sự sống" sau) thì
quả thực Người "là sự sống lại" khi Người
phục sinh vào ngày thứ ba từ
trong kẻ chết. Bởi
vì Người chính "là sự sống" bất tử không thể nào bị sự chết làm chủ
và tiêu diệt.
Thế nhưng,
cho dù Cuộc Vượt Qua của Chúa
Kitô 2
ngàn năm trước đã
hoàn toàn thắng được sự dữ nơi thân xác bị giết chết nhưng sống lại của
Người, trong
một thế giới càng ngày càng văn minh về khoa
học và càng văn hóa về nhân
bản nhân quyền
chưa từng thấy, như giai đoạn lịch sử từ giữa thế
kỷ 20 sang đầu hơn
một thập kỷ của thiên
kỷ thứ 3 hiện nay cho
thấy, sự dữ
lại càng gia
tăng hơn bao giờ hết, như thể con rồng sau một ngàn năm bị xiềng lại, bởi
sợi giây xích khổng lồ là quyền lực cứu độ của Thánh Giá Chúa Kitô tử nạn, đã được
thả ra trong một
thời gian ngắn, như Sách Khải Huyền đã tiết lộ (20:1-3).
Trong thời gian ngắn
vớt vát còn lại này
của mình, con
rồng đã vận dụng tất cả quyền lực chết chóc độc hại nhất và dữ
dội nhất của
hắn và từ hắn, để tàn phá cho bằng được công ơn cứu chuộc vô giá của Chúa
Giêsu Kitô nơi từng Kitô hữu cũng như nơi chung Giáo Hội, những đối
thủ chính yếu của nó và là mục tiêu tấn công quyết liệt của nó, qua
hai đạo quân hùng
hậu gog và
magog, (như ám chỉ trào lưu ồ ạt chủ nghĩa duy nhân bản và tương đối vô cùng
lợi hại đang chi phối tâm thức và đời sống của loài người hiện nay), đông
như cát biển "đã xâm chiếm toàn cõi xứ sở (ám chỉ thế giới) và
công hãm thành đô yêu dấu là nơi dân Chúa cắm trại (ám chỉ Giáo Hội)", như
Sách Khải Huyền ghi lại
(20:8-9).
Phải chăng chiến
dịch toàn cầu hóa về kinh tế theo chiều hướng chính trị để làm sao có thể
dần dần đế
quốc hóa tất
cả mọi nền văn
hóa của các
dân nước, cũng như biến đổi hoàn toàn nền luân
lý chân chính
của lệ luật Thiên Chúa, thành những gì là tự nhiên lăng loàn của bản tính
nhiễm lây nguyên tội trên
thế giới hiện nay, hình
như đang
hiện thực hóa mưu đồ
lịch sử (conspiracy of history) của hội kín thợ xây trật tự thế giới mới
tam điểm, cho vương
quốc của satan trị đến trong lòng người và lịch sử?!
Phải, cho tới khi
con rồng đã tung ra tất cả quyền lực độc dữ nhất của nó thì cũng chính là
lúc sự dữ hết thời, và hoàn toàn bị tận diệt bởi chính Đấng "được toàn
quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18), khi Người "là sự sống"
vĩnh hằng bất tận tái xuất hiện trong vinh quang với tư cách là Thẩm Phán
Chí Tôn "để phán xét kẻ sống và kẻ chết", Đấng được
Tiên Tri Đaniên trong Bài Đọc 1 Năm B báo trước vương quyền
thống trị bất diệt của Người:
"Trong một thị kiến ban đêm (theo người
viết thời điểm "ban đêm" ở đây ám chỉ tình hình nhân gian và Giáo Hội trước
khi Chúa Kitô tái giáng),
tôi đã ngắm nhìn, và đây tôi thấy như Con Người đến trong đám mây trên trời,
Ngài tiến đến vị Bô Lão ("Vị
Bô Lão" ở đây theo người viết có thể ám chỉ Chúa Cha),
và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị nầy ban cho Ngài quyền
năng, vinh dự và vương quốc: tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều
phụng sự Ngài; quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị
cất mất; vương quốc của Ngài không khi nào bị phá hủy".
Thị kiến của
Tiên Tri Đaniên về
Con Người lãnh nhận vương quyền thống trị đến muôn đời
tất cả loài người
là loài tạo vật được Người cứu chuộc, đã được phụ họa và âm vang trong
Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai; Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt
long đai.
2) Và Ngài giữ
vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn
thuở, tự đời đời vẫn có Chúa.
3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin, lạy Chúa, sự thánh thiện là của
riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn thuở.
Đúng thế, sự kiện
Chúa Kitô "là sự sống" bất diệt và bất tận xuất
hiện lần thứ hai không
phải chỉ để tận diệt sự dữ, mà
trước hết và trên hết là để tỏ hết mình ra trên thế gian này, như thể tạo
vật được Thiên Chúa dựng nên đã đến thời viên mãn của mình nơi Người, nhờ
Người và với Người. Bấy giờ, khi Người tái xuất hiện, Người tỏ mình ta với
tư cách là một Vị Con Thiên Chúa hằng sống bất diệt, qua nhân tính hiển linh
cùng với thân xác phục sinh của Người, và như thế, Người như ánh sáng sự
sống cuối cùng xua
tan bóng tối sự dữ cho đến
muôn đời,
hoàn toàn
không bao giờ còn sự dữ nữa, như Sách Khải Huyền tiên bào về một Tân Thành
Thánh Giêrusalem
"không còn đêm" (22:5), vì "trời
trước và đất trước đã qua đi" (21:1).
Chiều hướng trên đây về
lần đến cuối cùng đầy vinh quang rạng ngời vinh thắng của
Chúa Kitô "Con Thiên
Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16; Gioan 11:27), Đấng cuối cùng đã tỏ mình
ra hoàn toàn đúng với phẩm chức thần linh và quyền năng tối cao của Người, được
Sách Khải Huyền tiên báo nơi Bài Đọc 2 Năm B như thế này:
"Chúa
Giêsu Kitô, là chứng tá trung thành, là trưởng tử kẻ chết, là thủ lãnh các
vua trần thế, là Ðấng đã yêu thương chúng ta, Người đã dùng máu Người mà rửa
chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư
tế của Thiên Chúa, Cha của Người. Nguyện chúc Người được vinh quang và quyền
lực muôn đời. Amen. Kìa,
Người đến trong đám mây, mọi con mắt đã nhìn thấy Người, và cả những kẻ đã
đâm Người cũng nhìn thấy Người, các chủng tộc trên địa cầu sẽ than khóc
Người. Thật như vậy. Amen. Chúa
là Thiên Chúa, Ðấng đang có, đã có, và sẽ đến, là Ðấng Toàn Năng phán: 'Ta
là Alpha và Ômêga, là nguyên thuỷ và là cứu cánh'".
Trong cuộc
khổ nạn của mình, Chúa
Kitô sẽ Tái Giáng vinh quang, vào lúc ấy, trước hết, mới chỉ tỏ mình ra như
là một con người bị lép vế trước quyền bính thế gian, bị quyền lực thế gian
bắt giữ và bị hành hạ cùng sát hại như một tên đại
tử tội
hoàn toàn bất
lực và vô cùng nhục nhã.
Thế nhưng, sự dữ và
quyền lực sự dữ vẫn không làm gì được Người, Đấng "là sự
sống", Đấng
"tự ý bỏ mạng sống mình đi rồi có quyền lấy lại mạng sống của mình"
(Gioan 10:18). Trái
lại, Người đã thắng được sự dữ nơi sự chết bị Người tiêu diệt bởi "sự
sống lại" của Người hay bởi Người "là sự sống lại". Thậm chí nhờ
sự dữ Người phải chịu cả trong tâm hồn lẫn thể xác mà Người đã cứu được con
người, trước hết và trên hết, khỏi sự dữ về luân lý là tội lỗi của họ,
nhờ đó họ khỏi bị chết đời đời là sự dữ trên hết mọi sự dữ.
Người quả thực là
vua cai trị mọi sự, dù trải qua cuộc khổ nạn và tử giá. Do đó,
không phải tự nhiên mà viên tổng trấn dân ngoại tự nhiên có linh cảm Người
là một nhân vật đặc biệt, mang phong cách oai nghi vương giả, chứ không phải
là một nhân vật tầm thường mà ông đã từng gặp, qua câu hỏi"ngài từ đâu
tới" (Gioan 19:9), dù theo
nhân vật cầm quyền sinh tử của Người bấy giờ thì Người chỉ là "Vua
Dân Do Thái" (Luca 23:38) chư
hầu của đế quốc Rôma.
Tuy nhiên, theo
Phúc Âm của Thánh ký Gioan được Giáo Hội chọn đọc thay cho Phúc Âm Thánh ký
Marco Chu Kỳ Năm B, Chúa Kitô đã tự đính chính bằng câu trả lời rất chính
xác cho vấn đề được Viên Tổng Trấn Philato ấy đặt ra hỏi Người "Ông
có phải là Vua dân Do-thái không?" rằng: "Nước
tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì
những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái,
nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này". Nghĩa
là vương quốc của Chúa Kitô là vương quốc của Thiên Chúa, vương quốc tối cao
của lòng người, và bất diệt vượt
trên mọi vương quốc hữu hạn trên trần gian này.
Thật ra, tự
mình là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô đã là vua, nhưng
nơi nhân tính của mình, Người cần phải chứng thực hay tỏ mình ra Người
thực sự bẩm
sinh là
vua, (như khi
mới sinh ra Người đã được 3 vương chiêm tinh gia đến bái thờ - Mathêu
2:1-12), một đức
vua trên hết mọi vua chúa trên trần gian này, một đức vua muôn đời, đúng
như Người đã trả lời cho câu chất vấn của Tổng
Trấn Philatô: "Vậy
ông là Vua ư?": "Chính
quan là người đã nói tôi là vua - It is you who say I am a king. Tôi
sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc
về Chân lý thì nghe tiếng Tôi".
Trong câu
khẳng định có tính cách gián tiếp này của Chúa Kitô Vua, Người không tự mình
xưng là vua, và không bao giờ Người tự xưng mình như thế, vì đụng đến chính
trị, tức đụng đến chính quyền đế
quốc Rôma cũng như đến quận vương Hêrôđê ở Galilêa, cũng
như Người đã không bao giờ tự xưng Người là Đấng
Thiên Sai - Messiah, vì
Người tránh đụng đến giáo quyền Do Thái, mà
chỉ công nhận qua việc đáp ứng
của Người mà thôi,
như Người đã công
nhận lời của phụ
nữ Samaritanô ở Giếng Giacóp về
tư cách của Người (xem
Gioan 4:25-26), hay như
Người đã công
nhận lời truyền lệnh của giáo
quyền Do Thái giáo hỏi
Người xem Người có phải là Đấng Thiên Sai hay
chăng (xem
Mathêu 26:63-64): "Chính
ngài là người nói thế... It
is you who say it".
Cũng trong
câu khẳng định gián tiếp với viên quan tổng trấn Philatô ấy, Chúa Kitô còn
liên kết vai trò làm vua của Người với chân lý nữa: "Tôi
sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc
về Chân lý thì nghe tiếng Tôi".
Nếu Chúa Kitô
chính "là chân lý" (Gioan 14:6) thì Người "sinh
ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về" chính
bản thân Người "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu
16:16), ai tin Người hay "chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm
con Thiên Chúa" (Gioan 1:12). Đó là lý do "Nước tôi không thuộc
về thế gian này" mà
một vương quốc của "sự sống", sự sống đời
đời, vĩnh
viễn tồn
tại như chính "Chân Lý" bất biến.
Người quả
thực là "một người quí tộc kia đi phương xa để được phong vương" như
Người đã tiên báo cho các môn đệ và đám đông đi theo Người trong cuộc hành
trình Giêrusalem
của Người,
như bài Phúc Âm của Thánh ký Luca Thứ Tư Tuần XXXIII Thường Niên tuần trước
(19:12). Theo bài Phúc Âm này, cho
dù dân Do
Thái của Người không chấp nhận Người là vua của họ (xem Luca 19:14, Gioan
19:15,20-22), nhưng họ chẳng những vẫn
không làm gì được Người mà
còn bất ngờ làm cho Người trở thành
vua của toàn thể nhân loại nữa: "Người đã được phong
vương trở
về" (Luca 19:15), theo chiều
hướng của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật cuối cùng của Phụng Niên trọng kính Chúa
Kitô Vua.
Tóm lại, ý nghĩa của Lễ Chúa Vua được Giáo Hội cố ý đặt vào Chúa Nhật cuối
cùng của mỗi phụng niên là ở chỗ: Người là Đấng chẳng những có toàn quyền
năng (all powerful) có thể giải thoát con người (kể cả các vua chúa và đế
vương trong lịch sử loài người) khỏi tội lỗi và sự chết, như bài Phúc Âm của
Thánh ký Luca cho năm C cho thấy, liên quan đến phần rỗi của người trộm
lành, mà còn có cả tối thẩm quyền (supreme/ultimate authority) để phán xét
và thưởng phạt nhân loại (kể cả các vua chúa và đế vương trong lịch sử loài
người), như bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Năm A cho thấy, liên quan
đến biến cố chung thẩm.
Quyền năng cứu độ và thẩm quyền phán xét này nơi Chúa Kitô là ở chỗ Người
chính "là chân lý" (Gioan 16:4), Đấng "được sinh ra và đến thế
gian để làm chứng cho chân lý", như bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan Năm
B cho thấy, một Chân Lý như "ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12) "chiếu
soi trong tăm tối" (Gioan 1:5) và xua tan bóng tối tội lỗi và sự chết
nơi loài người, một ánh sáng sự sống hoàn toàn được sáng tỏ khi Người tái
giáng trong vinh quang như một thẩm quyền tối thượng "để phán xét kẻ
sống và kẻ chết".
Và quyền năng cứu độ này được tỏ ra hơn bao giờ hết ở ngay trên thập tự
giá, điển hình nhất đối với người trộm lành, một tên trộm sau cả một cuộc
đời sống gian dối trộm cướp đã may mắn gặp được chính Đấng "là Vua Dân Do
Thái" (như hàng chữ tuyên bố do tổng trấn Philato ra lệnh gắn trên thập giá
của Chúa Giêsu), đã nhận biết Ngài và ngỏ lời cùng Ngài rằng: "Lạy Ngài,
khi nào Ngài về nước của Ngài thì xin Ngài hãy nhớ đến tôi", và anh ta
đã quả thật cướp được cả Nước Trời một cách tài tình đầy ngoạn mục: "Ta
bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta"..
Là Kitô hữu,
chúng ta, qua Phép Rửa, đã được thông
phần vào thiên chức vương đế, ngôn sứ và tư tế của Chúa Kitô và với Chúa
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Chúng ta đã sống thế nào với thiên chức
vương đế bởi
chúng là là con Thiên Chúa này
của mình: chúng
ta có
làm chủ mọi sự hay chăng với tư cách là những dưỡng tử của Thiên Chúa, hay
vẫn sống đời nô lệ cho tội lỗi, cho thần dữ, cho thế gian, xác thịt?
21/11
Lễ Đức Mẹ Dâng Mình vào Đền Thánh
i ấy, Đức Giê-su còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em
của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người. 47 Có
kẻ thưa Người rằng : “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng
ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy.” 48 Người
bảo kẻ ấy rằng : “Ai là mẹ tôi ? Ai là anh em tôi ?” 49 Rồi
Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói : “Đây là mẹ tôi, đây là anh
em tôi. 50 Vì
phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người
ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.”
Theo truyền thống Do Thái, người ta thường
dâng con trẻ vào đền thờ để được thánh hiến và sau đó con trẻ sẽ ở
trong đền thờ một thời gian giúp việc các vị chủ tế... Phúc Âm không
đề cập đến thời thơ ấu của Ðức Trinh Nữ Maria. Nhưng theo Thánh
Truyền thì Ðức Mẹ cũng đã thi hành tập tục nói trên. Tại đền thánh
Giêrusalem, ngài đã thực hành biết bao hy sinh với một tâm hồn quảng
đại.
Mười hai năm suy gẫm và cầu nguyện, chính
là thời gian chuẩn bị cho chức vụ Mẹ Thiên Chúa. Theo thánh
Hiêronimô, chương trình ngày sống của Ðức Mẹ trong đền thờ được phác
họa như sau: Từ hừng đông đến 9 giờ sáng, Ngài cầu nguyện; từ 9 giờ
sáng đến 3 giờ chiều, Ngài làm việc chân tay và sau đó ngài lại cầu
nguyện, sốt sắng suy gẫm Thánh Kinh và siêng năng đọc Thánh Vịnh.
Ngày lễ Mẹ dâng mình như bước đầu dẫn tới
Ðức Khiết Tịnh Kitô giáo. Sau Ngài, biết bao trinh nữ đã tận hiến
toàn thân cho Thiên Chúa. Vì thế Mẹ Maria thực là gương mẫu bất
diệt, là Ðấng bảo trợ nhiệt thành và là Ðấng hướng dẫn chắc chắn
trên đường nhân đức vậy.
Đức Mẹ đã nhờ lòng tin mà tin, thì cũng nhờ lòng tin mà thụ
thai
Trích bài giảng của thánh Âu-tinh, giám mục.(sermo 25, 7-8; PL
46, 937-938. Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh cho
Giờ Kinh Sách ngày Lễ Mẹ Dâng Mình 21/11)
Tôi xin anh em hãy để ý xem Chúa nói gì khi Người giơ tay chỉ
các môn đệ : Đây
là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha
tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.
Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã không thi hành ý muốn của Chúa Cha sao ?
Người là đấng đã nhờ lòng tin mà tin, thì cũng nhờ lòng tin mà
thụ thai ; Người được chọn để nhờ Người, Đấng cứu độ chúng ta ra
đời ; Người được Đức Ki-tô tạo thành trước khi Đức Ki-tô được
tạo thành nơi Người. Đức Ma-ri-a đã thi hành, hoàn toàn thi hành
ý Chúa Cha ; vì thế, đối với Người, làm môn đệ của Đức Ki-tô thì
quan trọng hơn là làm Mẹ của Đức Ki-tô. Mẹ càng sung sướng vì
được làm môn đệ của Đức Ki-tô hơn là vì được làm Mẹ của Đức
Ki-tô. Vậy, Đức Ma-ri-a được hạnh phúc vì đã cưu mang Thầy trước
khi sinh ra Thầy.
Bạn hãy xem tôi nói có đúng không. Khi Chúa cùng đi đường với
đám đông và làm phép lạ thì một bà nói : Sung
sướng thay người mẹ đã cưu mang Thầy ! Phúc thay người mẹ đã cưu
mang Thầy ! Nhưng, để người ta đừng tìm sung
sướng theo lẽ tự nhiên, thì Chúa đã trả lời ra sao ? Đúng
hơn phải nói rằng : Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên
Chúa. Do đó, Đức Ma-ri-a diễm phúc vì đã nghe và tuân giữ
lời Thiên Chúa ; Người gìn giữ sự thật trong tâm trí hơn là cưu
mang xác phàm trong lòng. Đức Ki-tô là sự thật, Đức Ki-tô là xác
phàm : là sự thật, Đức Ki-tô ở trong tâm trí Đức Ma-ri-a ; là
xác phàm, Đức Ki-tô ở trong lòng Đức Ma-ri-a. Việc Đức Ki-tô ở
trong tâm trí Mẹ thì quan trọng hơn việc Người ở trong lòng Mẹ.
Đức Ma-ri-a thánh thiện, Đức Ma-ri-a diễm phúc, nhưng Hội Thánh
còn hơn Đức Ma-ri-a. Vì sao ? Thưa vì Đức Ma-ri-a là một thành
phần của Hội Thánh, là một chi thể thánh, chi thể cao trọng, chi
thể tuyệt vời, nhưng vẫn là một chi thể của toàn thân. Nếu Người
thuộc về toàn thân, thì chắc chắn thân mình phải hơn một chi
thể. Đầu của thân thể là Chúa nhưng Đức Ki-tô toàn thể gồm đầu
và thân mình. Tôi phải nói gì đây ? Chúng ta có vị thần linh là
đầu, chúng ta có Thiên Chúa là đầu.
Vậy, anh em thân mến, xin anh em để ý : anh em vừa là chi thể
của Đức Ki-tô, vừa là thân mình Đức Ki-tô. Hãy để ý xem anh em
là thế nào mà Chúa lại nói : Đây
là mẹ tôi, là anh em tôi. Anh em là mẹ Đức Ki-tô thế nào ?
Thưa : Vì phàm
ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là
anh chị em tôi, là mẹ tôi. Tin tôi đi, tôi hiểu thế nào là
anh em, là chị em của Đức Ki-tô : bởi vì chỉ có một gia sản, do
đó, vì lòng thương xót, Đức Ki-tô, tuy là Con Một, đã không muốn
chỉ mình được hưởng, nhưng muốn chúng ta được làm kẻ thừa tự của
Chúa Cha và đồng thừa tự với Đức Ki-tô.
Việc
chọn lựa của Mẹ Maria tác động đức đồng trinh dâng hiến
(Bài
Giáo Lý Thánh Mẫu của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II - Bài 29
ngày 7/8/1996)
1- Ý muốn giữ sống đời của một trinh nữ,
được hiển nhiên nơi những lời của Mẹ Maria trong giây phút Truyền
Tin, theo truyền thống đã được coi là khởi điểm và là khởi động cho
đức đồng trinh Kitô giáo trong Giáo Hội.
Thánh Âu Quốc Tinh không thấy nơi quyết
định này việc hoàn tất của một chỉ thị thần linh mà là một lời khấn
tự do chọn lựa. Như thế việc chọn lựa này mới có thể cho thấy Mẹ
Maria là một mẫu gương cho “các kẻ đồng trinh” suốt giòng lịch sử
của Giáo Hội. Mẹ Maria “đã hiến dâng đức đồng trinh của mình cho
Thiên Chúa khi Mẹ chưa biết Đấng Mẹ sẽ thụ thai, nhờ đó hình ảnh của
đời sống thiên đình trong một thân xác trần gian chết chóc được thực
hiện bằng một lời khấn chứ không phải bằng một chỉ thị, nhờ việc
chọn lựa yêu thương chứ không phải bởi nhu cầu phục vụ” (De
Sancta Virg., IV, PL 40:398).
Vị Thiên Thần không yêu cầu Mẹ Maria sống
đời trinh nữ; chính Mẹ Maria tự ý tỏ ra ý hướng muốn giữ mình đồng
trinh của Mẹ. Việc chọn lựa yêu thương dẫn Mẹ đến chỗ hoàn toàn hiến
mình cho Chúa bằng một cuộc sống đồng trinh được tỏ hiện nơi sự dấn
thân này.
Khi nhấn mạnh đến tính chất tự động nơi
quyết định của Mẹ Maria, chúng ta không được quên rằng nguồn mạch
của hết mọi ơn gọi đều do Thiên Chúa khởi động. Bằng việc chọn sống
đời đồng trinh, người thiếu nữ thành Nazarét đáp ứng một tiếng gọi
nội tâm, tức là đáp ứng tác động của Thánh Linh đã soi sáng cho Mẹ
biết về ý nghĩa và giá trị của tặng ân đồng trinh nơi bản thân của
Mẹ. Không ai có thể chấp nhận tặng ân này mà lại không cảm thấy được
kêu gọi hay không lãnh nhận từ Thánh Linh ánh sáng và sức mạnh cần
thiết.
Mẹ Maria đã mạnh mẽ quyết định sống đồng
trinh
2- Mặc dù Thánh Âu Quốc Tinh sử dụng chữ
“khấn hứa” để tỏ cho những ai ngài gọi là “các trinh nữ thánh” mẫu
gương đầu tiên cho bậc sống của họ, Phúc Âm không chứng thực rằng Mẹ
Maria đã minh nhiên thực hiện lời khấn này, một hình thức tận hiến
và dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa là hình thức đã từng được thực
hiện từ các thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội.
Theo Phúc Âm chúng ta thấy rằng Mẹ Maria đã
thực hiện một quyết định cá nhân muốn sống đời trinh nữ, dâng hiến
tấm lòng của Mẹ cho Chúa. Mẹ muốn trở thành một hôn thê trung thành
của Ngài, hoàn trọn ơn gọi của Mẹ như một “nữ tử Sion”. Tuy nhiên,
bởi quyết định của mình, Mẹ trở nên mẫu thức cho tâá cả những ai
trong Giáo Hội muốn chọn việc dấn thân phục vụ Chúa bằng một tấm
lòng không chia sẻ nơi đức đồng trinh.
Không có một cuốn Phúc Âm nào hay bất cứ
một bản văn Tân Ước nào nói với chúng ta về thời điểm Mẹ Maria đã
quyết định sống đời trinh nữ. Tuy nhiên, câu Mẹ hỏi vị thiên thần
vào lúc Truyền Tin đã thật hiển nhiên cho thấy rằng Mẹ đã thực hiện
một quyết định rất mạnh mẽ. Mẹ Maria không ngần ngại bày tỏ lòng ước
mong của Mẹ muốn giữ đức đồng trinh này của mình ngay cả trước vai
trò làm mẹ được bày tỏ với Mẹ, cho thấy rằng ý nguyện của Mẹ đã chín
mùi từ lâu.
Thật vậy, việc Mẹ Maria chọn sống trinh
nguyên không được thực hiện trước một viễn ảnh không thể biết được
về việc trở nên Mẹ của Thiên Chúa, thế nhưng đã được phát triển
trong ý thức của Mẹ trước biến cố Truyền Tin. Chúng ta có thể cho
rằng khuynh hướng này bao giờ cũng hiện hữu trong long của Mẹ: ân
sủng đã sửa soạn cho Mẹ trở thành một trinh mẫu chắc chắn đã tác
dụng đến toàn thể cuộc phát triển về con người của Mẹ, trong khi đó
Thánh Linh không thôi tác động nơi Mẹ, từ những năm ấu thơ nhất của
Mẹ, ước muốn được hoàn toàn nên một với Thiên Chúa.
3- Những việc kỳ diệu ngày nay vẫn được
Thiên Chúa thực hiện trong tâm hồn và đời sống của rất nhiều giới
trẻ trước hết đã được hiện thực nơi linh hồn của Mẹ Maria. Ngay cả
trong thế giới của chúng ta đây, một thế giới bị phân tâm rất nhiều
bởi những thứ thu hút của một nền văn hóa thường nông nổi hời hợt và
hưởng thụ, vẫn có nhiều thanh thiếu niên chấp nhận lời mời gọi xuất
phát từ gương của Mẹ Maria để tận hiến tuổi trẻ của mình cho Chúa
cũng như cho việc phục vụ anh chị em của mình.
Quyết định này là sự chọn lựa những giá trị
cao cả hơn, hơn là việc từ bỏ những giá trị về nhân bản. Về vấn đề
này, trong Tông Huấn Marialis Cultus của mình, vị tiền nhiệm
khả kính Phaolô VI nhấn mạnh là bất cứ ai nhìn vào chứng từ của Phúc
Âm với một tâm trí cởi mở “sẽ cảm nhận rằng việc chọn lựa của Mẹ
Maria về tình trạng đồng trinh… không phải là một thứ loại trừ bất
cứ những giá trị của bậc sống hôn nhân mà là một chọn lựa can đảm
được Mẹ thực hiện để tận hiến bản thân mình trọn vẹn cho tình yêu
của Thiên Chúa” (số 37) ra sao.
Tóm lại, việc chọn sống đời đồng trinh được
tác động bởi lòng gắn bó trọn vẹn với Chúa Kitô. Điều này đặc biệt
hiển nhiên nơi Mẹ Maria. Mạc dù trước biến cố Truyền Tin, Mẹ không
nhận thức về nó, nhưng Thánh Linh đã tác động Mẹ việc tận hiến trinh
nguyên liên quan đến Chúa Kitô: Mẹ vẫn là một trinh nữ để tiếp nhận
Đấng Thiên Sai và là Đấng Cứu Thế bằng tất cả con người của Mẹ. Đức
đồng trinh đã bắt đầu nơi Mẹ Maria như thế cho thấy chiều kích tập
trung vào Chúa Kitô của nó, thiết yếu cho cả đức đồng trinh được
thực hành trong Giáo Hội, một đức đồng trinh mô phỏng theo gương mẫu
cao cả nơi Người Mẹ của Chúa Kitô. Nếu đức đồng trinh nơi bản thân
của Mẹ, được liên kết với vai trò làm mẹ thần linh, vẫn là một sự
kiện phi thường, thì nó cống hiến ánh sáng và ý nghĩa cho hết mọi
tặng ân trinh nguyên.
Đức đồng trinh tận hiến là nguồn mạch của
việc sinh hoa kết trái thiêng liêng
4- Biết bao nhiêu là nữ nhân trẻ
trung trong lịch sử Giáo Hội, khi chiêm ngưỡng thấy tính chất cao cả
và mỹ lệ nơi tâm hồn trinh nguyên của Mẹ Chúa Kitô, đã cảm thấy phấn
khởi trong việc quảng đại đáp ứng tiếng gọi của Thiên Chúa bằng cách
theo đuổi lý tưởng sống đồng trinh! “Như tôi đã nhắc đến trong Thông
Điệp Redemptoris Mater – Mẹ Đấng Cứu Chuộc, “Chính đức đồng
trinh này, theo gương của Vị Trinh Nữ Nazarét, là nguồn mạch của sự
phong phú thiêng liêng đặc biệt: nó là nguồn mạch của vai trò làm mẹ
trong Thánh Linh” (số 43).
Đời sống trinh nguyên của Mẹ Maria đã tác
động nơi toàn thể dân Kitô hữu niềm trân trọng tặng ân đồng trinh và
niềm ước muốn là nó cần phải gia tăng trong Giáo Hội như là một dấu
hiệu thượng quyền của Thiên Chúa trên tất cả mọi thực tại và như là
một thứ ngưỡng vọng tiên báo về một đời sống mai hậu. Cùng nhau,
chúng ta hãy cảm tạ Chúa cho những ai ngày nay vẫn còn quảng đại
hiến đời mình sống đồng trinh để phụng sự vương quốc của Thiên Chúa.
Đồng thời, trong khi ở các miền khác nhau
được phúc âm hóa lâu đời chủ nghĩa khoái lạc và chủ nghĩa hưởng thụ
dường như trở thành những rào cản cho nhiều giới trẻ trong việc theo
đuổi đời sống tận hiến, chúng ta cần phải gia tăng nguyện xin Thiên
Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, cho một cuộc triển nở mới về
ơn gọi tu trì. Nhờ đó, dung nhan của Người Mẹ Chúa Kitô, được phản
ảnh nơi nhiều trinh nữ đang nỗ lực theo Vị Thày thần linh, sẽ tiếp
tục trở thành dấu hiệu cho tình thương và lòng âu yếm của Thiên Chúa
đối với nhân loại.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh,
BVL,
Chuyển dịch từ L'Osservatore Romano Weekly
Edition in English 21/8/1996, trang 7.
Thứ
Hai
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Kh
14, 1-3, 4b-5
"Tên của Ðức Kitô và của Cha Người viết trên trán họ".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Tôi là Gioan, tôi ngắm nhìn: thì đây Con Chiên đứng trên núi Sion; cùng với
Con Chiên, có một trăm bốn mươi tư ngàn người mang tên của Con Chiên và tên
Cha Con Chiên viết trên trán họ. Tôi nghe có tiếng từ trời, như tiếng sóng
gầm nước đổ, như tiếng sấm vang rền, và tiếng tôi nghe tựa hồ như tiếng đàn
cầm do những người chơi đàn cầm gảy. Họ hát bài ca vãn mới trước toà và
trước mặt bốn sinh vật và các vị bô lão: ngoài một trăm bốn mươi tư ngàn
người đã được mua chuộc từ cõi đất, không một ai có thể hát bài ca vãn đó.
Hễ Con Chiên đi đâu, thì họ theo đó. Họ là những người được mua chuộc giữa
nhân loại, làm của đầu mùa dâng lên Thiên Chúa và cho Con Chiên. Miệng họ
không nói lời gian dối; họ cũng chẳng tì ố trước toà Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6
Ðáp: Ðó
là dòng dõi người tìm kiếm long nhan Thiên Chúa (c. 6).
Xướng: 1) Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và
muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Ngài xây dựng nó trên biển cả, và Ngài
giữ vững nó trên chỗ nước nguồn. - Ðáp.
2) Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Ngài?
Người tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù
hoa. - Ðáp.
3) Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ
ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm long nhan Thiên
Chúa nhà Giacóp. - Ðáp.
Alleluia: Lc 21,
36
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và
cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. -
Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21,
1-4
"Người thấy một bà goá nghèo khó bỏ vào đó
hai đồng tiền nhỏ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu nhìn lên, thấy những người
giàu có bỏ tiền dâng cúng vào hòm tiền. Người cũng thấy một bà goá nghèo khó
bỏ vào đó hai đồng tiền nhỏ, nên bảo rằng: "Thầy bảo thật các con, bà goá
nghèo khó này đã bỏ vào hòm tiền nhiều hơn mọi người. Vì mọi người kia lấy
của dư thừa mà dâng cho Thiên Chúa, còn bà này túng thiếu, bà đã dâng tất cả
những gì bà có để nuôi sống mình".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nguyện Lời Chúa
Một tí muôn vàn vĩ đại
Hôm nay, Thứ Hai Tuần XXXIV Thường Niên, Thánh ký Luca, qua các bài Phúc Âm
trong tuần cuối cùng của phụng niên này, tiếp
tục thuật
lại cho chúng ta biết những giáo huấn cuối cùng của Người ở Giêrusalem sau
khi trình thuật, qua các bài Phúc Âm tuần trước, là cuộc hành trình
Giêrusalem của Chúa Giêsu đã đạt đến đích điểm của nó là chính Thành Thánh
và Đền Thánh Giêrusalem.
Giáo huấn cuối cùng ở Giêrusalem tiếp
tục bài giáo huấn đầu tiên trong Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước về
sự sống lại, được Chúa
Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay muốn
dạy các môn đệ của Người liên
quan đến gương sống đức tin của một bà góa, một sự kiện cũng đã được Thánh
ký Marco thuật lại trong Bài Phúc Âm của Chúa Nhật XXXII Thường Niên. Hai
bài Phúc Âm về bà góa được đọc trong phụng vụ Lời Chúa này có nội dung giống
nhau, tuy Phúc Âm Thánh Marco có vẻ chi tiết hơn và dài hơn.
Chẳng hạn Thánh ký Marco còn thêm những chi tiết sau đây: 1- "Chúa
Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm",
chứ không phải chỉ "nhìn
lên, thấy những người giàu có bỏ tiền dâng cúng vào hòm tiền"
như Thánh ký Luca thuật lại; 2- "hai đồng tiền là một phần tư xu",
chứ không chỉ như Thánh ký Luca vắn tắt "hai
đồng tiền nhỏ";
3- "Người liền gọi các môn đệ và bảo", chứ không nói trống trống "nên
bảo rằng"
như Thánh Luca.
Ngoài ra, hai Thánh ký đều ghi lại nội dung giống nhau nơi lời nhận định và
huấn dụ của Chúa Kitô về sự kiện bà góa bỏ tiền này: 1- bà góa này bỏ nhiều
hơn hết trong những người bỏ tiền; 2- vì bà bỏ tất cả những gì bà có cho
dù đang túng thiếu, trong khi các người khác chỉ bỏ những của dư thừa của
họ.
Tuy nhiên, trong khi Phúc Âm theo Thánh ký Marco cho Chúa Nhật XXXII hình
như nhấn mạnh đến bà góa nghèo, thì Phúc Âm theo Thánh ký Luca hôm nay lại
liên quan đến người giầu hơn, căn cứ vào 2 chi tiết sau đây: 1- "Chúa
Giêsu nhìn lên, thấy những người giàu có bỏ tiền dâng cúng vào hòm tiền";
2- "lấy của dư thừa mà dâng cho Thiên Chúa". Ở Phúc Âm Thánh Marco
không có chi tiết "dâng cho Thiên Chúa" này.
Để tiếp tục chia sẻ bài Phúc Âm về bà góa này, bài đã được chia sẻ cho Chúa
Nhật XXXII: Phụng
Vụ Lời Chúa - Tuần XXXII Thường Niên Chu Kỳ B, hôm
nay, chúng ta cần giải quyết vấn đề là tại sao bà góa nghèo này đã trở thành
bài giáo huấn Giêrusalem thứ
hai (sau bài đầu ở Phúc Âm Thứ 7 tuần trước) trong các bài giáo huấn cuối cùng công
khai của Chúa Kitô? Xin thưa, có thể tại vì sự kiện này có liên hệ đến hai
sự kiện khác sau đây:
Thứ nhất là vì,
theo bài Phúc Âm của Thánh ký Marcô cho Chúa Nhật XXXII Thường Niên Năm
B, việc buôn bán lợi lộc trần gian của dân Chúa đã tục hóa Đền Thánh
Giêrusalem vốn là nơi linh thiêng, là nhà cầu nguyện, và đã biến Đền Thánh
này thành hang trộm cướp, và việc Chúa Giêsu thẳng tay thanh tẩy đền thờ
trong trường hợp này nhắm đến mục đích dạy cho cộng đồng dân Chúa bấy giờ,
bao gồm cả thành phần lãnh đạo, là phải kính mến Chúa là Thiên Chúa chân
thật duy nhất của họ hết mình và trên hết mọi sự. Cử chỉ và hành động bà góa
tỏ ra tin tưởng tôn kính Thiên Chúa hết mình và trên hết mọi sự, bằng
cách đã bỏ tất cả những gì mình có chính là tấm gương Chúa Kitô muốn nêu lên
và nhấn mạnh để chung mọi người và riêng môn đệ của Người noi theo bắt
chước.
Thứ hai là vì,
cuộc hành trình Giêurusalem của Chúa Kitô liên quan đến biến cố Người đến
lần thứ hai, với các dấu báo cùng biến động kinh hoàng khủng khiếp mà Người
khuyên các môn đệ của Người hãy tỉnh thức, nhất là đừng quyến luyến một sự
gì, như Người đã cảnh báo trong Bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần XXXII: "Trong
ngày đó, ai ở trên mái nhà có đồ vật trong nhà, thì chớ xuống lấy đi; và ai
ở ngoài đồng cũng đừng trở về. Các con hãy nhớ trường hợp vợ ông Lót. Ai lo
cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất sự sống mình thì giữ được nó".
Gương bà góa bỏ tiền vào hòm tiền trong Đền Thờ mà chẳng hề lo đến việc bảo
toàn mạng sống của bà không đáng là bài học Chúa muốn nhấn mạnh trong loạt bài giáo huấn cuối cùng của Người ở Giêrusalem hay sao?
Căn cứ vào lời khen tặng của Chúa Giêsu trước mặt các tông đồ của Người
trong bài Phúc Âm hôm nay, người đàn bà góa bỏ tiền trong đền thờ quả là một
trong "những người chơi đàn cầm" trong Bài Đọc 1 hôm nay, thành phần "trước
toà và trước mặt bốn sinh vật và các vị bô lão", trong các vị bô lão
này có 12 vị tông đồ, "hát bài ca vãn mới" mà "không một ai có
thể hát bài ca vãn đó, ngoài một trăm bốn mươi tư ngàn người đã được mua
chuộc từ cõi đất". Ngoài ra, chỉ có họ mới là thành phần có thể và xứng
đáng "Con Chiên đi đâu, thì họ theo đó. Họ là những người được mua chuộc
giữa nhân loại, làm của đầu mùa dâng lên Thiên Chúa và cho Con Chiên. Miệng
họ không nói lời gian dối; họ cũng chẳng tì ố trước toà Thiên Chúa".
Thật vậy, người đàn bà góa bỏ tiền trong Đền Thánh ở Bài Phúc Âm hôm nay,
đúng như câu họa chung của Bài Đáp Ca hôm
nay nhận định:
"Ðó là dòng dõi người tìm kiếm long nhan Thiên Chúa",
và được Thánh Vịnh 23 trong Bài Đáp Ca hôm nay diễn tả là người
"trèo lên cao sơn của Chúa, được đứng trong nơi thánh của Ngài. Người
tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa".
Bởi thế mà "Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là
Ðấng cứu độ ban ân thưởng".
Thánh Clêmentê ở Rôma
Giáo
Hoàng Tử Đạo
Người ta biết được về thánh Clêmentê, vị giáo hoàng trị vì trong 10 năm chỉ
nhờ bức "thư gởi giáo hữu Côrintô" thôi. Vào thế kỷ thứ IV có lưu hành những
chứng thư đầy huyền thoại. Theo đó, cha Ngài là Phaustin thuộc dòng dõi
Giacop. Sinh tại Roma, được nuôi dưỡng trong Do thái giáo.
Thánh Clêmentê đã nghe theo những diễn từ của các thánh tông đồ và trở thành
môn đệ các Ngài. Ngài đã theo thánh Phaolô trong các hành trình đi truyền
giáo và đã trở thành đấng kế vị thứ ba của thánh Phêrô. Vua Trajanô đang
bách hại các Kitô hữu biết được rằng: vị giáo hoàng đã đem được nhiều người
trở lại đạo. Ông kết án Ngài phải làm việc khổ sai tại các hầm mỏ bên kia
Bắc Hải, trong các miền hoang vắng. Hai ngàn Kitô hữu đẽo đá tại đây chịu
cảnh khát nước thảm khốc.
Tương truyền rằng thánh Clêmentê cầu nguyện rồi lên một ngọn đồi và thấy một
con chiên ghi dấu chân đúng vào chỗ có dòng nước tươi mát vọt lên làm giảm
khát cho người mang án. Các bức tranh cẩn đâu tiền còn diễn lại biểu tượng
một con chiên đứng trên ngọn núi xanh. Nhà vua khi biết được rằng thánh
Clêmentê đã dùng lời nói và phép lạ để an ủi các Kitô hữu, liền sai các sứ
giả tới cột cổ Ngài vào một cái neo rồi ném xuống biển. Lệnh đường thi hành.
Nhưng trong khi các tín hữu cầu nguyện trên bờ, họ thấy dòng nước rút đi một
cách lạ lùng và có thể đưa xác vị tử đạo lên đất liền.
Điều chắc chắn chính là bức thư của thánh Clêmentê đã thành một trong các
tài liệu quí giá của Kitô giáo thời Chúa xưa. Các Kitô hữu Côrintô chạy đến
Đức giáo hoàng để tìm hoà giải những cuộc tranh chấp, đã kính cẩn đón tiếp
thư của Ngài. Những thư này được đọc cho các cộng đoàn tín hữu. Thư của
thánh Clêmentê chứng thực việc thánh Phêrô đến và chịu chết ở Roma, việc
Nêrô bắt các Kitô hữu làm trò mua vui. Thư cũng gợi ý cho chúng ta việc tổ
chức Giáo hội. Giữa các sự việc lớn lao khác, thánh Clêmentê đã nói:
- "Ai mạnh hãy lo cho người yếu. Người giầu hãy giúp đỡ người nghèo và người
nghèo hãy chúc tụng Chúa và điều Ngài muốn cung ứng cho các nhu cầu của họ.
Người khôn ngoan hãy tỏ ra khôn ngoan không phải chỉ trong lời nói mà còn
trong các việc lành. Người khiêm tốn đùng nói gì về mình và đừng tìm phô
diễn hành động của mình. Người lớn không thể tồn tại mà không có người nhỏ
và người nhỏ cũng không thể tồn tại mà không có người lớn... Thân thể không
thể bỏ qua sự phục vụ của những chi thể nhỏ bé hơn.
Các tín hữu còn học biết bằng qua những âu lo vô ích và sống đời sám hối,
mỗi người phải biết vâng phục để trở nên tôi tớ hoàn tất vinh quang Thiên
Chúa. Đức Kitô đã không đến trong kiêu sa, nhưng đã tự hạ, đã chịu khổ cực.
Vậy phải nên thánh và tín thác cho Chúa.
Chỉ một bức thư này còn quan trọng trong sự thật vượt xa mọi truyện thần
thoại.
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư
28/2/2007 –
Bài Giáo Lý 32 trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền
Anh Chị Em thân mến,
Trong mấy tháng qua, chún g ta đã suy niệm về những hình ảnh của từng vị
tông đồ và là những vị chứng nhân tiên khởi của đức tin Kitô Giáo, những vị
được đề cập tới trong các bản văn Tân Ước. Giờ đây, chúng ta quay sang các
vị Tông Giáo Phụ , tức đến thế hệ thứ nhất và thứ hai của Giáo Hội sau các
tông đồ. Nhờ đó chún g ta có thể thấy được cách thức Giáo Hội bắt đầu tiến
bước trong lịch sử.
Thánh Clêmentê, Giám
Mục Rôma trong những năm cuối cùng của thế kỷ thứ nhất, là vị thừa kế thứ ba
của Thánh Phêrô, sau Đức Linus và Đức Anacletus. Chứng từ quan trọng nhất về
đời sống của ngài được Thánh Irênê là giám mục Lyon viết mãi vào năm 202. Vị
giám mục này cho rằng Thánh Clêmentê ‘đã từng thấy các vị tông đồ… đã được
gặp gỡ các vị ấy’, và ‘vẫn còn văng vẳng bên tai giáo huấn của các vị, và
vẫn còn thấy trước mắt truyền thống của các vị’ (Adv. Haer.
3,3,3). Những chứng từ sau này, giữa thế kỷ thứ bốn và thứ sáu, thì qui tước
hiệu tử đạo cho Thánh Clêmentê.
Thẩm quyền và thế giá của vị Giám Mục Rôma này như vậy nên có một số bản văn
được qui về cho ngài, thế nhưng chỉ có một bản văn chắc chắn là Bức Thư gửi
cho Giáo Đoàn Côrintô.
Giáo phụ Eusebius thành Caesarea, một đại ‘lưu trữ viên’ của những gốc tích
Kitô Giáo, đã trình bày về bức thư này bằng những lời lẽ như sau: ‘Một bức
thư duy nhất của Đức Clêmentê đã được gửi xuống cho chúng ta được công nhận
là chân thực, trọng đại và tuyệt vời. Bức thư này được ngài viết nhân
danh Giáo Hội Rôma gửi cho Giáo Hội ở Côrintô… Chúng ta biết rằng qua một
thời gian dài, và cho tới cả ngày nay nữa, bức thư n ày được công khai đọc
trong những cuộc tái hợp của tín hữu’ (Hist. Eccl. 3,16).
Một đặc tính hầu như có tính cách giáo luật được qui cho bức thư này. Ở đầu
bản văn ấy, được viết bằng tiếng Hy Lạp, Đức Clêmentê xin lỗi nếu ‘những
biến cố phức tạp và tai hại’ (1:1) đã xẩy ra vì một cuộc can thiệp chậm
chạp. Những ‘biến cố’ ấy có thể được đồng hóa với cuộc bách hại của
Domitian; bởi thế, ngày tháng của bức thư này được viết vào thời điểm ngay
sau cái chết của vị hoàng đế ấy và trước khi chấm dứt cuộc bách hại, tức là
ngay sau năm 96.
Việc can thiệp của Đức Clêmentê – chúng ta vẫn còn ở thế kỷ thứ nhất – được
kêu gọi thực hiện vì những vấn đề trầm trọng Giáo Hội Côrintô đang trải qua;
thật vậy, các vị linh mục của cộng đồng này đã bị loại trừ bởi một số thành
phần trẻ trung mới tạo được uy thế. Biến cố đau thương này một lần nữa được
ghi nhớ bởi Thánh Irênê, vị đã viết rằng: ‘Dưới thời Đức Clêmentê, xẩy ra
một cuộc xung khắc trầm trọng giữa các người anh em ở Corintô, Giáo
Hội Rôma đã gửi cho giáo đoàn Côrintô một bức thư rất quan trọng để hòa giải
họ trong an bình, để canh tân đức tin của họ và để loan báo một truyền thống
họ đã lãnh nhận còn rất mới mẻ từ các vị tông đồ’ (Adv. Haer. 3,3,3).
Bởi thế, chúng ta có thể nói rằng bức thư này là việc hành sử lần đầu tiên
của một Vị Giáo Chủ ở Rôma sau cái chết của Thánh Phêrô. Bức thư của Thánh
Clêmentê đã đụng chạm tới những đề tài thân thương với Thánh Phaolô, vị đã
viết hai bức thư quan trọng cho giáo đoàn Côrintô, nhất là về vấn đề biện
chứng thần học, bao giờ cũng thích hợp, giữa biểu thị của việc cứu độ và
trách nhiệm dấn thân về luân lý.
Trước hết là việc công bố ơn cứu độ. Chúa thấy được là chúng ta cần gì và
ban ơn tha thứ cho chúng ta, ban cho chúng ta tình yêu của Người, ban cho
chúng ta ơn được làm người Kitô hữu, làm anh chị em của Người. Đó là điều
rao giảng làm cho cuộc đời chúng ta hân hoan và giúp cho các hoạt động của
chúng ta được vững chắc. Chúa Kitô luôn thấy được là các hành động của chúng
ta cần đến sự thiện hảo của Người và sự thiện hảo của Chúa bao giờ cũng lớn
hơn tất cả mọi tội lỗi của chúng ta.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải quyết tâm một cách gắn bó với tặng ân chúng ta
được lãnh nhận ấy và đáp lại việc loan truyền ơn cứu độ bằng một đường lối
quảng đại và can trường hướng tới việc hoán cải. So sánh với mô thức của
Thánh Phaolô, thì cái mới mẻ là ở chỗ, tiếp theo sau phần tín lý và phần
thực hành Thánh Clêmentê, có ‘một lời nguyện cầu long trọng’ để kết thúc bức
thư một cách cụ thể.
Dịp trực tiếp của bức thư này đã tạo cơ hội cho vị Giám Mục Rôma để can
thiệp một cách sâu rộng vào vấn đề căn tính của Giáo Hội và sứ vụ của Giáo
Hội. Thánh Clêmen tê ghi nhận là nếu có những c huyện lạm dụng xẩy ra ở
Côrintô thì lý do cần phải lưu ý tới đó là ở tình trạng yếu kém về đức ái và
những nhân đức cần thiết của Kitô Giáo. Đó là lý do tại sao ngài đã kêu gọi
tất cả mọi tín hữu hãy sống khiêm nhượng và yêu thương huynh đệ, hai nhân
đức thật sự là căn bản để làm phần tử của Giáo Hội. Ngài nói: ‘Chúng ta là
phần thể của Đấng Thánh, nên chúng ta hãy làm tất cả những gì liên quan tới
thánh thiện’ (30:1).
Đặc biệt vị Giám Mục Rôma này còn nhắc lại rằng chính Chúa Kitô, ‘Người muốn
những điều ấy được thực hiện ở đâu và bởi ai, thì chính Người đã ấn định
theo ý muốn tối cao của Người, để tất cả mọi sự, được thực hiện một cách đạo
hạnh theo sở thích tốt lành của Người, đáng được Người chấp nhận…. Vì những
việc phục vụ đặc biệt của Người là những gì được bổ nhiệm cho vị thượng tế,
và nơi chốn thích hợp của những việc phục vụ ấy được qui định cho các vị
linh mục, và những thừa tác vụ đặc biệt của những việc ấy được trao cho
thành phần Lêvi. Thành phần giáo dân, theo luật, có trách nhiệm đối với
những gì thuộc giáo dân’ (40:1-5: xin lưu ý là ở đây, trong bức thư từ cuối
thế kỷ thứ nhất này, lần đầu tiên văn chương Kitô Giáo có chữ Hy Lạp
‘laikós’, mang ý nghĩa là ‘phần tử của vương quốc’, tức là thành phần ‘dân
Chúa’).
Như thế, khi qui chiếu về phụng vụ của dân Yến Duyên, Thánh Clêmentê
cho thấy lý tưởng của ngài về Giáo Hội. Đó là một cuộc qui tụ bởi ‘một thần
linh ân sủng được đổ xuống trên chúng ta’, cho thấy, qua các phần tử khác
nhau của Thân Mình Chúa Kitô, tất cả được liên kết bất phân đều là ‘phần tử
của nhau’ (46:6-7).
Việc phân biệt rõ ràng giữa thành phần ‘giáo dân’ và phẩm trật dù sao cũng
không có nghĩa là một cái gì đó tương phản mà chỉ là một liên hệ theo cơ cấu
của một thân thể, của một tổ chức có những phần hành khác nhau. Thật vậy,
Giáo Hội không phải là một nơi hỗn độn và vô chủ, nơi mà ai muốn làm
gì thì làm vào bất cứ lúc nào, mỗi người trong cơ cấu có lớp lang này thực
hành thừa tác vụ của mình theo ơn gọi được nhận lãnh.
Liên quan tới thành phần lãnh đạo của các cộng đồng, Thánh Clêmentê
xác định rõ về tín lý của việc kế thừa tông đồ. Những luật lệ chi phối điều
này đều xuất phát từ chính Thiên Chúa một cách tối hậu. Chúa C ha sai Chúa
Giêsu Kitô, Đấng đến phiên mình thì sai các vị tông đồ. Rồi những vị này sai
thành phần thủ lãnh đầu tiên của các cộng đồng, và đã ấn định rằng họ
cần phải được những con người xứng đáng tuân theo. Bởi thế, tất cả mọi
sự được tiến triển ‘một cách lớp lang, theo ý muốn của lời Chúa’ (42).
Với những lời này, với những câu ấy, Thánh Clêmentê muốn nhấn mạnh rằng Giáo
Hội có một cấu trúc bí tích, chứ không phải là một cấu trúc chính trị. Các
tác động của Thiên Chúa vươn tới chúng ta trong phụng vụ là những gì đi
trước các quyết định và các ý nghĩ của chúng ta. Giáo Hội trước hết là một
tặng ân của Thiên Chúa chứ không phải là một sản phẩm của chúng ta, bởi thế
cấu trúc bí tích này chẳng những bảo đảm được trật tự chung mà còn là những
gì tiền dẫn đến tặng ân của Thiên Chúa tất cả chúng ta cần đến.
Sau hết, ‘lời nguyện long trọng’ cống hiến một thứ hít thở vũ trụ cho việc
bàn luận trước đó. Thánh Clêmentê ca ngợi và cảm tạ Thiên Chúa về sự quan
phòng yêu thương cao cả của Ngài, Đấng đã tạo dựng nên thế giới và
tiếp tục cứu thế giới và chúc lành cho thế giới. Lời kêu cầu cho cơ cấu cai
quản cũng được đặc biệt chú trọng. Sau các bản văn Tân Ước thì đây là lời
cầu nguyện cổ kính nhất cho các tổ chức chính trị. Bởi thế, khi mới có việc
bách hại, Kitô hữu, quá rõ là các cuộc bắt bớ sẽ tiếp tục xẩy ra, đã không
thôi nguyện cầu cho chính những vị thẩm quyền đã lên án họ một cách bất
chính.
Động lực ấy trước hết có tính cách Kitô học, đó là con người cần phải nguyện
cầu cho thành phần bách hại mình, như Chúa Giêsu đã làm trên cây thập giá.
Thế nhưng, lời cầu nguyện ấy cũng chất chứa một giáo huấn, qua giòng lịch
sử, hướng dẫn thái độ của Kitô hữu trước các hoạt động chính trị và quốc
gia.
Trong việc nguyện cầu cho các vị thẩm quyền, Thánh Clêmentê nhìn nhận tín h
cách hợp lý của các cơ cấu chính trị theo trật tự được Thiên Chúa ấn định.
Đồng thời ngài cũng bày tỏ mối quan tâm của ngài về việc những thẩm quyền
này phải làm sao để dễ dạy đối với Thiên Chúa và ‘hành sử quyền hành được
Chúa ban trong an bình và nhân ái xót thương’ (61:2).
Cêsa không phải là tất cả. Còn có một chủ quyền khác, mà nguồn gốc và yếu
tính của nó không thuộc về thế giới này, mà là ‘từ trên cao’: đó là thẩm
quyền của Sự Thật, một sự thật có quyền được lắng nghe cũng như có quyền đối
chất với quốc gia.
Như thế, bức thư của Thánh Clêmentê nêu lên nhiều đề tài vẫn còn thực hữu.
Điều này càng có ý nghĩa hơn, vì nó tiêu biểu, từ thế kỷ thứ nhất, mối quan
tâm của Giáo Hội Rôma, một Giáo Hội chủ sự trong đức ái đối với tất cả mọi
giáo hội khác.
Theo cùng tinh thần ấy, chúng ta thực hiện những lời cầu khẩn của chúng ta
như ‘lời nguyện trọng đại’ này, nơi vị Giám Mục Rôma trở thành tiếng nói cho
toàn thế giới, ‘vâng, lạy Chúa, xin chiếu tỏa dung nhan Chúa trên chúng con
cho thiện ích trong an bình, để chúng con được bàn tay quyền năng của
Chúa bao che… chúng con ca ngợi Chúa qua vị thượng tế và là vị bảo hộ linh
hồn của chúng con là Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà vinh quang và uy nghi
được qui về Chúa bay giờ và qua mọi thế hệ cho tới muôn đời. Amen’ (60-61).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển
dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 7/3/2007
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Kh
14, 14-19
"Ðã đến giờ gặt, vì lúa gặt trên đất đã chín rồi".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Tôi là Gioan, tôi đã nhìn thấy có đám mây trắng: trên đám mây có ai ngồi
giống như Con Người, đầu đội triều thiên bằng vàng và tay cầm liềm sắc bén.
Có một thiên thần khác từ trong đền thờ đi ra kêu lớn tiếng cùng Ðấng ngồi
trên đám mây mà rằng: "Hãy hạ liềm xuống mà gặt đi, vì đã đến mùa màng trên
đất đã chín rồi". Ðấng ngự trên đám mây liền quăng liềm xuống đất và lúa
trên đất được gặt hết. Có một thiên thần khác từ trong đền thờ trên trời đi
ra, người cũng cầm một cái liềm sắc bén. Và một thiên thần khác nữa từ trong
bàn thờ đi ra, vị này có quyền cai trị lửa, người kêu lớn tiếng cùng thiên
thần cầm liềm sắc bén mà rằng: "Hãy hạ liềm sắc bén xuống mà cắt những chùm
nho nơi vườn nho dưới đất, vì nho trong vườn đã chín rồi". Thiên thần kia hạ
liềm sắc bén xuống đất, cắt nho nơi vườn nho dưới đất và bỏ vào thùng lớn
cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 95, 10. 11-12. 13
Ðáp: Chúa
ngự tới cai quản địa cầu (c. 13b).
Xướng: 1) Hãy công bố giữa chư dân rằng: Thiên Chúa ngự trị. Người giữ vững
địa cầu cho nó khỏi lung lay; Người cai quản chư dân theo đường đoan chính.
- Ðáp.
2) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan! Biển khơi và muôn vật
trong đó hãy reo lên! Ðồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui! Các rừng
cây hãy vui tươi hớn hở! - Ðáp.
3) Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa
cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành. -
Ðáp.
Alleluia: Lc 21,
36
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể
xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21,
5-11
"Không còn hòn
đá nào nằn trên hòn đá nào".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và
những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: "Những gì các con nhìn ngắm đây,
sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn
phá". Bấy giờ các ông hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy
ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?" Người phán: "Các con hãy
ý tứ kẻo bị người ta lừa dối: vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà
tự xưng rằng: "Chính ta đây và thời gian đã gần đến", các con chớ đi theo
chúng. Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ: vì
những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu".
Bấy giờ Người phán cùng các ông ấy rằng: "Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân
kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi
nơi, sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và
những điềm lạ cả thể".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nguyện Lời Chúa
Những Dấu Chỉ Hiện Tượng Tận Số
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Ba Tuần XXXIV Thường Niên, tiếp tục những bài giáo
huấn Giêrusalem của Chúa Kitô, lần này, trực tiếp liên quan đến số phận tàn
canh tận số sau một thời lừng danh vang bóng của chính Thành Thánh
Giêrusalem: "Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được trang hoàng
bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: 'Những gì các con
nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào
mà chẳng bị tàn phá'".
Nếu tảng "đá - rock" tượng trưng cho nền tảng đức tin vững chắc (xem Mathêu
7:24;16:18) thì những viên "đá - stones" tượng trưng cho thành phần tín đồ
Do Thái giáo trong Cựu Ước cũng như thành phần Kitô hữu trong Tân Ước: "Anh
em là những viên đá sống được xây lên như là một lâu đài thiêng liêng..."
(1Phêrô 2:5).
Vậy nếu tình trạng Thành Thánh Giêrusalem vào thời điểm tận số của mình tan
tành đến độ "không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn
phá", thì phải chăng đó là hình ảnh về Giáo Hội vào ngày cùng tháng
tận, được Chúa Giêsu báo trước cho biết về tình trạng khủng hoảng đức tin
nơi thành phần tín hữu trước khi Người tái giáng: "Không biết khi Con
Người trở
lại có còn thấy đức tin trên thế gian này nữa hay chăng?"
(Luca 18:8).
Về những dấu hiệu báo trước tình trạng tận số của Thành Giêrusalem ám chỉ
dân Chúa này, để trả lời cho câu hỏi "Thưa
Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp
xảy đến?" Chúa
Giêsu đã cảnh báo như sau:
"Các con hãy ý
tứ kẻo bị người ta lừa dối: vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự
xưng rằng: 'Chính ta đây và thời gian đã gần đến', các con chớ đi theo
chúng. Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ: vì
những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu. Dân này
sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. Sẽ có những
cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh
khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể".
Căn cứ vào lời của Chúa Kitô trên đây thì có 2 dấu hiệu báo trước về tình
trạng tận số của Thành Thánh Giêrusalem hay của cộng đồng dân Chúa: hiện
tượng đầu tiên là giả dối lừa đảo ("sẽ
có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: 'Chính ta đây và thời gian đã
gần đến'"), và
hiện tượng tiếp theo là xẩy ra nào là nhân tai ("chiến
tranh loạn lạc... Dân
này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ")
nào là thiên tai ("sẽ
có những cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng
kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể").
Hai hiện tượng chính yếu báo trước về tình trạng tận số của Thành
Giêrusalem ám chỉ dân Chúa này thật ra cũng liên quan đến chính đức tin. Có
nghĩa là, trước khi cộng đồng dân Chúa đi tới chỗ tận số thì xẩy ra những
hiện tượng cho thấy đức tin của họ bắt đầu bị khủng hoảng. Ở chỗ, về tinh
thần, họ bị mù tối, qua việc tạo nên những Đức Kitô giả tạo theo ý nghĩ của
họ, những Đức Kitô không có năm dấu thánh của thành phần cấp tiến phá giới
buông thả, hay ngược lại những Đức Kitô chỉ biết luận phạt chém giết tội
nhân của thành phần bảo thủ, hoặc một thứ ý hệ cứu độ giả tạo nào đó như các
chủ nghĩa đã từng xuất phát từ Tây phương Kitô giáo như cộng sản, hiện sinh,
duy nhân, tương đối, toàn cầu v.v.
Chính vì đức tin của thành phần dân Chúa bị lệch lạc như vậy, mà "đức tin
thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6), nên cộng đồng dân Chúa, đặc biệt
cộng đồng dân Chúa Tây phương nói chung và Âu Châu nói riêng, mới tiến tới
chỗ ghen ghét, hận thù, đến độ sát hại nhau bằng các cuộc chiến tranh chưa
từng có trong lịch sử loài người, như Thế Chiến I và II ở thế kỷ 20 với hậu
quả phải chịu là 100 triệu nhân mạng, những thế chiến xuất phát từ Âu Châu,
thế giới Kitô giáo! Và như các chế độ diệt chủng, chẳng hạn cộng sản và Đức
quốc xã, đã tàn sát cả 100 triệu sinh mạng nữa trong thế kỷ 20, chưa kể đến
con số phá thai sát hại không biết bao nhiêu mà kể hằng năm từ khi con người
"ban phép" phá thai, cũng xuất phát từ Tây phương Kitô giáo!!!
Cũng chính vì đức tin đã càng ngày càng trở nên yếu kém và bị lạc loài như
thế mà thế giới Tây phương Kitô giáo văn mình chưa từng có và kỹ nghệ tân
tiến hóa, đã vô tình hay cố ý, nhúng tay vào việc gây ra tình trạng khủng
hoảng cả về môi sinh, với những biến động bất thường trong thiên nhiên, mà
hậu quả là chính con người phải hứng chịu những thiên tai liên tục
không ngừng xẩy ra ở khắp nơi trên thế giới như vẫn thấy vô cùng thảm
thương hiện nay. Chẳng hạn ở Đại Tây Dương vừa mới xẩy ra 29 trận
bão, nhiều đến độ không còn tên để đặt, và ở Biển Đông thuộc Thái Bình
Dương, Việt Nam cũng cả gần chục cơn bão dồn dập tấn công vào Miền Trung từ
giữa Tháng 9 tới giữa tháng 11/2020.
Không phải là ngẫu nhiên mà lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội và
thế giới xuất hiện một bức thông điệp hoàn toàn không phải về những vấn đề
như từ trước đến nay, thuần tín lý hay thuần luân lý, hoặc phụng vụ
hay tu đức, mà là một thông điệp về môi sinh và nhân sinh,
Thông Điệp "Laurato Sí- Chúc Tụng Chúa", được Vị Giáo Hoàng muốn có một Giáo Hội nghèo và
cho người nghèo là Đức Thánh Cha Phanxicô, ban hành ngày 24/5/2015,
và sau đó là Thông Điệp "Fratelli Tutti - Tất Cả đều là Anh Em", ban hành
ngày 3/10/2020, về tình huynh đệ nhân loại cùng một Cha trên trời, một
thông điệp ban hành vào giữa thời điểm covid-19 toàn cầu kéo dài suốt năm
2020, chỉ vì con người ta vị kỷ hưởng thụ và hận thù ghen ghét nhau.
Phải chăng lịch sử thế giới
hiện nay, từ trong lòng người đầy những sự dữ"
"lừa dối (fake news)", tràn ra xã hội đầy những bạo loạn:
"Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ",
lan đến cả thiên nhiên vạn vật đầy những thiên tai: "có
những cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch (như covid-19 toàn cầu
2020) đói khát (khủng hoảng kinh tế toàn cầu)", nhất là tôn giáo bị
khủng hoảng đức tin: "những hiện tượng kinh khủng từ trên trời (như
thể ám chỉ các đấng các bậc trong Giáo Hội đầy những gương mù gương xấu)",
như dấu báo sắp sửa tới thời điểm được Sách Khải Huyền ở Bài Đọc 1 hôm nay
cảnh báo:
"Hãy hạ liềm xuống mà gặt đi, vì đã đến mùa màng trên đất đã chín rồi",
và "'hãy hạ liềm sắc bén xuống mà cắt những chùm nho nơi vườn nho dưới đất,
vì nho trong vườn đã chín rồi'. Thiên thần kia hạ liềm sắc bén xuống đất,
cắt nho nơi vườn nho dưới đất và bỏ vào thùng lớn cơn thịnh nộ của Thiên
Chúa", Đấng là chủ tể của lịch sử loài người, Đấng quan phòng mọi sự
theo ý định vô cùng khôn ngoan đầy yêu thương của Ngài, như Thánh Vịnh 95
trong Bài Đáp Ca hôm nay nhận biết cùng ngợi khen chúc tụng như sau:
1) Hãy công bố giữa chư dân rằng: Thiên Chúa ngự trị. Người giữ
vững địa cầu cho nó khỏi lung lay; Người cai quản chư dân theo đường đoan
chính.
2) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan! Biển khơi và muôn vật
trong đó hãy reo lên! Ðồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui! Các rừng
cây hãy vui tươi hớn hở!
3) Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản
địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân
thành.
Ngày 22 tháng 11
Thánh Xê-xi-li-a, trinh nữ, tử đạo
lễ nhớ bắt buộc
Tiểu sử
Cuối thế kỷ V, câu chuyện về cuộc thương khó của các chứng nhân tử đạo
Xê-xi-li-a, Va-lê-ri-a-nô và Ti-buốc đã ca ngợi đức đồng trinh của Ki-tô
giáo, khiến cho tên tuổi của một thiếu nữ người Rô-ma tên là Xê-xi-li-a
trở thành lừng lẫy. Chị đã chịu tử đạo và được mai táng ở nghĩa trang
Ca-lít-tô. Một thánh đường đã được xây dựng để kính thánh nữ và một đoản
văn trong câu chuyện trên đã khiến cho các nhạc sĩ chọn chị làm bổn
mạng.
Cuộc tử đạo của
thánh CÊCILIA rất được nhiều người biết đến, quí chuộng thán phục và ưa lập
lại.
Nhưng
những thế kỷ đầu không thấy nói gì tới vị thánh này cả. Thánh Ambrôsiô,
Hierônimô rất kính các trinh nữ tử đạo, nhưng không nhắc đến tên Ngài.
Thánh Cêcilia là một trong những trinh nữ tử đạo được sùng mộ nhất vào những
thế kỷ đầu của Giáo hội Rôma. Lòng sùng mộ thái quá ấy đã khiến nhiều tác
giả bịa đặt ra nhiều tiểu tiết ly kỳ về đời sống của ngài và cả cái chết tử
đạo của ngài.
Cêcilia thuộc gia đình quí phái sống tại Roma dưới thời vua Alexander
Sêvêrô. Cuộc bách hại thật dữ dằn. Một mình trong gia đình là Kitô hữu, Ngài
luôn mang theo cuốn Phúc âm và sống đời cầu nguyện bác ái. Mỗi khi tới hang
toại đạo là nơi Đức giáo hoàng Urbanô bí mật cử hành thánh lễ, đoàn người ăn
xin đợi chờ Ngài trên đường đi Roma chìa tay xin Ngài phân phát của bố thí.
Dưới lớp áo thêu vàng, Cêcilia mặc áo nhậm mà vẫn tỏ ra bình thản dịu dàng.
Trong khi tuổi trẻ ngoại giáo mê say nhạc trần tục, lòng Cêcilia hướng về
Chúa và ca tụng một mình Ngài thôi. Đáp lại lòng đạo đức của Ngài, Thiên
Chúa cho Ngài được đặc ân được thấy thiên thần hộ thủ hiện diện bên mình.
Ngài quyết giữ mình đồng trinh để tận hiến cho Chúa. Nhưng để đạt được ý
nguyện đó, ngài đã phải chiến đấu cam go, đồng thời với sự can thiệp của
Thiên Chúa mới bảo toàn được trinh khiết. Vì thế, những dòng tiểu sử về đời
sống thánh nữ Cêcilia một phần lớn đã xoay quanh câu truyện tình duyên ly kỳ
của ngài.
Số là Valêrianô, một thanh niên tuấn tú con nhà quý phái, đã đính hôn với
Cêcilia và định ngày làm lễ thành hôn. Phần trinh nữ Cêcilia, vì sợ phật ý
cha mẹ và vị hôn phu, nàng chưa thể tỏ ra cho các vị biết rằng: mình chỉ yêu
mến một mình Chúa Giêsu. Đến ngày hôn lễ, trong tiếng đàn phong cầm êm ái,
Cêcilia chỉ biết cầu nguyện với Thiên Chúa: “Xin cho hồn xác con được sự
trinh khiết để con khỏi bẽ bàng” (Thánh vịnh 118).
Trinh nữ ăn chay ba ngày liền và nguyện cầu xin Chúa các thiên thần, các
thánh tông đồ và toàn thể các thánh, xin các ngài gìn giữ, bảo hộ đức trinh
khiết của mình.
Đêm đến, khi chỉ có mình với Valêrianô ở trong phòng, nàng ngỏ ý muốn nói
với chàng một điều bí mật, nhưng yêu cầu chàng phải thực hiện điều chàng có
nhiệm vụ phải thi hành. Valêrianô trả lời rằng chàng không cần biết điều bí
mật đó. Cêcilia liền nói: “Có một vị thiên thần của Thiên Chúa yêu mến em,
chính người đã bảo vệ em rất cẩn thận nếu người thấy anh đến gặp em với tình
yêu nhơ bẩn, tức khắc người sẽ giận dữ đuổi anh đi và anh sẽ mất hết vẻ đẹp
của tuổi thanh xuân. Trái lại, nếu thiên thần thấy anh yêu em bằng mối tình
chân thành trong trắng và gìn giữ em nguyên vẹn, người sẽ yêu mến anh như
em”.
Valêrianô nói: “Nếu em muốn anh tin lời em nói, em hãy cho anh xem mặt thiên
thần của em; nếu anh thấy có bằng chứng đáng tin đó là thiên thần của Chúa,
anh sẽ thi hành điều em yêu cầu. Nhưng nếu em yêu một người khác, anh sẽ
chém luôn cả em và người ấy”. Cêcilia hứa cho Valêrianô xem thấy thiên thần,
sau khi chàng chịu phép rửa tội. Valêrianô bằng lòng theo đạo và hỏi xem
chịu phép rửa tội với ai, Cêcilia trả lời: “Anh hãy đi đến đường Appoa, tới
dặm thứ ba, thấy những người nghèo khó ngồi ăn xin bên đường, anh bảo họ
rằng: em nhờ họ dẫn anh đến gặp Đức Ubanô, Ngài sẽ rửa tội cho anh, mặc cho
anh áo trắng tinh và anh sẽ mặc áo trở lại phòng em, rồi anh sẽ xem thấy
thiên thần”.
Valêrianô nghe lời, tìm đến Đức Ubanô là người đã
công khai xưng đức tin hai lần và hiện đang lẩn tránh nơi nghĩa trang.
Valêrianô gặp ngài, trình bày mọi việc Cêcilia đã làm. Đức Ubanô cảm động và
vui mừng, ngài quỳ xuống tạ ơn Chúa: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã gieo
những ước vọng trong sạch, xin hãy nhận lấy hoa quả do hạt giống Chúa đã
gieo trong tâm hồn Cêcilia. Lạy Chúa, Đấng chăn chiên nhân lành, Cêcilia tôi
tá Chúa đã trung thành và kiên nhẫn phụng sự Chúa, nàng đã làm cho Valêrianô
hung hăng như sư tử trở nên chiên hiền lành”.
Đức Ubanô đang cầu nguyện cho Valêrianô thì bỗng
một ông lão đến, mặc áo trắng như tuyết, tay cầm một bảng chữ vàng.
Valêrianô sợ hãi ngã xuống đất. Ông lão nâng chàng dậy và truyền đọc bảng
chữ sau đây trên tay ông: “Một Thiên Chúa độc nhất, một đức tin, một phép
rửa tội, Thiên Chúa độc nhất là Cha của mọi loài. Người ở trên trời và ở
trong chúng ta tất cả” (cf. Eph 3, 59). Sau đó ông lão hỏi xem Valêrianô có
tin những điều đó không. Valêrianô trả lời quả quyết: “Thật trên đời này
không có gì chân thật hơn!”. Ông lão biến mất, Đức Ubanô làm phép rửa tội
rồi bảo Valêrianô trở lại với Cêcilia.
Valêrianô trở về thấy Cêcilia đang cầu nguyện trong phòng, bên cạnh có hai
thiên thần cầm hai triều thiên, một kết bằng hoa hồng, triều thiên kia bằng
hoa huệ. Thiên thần đưa cho Cêcilia một, còn một đưa cho Valêrianô và bảo
hai người rằng: Chỉ có ai biết quí trọng đức khiết trinh mới được trông thấy
hai triều thiên ấy. Thiên thần hỏi Valêrianô có ước muốn điều gì không.
Valêrianô xin cho Tiburciô anh mình trở lại đạo, và thiên thần hứa Tiburciô
sẽ được ơn ấy.
Mấy ngày sau, Tiburciô đến chào chị dâu, người ngửi thấy hương hoa huệ và
hoa hồng rất kỳ lạ. Valêrianô bảo em đó là do hai triều thiên Chúa ban cho.
Nếu Tiburciô muốn xem thấy triều thiên ấy, phải chịu phép rửa tội đã. Trong
khi Tiburciô còn đang ngơ ngẩn không hiểu gì thì Cêcilia đỡ lời, giải thích
cho em biết các tượng thần ngoại giáo là những vật vô tri giác vì không có
quyền phép gì. Tiburciô nghe Cêcilia giảng giải, lĩnh hội được chân lý và
tán thành: “Quả thật, chỉ có con vật mới không tin những điều chị vừa nói”.
Cêcilia bảo Tiburciô theo Valêrianô đi chịu phép rửa tội. Nhưng khi nghe
Cêcilia nói phải gặp Đức Ubanô, Tiburciô hoảng sợ hỏi: “Có phải là người mà
tín đồ công giáo gọi là Đức Giáo Hoàng không? Tôi nghe rằng người đã bị kết
án hai lần và nay đang trốn tránh. Nếu người ta bắt được ngài, họ sẽ thiêu
sống ngài và cả chúng ta nữa. Chúng ta đi tìm Thiên Chúa trên trời để bị lửa
thiêu đốt ở dưới đất ư ?”.
Cêcilia trả lời: “Phải, nếu chỉ có một sự sống đời này, chúng ta có lý do để
sợ mất nó, nhưng còn có một sự sống cao quí hơn, chúng ta sẽ chiếm được khi
chúng ta để mất sự sống đời này”.
– “Thế ra còn có một sự sống khác nữa sao? Tôi chưa hề được nghe ai nói
tới”.
Cêcilia trình bày giá trị của sự sống đời sau và cũng nêu ra những điều bất
hạnh của cuộc đời trần gian. Rồi để trả lời các thắc mắc đó của Tiburciô,
Cêcilia giải nghĩa mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Ngôi Hai Làm Người, cuộc đời Chúa
Giêsu và mầu nhiệm Phục sinh của Người. Kết luận, Cêcilia đối chiếu hạnh
phúc thiên đàng của người kitô giáo với hình phạt của người tội lỗi phải
chịu. Tiburciô tin theo và được dẫn tới gặp Đức Ubanô, Tiburciô chịu phép
rửa tội rồi ở lại bảy ngày để học thêm giáo lý. Từ đó Tiburciô được xem thấy
thiên thần của Thiên Chúa mỗi ngày và được mọi ơn như sở nguyện.
Từ đó Valêrianô và Tiburciô từ khước mọi lạc thú trần gian để chỉ chuyên lo
phụng sự Thiên Chúa và anh em đồng loại. Khi các kitô hữu chết vì đạo, bị
cấm không được chôn cất, Tiburciô và Valêrianô liền lo việc lấy trộm xác đem
chôn cất. Ít lâu sau, công việc tới tai chính quyền, hai người bị bắt phải
tế thần, họ từ chối nên bị phạt đánh đòn và bị xử tử, nếu họ từ chối tế
thần. Maximô thấy hai người còn trẻ tuổi nên rất thương tiếc, nhưng cũng rất
ngạc nhiên khi thấy hai người lại vui vẻ đi chịu chết vì đạo. Vì thế, khi
nghe hai người giải thích về đạo, quan Maximô đã yêu cầu họ dạy giáo lý cho
ông. Anh em Valêrianô và Tiburciô bảo đao phủ dẫn hai người về nhà ông. Tại
đây, hai người giảng dạy giáo lý rất rành mạch và sốt sắng, đến nỗi những
người có mặt đều xin theo đạo. Đêm hôm sau, Cêcilia mời linh mục đến rửa tội
cho cả gia đình Maximô và những người đao phủ.
Hai anh em Valêrianô và Tiburciô bị điệu đi tế thần Jupiter, không chịu dâng
hương tế thần nên bị chém đầu. Trong khi đó Maximô cùng nhiều người khác
được ơn lạ nhìn thấy thiên thần đến đón linh hồn các thánh tử đạo, nên họ
tin và theo đạo. Quan trên là Anmakiô nghe tin Maximô đã theo đạo, liền
truyền đánh đòn Maximô đến chết. Thánh nữ Cêcilia đem xác Maximô an táng gần
mồ Valêrianô và Tiburciô.
Sau đó đến lượt thánh Cêcilia bị bắt và bị án tử hình.
Thánh nữ bị bắt vì là vợ của Valêrianô, bị ép buộc dâng hương tế thần, thánh
nữ trả lời rằng mình muốn chết vì đạo. Nhiều người hâm mộ sắc đẹp của thánh
nữ tỏ lòng tiếc xót. Cêcilia lợi dụng cơ hội thuận tiện ấy giảng giải cho họ
biết Thiên Chúa sẽ thưởng gấp trăm cho tôi tá Chúa. Giảng giải xong, thánh
nữ đứng trên bệ đá cao hỏi họ: “Các ông bà có tin điều tôi nói không?”. Tất
cả đồng thánh đáp: “Chúng tôi tin Chúa Giêsu Con Thiên Chúa là Thiên Chúa
chân thật. Chỉ Người mới có một tôi tá xứng đáng như cô”. Đức Giáo Hoàng
Ubanô đến rửa tội cho họ chừng 400 người, họ đủ mọi giới.
Mấy hôm sau quan Anmakiô truyền đem Cêcilia đến, ông hỏi: Tên cô là gì?
– Tên tôi là Cêcilia.
– Cô theo đạo nào?
– Ngài hỏi lạ quá, ngài hỏi một câu mà tôi phải thưa hai câu?
– Sao cô trả lời thế, ai dạy cô?
– Thưa đức tin và lương tâm.
– À, cô không biết oai quyền của ta sao?
– Chính ngài không biết oai quyền của ngài, nếu ngài hỏi tôi, tôi sẽ bảo cho
biết.
– Cô biết gì hãy nói nghe thử?
– Tất cả oai quyền của con người giống như một quả bóng, chỉ cần một mũi kim
cũng đủ cho nó mềm xẹp xuống.
– Kìa, cô thoá mạ tôi đấy à?
– Thưa ngài chỉ nói láo mới là thoá mạ. Vậy xin ngài cho tôi biết tôi đã nói
láo ở chỗ nào?
Quan tổng trấn bắt nộp tài sản của Valêriô và Tiburtiô. Cêcilia trả lời để
tất cả đã được phân phát cho người nghèo rồi. Tức giận Almachiô truyền cho
Cêcilia phải dâng hương tế thần ngay nếu không sẽ phải chết. Cêcilia cười
trả lời :
- Chư thần của ông chỉ là đá, đồng chì
Và Thánh nữ chê bai tượng thần, nhấn mạnh đến vật vô dụng của các thần,
khuyên người ta đem các tượng đó nung vôi cho có ích lợi hơn.
- Cô sang trọng và trẻ đẹp, hai mươi tuổi đầu hãy dâng hương tế thần đi,
đừng để chết uổng.
Nhưng Cêcilia trả lời họ rằng:
- Các ông không biết rằng chết vào tuổi tôi, không phải là đánh mất tuổi
trẻ, nhưng là đổi chác vì Thiên Chúa sẽ trả lại gấp trăm cái người ta dâng
cho Ngài sao ? Nếu người ta đưa quí kim để đổi lấy vật tầm thường, các ông
có ngập ngừng không ?
Nghe Ngài các binh sĩ hoán cải. Anmakiô mất bình tĩnh truyền giam Ngài vào
phòng tắm. Căn phòng đầy hơi nóng. Cêcilia không hề thấy khó chịu.
Anmakiô tức giận, truyền đưa Cêcilia đi xử tử.
Lý hình ba lần dùng gươm mà chỉ gây nên được một vết thương ghê rợn. Thánh
nữ đã cầu xin để được gặp Đức Giáo hoàng Urbanô đến lo linh hồn mình. Ngài
còn sống được 3 ngày, được gặp Đức Urbanô, rồi lãnh triều thiên thiên thần
đã hứa.
Các Kitô hữu chôn táng Ngài và tôn trọng thái độ lúc Ngài tắt hơi, đầu không
cúi gục như bông hoa không tàn.
Những người tân tòng lấy áo thấm máu của thánh nữ. Trong khi đó thánh nữ cố
gắng khuyên họ bền vững với đức tin. Ngài chia của cải cho họ và giao phó họ
cho Đức Ubanô. Thánh nữ cũng xin dâng nhà mình cho Đức Ubanô để ngài dùng
làm nhà thờ.
Đức Ubanô và các phó tế đợi đến đêm đem xác thánh nữ về chôn giữa các đấng
Giám mục tử đạo, và tái thiết nhà thánh nữ thành nhà thờ như lời ngài xin.
Vào thế kỷ thứ V, một nhà quí phái trùng tên đã dâng nhiều dinh thự làm nhà
thờ đặt tên là Cêcilia danh hiệu bà đã được mang.
Hơn một nghìn năm sau, người ta thấy trong hang toại đạo một thi thể được
coi như là của Cêcilia, huyền thoại kể lại và nghệ sĩ trẻ Maderna tạc tượng
đã nghĩ đây là tuyệt phẩm của ơn thánh.
Năm 1599, người ta mở mộ ngài và thấy thi thể ngài còn toàn vẹn như vừa mới
chết.
Từ thời trung cổ thánh nữ Cêcilia được tôn kính như bổn mạng của các giới
nhạc sĩ. Họa sĩ Raphael cũng lại căn cứ vào đó mà sáng tác một họa phẩm với
đề tài: “Cêcilia, nữ nhạc sĩ thiên thần”.
Hằng năm, Giáo hội mừng lễ kính thánh Cêcilia vào ngày 22 tháng 11.
Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Kh
15, 1-4
"Hãy xướng ca bài ca vãn Môsê và ca vãn Con Chiên".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Tôi là Gioan đã nhìn thấy điềm lạ vĩ đại và huyền diệu khác trên trời, là
bảy thiên thần cai bảy tai ương sau hết, những tai ương này làm cho Thiên
Chúa hết cơn thịnh nộ.
Và tôi đã thấy như biển thuỷ tinh chan hoà ánh lửa và những kẻ đã thắng được
mãnh thú và hình tượng cùng số tên của nó, đều đứng trên biển thuỷ tinh gảy
đàn cầm ngợi khen Thiên Chúa, và xướng bài ca vãn Môsê tôi tớ Chúa, cùng bài
ca vãn Con Chiên rằng:
"Lạy Chúa là Thiên Chúa toàn năng, các công trình của Chúa thật vĩ đại và lạ
lùng. Lạy Chúa là vua hằng có đời đời, đường lối của Chúa thật công minh,
chính trực. Lạy Chúa, ai lại không kính sợ Chúa và không ngợi khen danh
Chúa? Vì chỉ có mình Chúa là Ðấng nhân lành: mọi dân tộc sẽ đến thờ lạy
trước mặt Chúa, bởi vì sự xét xử của Chúa đã tỏ bày minh bạch".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 7-8. 9
Ðáp: Lạy
Chúa là Thiên Chúa toàn năng, các công trình của Chúa thật là vĩ đại và lạ
lùng (Kh 15, 3b).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều
huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh
tay thánh thiện của Người. - Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức
công minh, Người nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành, để sủng ái nhà
Israel. - Ðáp.
3) Biển khơi và muôn vật trong đó hãy rống tiếng lên, cả địa cầu và những
dân cư ngụ ở trong cũng thế. Các sông ngòi hãy vỗ tay reo, đồng thời các núi
non hãy hân hoan nhảy nhót. - Ðáp.
4) Trước thiên nhan Chúa vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người cai quản
địa cầu với đức công minh và cai quản chư dân trong đường chính trực. - Ðáp.
Alleluia: Mt
24, 41a và 44
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức
và sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc
21, 12-19
"Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh
Thầy, nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ
rằng: "Người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội
đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh
Thầy: các con sẽ có dịp làm chứng. Vậy các con hãy ghi nhớ điều này
trong lòng là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào. Vì chính
Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch
các con không thể chống lại và bắt bẻ các con.
"Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các
con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. Các con sẽ bị mọi người
ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ
chẳng hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con cũng sẽ giữ được linh hồn các
con".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nguyện Lời Chúa
Sự dữ gia tăng... tin mừng loan báo
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ
Tư Tuần XXXIV Thường Niên tiếp theo Bài Phúc Âm hôm qua về
số phận tận
số của Thành Thánh Giêrusalem, nhưng Bài Phúc Âm hôm nay nhấn mạnh đến số
phận bị bách hại của thành
phần chứng
nhân cuối
thời.
Thật vậy,
ngoài hai dấu hiệu cho thấy ngày cùng tháng tận đó là hiện tượng giả dối
lừa đảo hoành hành cùng với hiện
tượng nhân tai kèm theo thiên tai xẩy ra cho nhân loại, còn
một dấu hiệu nữa đó là sự kiện bách hại thành phần chứng nhân cuối thời: "Người
ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù,
điệu các con đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy: các con sẽ có
dịp làm chứng".
Đúng thế, chính hiện
tượng "sự dữ gia tăng mà lòng
mến nơi hầu hết con người ta trở nên nguội lạnh" (Mathêu
24:12) mới xẩy ra tình trạng bách hại thành phần chứng nhân cuối thời. Không
biết có đúng hay chăng khi mà vào chính thời điểm lịch sử hiện nay, thời đểm
con người càng văn minh về vật chất lại càng băng hoại về luân lý và đạo lý,
thì chính ở thế
giới Tây phương Kitô giáo, (chứ
không phải chỉ ở thế giới Hồi giáo cực đoan chỉ được theo Hồi giáo), lại là
nơi đang bắch hại thành phần chứng nhân Kitô giáo, bằng những luật lệ
cấm đoán công khai bày
tỏ đức
tin ở những
nơi công cộng, dù là bằng ngôn từ hay hình ảnh, hoặc phải làm theo
những điều khoản phản lại lương tâm Kitô giáo của mình, hay
bằng việc
trắng trợn và cương quyết dứt khoát chối
bỏ căn tính Kitô giáo của mình trong Bản Hiến Pháp của Khối Hiệp Nhất Âu
Châu, một châu lục hoàn
toàn mang
gốc gác Kitô giáo và là nơi xuất phát các vị thừa sai khắp thế giới.
Phải chăng
lời Chúa Giêsu cảnh báo trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Cha
mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị
giết chết. Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy", cũng
bao gồm cả và ám chỉ đến tình hình chính thế giới Tây phương Kitô giáo bách
hại Kitô giáo của chính mình?
Thế
nhưng, Chúa Giêsu đã khuyên các môn đệ của Người là hãy lợi dụng tình trạng
bị bách hại ấy mà làm chứng cho Người: "các
con sẽ có dịp làm chứng". Đó
là lý do, vào ngày cuối thời, chính
vào lúc "sự
dữ gia tăng mà lòng
mến nơi hầu hết con người ta trở nên nguội lạnh" (Mathêu
24:12) mới đồng thời xẩy ra một chiến dịch hay phong trào chứng nhân truyền
giáo: "Tin mừng
về Nước Trời này sẽ được loan truyền khắp thế giới như một chứng từ cho tất
cả mọi dân nước. Chỉ sau đó mới tới tận cùng"
(Mathêu 24:14).
Phải chăng ngay vào
thời điểm thế giới Kitô giáo Tây phương đang băng hoại, đang trở thành trung
tâm "văn
hóa sự chết" (ĐTC
Gioan Phaolô II),
thành lò "văn
hóa tận số" (ĐTC Phanxicô) mới càng cần đến một Hội Đồng Tòa Thánh về Tân
Truyền Bá Phúc Âm Hóa được ĐTC Biển Đức XVI thiết lập, và là Hội Đồng đặc
trách tổ chức Năm Thánh tình Thương 2016 do ĐTC Phanxicô khởi xướng; nhất là
mới càng có những chuyến tông du của các Đức Giáo Hoàng từ ngay trong
Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962 - 8/12/1965), với chuyến tông du đầu
tiên của ĐTC Phaolô VI vào đầu năm 1964 ở Thánh Địa (4-6/1), với 104 chuyến
tông du của ĐTC Gioan Phaolô II trong vòng 26 năm rưỡi của ngài (16/10/1978
- 2/4/2005), trung bình mỗi năm 4 chuyến, với 24 chuyến tông du của ĐTC
Biển Đức XVI trong 8 năm phục vụ Giáo Họi của ngài (19/4/2005 - 28/2/2013),
trung bình 3 năm 1 chuyến, và với 21 chuyến tông du của ĐTC Phanxicô trong
vòng 2 năm 8 tháng của ngài (13/3/2013 - 30/11/2015), trung bình 5 chuyến 1
năm (bao gồm cả chuyến tông du Phi Châu lần đầu tiên của ngài 6 ngày từ Thứ
Tư giữa Tuần XXXIV Thường Niên này cho đến Thứ Hai cuối tháng 11).
Thế
nhưng, công cuộc và sứ vụ chứng nhân không phải là việc làm và hành động của
cá nhân Kitô hữu, cho bằng của chính Giáo Hội và nhất là của Chúa
Kitô, Đấng ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế (xem Mathêu 28:20), Đấng luôn
sống động trong Giáo Hội và tỏ mình ra nơi từng chi thể của Giáo Hội là
thành phần chứng nhân của Người và cho Người như cành nho dính liền
với Người là thân nho (xem Gioan 15:5).
Bởi thế, trong bài Phúc Âm hôm
nay, Chúa Kitô đã trấn an thành phần chứng nhân tiên khởi của Người là các
môn đệ đang theo Người và nghe Người bấy
giờ, cũng như khẳng định
cùng thành phần chứng nhân ở mọi thời và nhất là cuối thời của Người rằng: "Chính
Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các
con không thể chống lại và bắt bẻ các con".
Và
sở dĩ "mọi
kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con" được,
như một phó tế Staphanô
vị tử đạo tiên khởi
của Kitô giáo (xem Tông Vụ toàn đoạn
7), là vì chính Chúa Kitô "là chân lý" (Gioan 14:1) bất diệt tỏ mình
ra qua họ như "ánh sáng chiếu trong tăm tối, một thứ tăm tối không thể
nào át được ánh
sáng"
(Gioan 1:5), nhất là khi
Người tái xuất hiện trong vinh quang "để phán xét kẻ sống và kẻ chết", cho
dù hiện tại dường như sự dữ đang thắng thế, đang làm chủ tình hình và đang
hoành hành kinh hoàng khủng khiếp như thể cả thế gian này đã biến thành hỏa
ngục trần gian vậy.
Quả
thực, trong
một giai đoạn sự dữ gia
tăng tới tột độ quyền lực của nó vô cùng kinh hoàng khủng khiếp đến độ "nếu
giai đoạn ấy
không được rút ngắn lại thì không một con ngưòi
trần gian nào được
cứu độ" (Mathêu 24:22), thì
kể cả kẻ lành cũng vẫn có thể gặp nguy
hiểm và vẫn có thể
bị đánh lừa (xem
Mathêu 24:24),
như trường hợp cả 5 cô
trinh nữ khôn ngoan cũng thiếp ngủ (xem Mathêu 25:5); nhưng 5 trinh nữ khôn
ngoan này hoàn toàn khác với 5 trinh nữ khờ dại, ở chỗ, các cô mang
dầu đức cậy theo
với đèn đức tin để có thể
thắp sáng đức mến khi chàng rể bất ngờ xuất hiện,
nhờ đó, cho
dù các cô mắt
có ngủ nhưng lòng vẫn thức, ở chỗ vẫn "thiết
tha trông đợi Người"
(Do Thái 9:28), Đấng quan
phòng thần linh cứu độ, đến độ: "dù
một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất" như
chính lời
Chúa Giêsu khẳng định
trong Bài Phúc Âm hôm nay.
Thành phần chứng nhân cuối thời, được Chúa Giêsu tiên báo trong Bài Phúc Âm
hôm nay, phải chăng đã được tiên báo trong Sách Khải Huyền của Thánh Gioan ở
Bài Đọc 1 hôm nay, qua hình ảnh được ngài thị kiến thấy và ghi lại như sau:
"Tôi đã thấy như biển thuỷ tinh chan hoà ánh lửa và những kẻ đã thắng
được mãnh thú và hình tượng cùng số tên của nó, đều đứng trên biển thuỷ tinh
gảy đàn cầm ngợi khen Thiên Chúa, và xướng bài ca vãn Môsê tôi tớ Chúa, cùng
bài ca vãn Con Chiên rằng: 'Lạy Chúa là Thiên Chúa toàn năng, các công trình của Chúa thật vĩ đại và lạ
lùng. Lạy Chúa là vua hằng có đời đời, đường lối của Chúa thật công minh,
chính trực. Lạy Chúa, ai lại không kính sợ Chúa và không ngợi khen danh
Chúa? Vì chỉ có mình Chúa là Ðấng nhân lành: mọi dân tộc sẽ đến thờ lạy
trước mặt Chúa, bởi vì sự xét xử của Chúa đã tỏ bày minh bạch'".
Những lời tuyên tụng và tung hô Chúa trong "bài ca vãn Môsê tôi tớ Chúa,
cùng bài ca vãn Con Chiên" ở Bài Đọc hôm nay đã âm vang tâm thức và tâm
tình của Thánh Vịnh 97 trong Bài Đáp Ca hôm nay như sau:
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền
diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay
thánh thiện của Người.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân, Người tỏ rõ
đức công minh, Người nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành, để sủng ái nhà
Israel.
3) Biển khơi và muôn vật trong đó hãy rống tiếng lên, cả địa cầu và
những dân cư ngụ ở trong cũng thế. Các sông ngòi hãy vỗ tay reo, đồng thời
các núi non hãy hân hoan nhảy nhót.
4) Trước thiên nhan Chúa vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người cai
quản địa cầu với đức công minh và cai quản chư dân trong đường chính trực.
23/11
Thánh Clêmentê ở Rôma
Giáo Hoàng Tử Đạo
Người ta biết được về thánh
Clêmentê, vị giáo hoàng trị vì trong 10 năm chỉ nhờ bức "thư gởi giáo hữu
Côrintô" thôi. Vào thế kỷ thứ IV có lưu hành những chứng thư đầy huyền
thoại. Theo đó, cha Ngài là Phaustin thuộc dòng dõi Giacop. Sinh tại Roma,
được nuôi dưỡng trong Do thái giáo.
Thánh Clêmentê đã nghe theo những
diễn từ của các thánh tông đồ và trở thành môn đệ các Ngài. Ngài đã theo
thánh Phaolô trong các hành trình đi truyền giáo và đã trở thành đấng kế vị
thứ ba của thánh Phêrô. Vua Trajanô đang bách hại các Kitô hữu biết được
rằng: vị giáo hoàng đã đem được nhiều người trở lại đạo. Ông kết án Ngài
phải làm việc khổ sai tại các hầm mỏ bên kia Bắc Hải, trong các miền hoang
vắng. Hai ngàn Kitô hữu đẽo đá tại đây chịu cảnh khát nước thảm khốc.
Tương truyền rằng thánh Clêmentê
cầu nguyện rồi lên một ngọn đồi và thấy một con chiên ghi dấu chân đúng vào
chỗ có dòng nước tươi mát vọt lên làm giảm khát cho người mang án. Các bức
tranh cẩn đâu tiền còn diễn lại biểu tượng một con chiên đứng trên ngọn núi
xanh. Nhà vua khi biết được rằng thánh Clêmentê đã dùng lời nói và phép lạ
để an ủi các Kitô hữu, liền sai các sứ giả tới cột cổ Ngài vào một cái neo
rồi ném xuống biển. Lệnh đường thi hành. Nhưng trong khi các tín hữu cầu
nguyện trên bờ, họ thấy dòng nước rút đi một cách lạ lùng và có thể đưa xác
vị tử đạo lên đất liền.
Điều chắc chắn chính là bức thư của
thánh Clêmentê đã thành một trong các tài liệu quí giá của Kitô giáo thời
Chúa xưa. Các Kitô hữu Côrintô chạy đến Đức giáo hoàng để tìm hoà giải những
cuộc tranh chấp, đã kính cẩn đón tiếp thư của Ngài. Những thư này được đọc
cho các cộng đoàn tín hữu. Thư của thánh Clêmentê chứng thực việc thánh
Phêrô đến và chịu chết ở Roma, việc Nêrô bắt các Kitô hữu làm trò mua vui.
Thư cũng gợi ý cho chúng ta việc tổ chức Giáo hội. Giữa các sự việc lớn lao
khác, thánh Clêmentê đã nói:
- "Ai mạnh hãy lo cho người yếu.
Người giầu hãy giúp đỡ người nghèo và người nghèo hãy chúc tụng Chúa và điều
Ngài muốn cung ứng cho các nhu cầu của họ. Người khôn ngoan hãy tỏ ra khôn
ngoan không phải chỉ trong lời nói mà còn trong các việc lành. Người khiêm
tốn đùng nói gì về mình và đừng tìm phô diễn hành động của mình. Người lớn
không thể tồn tại mà không có người nhỏ và người nhỏ cũng không thể tồn tại
mà không có người lớn... Thân thể không thể bỏ qua sự phục vụ của những chi
thể nhỏ bé hơn.
Các tín hữu còn học biết bằng qua
những âu lo vô ích và sống đời sám hối, mỗi người phải biết vâng phục để trở
nên tôi tớ hoàn tất vinh quang Thiên Chúa. Đức Kitô đã không đến trong kiêu
sa, nhưng đã tự hạ, đã chịu khổ cực. Vậy phải nên thánh và tín thác cho
Chúa.
Chỉ một bức thư này còn quan trọng
trong sự thật vượt xa mọi truyện thần thoại.
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư
28/2/2007 –
Bài Giáo Lý 32 trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền
Anh Chị Em thân mến,
Trong mấy tháng qua, chún g ta đã suy niệm về những hình ảnh của từng vị
tông đồ và là những vị chứng nhân tiên khởi của đức tin Kitô Giáo, những vị
được đề cập tới trong các bản văn Tân Ước. Giờ đây, chúng ta quay sang các
vị Tông Giáo Phụ , tức đến thế hệ thứ nhất và thứ hai của Giáo Hội sau các
tông đồ. Nhờ đó chún g ta có thể thấy được cách thức Giáo Hội bắt đầu tiến
bước trong lịch sử.
Thánh Clêmentê, Giám Mục Rôma trong những năm cuối cùng của thế kỷ thứ nhất,
là vị thừa kế thứ ba của Thánh Phêrô, sau Đức Linus và Đức Anacletus. Chứng
từ quan trọng nhất về đời sống của ngài được Thánh Irênê là giám mục Lyon
viết mãi vào năm 202. Vị giám mục này cho rằng Thánh Clêmentê ‘đã từng thấy
các vị tông đồ… đã được gặp gỡ các vị ấy’, và ‘vẫn còn văng vẳng bên tai
giáo huấn của các vị, và vẫn còn thấy trước mắt truyền thống của các vị’ (Adv.
Haer. 3,3,3). Những chứng từ sau này, giữa thế kỷ thứ bốn và thứ sáu, thì
qui tước hiệu tử đạo cho Thánh Clêmentê.
Thẩm quyền và thế giá của vị Giám Mục Rôma này như vậy nên có một số bản văn
được qui về cho ngài, thế nhưng chỉ có một bản văn chắc chắn là Bức Thư gửi
cho Giáo Đoàn Côrintô.
Giáo phụ Eusebius thành Caesarea, một đại ‘lưu trữ viên’ của những gốc tích
Kitô Giáo, đã trình bày về bức thư này bằng những lời lẽ như sau: ‘Một bức
thư duy nhất của Đức Clêmentê đã được gửi xuống cho chúng ta được công nhận
là chân thực, trọng đại và tuyệt vời. Bức thư này được ngài viết nhân
danh Giáo Hội Rôma gửi cho Giáo Hội ở Côrintô… Chúng ta biết rằng qua một
thời gian dài, và cho tới cả ngày nay nữa, bức thư n ày được công khai đọc
trong những cuộc tái hợp của tín hữu’ (Hist. Eccl. 3,16).
Một đặc tính hầu như có tính cách giáo luật được qui cho bức thư này. Ở đầu
bản văn ấy, được viết bằng tiếng Hy Lạp, Đức Clêmentê xin lỗi nếu ‘những
biến cố phức tạp và tai hại’ (1:1) đã xẩy ra vì một cuộc can thiệp chậm
chạp. Những ‘biến cố’ ấy có thể được đồng hóa với cuộc bách hại của
Domitian; bởi thế, ngày tháng của bức thư này được viết vào thời điểm ngay
sau cái chết của vị hoàng đế ấy và trước khi chấm dứt cuộc bách hại, tức là
ngay sau năm 96.
Việc can thiệp của Đức Clêmentê – chúng ta vẫn còn ở thế kỷ thứ nhất – được
kêu gọi thực hiện vì những vấn đề trầm trọng Giáo Hội Côrintô đang trải qua;
thật vậy, các vị linh mục của cộng đồng này đã bị loại trừ bởi một số thành
phần trẻ trung mới tạo được uy thế. Biến cố đau thương này một lần nữa được
ghi nhớ bởi Thánh Irênê, vị đã viết rằng: ‘Dưới thời Đức Clêmentê, xẩy ra
một cuộc xung khắc trầm trọng giữa các người anh em ở Corintô, Giáo
Hội Rôma đã gửi cho giáo đoàn Côrintô một bức thư rất quan trọng để hòa giải
họ trong an bình, để canh tân đức tin của họ và để loan báo một truyền thống
họ đã lãnh nhận còn rất mới mẻ từ các vị tông đồ’ (Adv. Haer. 3,3,3).
Bởi thế, chúng ta có thể nói rằng bức thư này là việc hành sử lần đầu tiên
của một Vị Giáo Chủ ở Rôma sau cái chết của Thánh Phêrô. Bức thư của Thánh
Clêmentê đã đụng chạm tới những đề tài thân thương với Thánh Phaolô, vị đã
viết hai bức thư quan trọng cho giáo đoàn Côrintô, nhất là về vấn đề biện
chứng thần học, bao giờ cũng thích hợp, giữa biểu thị của việc cứu độ và
trách nhiệm dấn thân về luân lý.
Trước hết là việc công bố ơn cứu độ. Chúa thấy được là chúng ta cần gì và
ban ơn tha thứ cho chúng ta, ban cho chúng ta tình yêu của Người, ban cho
chúng ta ơn được làm người Kitô hữu, làm anh chị em của Người. Đó là điều
rao giảng làm cho cuộc đời chúng ta hân hoan và giúp cho các hoạt động của
chúng ta được vững chắc. Chúa Kitô luôn thấy được là các hành động của chúng
ta cần đến sự thiện hảo của Người và sự thiện hảo của Chúa bao giờ cũng lớn
hơn tất cả mọi tội lỗi của chúng ta.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải quyết tâm một cách gắn bó với tặng ân chúng ta
được lãnh nhận ấy và đáp lại việc loan truyền ơn cứu độ bằng một đường lối
quảng đại và can trường hướng tới việc hoán cải. So sánh với mô thức của
Thánh Phaolô, thì cái mới mẻ là ở chỗ, tiếp theo sau phần tín lý và phần
thực hành Thánh Clêmentê, có ‘một lời nguyện cầu long trọng’ để kết thúc bức
thư một cách cụ thể.
Dịp trực tiếp của bức thư này đã tạo cơ hội cho vị Giám Mục Rôma để can
thiệp một cách sâu rộng vào vấn đề căn tính của Giáo Hội và sứ vụ của Giáo
Hội. Thánh Clêmen tê ghi nhận là nếu có những c huyện lạm dụng xẩy ra ở
Côrintô thì lý do cần phải lưu ý tới đó là ở tình trạng yếu kém về đức ái và
những nhân đức cần thiết của Kitô Giáo. Đó là lý do tại sao ngài đã kêu gọi
tất cả mọi tín hữu hãy sống khiêm nhượng và yêu thương huynh đệ, hai nhân
đức thật sự là căn bản để làm phần tử của Giáo Hội. Ngài nói: ‘Chúng ta là
phần thể của Đấng Thánh, nên chúng ta hãy làm tất cả những gì liên quan tới
thánh thiện’ (30:1).
Đặc biệt vị Giám Mục Rôma này còn nhắc lại rằng chính Chúa Kitô, ‘Người muốn
những điều ấy được thực hiện ở đâu và bởi ai, thì chính Người đã ấn định
theo ý muốn tối cao của Người, để tất cả mọi sự, được thực hiện một cách đạo
hạnh theo sở thích tốt lành của Người, đáng được Người chấp nhận…. Vì những
việc phục vụ đặc biệt của Người là những gì được bổ nhiệm cho vị thượng tế,
và nơi chốn thích hợp của những việc phục vụ ấy được qui định cho các vị
linh mục, và những thừa tác vụ đặc biệt của những việc ấy được trao cho
thành phần Lêvi. Thành phần giáo dân, theo luật, có trách nhiệm đối với
những gì thuộc giáo dân’ (40:1-5: xin lưu ý là ở đây, trong bức thư từ cuối
thế kỷ thứ nhất này, lần đầu tiên văn chương Kitô Giáo có chữ Hy Lạp
‘laikós’, mang ý nghĩa là ‘phần tử của vương quốc’, tức là thành phần ‘dân
Chúa’).
Như thế, khi qui chiếu về phụng vụ của dân Yến Duyên, Thánh Clêmentê
cho thấy lý tưởng của ngài về Giáo Hội. Đó là một cuộc qui tụ bởi ‘một thần
linh ân sủng được đổ xuống trên chúng ta’, cho thấy, qua các phần tử khác
nhau của Thân Mình Chúa Kitô, tất cả được liên kết bất phân đều là ‘phần tử
của nhau’ (46:6-7).
Việc phân biệt rõ ràng giữa thành phần ‘giáo dân’ và phẩm trật dù sao cũng
không có nghĩa là một cái gì đó tương phản mà chỉ là một liên hệ theo cơ cấu
của một thân thể, của một tổ chức có những phần hành khác nhau. Thật vậy,
Giáo Hội không phải là một nơi hỗn độn và vô chủ, nơi mà ai muốn làm
gì thì làm vào bất cứ lúc nào, mỗi người trong cơ cấu có lớp lang này thực
hành thừa tác vụ của mình theo ơn gọi được nhận lãnh.
Liên quan tới thành phần lãnh đạo của các cộng đồng, Thánh Clêmentê
xác định rõ về tín lý của việc kế thừa tông đồ. Những luật lệ chi phối điều
này đều xuất phát từ chính Thiên Chúa một cách tối hậu. Chúa C ha sai Chúa
Giêsu Kitô, Đấng đến phiên mình thì sai các vị tông đồ. Rồi những vị này sai
thành phần thủ lãnh đầu tiên của các cộng đồng, và đã ấn định rằng họ
cần phải được những con người xứng đáng tuân theo. Bởi thế, tất cả mọi
sự được tiến triển ‘một cách lớp lang, theo ý muốn của lời Chúa’ (42).
Với những lời này, với những câu ấy, Thánh Clêmentê muốn nhấn mạnh rằng Giáo
Hội có một cấu trúc bí tích, chứ không phải là một cấu trúc chính trị. Các
tác động của Thiên Chúa vươn tới chúng ta trong phụng vụ là những gì đi
trước các quyết định và các ý nghĩ của chúng ta. Giáo Hội trước hết là một
tặng ân của Thiên Chúa chứ không phải là một sản phẩm của chúng ta, bởi thế
cấu trúc bí tích này chẳng những bảo đảm được trật tự chung mà còn là những
gì tiền dẫn đến tặng ân của Thiên Chúa tất cả chúng ta cần đến.
Sau hết, ‘lời nguyện long trọng’ cống hiến một thứ hít thở vũ trụ cho việc
bàn luận trước đó. Thánh Clêmentê ca ngợi và cảm tạ Thiên Chúa về sự quan
phòng yêu thương cao cả của Ngài, Đấng đã tạo dựng nên thế giới và
tiếp tục cứu thế giới và chúc lành cho thế giới. Lời kêu cầu cho cơ cấu cai
quản cũng được đặc biệt chú trọng. Sau các bản văn Tân Ước thì đây là lời
cầu nguyện cổ kính nhất cho các tổ chức chính trị. Bởi thế, khi mới có việc
bách hại, Kitô hữu, quá rõ là các cuộc bắt bớ sẽ tiếp tục xẩy ra, đã không
thôi nguyện cầu cho chính những vị thẩm quyền đã lên án họ một cách bất
chính.
Động lực ấy trước hết có tính cách Kitô học, đó là con người cần phải nguyện
cầu cho thành phần bách hại mình, như Chúa Giêsu đã làm trên cây thập giá.
Thế nhưng, lời cầu nguyện ấy cũng chất chứa một giáo huấn, qua giòng lịch
sử, hướng dẫn thái độ của Kitô hữu trước các hoạt động chính trị và quốc
gia.
Trong việc nguyện cầu cho các vị thẩm quyền, Thánh Clêmentê nhìn nhận tín h
cách hợp lý của các cơ cấu chính trị theo trật tự được Thiên Chúa ấn định.
Đồng thời ngài cũng bày tỏ mối quan tâm của ngài về việc những thẩm quyền
này phải làm sao để dễ dạy đối với Thiên Chúa và ‘hành sử quyền hành được
Chúa ban trong an bình và nhân ái xót thương’ (61:2).
Cêsa không phải là tất cả. Còn có một chủ quyền khác, mà nguồn gốc và yếu
tính của nó không thuộc về thế giới này, mà là ‘từ trên cao’: đó là thẩm
quyền của Sự Thật, một sự thật có quyền được lắng nghe cũng như có quyền đối
chất với quốc gia.
Như thế, bức thư của Thánh Clêmentê nêu lên nhiều đề tài vẫn còn thực hữu.
Điều này càng có ý nghĩa hơn, vì nó tiêu biểu, từ thế kỷ thứ nhất, mối quan
tâm của Giáo Hội Rôma, một Giáo Hội chủ sự trong đức ái đối với tất cả mọi
giáo hội khác.
Theo cùng tinh thần ấy, chúng ta thực hiện những lời cầu khẩn của chúng ta
như ‘lời nguyện trọng đại’ này, nơi vị Giám Mục Rôma trở thành tiếng nói cho
toàn thế giới, ‘vâng, lạy Chúa, xin chiếu tỏa dung nhan Chúa trên chúng con
cho thiện ích trong an bình, để chúng con được bàn tay quyền năng của
Chúa bao che… chúng con ca ngợi Chúa qua vị thượng tế và là vị bảo hộ linh
hồn của chúng con là Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà vinh quang và uy nghi
được qui về Chúa bay giờ và qua mọi thế hệ cho tới muôn đời. Amen’ (60-61).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ
biến ngày 7/3/2007
Thứ
Năm
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Kh
18, 1-2, 21-23; 19, 1-3. 9a
"Thành Babylon vĩ đại đã sụp đổ rồi".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Tôi là Gioan đã nhìn thấy một thiên thần từ trời xuống, có quyền năng cao
cả, và đất rực sáng lên bởi vinh quang của Người. Người dõng dạc kêu lên
rằng: "Thành Babylon vĩ đại đã sụp đổ rồi, đã sụp đổ rồi: nó đã trở thành
nơi ma quỷ ở, hang mọi thần ô uế ẩn trú, và nơi mọi thứ chim dơ bẩn gớm
ghiếc làm tổ".
Rồi có một thiên thần dũng lực nhắc bổng hòn đá như cối xay lớn, và quăng
xuống biển mà rằng: "Thành Babylon sẽ bị quăng xuống dữ tợn như vậy, và
không còn tìm thấy nó nữa". Tiếng người gảy đàn và kẻ hát ca, tiếng kẻ thổi
sáo thổi kèn sẽ không còn nghe thấy nơi ngươi nữa. Những người thợ bá nghệ
không còn tìm thấy nơi ngươi nữa; và tiếng cối xay cũng chẳng còn nghe thấy
nơi ngươi nữa. Ðèn sáng không còn chiếu sáng nơi ngươi nữa. Tiếng tân lang
tân nương không còn nghe thấy nơi ngươi nữa, vì những tay buôn của ngươi là
bọn kỳ hào trên hoàn vũ, và bởi phù phép ngươi, mọi dân tộc phải lầm lạc".
Sau đó, tôi nghe như có tiếng nhiều đoàn người trên trời tung hô rằng:
"Alleluia! Ơn Cứu độ, vinh quang và quyền năng đều thuộc về Thiên Chúa chúng
ta: vì sự xét xử của Người thật chính trực và công minh, Người luận phạt gái
điếm khét tiếng đã từng làm cho địa cầu ra hư nát bởi trò dâm dật của nó;
Người đã báo oán máu các tôi tớ Người do tay nó đã đổ ra. Họ lại cất tiếng
rằng: "Alleluia! Khói nó bốc lên cho tới muôn đời".
Và thiên thần bảo tôi: "Hãy viết rằng: Phúc cho những ai được mời đến dự
tiệc cưới Con Chiên".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 99, 2. 3. 4. 5
Ðáp: Phúc
cho những ai được mời đến dự tiệc cưới Con Chiên (Kh 19, 9a).
Xướng: 1) Hãy phụng sự Thiên Chúa với niềm vui vẻ! Hãy vào trước thiên nhan
với lòng hân hoan khoái trá. - Ðáp.
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta, và ta
thuộc quyền sở hữu của Người, ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi. -
Ðáp.
3) Hãy vào trụ quan nhà Người với lời khen ngợi, vào hành lang với khúc ca
vui, hãy tán dương, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.
4) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và
lòng trung tín Người còn tới muôn thế hệ. - Ðáp.
Alleluia: Lc 21,
28
Alleluia, alleluia! - Các con hãy đứng dậy và
ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21,
20-28
"Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho
đến thời kỳ dành cho các dân ngoại chấm dứt".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:
"Khi các con thấy Giêrusalem bị các đạo binh bao vây, các con hãy biết rằng
đã gần đến lúc thành ấy bị tàn phá. Bấy giờ những ai ở trong đất Giuđa, hãy
chạy trốn lên núi, những ai ở trong thành, hãy rời xa, và những ai ở vùng
quê, chớ có vào thành; vì những ngày ấy là những ngày báo oán, để ứng nghiệm
mọi lời đã ghi chép.
"Khốn cho những đàn bà đang mang thai và nuôi
con thơ trong những ngày ấy: vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và
cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải
bắt đi làm tôi trong các dân, và Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho
đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt.
"Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và
các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ.
Người ta sợ hãi kinh hồn, chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các
tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người
hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy
đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần
đến".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nguyện Lời Chúa
Tiếp theo bài Phúc Âm hôm qua về số
phận bị bách hại của thành
phần chứng
nhân cuối
thời, hôm nay, Thứ Năm Tuần XXXIV Thường Niên, Bài
Phúc Âm thuật lại thêm những lời cảnh báo kèm huấn dụ của Chúa Giêsu với các
môn đệ về việc ứng phó với tình hình cuối thời, sau đó Người lại cho biết
tiếp về hiện tượng cuối thời diễn
tiến cho đến
khi Người tái
xuất hiện.
Về những
lời huấn dụ kiêm
cảnh báo của
Chúa Giêsu với các môn đệ liên
quan đến việc ứng
phó tình hình cuối thời:
"Khi
các con thấy Giêrusalem bị các đạo binh bao vây, các con hãy biết rằng đã
gần đến lúc thành ấy bị tàn phá. Bấy giờ những ai ở trong đất Giuđa, hãy
chạy trốn lên núi, những ai ở trong thành, hãy rời xa, và những ai ở vùng
quê, chớ có vào thành; vì những ngày ấy là những ngày báo oán, để ứng nghiệm
mọi lời đã ghi chép. Khốn
cho những đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì
chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này.
Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt đi làm tôi trong các dân, và
Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại
chấm dứt".
Về hiện tượng cuối thời diễn tiến cho đến khi Chúa Kitô xuất hiện:
"Sẽ có những điềm lạ
trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo
lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn, chờ đợi những gì sẽ xảy
đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy
trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những
điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu
rỗi các con đã gần đến".
Để tiếp tục những
cảm nhận và dẫn giải về mầu nhiệm cùng biến cố tái giáng của Chúa Kitô,
như đã được trình bày và chia sẻ ở Thứ Sáu Tuần XXXII Thường Niên - Phụng
Vụ Lời Chúa - Tuần XXXII Thường Niên Chu Kỳ B, và Chúa
Nhật XXXIII Thường
Niên: Phụng
Vụ Lời Chúa - Tuần XXXIII Thường Niên Chu Kỳ B - ở đây,
hôm nay, chúng
ta lưu ý thêm những chi tiết chưa có trong 2 bài Phúc Âm trên, thứ tự như
sau:
Trước hết, "Khi
các con thấy Giêrusalem bị các đạo binh bao vây (có
thể ám chỉ đạo binh gog và magog ở Khải Huyền 20:8-9), các
con hãy biết rằng đã gần đến lúc thành ấy bị tàn phá. Bấy giờ những ai ở
trong đất Giuđa (có
thể ám chỉ cộng đồng dân Chúa trên thế giới, vì Giuđêa là miền nam nước Do
Thái, miền đất chính yếu của Do Thái giáo, nơi có giáo đô và đền thờ
Giêrusalem bị xâm chiếm và tàn phá),
hãy chạy trốn lên núi, những ai ở trong thành, hãy rời xa, và những ai ở
vùng quê, chớ có vào thành".
Nghĩa
là thành phần chứng nhân cuối thời phải làm sao để có thể thoát
nạn khi đến thời điểm xẩy
ra là "ngày báo oán" và ở
ngoài địa điểm xẩy
ra là "thành Giêrusalem".
Việc họ có thể vượt thoát
hoạn nạn kinh hoàng hầu như bất khả đối với khả năng tự nhiên của con
người này chứng tỏ thành phần chứng nhân cuối thời thật sự tỉnh thức, nhận
ra dấu chỉ thời đại và ứng biến một cách khôn
ngoan, không giống như
thành phần nạn nhân bị mắc kẹt ở lại không thể thoát thân, gây ra bởi chính
tình trạng mù quáng và nặng nề chậm chạp của họ, như được nói đến
ngay dưới đây.
Sau nữa, "khốn
cho những đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì
chưng sẽ xẩy ra những khốn
cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục
dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt đi làm tôi trong các dân".
"Người đàn
bà đang mang thai và nuôi con thơ" đây có thể ám chỉ những ai lo
toan bận bịu vướng mắc thế gian vào lúc bấy giờ, như thành phần buôn bán
trong Đền Thờ Giêrusalem bị Chúa đánh đuổi trong bài Phúc Âm Thứ Sáu
Tuần XXXIII Thường Niên vừa rồi, sẽ chịu "khốn cực cả thể", ở chỗ họ
"sẽ
ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị bắt
đi làm tôi trong các dân, và Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến
thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt".
"Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại
chấm dứt"
Vào thời điểm ngày cùng
tháng tận, "các dân ngoại" đây không phải là thành phần ngoài dân Do
Thái thời Cựu Ước và là thành phần đã làm
nên Giáo Hội Chúa Kitô thời Tân Ước, mà
là tất cả những ai, dù là Kitô hữu, sống như không có đức tin, sống theo
tinh thần và khuynh hướng của dân ngoại, theo
trào lưu vô thần duy vật, hoàn
toàn phản lại với Chúa Kitô và bất chấp lề luật Thiên Chúa, như tình trạng
văn hóa Kitô giáo đang bị hủy hoại ở thế giới Tây phương Kitô giáo hiện
nay... Nhưng tình trạng "Giêrusalem
sẽ bị các dân ngoại chà đạp" này
chỉ kéo dài trong một thời gian giới
hạn được phép, tức "cho
đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt". Nghĩa
là cho tới khi Chúa Kitô xuất hiện như Người đã xuất hiện để thanh tẩy đền
thờ Giêrusalem trong Bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần XXXIII vừa rồi.
Sau
hết, "Khi
những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ
cứu rỗi các con đã gần đến". Đúng
thế, "Khi
những điều đó bắt đầu xảy đến" nghĩa là lúc "Giêrusalem
sẽ bị các dân ngoại chà đạp", thì đó
là dấu báo cho biết "giờ
cứu rỗi các con đã gần đến",
nghĩa là lúc Chúa Kitô
sắp sửa xuất hiện để thanh tẩy Đền Thánh của Người, thì thành phần chứng
nhân cuối thời chẳng những không được sợ hãi hay chán nản bỏ cuộc, trái lại,
còn phải hân hoan vui mừng "đứng
dậy và ngẩng đầu lên" nữa, để
sửa soạn tiến lên nghênh đón
Người là Đấng Cứu Chuộc
Nhân Trần - Redemptor Hominis (nhan đề của bức thông điệp đầu tay được Thánh
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ban hành ngày 4/3/1979).
Phải chăng thành phần được Chúa Giêsu tiên báo
trong Bài Phúc Âm hôm nay là "khốn cho những đàn bà đang mang thai và nuôi
con thơ trong những ngày ấy: vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và
cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải
bắt đi làm tôi trong các dân, và Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho
đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt", được Sách Khải Huyền trong
Bài Đọc 1 hôm nay ám chỉ nơi hiện tượng
"'Thành Babylon vĩ đại đã sụp đổ rồi, đã sụp đổ
rồi: nó đã trở thành nơi ma quỷ ở, hang mọi thần ô uế ẩn trú, và nơi mọi thứ
chim dơ bẩn gớm ghiếc làm tổ'. Rồi có một thiên thần dũng lực nhắc bổng hòn
đá như cối xay lớn, và quăng xuống biển mà rằng: 'Thành Babylon sẽ bị quăng
xuống dữ tợn như vậy, và không còn tìm thấy nó nữa'".
Và
phải chăng thành phần biết khám phá ra
những dấu chỉ thời đại liên quan đến "giờ cứu
rỗi các con đã gần đến", như Chúa Giêsu nói đến trong Bài Phúc Âm hôm nay,
cũng được ám chỉ nơi thị kiến của Thánh Gioan và được ngài ghi lại trong
Sách Khải Huyền ở Bài Đọc 1 hôm nay như thế này: "Sau đó, tôi nghe như có tiếng nhiều đoàn người trên trời tung hô rằng:
'Alleluia! Ơn Cứu độ, vinh quang và quyền năng đều thuộc về Thiên Chúa chúng
ta: vì sự xét xử của Người thật chính trực và công minh, Người luận phạt gái
điếm khét tiếng đã từng làm cho địa cầu ra hư nát bởi trò dâm dật của nó;
Người đã báo oán máu các tôi tớ Người do tay nó đã đổ ra. Họ lại cất tiếng
rằng: Alleluia! Khói nó bốc lên cho tới muôn đời'".
Đúng thế, nếu chỉ có "những ai bền đỗ đến cùng mới được cứu độ"
(Mathêu 24:12), tức là "những ai thiết tha mong đợi Người (trong
lần Người xuất hiện lần thứ hai)" (Do Thái 9:28), hay nói cách khác, như
cách diễn tả của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âjm hôm nay: "đứng thẳng và
ngẩng đầu lên", mới được nghe thấy tiếng của vị thiên thần ở cuối Bài
Đọc 1 hôm nay: "Phúc cho những ai được mời đến dự
tiệc cưới Con Chiên", một câu chúc phúc trở thành
câu họa chung của Bài Đáp Ca hôm nay, một
Bài Đáp Ca chất chứa những lời kêu gọi của Thánh Vịnh 99 với thành phần
"đứng thẳng và ngẩng đầu lên" này như sau:
1) Hãy phụng sự Thiên Chúa với niềm vui vẻ! Hãy vào trước thiên
nhan với lòng hân hoan khoái trá.
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta, và
ta thuộc quyền sở hữu của Người, ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn
nuôi.
3) Hãy vào trụ quan nhà Người với lời khen ngợi, vào hành lang với khúc
ca vui, hãy tán dương, hãy chúc tụng danh Người.
4) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và
lòng trung tín Người còn tới muôn thế hệ.
Làm chiên, ta thắng ; làm sói, ta thua
(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách II cho Thứ 5 Tuần XXXIV Thường Niên)
Trích bài giảng của thánh Gio-an Kim Khẩu, giám mục, về Tin Mừng theo
thánh Mát-thêu.
Bao lâu là chiên, bấy lâu ta thắng. Cho dù vô
số sói dữ vây quanh, ta vẫn thắng. Nhưng nếu là sói, ta sẽ thua : vì
không còn được Đấng Chăn Chiên trợ giúp. Thật vậy, Chúa không chăn sói,
chỉ chăn chiên. Người sẽ bỏ rơi và xa lánh bạn, vì bạn không để cho
Người bày tỏ quyền năng.
Người muốn nói thế này : Khi sai anh em đi giữa sói rừng, Thầy truyền
cho anh em hãy nên như chiên, và như bồ câu. Thầy đã có thể làm ngược
lại, không sai anh em đi để gặp phải điều dữ, cũng không nộp anh em như
nộp chiên cho sói, nhưng có thể làm cho anh em nên hùng mạnh hơn sư tử.
Tuy nhiên, sự việc diễn ra như thế là phải, nhờ đó, anh em được vẻ vang
hơn và quyền năng của Thầy cũng được tỏ rõ. Chúa cũng nói như vậy với
thánh Phao-lô : Ơn của
Thầy đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu
đuối. Chính Thầy đã xếp đặt cho anh em như thế. Thật vậy, khi nói Thầy
sai anh em đi như chiên con, Người ngụ ý rằng : Anh em đừng nhụt
chí, vì Thầy biết, Thầy nắm chắc là anh em sẽ trở thành vô địch, không
ai thắng nổi.
Rồi để chính họ tự mình làm được điều gì đó, và khỏi bị coi là chuyện
chi cũng nhờ ân sủng thực hiện, khỏi bị cho là được thưởng vô lý, Chúa
mới bảo họ : Vậy anh em
phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu. Nhưng họ sẽ nói : Giữa bằng
ấy hiểm nguy, khôn ngoan làm gì được cho chúng ta ? Giữa bấy nhiêu sóng
gió dập dồn, làm sao mà khôn ngoan cho được ? Mà dẫu cho có khôn ngoan
mấy đi nữa, thì giữa sói, giữa bầy sói quá đông như vậy, chiên làm được
cái gì ? Bồ câu có đơn sơ mấy đi nữa, thì sự đơn sơ ấy cũng giúp gì được
cho bồ câu khi bị lũ chim ưng quá đông như vậy săn bắt ? Khôn ngoan hay
đơn sơ hẳn là chẳng giúp ích gì cho loài vật không lý trí, nhưng sẽ giúp
ích rất nhiều cho anh em.
Nhưng hãy xem Chúa đòi chúng ta phải có thứ khôn ngoan nào ? Người nói : Khôn
như rắn. Rắn bỏ hết, cả khi có bị chặt khúc, nó cũng chẳng chống cự
bao nhiêu, miễn là còn giữ được cái đầu. Chúa nói : Con cũng vậy, giữ
lấy đức tin thôi, còn thì bỏ hết : tiền bạc, thân xác, cả mạng sống nữa.
Vì đức tin là đầu mà cũng là gốc. Giữ được đức tin, thì có mất tất cả,
sau này con cũng sẽ được lại tất cả và được dư tràn. Vì thế, Chúa không
dạy là chỉ phải đơn sơ thôi hay chỉ phải khôn ngoan thôi, nhưng Người
gộp cả hai lại, và có đủ cả hai thì mới thật là nhân đức. Người muốn bạn
khôn như rắn để bạn tránh được những vết tử thương. Người muốn bạn đơn
sơ như bồ câu để đừng trả đũa kẻ hại bạn và đừng trả thù kẻ gài bẫy bạn
; chẳng vậy, thì khôn ngoan cũng hoàn toàn vô ích.
Xin đừng ai nghĩ rằng những huấn lệnh trên đây không thể thi hành được,
vì hơn ai hết, Chúa biết rõ bản tính của mọi loài : Chúa biết là để
chiến thắng hung ác, không thể dùng hung ác, nhưng phải dùng hiền từ.
Ngày 24 tháng 11
THÁNH AN-RÊ TRẦN AN DŨNG LẠC
VÀ CÁC BẠN, TỬ ĐẠO
lễ trọng
(ở Việt Nam)
Hôm
nay, phụng vụ kính nhớ 117 chứng nhân tử đạo Việt Nam. Các vị đã được
tôn phong chân phước trong bốn đợt : Năm 1900, đức giáo hoàng Lê-ô XIII
tôn phong 64 vị ; đức giáo hoàng Pi-ô X tôn phong 8 vị năm 1906 và 20 vị
năm 1909. Năm 1951, đức giáo hoàng Pi-ô XII tôn phong 25 vị. Tất cả 117
vị đều được đức giáo hoàng Gio-an Phao-lô II tôn phong hiển thánh ngày
19 tháng 6 năm 1988.
Trong
nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, kể từ lúc Tin Mừng bắt đầu được loan
báo tại Việt Nam, thế kỷ XVI, cho đến cuộc bách hại khốc liệt thế kỷ
XIX, đã có nhiều chứng nhân anh dũng cả người Âu lẫn người Việt hy sinh
thân mình vì Chúa Ki-tô.
Hồ sơ
phong thánh và Các Giờ Kinh Phụng Vụ đặc biệt chú ý đến các tên tuổi sau
: Người Việt Nam : thánh An-rê Dũng Lạc, linh mục (+ 1839), thánh Tô-ma
Trần Văn Thiện, chủng sinh (+ 1838), thánh Phao-lô Lê Bảo Tịnh, linh mục
(+ 1857), thánh Em-ma-nu-en Lê Văn Phụng, giáo lý viên và người cha
trong gia đình (+ 1859). Các tu sĩ Đa-minh người Tây Ban Nha, thuộc Tỉnh
Dòng Mân Côi : thánh Giê-rô-ni-mô Héc-mô-xi-la Liêm, giám quản tông toà
địa phận Đông đàng ngoài (+ 1861), thánh Va-len-ti-nô Be-ri-ô Ô-choa,
giám mục (+ 1861) và một vị người Pháp thuộc Hội Thừa Sai Pa-ri, thánh
Tê-ô-phan Vê-na (+ 1861).
Thánh thi
Đoàn người đông vô kể
Vừa đi vừa hát ca,
Tay cầm cành thiên tuế,
Áo trắng như tuyết pha,
Từ khắp miền huyết lệ,
Từ đau khổ bao la,
Tôn vinh Con Thiên Chúa
Tề tựu trước ngai toà.
Chúng con nơi trần thế
Xin hợp tiếng hoan ca,
Kính mừng chư quý vị
Tử đạo Việt Nam nhà.
Suốt gần ba thế kỷ
Gian khổ dám xông pha,
Nay triều thiên diễm lệ
Rực chiếu khắp sơn hà.
Xin cầu cho hậu duệ
Noi gương sáng ông cha,
Đức tin quyết bảo vệ,
Đức ái toả sáng ra,
Xây dựng nước trần thế,
Mở rộng nước Chúa Cha.
Nguyện cùng chư quý vị
Mai sau trước thiên toà
Tung hô vinh quang Chúa,
Muôn thuở vang lời ca.
Các vị tử đạo được thông phần
cuộc chiến thắng của Đầu là Đức Ki-tô
Trích thư của thánh Phao-lô Lê Bảo Tịnh gửi các chủng
sinh chủng viện Kẻ Vĩnh năm 1843.
Tôi là Phao-lô, đang bị xiềng xích vì Đức Ki-tô. Tôi
muốn nói cho anh em biết những gian truân tôi đang chịu
hằng ngày, để anh em được cháy lửa yêu mến Chúa mà hợp
với tôi dâng lời ca ngợi Thiên Chúa : Chúa
yêu thương ta đến muôn đời.
Ngục thất này quả là một hình ảnh sống động của hoả ngục
đời đời : ngoài gông cùm, xiềng xích, dây thừng, lại còn
thêm sự nóng giận, oán thù, nguyền rủa, những lời tục
tĩu, những sự gây gỗ, những hành vi xấu xa, những lời
thề gian, nói hành, và cả nỗi chán nản, buồn phiền, cả
ruồi muỗi rận rệp.
Nhưng Đấng đã giải thoát ba người thanh niên khỏi ngọn
lửa bừng bừng vẫn luôn ở cùng tôi ; Người cũng đã giải
thoát tôi khỏi những sự khốn khó này bằng cách làm cho
trở nên ngọt ngào : Chúa
yêu thương ta đến muôn đời.
Những cực hình này thường làm cho người khác buồn sầu,
nhưng nhờ ơn Chúa giúp, tôi vẫn đầy vui sướng hân hoan,
bởi vì tôi không chỉ có một mình, nhưng có Đức Ki-tô ở
cùng tôi. Người là Thầy của chúng ta, Người mang tất cả
sức nặng của thập giá, chỉ để cho tôi đỡ phần nhẹ nhất.
Người không chỉ nhìn tôi chiến đấu, mà chính Người đang
chiến đấu và chiến thắng. Vì thế, triều thiên vinh quang
đã được đặt trên đầu Người, nhưng chi thể cũng được hân
hoan vì vinh quang của đầu.
Lạy Chúa, làm sao con sống nổi khi hằng ngày con thấy
quan quyền và thuộc hạ nói phạm đến thánh danh Chúa,
Đấng ngự trên các thần kê-ru-bim và xê-ra-phim ? Kìa
thập giá của Chúa bị kẻ ngoại chà đạp dưới chân ! Còn
đâu là vinh quang Chúa ? Chứng kiến tất cả cảnh này, vì
cháy lửa yêu mến Chúa, con thà chịu chết và chịu phân
thây để chứng tỏ lòng con yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin tỏ cho con thấy quyền năng của Chúa, xin
cứu giúp con, để trong sự yếu đuối của con, sức mạnh của
Chúa được biểu lộ và tôn vinh trước mặt thế gian, kẻo
những thù địch của Chúa lên mặt vì thấy con bị lung lạc.
Khi nghe biết những điều này, anh em hãy vui mừng dâng
những lời tạ ơn bất tận lên Thiên Chúa là Đấng ban mọi
ơn lành, và hãy cùng tôi chúc tụng Chúa, vì Chúa
yêu thương ta đến muôn đời. Linh hồn tôi ngợi khen Đức
Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Người đã đoái
thương nhìn đến phận hèn tôi tớ ; từ nay hết mọi đời sẽ
khen tôi có phúc : Chúa yêu thương ta đến muôn đời.
Muôn nước hỡi, nào ca
ngợi Chúa ; ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người, vì
Thiên Chúa đã chọn cái yếu đuối để hạ nhục cái mạnh mẽ,
chọn cái hèn mạt để triệt phá cái cao sang. Thần Khí
Chúa đã dùng miệng lưỡi tôi để hạ nhục những người khôn
ngoan của thế gian, vì Chúa
yêu thương ta đến muôn đời.
Tôi viết cho anh em những điều này để chúng ta hợp nhất
với nhau trong đức tin. Giữa cơn bão táp này, tôi đã thả
một cái neo vào tận ngai Thiên Chúa : đó là niềm hy vọng
luôn sống động trong lòng tôi.
Anh em thân mến, hãy
chạy đua thế nào để đạt được triều thiên ; hãy
cầm khí giới của Thiên Chúa bên phải và bên trái, hãy
mặc áo giáp là đức tin, như thánh Phao-lô quan thầy
của tôi đã dạy. Thà chột mắt cụt chân mà được vào Nước
Trời, còn hơn lành lặn mà bị ném ra ngoài.
Anh em hãy giúp đỡ tôi bằng lời cầu nguyện, để tôi chiến
đấu hợp lệ, để tôi chiến đấu đến cùng trong cuộc chiến
đấu cao cả, và kết thúc tốt đẹp cuộc chạy đua.
Nếu chúng ta không còn được gặp nhau ở đời này, thì ở
đời sau chúng ta sẽ được hạnh phúc gặp nhau mãi mãi :
Chúng ta sẽ đứng trước ngai của Con Chiên tinh tuyền, và
hân hoan ca tụng tôn vinh Người muôn đời. A-men.
Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Hội Thánh Việt Nam nhiều chứng
nhân anh dũng biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin
trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con.
Xin nhậm lời các ngài chuyển cầu mà cho chúng con biết noi
gương các ngài để lại : luôn can đảm làm chứng cho Chúa và
trung kiên mãi đến cùng. Chúng con cầu xin
Phụ đề:
Các thánh tử đạo Việt
Nam là
danh sách những tín
hữu Công giáo người
Việt hoặc thừa
sai ngoại quốc được Giáo
hội Công giáo Rôma tuyên
thánh với lý do tử
đạo. Trong lịch sử Công
giáo tại Việt Nam, ước tính có đến hàng trăm ngàn người đã tử vì đạo để
làm chứng cho đức tin Kitô
giáo. Trong số đó có 117 vị đã được Giáo
hoàng Gioan Phaolô II tuyên Thánh vào
ngày 19
tháng 6 năm 1988,
và Anrê
Phú Yên được tuyên Chân
phước ngày 5
tháng 3 năm 2000.
Ngày lễ kính chung cho các thánh tử đạo Việt Nam là ngày 24
tháng 11 và ngày Chúa nhật thứ 33 Mùa
Thường niên.
Theo quốc tịch, 117 Thánh Tử đạo Việt Nam được chia ra như sau:
Theo Việt sử, các vị này đã bị giết trong những đời vua chúa sau đây:
Trong thế
kỷ 18 và 19,
có khoảng từ 130 ngàn đến 300 ngàn người Công
giáo đã chết vì đạo; riêng trong thời gian từ 1857 đến 1862,
có khoảng 5 ngàn tín hữu bị giết, khoảng 40 ngàn tín hữu cùng 215 giáo sĩ,
tu sĩ nam nữ đã bị bắt, bỏ tù hay lưu đày vì đạo[cần
dẫn nguồn]. Trong số đó có 117 vị, tử đạo từ 1745 đến
1862, được Giáo
hội Công giáo Rôma tôn vinh Chân phước qua bốn đợt:
Và được tuyên Thánh vào
ngày 19
tháng 6 năm 1988.
Khi được tin về việc tuyên thánh, chính phủ Việt Nam lên tiếng phản đối và
cho rằng, trong số những người sẽ được tuyên
thánh, có nhiều người là tay sai của đế quốc, lót đường cho Pháp đô hộ
Việt Nam từ năm 1884.
Tuy nhiên, theo quan điểm của phía Công giáo thì họ là những tín hữu đã chết
vì lý do tín ngưỡng, họ bị hành quyết bởi bản án do chính tay vua, hay đại
diện triều đình thời đó ký nhận. Không có bằng chứng nào cho thấy bản án này
có liên quan đến chính trị, ngược lại, chỉ trưng ra lý do duy nhất: các giám
mục, linh mục trong số bị kết án vì họ là đạo trưởng (giáo sĩ), các giáo dân
bị kết án vì họ không chịu bỏ đạo Công giáo, không chịu bước qua cây thập
giá. Nói cách khác, lý do được công khai tuyên bố có tính cách hoàn toàn
tôn giáo.[1] Hà
Nội nhận định, việc tuyên thánh này sẽ làm cho mối liên lạc giữa chính quyền
và Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, cũng như mối quan hệ giữa Việt Nam và
Vatican thêm căng thẳng. Đài
tiếng nói Việt Nam đọc lệnh của chính phủ, cấm người Công
giáo cử hành lễ tuyên thánh này. Các Giám mục lẫn giáo dân Việt Nam cũng
không được chính quyền cho phép sang Vatican dự lễ. Trong khi đó, khoảng hơn
10 ngàn người Công giáo Việt Nam ở hải ngoại (chủ yếu sau sự kiện thuyền
nhân), nhiều người từ Pháp, Tây Ban Nha đã đến Vatican để dự lễ vì trong
số người được tuyên thánh có đồng hương và đồng bào của họ[2].
Theo lời Đức Ông Vinh
Sơn Trần Ngọc Thụ - cáo thỉnh viên án tuyên thánh thì: theo
thông lệ, khi xin nhật kì tuyên thánh, bao giờ cũng phải dự tính sẵn 3 ngày,
để đề phòng trường hợp Tòa Thánh đã có chương trình xếp đặt nào khác thì
phải thay đổi theo. Lễ tuyên thánh Việt Nam đã xin vào ngày 29
tháng 6 năm 1988 -
trùng lễ kính hai Thánh Phêrô và Phaolô, nhưng người ta khuyến cáo không nên
chọn vào ngày đó vì sẽ bị lễ hai Thánh quá lừng danh này lấn át mất. Sau đó
có dự tính chuyển sang ngày Chủ nhật 26
tháng 6 nhưng cũng không ổn, vì hôm đó Giáo hoàng phải đi
công du bên nước Áo.
Chỉ còn ngày Chủ nhật 19
tháng 6, nghĩa là xếp trước cuộc công du của Giáo hoàng một tuần lễ, vì
trước và sau ngày đó không còn cách nào khác. Đây là lý do duy nhất và dễ
hiểu cho việc chọn ngày lễ tuyên thánh tử đạo Việt Nam là ngày 19 tháng 6,
chứ không hề có chuyện nghĩ tới, hay là mảy may muốn kỉ niệm Ngày Quân lực
Việt Nam Cộng hòa.[3]
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c_th%C3%A1nh_t%E1%BB%AD_%C4%91%E1%BA%A1o_Vi%E1%BB%87t_Nam
Ngày 24 Tháng 11
Thánh Phêrô BORIE CAO
Giám mục Thừa sai Paris
(1808 - 1838)
(cùng với 2 vị Lm Việt Nam là Cha Phêrô Vũ Đăng Khoa và Cha Vinhsơn
Nguyễn Thế Điềm,
Vị thánh thừa sai Phêrô Borie Cao là vị tử đạo vào chính ngày
24/11 là ngày được chọn kính chung 117 vị anh hùng tử đạo trên đất Việt)
Người Thợ Xay Lúa
Giám mục Borie Cao chưa làm giám mục đến một ngày, nhưng ngài xứng đáng với
tước hiệu đó. Căn cứ vào khả năng và nhiệt tình, Đức cha Havard Du đã chọn
ngài làm giám mục phó có quyền kế vị. Cha Cao nhận được giấy quyết định của
Tòa Thánh đang khi ở trong tù, và vì thế chưa kịp thụ phong. Tên thường gọi
của ngài là Dumoulin (tiếng Pháp là máy xay lúa) do bạn bè đặt. Thế nhưng
danh xưng Dumoulin đã đi vào lịch sử với hai tước hiệu vinh quang: Giám mục
và tử đạo. Quả thật đối với Chúa, giá trị con người là nhân đức và thiện
chí, dù thuộc giai cấp nào, mọi người đều được kêu gọi nên thánh.
Khi Thiên Chúa Can Thiệp
Phêrô Borie Cao sinh ngày 20.2.1808, tại Beynat miền Corrèze, thân phụ tên
là Guillaume Berie, thân mẫu là Rose Borie. Thế nhưng vì song thân làm nghề
xay lúa, bạn bè hàng xóm quen gọi cậu là Dumoulin. Sinh trưởng trong một gia
đình tầm thường như vậy, nên thuở bé Dumoulin có tính cẩu thả. Cha mẹ ép cậu
vào chủng viện, cậu nghe theo nhưng chẳng hứng thú gì, và vi phạm kỷ luật
liên tục. Cha giám đốc phải sử dụng nhiều hình thức xử phạt, cũng chẳng làm
cậu khá hơn được. Tuy vậy, Thiên Chúa đã can thiệp vào cuộc đời con người
Ngài tuyển chọn.
Bất ngờ Borie bị một cơn sốt trầm trọng. Trên giường bệnh, cậu có cơ hội suy
tư về đời mình. Một hôm đang khi đọc cuốn niên giám của trường Thừa sai ghi
lại cuộc đời các vị truyền giáo, cậu thấy một tia sáng chói lóa trong tâm
hồn. Thế là như thánh Phaolô trên đường Đamas xưa, cuộc đời cậu Borie từ nay
chỉ lấy Đức Giêsu làm lẽ sống, từ đó cậu siêng năng đến gặp Chúa trong Thánh
Thể. Và trong những giờ gặp gỡ ấy, cậu nghe như Ngài kêu gọi cậu lãnh nhận
một sứ mạng cao quý hơn: Sứ mạng truyền giáo.
Trong những giây phút nguyện cầu linh thiêng ấy, Borie như thấy Chúa nói với
mình về vùng Viễn Đông xa xăm, về những người ở đây còn chưa biết Chúa, về
những Thừa sai đã đến đó rao giảng Tin mừng và hỏi cậu có yêu Ngài đủ để ra
đi như thế không. Câu trả lời của Borie đã được chính cậu ghi lại trong một
buổi tận hiến cho Đức Maria:
“Lạy Mẹ của con, xin hãy tin nơi con, khi con trưởng thành, con sẽ hiến toàn
thân cho việc cảm hóa những người chưa tin. Xin Mẹ giúp con đi theo con
đường và tinh thần của ơn kêu gọi đó. Xin cho con được đau khổ vì danh Đức
Kitô, được đón nhận ngành lá tử đạo và về đến bến vinh quang”.
Đức Mẹ như đã nhận lời cậu. Càng ngày Borie càng cương quyết hơn với giấc mơ
truyền giáo. Để giấc mơ có thể thành hiện thực, cậu xin chuyển qua chủng
viện hội Thừa sai Paris. Tại đây cậu kiên trì học tập, lãnh chức phó tế năm
1829, vị tân linh mục bắt đầu xuống tàu khởi hành đến Viễn Đông. Thế nhưng
vì bão tố phải dừng lại ở Macao khá lâu, ngày 15.5.1832 cha Borie mới tới
được Việt Nam.
Vị Tông Đồ Di Trú
Nửa năm sau, ngày 6.1.1833, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo trên toàn
quốc. Các thừa sai bị lùng bắt gắt gao, nên phải di chuyển liên tục, nay nhà
này, mai nhà khác. Ngày 24.3, cha Borie kể trong thư là “Tôi đã phải đổi chỗ
ở đến mười bảy lần". Những năm sau, mỗi cha đổi chỗ khoảng hai đến sáu lần
nữa. Nét đặc biệt của cha Borie: là hòa mình rất nhanh với phong tục địa
phương. Ngay ngày đầu tiên, cha đã có thể ăn nước mắm cách ngon lành (điều
này thật khó đối với người Âu châu), cha học tiếng Việt cách dễ dàng và phát
âm khá chính xác. Nhờ bản tính bình dân, vui tươi và hoạt bát, cha nhanh
chóng lấy được cảm tình của các tín hữu và với cả lương dân nữa.
Năm 1836, khi đọc những điều vu cáo trong chiếu chỉ của vua Minh Mạng, cha
Borie Cao định viết một lá thư điều trần, nhưng các thừa sai cản lại, vì nói
là vô ích thôi. Năm 1838, sau khi giết thừa sai Jaccard Phan, vua Minh Mạng
vẫn chưa thỏa mãn. Ông cho lệnh tiếp tục truy tìm cha Candalh Kim, giám đốc
chủng viện Di Loan. Ngày 2.7 khi quan quân bắt linh mục Khoa, thì bắt được
hai thầy giảng Đức và Khang. Thầy Khang lúc bị tra tấn quá đau, đã khai rằng
có một thừa sai Âu châu ở Bố Chính, thủ phủ của Nghệ An. Người bị tiết lộ
tung tích đó là cha Cao, không phải là cha Candalh. Dựa vào lời thầy Khang,
quân lính bủa vây khắp vùng Bố Chính, bắt bớ nhiều tín hữu rồi đe dọa, tra
tấn và dụ dỗ, để tìm cho ra chỗ ẩn của vị linh mục.
Giai đoạn này cha Cao không thể ở nhà nào được vài giờ, luôn luôn ngài phải
di động. Các tín hữu có người muốn cho trú, nhưng lại sợ người khác khi bị
đánh đập, sẽ tố cáo họ. Cuối cùng ngày 31.7, cha Cao đành xuống một thuyền
nhỏ chèo ra khơi, chờ mong cuộc lùng bắt lắng dịu. Nhưng trời bỗng nổi cơn
giông bão, dồn nghe của cha tắp vào bờ. Cha nghĩ rằng đây là dấu Chúa muốn
mình ở lại, cha bỏ ghe trở lên đất liền, và ẩn núp dưới một hố sâu có cây
cối che phía trên.
Các Anh Chị Đi Tìm Ai?
Một thiễu nữ mười sáu tuổi bị bắt và bị tra khảo. Dù biết chỗ cha ẩn trốn,
cô cắn răng chịu đựng, không tiết lộ điều mình biết. Nhưng bố cô không dằn
lòng được khi thấy con mình bị đánh đập, đã chỉ chỗ cho lính đến nơi trốn
của ngài. Dầu đang giữa đêm, quân lính cũng kéo nhau rất đông đi bắt vị thừa
sai. Cha Cao nghe rõ tiếng chân của đám lính, biết rằng không thể thoát được
nữa, cha liền leo lên và hỏi: “Các anh đi tìm ai?”. Tất cả đám lính đều ngỡ
ngàng trông thấy một bóng đen to lớn từ đưới đất chui lên, họ cứ tưởng là
ma, nên hoảng sợ không dám hé môi. Lát sau, khi lấy lại bình tĩnh, biết là
linh mục, họ yêu cầu cha ngồi xuống, và cha Cao nhẹ nhàng ngồi xuống. Ngài
muốn bước vào cuộc hiến tế bằng một thái độ vâng phục hoàn toàn.
Thầy Tự thấy cha bị bắt cũng vội chạy đến xưng là đệ tử của cha. Cha chối
không biết, nhưng thầy khẩn khoản: “Xin cha cho con theo cha đến cùng”. Cha
Cao nghe thầy xin thế thì xúc động, ngài tháo chiếc khăn quàng, xé một mảnh
trao cho người môn sinh và nói: “Cầm lấy, con hãy giữ nó làm bằng chứng cho
lời con đã hứa”. Thầy Tự đã giữ mãi miếng vải đó trong những ngày tháng cùng
bị giam với cha. Sau này thầy đã viết lại cuộc tử đạo đau thương của tôn sư
mình, và cuối cùng với mảnh vải như kỷ vật giao ước, thầy Tự đã theo gót
người cha kính yêu: hy sinh mạng sống vì Đức Kitô ngày 10.7.1840.
Tại Đồng Hới, cha Cao phải ra tòa chung với cha Điểm và cha Khoa. Quan hỏi:
“Đạo trưởng Cao, vua đã cấm đạo Gia-tô. Nếu ông bước qua thập giá, ta sẽ thả
ông về ngay”.
“Thà tôi chết ngàn lần còn hơn”.
“Tại sao ông không về nước mà giảng, ở đây làm gì để phải trốn tránh hết chỗ
này đến chỗ khác?”
“Vua cấm đạo sau khi tôi đã đến nước này, từ đó vua cấm tàu Âu châu cập bến
Việt Nam, thì làm sao tôi có thể về được”.
“Ông đã ở nhà những ai?”
“Tôi đã bị quan bắt, tôi xin chịu cực hình một mình tôi thôi”.
Quan liền ra lệnh đánh cha ba mươi roi, lính nọc cha ra, đánh cho đủ số. Tuy
rất đau đớn, cha Cao vẫn không kêu than một lời, quan hỏi ngài có đau không,
cha đáp:
“Tôi cũng bằng xương bằng thịt như ai khác, lẽ nào không đau. Nhưng mặc kệ,
trước và sau trận đánh tôi vẫn thấy thoải mái”.
Quan đành giải cha về ngục, hôm khác, quan bắt cha chứng kiến cảnh tra tấn
thầy Tự và bảo: “Nếu ông không khai chỗ ở, tôi cứ cho lệnh đánh hoài”. Cha
đành khai vài gia đình, nhưng chọn lựa những người đã chết. Quan tưởng thật
vui vẻ tha cho thầy Tự, nhưng đến khi thẩm tra lại, ông gọi cha Cao ra đối
chất:
Tại sao ông cứng đầu thế?
Thưa, câu hỏi của ngài tôi không trả lời khác hơn được.
Đã vậy ngày mai ông sẽ chịu một trăm roi.
Thưa dù đánh ba trăm roi tôi cũng chịu, chỉ xin một điều là đừng hỏi tôi về
dân chúng.
Thế nếu ông phải ra mắt vua, đứng bên lò lửa cháy bùng, với những chiếc kìm
nung đỏ sắp lóc thịt ông ra, liệu ông còn im lặng được không?
Thưa chừng đó sẽ biết, tôi không dám quá tự phụ về mình.
Biết không thể làm cha đổi ý, quan liền nghị án gởi về kinh đô. Cha Cao bị
giam chung với hai cha Điểm và Khoa, ba vị linh mục hằng ngày cùng nhau đọc
kinh Mân Côi và hát vang bài Ave Maria Stella: Kính chào Mẹ Maria là sao mai
rực rỡ, xin chuyển cầu cho chúng con. Mấy ngày đầu, vì chưa tìm ra tràng
hạt, ba vị nhổ lông quạt để đếm kinh. Ba cha phó thác đời mình cho Nữ Vương
các linh mục: “Như xưa Mẹ đã dâng Con yêu quý trong đền thờ, nay xin cung
hiến dâng chúng con trong cuộc tử đạo đầy hồng phúc”.
Trong những ngày tù tội, cha Cao nhận được văn thư Tòa Thánh gởi tới, đặt
ngài làm giám mục hiệu tòa Acanthe và làm đại diện tông tòa coi sóc địa phận
Tây Đàng Ngoài, thay thế Đức cha Havard Du. Thế nhưng vì đang bị cầm tù,
ngài không thể tiến hành nghi lễ thụ phong. Chức vụ đó sau này được trao cho
cha Retord Liêu.
Đường Về Thiên Quốc
Ngày 24.11.1838, quan vào ngục tuyên đọc bản án xử trảm, Đức cha Cao yên
lặng lắng nghe sắc chỉ của nhà vua, rồi nói với quan rằng:
“Thưa quan, từ bé đến nay tôi chưa lạy ai, vì bên Âu châu chúng tôi đó là
hành vi kính trọng chỉ dành cho Đấng Tối Cao. Nhưng điều tôi vừa nghe làm
tôi vui mừng, xin được bày tỏ lòng tri ân của tôi theo kiểu Đông phương”.
Nói xong, ngài quỳ xuống định lạy, nhưng viên quan quá xúc động, không thốt
nên lời, vội cản ngăn ngài lại.
Lúc dẫn đi xử, Đức cha Cao đi đầu, cổ mang gông, tay cầm tràng hạt, vừa đi
vừa đọc kinh. Một viên quan khác, ít thiện cảm với người Công giáo đi lại
gần, hỏi Đức cha có sợ chết không. Ngài trả lời:
“Tôi đâu phải là quân phiến loạn hay quân trộm cướp mà sợ chết. Tôi chỉ sợ
một mình Thiên Chúa. Hôm nay tôi chết, mai sẽ đến phiên ông”.
Nghe thế, viên quan thét lên: “Láo quá, tát cho nó vài cái”. Nhưng không
người lính nào tuân lệnh ông. Đức cha nói với quan: “Nếu lời đó làm phiền
ông, thì xin ông tha lỗi”.
Tại pháp trường Đồng Hới, hai cha Khoa và Điểm bị xử giảo trước. Đến lượt xử
chém Đức cha Cao, người lý hình rất kính phục ngài, phải uống rượu để lấy
bình tĩnh, không ngờ vì quá chén, anh đã chém trật vào tai, hàm và vai Đức
cha. Mãi đến nhát thứ bảy, đầu vị thừa sai mới lìa khỏi cổ. Thân xác ngài
được chôn cất ngay tại chỗ, năm sau mới được các tín hữu cải táng về họ
Hướng Phương.
Năm 1843 hài cốt Đức cha Cao được đưa về chủng viện hội Thừa sai Paris, đặt
cạnh hài cốt thừa sai Kính và Phan.
Đức Lêo XIII suy tôn Giám mục Borie Cao lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900.
ĐTCGPII phong thánh ngày 19/6/1988.
Hiếu Trung, OP
Ngày 21
Tháng 12
Thánh
Anrê TRẦN AN DŨNG LẠC
Linh mục
(1795 - 1839)
(Có 2 vị linh mục Việt Nam tử đạo cùng ngày 21/12, ngày
cuối cùng của năm kính các vị tử đạo, đó là Cha Phêrô Trương Văn Thi và Cha
Anrê Trần Dũng Lạc.
Nhưng Giáo Hội lại chọn danh xưng của Cha Anrê Trần Dũng
Lạc làm tiêu biểu cho chung đoàn tử đạo 117 giọt máu trổ bông trên đất nước
Việt Nam)
Theo Gương Thánh Phêrô
Quo vadis, Domine? — Lạy Thầy, Thầy đi đâu?
Trên đường chạy trốn cơn bách hại khủng khiếp của bạo chúa Nêrô đang giáng
xuống kinh thành Rôma, vị tông đồ trưởng Phêrô đã bàng hoàng thốt lên câu
hỏi trên khi bất ngờ gặp Chúa Giêsu vác thập giá đi ngược chiều với mình.
Sau đó là khoảng khắc im lặng... Sự im lặng tưởng chừng như đến muôn đời sẽ
không bao giờ có giây phút nào im lặng như thế! Phêrô như đọc thấy câu trả
lời trong ánh mắt của Đức Kitô, có một chút giống ánh mắt Ngài đã nhìn mình
sau ba lần chối Chúa. Và trong bầu khí thinh lặng đó, chợt vọng tới tai ông
giọng nói buồn bã nhưng ngọt nào:
“Khi anh rời bỏ dân Ta. Ta phải đến Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa”.
Phêrô lặng người đi và chợt hiểu...
Vị sứ đồ đã ra đi để xa lánh cơn điên cuồng của một bạo chúa, vì những lời
nài nỉ chí tình chí thiết của đoàn tín hữu. Họ coi ngài là sức mạnh, là hơi
thở, là chỗ dựa. Cần phải sống để tiếp tục mưu ích cho đoàn chiên. Giờ đây,
Phêrô được ôn lại bài học vĩ đại nhất của vị Tôn Sư Giêsu, người thợ mộc
làng Na-gia-rét đã chết gục vào tuổi ba mươi ba trên thập tự để cứu chuộc
nhân loại.
Thế là trong cái khoảnh khắc kỳ diệu đó, Thánh Phêrô chợt nhớ ra. Để rồi
thay vì những bước chân rời rã, do dự chạy trốn, thì giờ đây ngài bước một
cách mạnh mẽ, dứt khoát quay lại... để có thể trở nên giống Thầy mình. Từ
đó, trên đá tảng Phêrô, Rôma trở nên kinh thành muôn thuở. Đâu có ai thời đó
đã nghĩ ra như thế. Vâng, đâu có ai thời đó đã hiểu được điều ấy.
Sau lần bị bắt thứ ba, cha Anrê Dũng Lạc như cảm nhận được bài học của Thánh
Phêrô xưa. Ý nghĩ con người không hẳn đã phù hợp với ý Chúa. Ngài xin tín
hữu đừng chuộc nữa, ngài đã chấp nhận hy sinh chính bản thân để trở nên một
ngọn đèn, góp lửa với nhiều ngọn đèn khác làm chứng cho Chúa trên quê hương
yêu dấu nầy.
Ba Lần Bị Bắt
Sinh ra trong một gia đình ngoại giáo ở Bắc Ninh năm 1795, Trần an Dũng theo
cha mẹ vào Kẻ Chợ, nay là Hà Nội. Tại đây vì nhà nghèo, cậu được gán cho một
thầy giảng nuôi nấng dạy dỗ và rửa tội với tên thánh là Anrê. Ít lâu sau cậu
Dũng xin vào chủng viện Vĩnh Trị, ở với cha chính Lan. Ngay từ đó, cậu Dũng
đã tỏ ra tư chất thông minh đặc biệt với trí nhớ lạ lùng, lại siêng năng cần
mẫn, có khiếu về thơ phú và giao tiếp với mọi người cách lịch thiệp hòa nhã.
Có người nói rằng cậu chỉ đọc qua một đoạn sách hai lần là đã thuộc lòng.
Sau mười năm làm thầy giảng và ba năm thần học, ngày 15.3.1823, thầy Dũng
được lãnh chức linh mục (cùng với lớp thánh Ngân và Nghi), rồi được bổ nhiệm
làm phó xứ Đoài, rồi lại giúp cha Thuyết ở Sơn Miêng. Cuối cùng, khi cha làm
chánh xứ Kẻ Đầm thì bị bắt. Suốt cuộc đời linh mục, cha Dũng sống nhiệm
nhặt. Ngoài những ngày ăn chay theo luật của Giáo hội, cha còn giữ chay suốt
mùa chay, và nhiều khi cả các ngày thứ Sáu, thứ Bảy quanh năm. Thường xuyên
cha chỉ dùng những thức ăn đơn giản. Cha Dũng hết mình với nhiệm vụ chủ
chăn, chẳng khi nào thấy cha ngại ngùng việc gì. Cha có lòng ưu ái đặc biệt
với người nghèo. Có được của cải gì, cha chia sẽ cho họ hầu hết.
Khi lệnh bách hại của vua Minh Mạng trở nên gay gắt qua chiếu chỉ toàn quốc
ngày 6.1.1833, cha phải ẩn náu tại nhà các bổn đạo, sau trốn lên Kẻ Roi và
lập nhà xứ ở đó. Một hôm, cha dâng lễ vừa xong, thì quân lính ập tới, cha
liền cởi áo lễ và ngồi lẩn trong tín hữu. Lính bắt cha như một trong ba mươi
giáo hữu hôm đó, vì quan quân không biết cha là linh mục. Ông tổng Thìn bỏ
ra sáu nén bạc, nhận cha là thân nhân đi dự lễ để chuộc về. Từ đây cha đổi
tên là Lạc.
Lần thứ hai cha bị bắt khi đến Kẻ Sông xưng tội với cha Thi theo thói quen
hằng tháng. Lý trưởng Pháp bắt được hai linh mục và mặc cả với giáo hữu phải
chuộc với giá hai trăm quan. Các tín hữu gom góp được một trăm quan, nên
viên lý trưởng chỉ thả cha Lạc. Thế nhưng ngay trên đường về, vì gặp mưa
gió, thuyền cha phải ghé vào bờ. Căn nhà cha định trú lại đang bị quân lính
khám xét. Thế là cha bị bắt lần thứ ba và bị giải lên huyện Bình Lục cùng
với cha Thi.
Một lần nữa, giáo hữu cùng Đức cha Retord Liêu tìm cách chuộc hai cha về,
nhưng lần này cha Lạc thấy ý Chúa đã định cho mình. Ngài nhắn về với Đức cha
câu chuyện Thánh Phêrô hai lần thoát khỏi ngục, đến lần thứ ba, Chúa Giêsu
đã yêu cầu ở lại tử đạo tại Rôma, và cha xin các tín hữu đừng lo liệu tiền
chuộc làm chi nữa.
Được Cảm Tình Mọi Giới
Quan huyện Bình Lục đối xử với hai vị linh mục một cách tử tế. Ông truyền
dọn cho hai cha bằng mâm bát của mình, bắt lý trưởng trả lại quần áo đã tịch
thu và thanh minh rằng: “Phép triều đình cấm đạo và giết các cụ, chứ không
phải tôi. Tôi không có tội gì trong việc này”. Ba ngày sau, quan huyện đưa
hai cha xuống thuyền chuyển về Hà Nội. Các tín hữu thương tiếc đi theo rất
đông, hoặc bằng thuyền, hoặc đi bộ trên bờ. Quan lấy làm lạ hỏi: “Đạo trưởng
có cái gì mà dân chúng thương tiếc quá vậy?”. Một phụ nữ đứng gần đó đáp
lại: “Thưa quan, các cha dạy chúng tôi những điều hay lẽ phải, dạy chồng
hiền lành, đừng cờ bạc rượu chè, dạy vợ sống thuận thảo với chồng theo như
giáo lý trong đạo”. Hai vị linh mục khi thấy nhiều người khóc lóc tiễn đưa
mình, đã dừng lại an ủi và khích lệ họ sống đạo cho tốt đẹp.
Tại Hà Nội, sau mấy lần tra hỏi, và dọa nạt hai vị chứng nhân Đức Kitô không
thành công, các quan làm án xin vua xử trảm.
Thời gian trong tù, hai cha chiếm được tình cảm của lính gác, được tôn trọng
và đối xử tử tế. Khi nhận được quà tiếp tế, hai cha chia cho lính canh, chỉ
giữ lại những thứ tối thiểu. Mỗi buổi sáng và mỗi buổi tối, hai cha quỳ bên
nhau cầu nguyện lâu giờ. Tuy các tín hữu xin được phép đưa cơm vào tù mỗi
ngày, hai cha vẫn tìm cách hãm mình dặn họ đừng mang thịt hay cá làm chi,
các ngài vẫn tiếp tục giữ chay ngày thứ Hai, thứ Tư, thứ Sáu và thứ Bảy.
Những ngày đó, hai cha ăn thật ít vừa đủ.
Lễ các Thánh (1.11.1839), linh mục Trân đưa Mình Thánh vào ngục. Vừa thấy
ngài, cha Lạc đã ra chào đón: “Xin chào bác, tôi đợi bác đã lâu vì hết lương
thực rồi”. Sau đó, cha cung kính rước lễ, và trao Mình Thánh cho cha già
Thi.
Cuối năm 1839, khi quân lính đến công bố lệnh xử án, hai cha vui vẻ đón nhận
bản án như một phần thưởng trọng hậu. Trên đường đến pháp trường, hai cha
yên lặng cầu nguyện. Lúc ra khỏi cổng thành, cha Lạc chắp tay lại, hát lớn
tiếng mấy câu Latinh chúc tụng Chúa. Trước phút hành quyết, người lý hình
đến nói với hai cha:
“Chúng tôi không biết các thầy tội gì, chúng tôi chỉ làm theo lệnh trên, xin
các thầy đừng chấp”.
Cha Lạc tươi cười trả lời: “Quan đã truyền lệnh anh cứ thi hành”. Sau đó,
hai cha xin ít phút để cầu nguyện lần chót, rồi nghiêng đầu cho lý hình
chém.
Hai vị đã lãnh phúc tử đạo ngày 21.12.1839 tại bãi ngoài cửa Ô Cầu Giấy (Hà
Nội), giáp đường lên tỉnh Sơn Tây. Thi hài của cha Lạc được đưa về an táng
tại nhà bà Lý Quý gần đó.
Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn Chân Phước cho linh mục Anrê Trần an Dũng
Lạc ngày 27.5.1900.
Nhớ đến Thánh Dũng Lạc, phải nhớ đến những vần thơ ngài tâm sự trong thư
viết trong ngục cho cha Thực rằng:
“Lạc rầy đã rõ chốn quân quan
Bút chép thơ này gửi thở than
Lòng nhớ bạn, nỗi còn vất vả
Dạ thương khách, chạy chữa yên hàn.
Đông qua tiết lại thì xuân tới
Khổ trảm mai sau hưởng phúc an
Làm kẻ anh hùng chi quản khó
Nguyện xin cùng gặp chốn thiên đàng”. (1)
(1): Thơ trích trong Nguyễn văn Tư, Bốn mươi hai Á Thánh Tử Đạo, tr. 76.
Hiếu Trung, OP
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Kh
20, 1-4. 11 - 21, 2
"Những người đã chết phải chịu phán xét theo các việc họ đã làm. Tôi đã thấy
Giêrusalem mới từ trời xuống".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Tôi là Gioan đã thấy một thiên thần từ trời xuống, tay cầm chìa khoá vực
thẳm và một dây xiềng rất lớn. Người bắt lấy con rồng, là con rắn thuở xưa,
tức là Ma Quỷ và là Satan, rồi trói nó lại một ngàn năm, ném nó xuống vực
thẳm, khoá cửa lại, và đóng ấn trên vực thẳm, để nó không còn lừa dối các
dân tộc nữa, cho đến khi nào chẵn một ngàn năm, sau đó thả nó ra ít lâu.
Tôi lại thấy có mấy ngai toà, và những vị ngồi trên toà đó cũng được quyền
xét xử. Tôi thấy linh hồn của những kẻ đã bị trảm quyết vì đã làm chứng về
Ðức Giêsu và vì lời Thiên Chúa, họ là những người không thờ lạy Mãnh thú và
hình tượng của nó, không chịu để thích chữ trên trán và trên tay họ. Họ được
sống và hiển trị với Ðức Kitô một ngàn năm.
Tôi lại thấy một toà lớn trắng tinh và vị đang ngự trên toà ấy, trời đất lẩn
trốn khỏi tôn nhan Người, và không còn tìm thấy chỗ nào dành cho chúng nữa.
Tôi cũng thấy những kẻ đã chết, lớn cũng như bé, đang đứng trước toà, các
quyển sách được mở ra, và một quyển Sách nữa cũng đã mở sẵn, tức là Sách sự
sống, những kẻ đã chết phải chịu phán xét theo như các điều ghi chép trong
sách, tuỳ các việc họ đã làm. Biển cả liền để cho những người chết ở trong
ấy được đi ra; tử thần và địa ngục cũng để cho những kẻ chết ở trong ấy được
đi ra: mỗi người phải chịu phán xét theo các việc họ đã làm. Ðịa ngục và tử
thần đều bị ném xuống hồ lửa: đó là cái chết thứ hai. Kẻ nào không thấy ghi
tên mình trong Sách sự sống, đều bị ném xuống hồ lửa.
Tôi lại thấy trời mới đất mới. Vì trời cũ đất cũ đã qua đi, và biển cũng
không còn nữa.
Và tôi là Gioan đã thấy thành thánh Giêrusalem mới, tự trời xuống, từ nơi
Thiên Chúa, tề chỉnh như tân nương được trang điểm cho tân lang của mình.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 83, 3. 4. 5-6a và 8a
Ðáp: Ðây
là nhà tạm của Thiên Chúa ở với loài người (Kh 21, 3b).
Xướng: 1) Linh hồn tôi khát khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Thiên
Chúa. Tâm thần và thể xác tôi hoan hỉ, tìm đến cùng Thiên Chúa trường sinh.
- Ðáp.
2) Ðến như chim sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm để làm nơi
ấp ủ con mình, cạnh bàn thờ Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa thiên binh, ôi Ðại
Vương và Thiên Chúa của con. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa tới
muôn đời. Phúc thay người được Chúa con nâng đỡ. Họ tiến lên ngày càng thêm
hăng hái. - Ðáp.
Alleluia: Kh 2,
10c
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ngươi hãy giữ
lòng trung thành cho đến chết, thì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống".
- Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21,
29-33
"Khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì
hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ thí dụ
này rằng: "Các con hãy xem cây vả và mọi thứ cây cối. Khi chúng đâm chồi nảy
lộc, thì các con biết rằng mùa hè đã gần đến. Cũng thế, khi các con xem thấy
những sự đó xảy ra, thì hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến. Thầy bảo
thật các con, thế hệ này sẽ chẳng qua đi cho đến khi mọi sự ấy xảy đến. Trời
đất sẽ qua đi; nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nguyện Lời Chúa
Mùa Hè "đâm chồi nẩy lộc" Thánh Giá
Hôm nay, Thứ
Sáu Tuần XXXIV Thường Niên, Bài
Phúc Âm tiếp
theo Bài Phúc Âm hôm qua về đường
lối ứng phó của thành phần chứng nhân cuối thời, vào thời điểm Giêrusalem ám
chỉ cộng đồng dân Chúa bị tàn phá (như được báo trước trong Bài Phúc Âm Thứ
Ba tuần này),
cũng như về số
phận bị bách hại của thành phần chứng nhân cuối
thời (như được tiên báo trong Bài Phúc Âm Thứ Tư sau đó), trong khi bài
Phúc Âm hôm nay lại
cho thấy lóe sáng niềm hy vọng như thế này:
"Các con hãy xem cây
vả và mọi thứ cây cối. Khi chúng đâm chồi nảy lộc, thì các con biết rằng mùa
hè đã gần đến. Cũng thế, khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy
biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến. Thầy bảo thật các con, thế hệ này sẽ
chẳng qua đi cho đến khi mọi sự ấy xảy đến. Trời đất sẽ qua đi; nhưng lời
Thầy nói sẽ chẳng qua đâu".
Bài
Phúc Âm vắn gọn chỉ có 5 câu ngắn này
quả thực đã cho chúng ta
thấy ánh sáng cuối đường hầm. Ở chỗ, trong khi mọi sự trước đó toàn là những
gì tai ương, hoạn nạn, chết chóc, tang
thương thì cuối cùng lại
thấy sự sống ló dạng và bừng nở, như hình ảnh "cây
vả và mọi thứ cây cối... đâm chồi nảy lộc" để báo
hiệu "mùa
hè đã gần đến" ở Lời
Chúa trong
Bài Phúc Âm hôm nay.
Đây là một hình ảnh tuyệt vời
tràn đầy hy vọng, liên quan chẳng những đến
sự sống mà còn là một sự
sống viên mãn nữa (xem Gioan 10:10). "Sự sống" ở đây được biểu hiệu
nơi hình ảnh "cây
vả và mọi thứ cây cối... đâm chồi nảy lộc", và "sự
sống viên mãn" đây biểu hiệu nơi "mùa
hè đã gần đến". Vì
qua các mùa của một năm, trong khi mùa đông lạnh lẽo biểu
hiệu cho chết chóc, mùa
thu ảm đạm biểu hiệu cho buồn tẻ yếm thế, và mùa xuân tươi mát biểu hiệu cho
sự sống hồi sinh sau mùa đông chết chóc, thì mùa hè biểu hiệu cho sự sống
phong phú, mạnh mẽ và tràn đầy,
với ánh sáng cùng với nhiệt
năng sinh động.
Cuộc khổ nạn và tử giá của Chúa
Kitô thật sự, về thời điểm, đã xẩy ra từ 12 giờ trưa đến 3 giờ chiều là
thời điểm "mùa hè" chói chang ánh sáng và sức nóng nhất của
một ngày, sau mùa xuân
ban sáng và mùa đông
ban đêm, và trước mùa thu ban chiều trong một ngày sống của con người trên
thế gian này.
Và
chính vào thời điểm lịch sử của loài người ấy, ở nước Do Thái xưa, mà Vương
Quốc của Thiên Chúa đã thực sự được thiết lập và trị đến nơi "Vua Dân Do
Thái" (Luca 23:38) trên ngai tòa thập
giá ở đồi
Canvê xưa, một vương quốc
đang bất
diệt qua sự tồn tại của Giáo Hội Chúa Kitô dù liên
lỉ bị bách hại và sát hại trên
trần gian này, cho tới khi vương quốc này hoàn toàn được tỏ
hiện nơi mầu nhiệm cánh chung khi Chúa
Kitô trở lại trong vinh quang, được nghênh đón bởi vị hôn thê diễm lệ của
Người là một tân
Giêrusalem từ trời nơi
Thiên Chúa mà xuống (xem
Khải Huyền 21:2).
Những lời tiên báo của Chúa Giêsu trong Bài Phúc
Âm hôm nay sau khi xẩy ra biết bao nhiêu là những gì tiêu cực, gian nan khốn
khó hoạn nạn tai ương v.v.: "Các con hãy xem cây vả và mọi thứ cây cối.
Khi chúng đâm chồi nảy lộc, thì các con biết rằng mùa hè đã gần đến. Cũng
thế, khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy biết rằng nước Thiên
Chúa đã gần đến", phải chăng được hiện lên nơi hình ảnh được Sách Khải
Huyền của Thánh Gioan trong Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy tất cả những gì là sự
sống mới: "Tôi lại thấy trời mới đất mới. Vì trời cũ đất cũ đã qua đi, và biển cũng
không còn nữa. Và tôi là Gioan đã thấy thành thánh Giêrusalem mới, tự trời xuống, từ
nơi Thiên Chúa, tề chỉnh như tân nương được trang điểm cho tân lang của
mình".
Đúng thế,
"nhà tạm của Thiên Chúa ở với loài người",
câu câu họa chung trong Bài Đáp Ca hôm nay,
chính là câu được Sách Khải Huyền cho biết (không có trong Bài Đọc 1 hôm
nay) ngay sau câu "thành thánh Giêrusalem mới, tự trời, nơi Thiên Chúa,
mà xuống". Nghĩa là "thành thánh Giêrusalem mới, tự trời, nơi Thiên
Chúa, mà xuống" chính là "nhà tạm của Thiên Chúa ở với loài người",
nơi mà chỉ có những ai được "ghi tên mình trong Sách sự sống", tức
"những người không thờ lạy Mãnh thú và hình tượng của nó", mới là
thành phần được Thánh Vịnh 83 diễn tả trong Bài Đọc hôm nay như sau:
1) Linh hồn tôi khát khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà
Thiên Chúa. Tâm thần và thể xác tôi hoan hỉ, tìm đến cùng Thiên Chúa trường
sinh.
2) Ðến như chim sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm để làm
nơi ấp ủ con mình, cạnh bàn thờ Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa thiên binh, ôi
Ðại Vương và Thiên Chúa của con.
3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa tới
muôn đời. Phúc thay người được Chúa con nâng đỡ. Họ tiến lên ngày càng thêm
hăng hái.
Phải luôn nhớ rằng chúng ta không được sống theo ý riêng, nhưng phải thi
hành thánh ý Thiên Chúa. Đó là điều Chúa đã truyền dạy chúng ta phải cầu
xin mỗi ngày. Thật là ngược đời và mâu thuẫn, trong khi cầu xin cho
thánh ý Thiên Chúa được thể hiện, chúng ta lại không mau mắn tuân theo
thánh ý Người, khi Người gọi chúng ta ra khỏi thế gian. Chúng ta ra đi
vì bó buộc chứ không do lòng vâng phục. Chúng ta được dẫn đến trước nhan
Chúa, nhưng tâm hồn lại ủ rũ buồn phiền. Chúng ta kháng cự và chống đối
tựa những tên đầy tớ ương ngạnh. Chúng ta mong muốn được Thiên Chúa ban
thưởng trên trời, thế mà ta lại đến với Người cách miễn cưỡng ! Tại sao
chúng ta lại cầu xin cho Nước Trời mau đến, trong khi vẫn cứ thích bám
lấy cảnh lưu đày trần gian ? Tại sao chúng ta cứ xin đi xin lại cho
triều đại Chúa mau đến, trong khi chúng ta những thiết tha mong muốn làm
tôi ma quỷ ở đời này hơn là cùng hiển trị với Đức Ki-tô ?
Thế gian thù ghét người Ki-tô hữu, thế thì tại sao bạn lại yêu quý kẻ
thù ghét bạn, mà lại không đi theo Đức Ki-tô, Đấng cứu chuộc và yêu
thương bạn ? Thánh Gio-an kêu gọi và khuyến khích chúng ta đừng chạy
theo đam mê xác thịt mà yêu quý thế gian. Thánh nhân viết trong thư : Anh
em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian
thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian : như
dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của
; mà thế gian đang qua đi cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý
muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi. Anh em thân mến, tốt hơn
chúng ta hãy sẵn sàng thực thi trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa, với tinh
thần trung thực, đức tin vững vàng và chí khí cương nghị. Chúng ta hãy
xua tan nỗi sợ chết và nghĩ đến ơn bất tử đã bắt đầu. Chúng ta hãy tỏ
cho người ta thấy điều chúng ta tin.
Anh em thân mến, chúng ta phải suy và phải luôn tâm niệm rằng mình đã từ
bỏ thế gian và đang sống ở đời này như khách lữ hành và người tạm trú.
Chúng ta hãy ấp ủ trong lòng cái ngày mỗi người được trở về nơi mình cư
ngụ, ngày chúng ta được giải thoát khỏi đời này, được thoát khỏi cạm bẫy
thế gian mà vào lại thiên đàng, vào vương quốc. Có lữ khách nào lại
không muốn mau được trở về quê hương ? Hãy nhớ quê hương chúng ta là
thiên đàng. Ở đó đông đảo những người thân yêu đang mong đợi chúng ta :
cha mẹ, anh em, con cái và biết bao người đang mong gặp chúng ta. Họ
đang được hạnh phúc hưởng ơn cứu độ, nhưng vẫn còn lo cho ơn cứu độ của
chúng ta. Được đến gần họ và ôm lấy họ, thì cả họ lẫn chúng ta sẽ vui
mừng biết mấy. Ôi, hạnh phúc biết bao khi được vào thiên quốc, nơi không
còn sợ chết nữa ! Ôi, được sống muôn đời ở đó quả là niềm sung sướng
tuyệt vời và vô tận !
Ở đó có đoàn Tông Đồ vinh hiển. Ở đó có hàng ngôn sứ hân hoan. Ở đó có
vô vàn vô số chứng nhân tử đạo được ban thưởng triều thiên chiến thắng
vì đã anh dũng chiến đấu và chịu cực hình. Ở đó có các trinh nữ khải
hoàn vì đã nhờ tiết độ mà khuất phục đam mê và chế ngự thân xác. Ở đó,
những người có lòng thương xót được ân thưởng : họ đã thực hành đức công
chính khi nuôi dưỡng người nghèo và rộng tay làm phúc ; họ đã vâng lệnh
Chúa truyền mà chuyển gia sản trần gian vào kho tàng thiên quốc.
Anh em thân mến, chúng ta hãy khát khao sớm được gặp họ. Ước chi Thiên
Chúa thấy chúng ta có tư tưởng ấy. Ước gì Đức Ki-tô nhìn thấy lòng chúng
ta tin và quyết định như vậy. Những ai càng khao khát Đức Ki-tô thì càng
được Người thương yêu và ân thưởng.
Thánh Catarina Alêxanđria
25/11
Thánh nữ Catarina sống vào thời Giáo hội sơ khai. Ngài là con gái của
một gia đình dân ngoại giàu có ở thành Alêxanđria, nước Ai Cập. Thánh nữ
là một cô gái rất đẹp và rất ham thích việc học hành. Catarina
Alêxanđria say mê nghiên cứu những vấn nạn sâu xa của triết học và tôn
giáo. Một ngày kia, thánh nữ Catarina Alêxanđria bắt đầu đọc các sách
viết về Kitô giáo. Và chẳng bao lâu, Catarina Alêxanđria trở thành Kitô
hữu.
Thánh nữ Catarina Alêxanđria được 18 tuổi khi hoàng đế Maxentiô bắt đầu bách
hại các Kitô hữu. Rất mực can đảm, Thánh nữ đáng yêu này đã đến nói cho nhà
vua biết về sự độc ác của ông. Khi ông vua này bàn về các tà thần, Catarina
đã minh nhiên chỉ cho ông thấy các thần ấy là giả tạo. Maxentiô không thể lý
giải được các vấn nạn của Catarina; và vì thế, ông đã triệu vời 50 triết gia
ngoại giáo hảo hạng nhất đến để đối phó với Catarina. Một lần nữa, Catarina
lại làm sáng tỏ chân lý của đạo Công giáo. Tất cả 50 triết gia này đều phải
công nhận rằng Catarina có lý.
Hết sức tức giận, Maxentiô đã cho lính giết
chết từng người trong họ. Sau đó, ông cố gắng chinh phục Catarina bằng cách
tặng cho Thánh nữ chiếc vương miện hoàng hậu. Khi biết Catarina Alêxanđria
nhất mực từ chối, vì ngài tuyên bố chỉ có một phu quân duy nhất là Chúa
Giêsu Kitô là Đấng ngài đã dâng trọn vẹn sự đồng trinh cho Người, ông liền sai quân lính đánh đòn và tống giam Catarina vào
ngục.
Đang lúc Maxentiô cắm trại ở nơi xa, vợ ông và một viên sĩ quan đã tò mò đến
nghe cô bé Kitô hữu lạ lùng này thuyết giảng. Họ đã tới bên phòng giam của
Catarina Alêxanđria. Kết quả là họ cùng 200 lính canh khác đã được ơn trở
lại. Vì chuyện này, hết thảy cả bọn đã bị Maxentiô lên án tử.
Bản thân
Catarina thì bị hành hình hung dữ tàn bạo đến độ toàn thân của chị toàn là
thương tích, khiến máu chảy ra như suối nước. Những ai chứng kiến thấy đều
nức nở khóc, nhưng ngài vẫn đứng ngước mắt lên trời, không có dấu hiệu nào
là sợ hãi hay đớn đau. Ngài lại bị hoàng đế ra lệnh tống ngục bỏ đói cho
chết. Nhưng các thiên thần đã đến băng bó các thương tích cho ngài, và ngài
được một chim câu từ trời xuống mang lương thực cho, và Chúa Kitô cũng đến
thăm ngài, phấn khích ngài can trường để Người ban cho triều thiên vinh
thắng.
Cuối cùng, ngài bị đặt trên một bánh xe đầy đinh nhọn để chịu hành hình. Thế
nhưng khi bánh xe bắt đầu quay, thì lạ lùng thay, nó cứ bị bật ra. Sau cùng,
Catarina Alêxanđria bị trảm quyết. Chính ngài đã bảo những kẻ hành quyết
ngài bắt đầu ra tay, nhưng bấy giờ có một chất tuôn ra từ cổ của ngài không
phải là máu mà là như sữa vậy. 12 ngày sau, khi ngục tù được mở ra thì một
luồng ánh sáng rạng ngời phát tỏa ra, cùng với mùi thơm ngát, trước một nàng
Catarina rạng rỡ và diễm lễ hơn nữa.
Trong nhiều thế kỷ, thánh Catarina thành Alexandria được tôn kính như là bổn
mạng của những triết gia và những nhà thuyết giáo Công giáo. Thánh nhân còn
được xem là biểu tượng như là sự khôn ngoan của các phụ nữ trong công việc
đòi hỏi công bình và tự do cho nữ giới. Vào thế kỷ thứ 6, Hoàng Đế Roma Bên
Đông Phương là Justinianô đaả thiết lập một cơ sở nay được gọi là Đan Viện
Thánh Catarina ở Ai Cập, nơi được rất nhiều khách hành hương tuôn đến để xin
ơn chữa lành. Vào thời trung cổ, ngài là một trong những vị thánh được coi
là quan trọng nhất, và được coi là vị thánh nữ đồng trinh tử đạo quan trọng
nhất, trong số các vị khác như Thánh Agnes Roma, Margarita Antiokia,
Barbara, Lucia Syracuse, Valarie Limoges v.v. Thi thể của chị được cho là
khám phá thấy ở Núi Sinai vào khoảng năm 800, tức khoảng 500 năm sau khi
ngài tử đạo, và được nói rằng tóc của ngài vẫn mọc và từ thi thể của ngài
tuôn ra liên tục dầu chữa lành.
Chính Thống giáo đã tôn kính vị thánh nữ đồng trinh tử đạo này là một vị đại
tử đạo và cử hành phụng vụ vào ngày 24 hay 25/11 hằng năm tùy theo truyền
thống địa phương. Bên Giáo Hội Công giáo Tây phương thì tôn kính ngài vào
ngày 25/11, nhưng lễ của ngài đã không còn từ năm 1969, cho mãi đến năm 2002
mới được phục hồi, ở bậc lễ nhớ không buộc.
Thánh nữ Catarina Alêxanđria đã trân quý vẻ đẹp của niềm tin Kitô giáo. Đó
là lý do thánh nữ có thể thuyết phục cách hiệu quả những người khác tôn giáo
cùng tin theo đạo. Việc theo đuổi sự khôn ngoan của Thiên Chúa có thể không
dẫn chúng ta tới sự giàu có cùng vinh dự trần thế. Trong trường hợp của
Catarina, nó dẫn ngài đến chịu tử vì đạo. Tuy nhiên thánh nữ không điên rồ
khi ngài chọn thà chết cho Đức Giêsu còn hơn là sống mà chối bỏ Ngài. Tất cả
những phần thưởng mà những kẻ hành hạ ngài có thể cống hiến cho ngài, như
danh vọng, giàu có, quyền lực đều mai một như gỉ sắt, tàn úa chẳng còn gì là
vẻ đẹp, hay đúng ra chỉ là những sự đổi chác nghèo nàn so với giá trị của sự
liêm khiết, ngay thẳng của ngài khi đi theo Đức Giêsu Kitô. Chúng ta hãy nài
xin thánh nữ Catarina Alêxanđria giúp chúng ta tăng triển lòng yêu mến đối
với các chân lý đức tin như ngài.
Lời Sách Khôn Ngoan: "Vậy tôi nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu
biết. Tôi kêu cầu, và Thần khí Đức Khôn ngoan đã đến với tôi.
Đức Khôn ngoan, tôi đã quý trọng còn hơn cả vương trượng, ngai vàng. Tôi
không coi của cải là gì so với Đức Khôn ngoan. Đối với tôi, trân châu bảo
ngọc chẳng sánh được với Đức Khôn ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với
Đức Khôn ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với Đức Khôn ngoan, cũng kể
như bùn đất. Tôi đã ham chuộng Đức Khôn ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp, đã
quý Đức Khôn ngoan hơn ánh sáng, vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn ngoan chẳng bao
giờ tàn lụi. Nhưng cùng với Đức Khôn ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi.
Nhờ tay Đức Khôn ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể. Tôi vui hưởng mọi
sự tốt lành ấy, vì chính Đức Khôn ngoan đem chúng đến với tôi; thế mà tôi
lại không biết rằng Đức Khôn ngoan là mẹ sinh ra chúng". (Kn 7, 7-12)
Thánh nữ Catarina Alêxanđria đã trân quý vẻ đẹp của niềm tin Kitô giáo. Đó
là lý do thánh nữ có thể thuyết phục cách hiệu quả những người khác tôn giáo
cùng tin theo đạo. Chúng ta hãy nài xin Thánh nữ Catarina Alêxanđria giúp
chúng ta tăng triển lòng yêu mến đối với các chân lý đức tin như ngài.
Vào ngày lễ của Thánh Catherine thành Alexandria Tử Đạo (25/11 theo lịch
phụng vụ cũ), khi Thánh Nữ Margaret đang ở bàn thờ để rước lễ thì nghe thấy
Chúa Giêsu nói cùng mình rằng: “Con Cha ơi, chỗ của con sẽ ở giữa thần
Seraphim cùng với các trinh nữ bừng cháy tình yêu thần linh”. Nghe thấy thế
Thánh nữ sửng sốt đáp lại rằng: “Lạy Chúa, làm sao điều ấy có thể xẩy ra
được với một con người nhớp nhúa tội lỗi chứ?” Chị đã nghe thấy câu giải đáp
của Chúa như sau: “Những đau khổ vô vàn của con sẽ thanh tẩy tâm hồn con
khỏi tất cả mọi thứ thu hút phạm tội, và trong nỗi đớn đau và ăn năn thống
hối của mình, con sẽ phục hồi sự tinh tuyền đồng trinh của con”. Thánh nữ
lại càng cảm thấy sợ hãi trước câu trả lời của Chúa và đã than lên rằng: “Ôi
Chúa Kitô là Sư Phụ của con, phải chăng Thánh Mai Đệ Liên thuộc về thành
phần các trinh nữ trong vinh quang thiên đình?” Chúa liền tiết lộ cho chị
biết rằng: “Ngoại trừ Mẹ Maria và Catherine Tử Đạo, không ai hơn Mai Đệ Liên
ở hàng ngũ trinh nữ”.
Thánh Margarita Cortona
Vâng, vị thánh được
nói đến đây có liên quan đến ngày lễ Thánh Catarina Alexander hôm
nay, qua biến cố chị được Chúa Giêsu cho biết về vị thánh nữ này cũng như về
bản thân chị, khiến chị cảm thấy bàng hoàng ngỡ ngàng không thể nào hiểu
được theo quan niệm trần gian. Về cuộc sống thì chị Margarita Cortona và
Thánh Catarina Alexander hoàn toàn trái ngược nhau: trong khi nàng Margarita
Cortona hoang dâm thì nàng Catarina Alaxander tử đạo, nhưng cuối cùng, trước
Thánh Nhan Thiên Chúa thì cả hai lại đồng qui: đều đồng trinh và đều còn
nguyên xác sau khi chết.
Thật vậy, nàng Margarita Cortona đã từng sống một cuộc đời hôn nhân và đã có con, nhưng lại là một
cuộc hôn nhân bất chính. Chính vì con điếm có tiếng trong thành kia, dù thân
xác nhớp nhúa dâm ô và đời sống ghê tởm trước mặt dân chúng, nhất là thành
phần luật sĩ và Pharisêu, nhưng vẫn không vì thế mà không dám tới gần Đấng
Thánh là Chúa Giêsu Kitô bấy giờ đang ở trong nhà một người Pharisiêu tên
Simon, thậm chí còn dám chạm tới Ngài, bằng cách lấy nước mắt mà rửa chân
cho Ngài, lấy tóc mình mà lau khô và lấy thuốc thơm mà xức chân Ngài, mà con
điếm này ngay bấy giờ đã được Đấng chị tin tưởng bênh vực và khẳng định
rằng: “Đó là lý do tại sao tội lỗi của cô ta dù nhiều cũng đều được thứ tha
vì cô ta đã yêu mến nhiều” (Lk 7:47). Con điếm “yêu nhiều” này chính là đệ
nhất Mai Đệ Liên (xem Lk 8:2; Jn 11:2, 12:3; Mk 16:9).
“Đệ nhị Mai Đệ Liên” là một trong những vị thánh nữ ở thế kỷ 13 đó là Thánh
Margaret thành Cortona Ý quốc, sau cuộc đời chín năm phóng đãng dâm ô theo
nhan sắc và tình cảm tự nhiên của mình với một chàng thanh niên giầu sang
phú quí trong vùng và có một đứa con trai với anh ta, nhưng không bao giờ
trở thành vợ của anh ta như anh ta hứa hẹn. Tuy nhiên, sau khi nhờ con chó
thân thương và tinh khôn dẫn đường thấy được thi thể của người tình này bất
ngờ bị sát hại trong rừng vắng, nàng đã bắt đầu ăn năn hoán cải và chịu đựng
tất cả những hậu quả hết sức đắng cay gây ra bởi gương mù tội lỗi của mình ở
địa phương quê quán của nàng, nhất là thái độ hất hủi của người cha ruột và
bà mẹ ghẻ của nàng.
Sau đó, nàng đã sống một cuộc đời thống hối ăn năn, đã gia nhập Dòng Ba
Phanxicô, con trai nàng đã trở thành tu sĩ Dòng Phanxicô cùng được phúc tử
đạo, và nàng đã lập Hiệp Hội Đức Mẹ Tình Thương để phục vụ thành phần bệnh
nhân và nghèo khổ. Người thiếu phụ hoang đường tội lỗi này đã sống một cuộc
đời hối nhân đầy nguyện cầu và khổ chế, nằm đất, ăn uống khem khổ, ngủ ít,
mặc áo nhặm, đánh tội, và trải qua những giây phút ngất ngây chiêm niệm.
Nàng đã dứt khoát với thân xác một thời lăng loàn của mình đang bị nàng hành
khổ để đền tội rằng: “Ôi thân xác của ta, tại sao ngươi không giúp ta phụng
sự Đấng Hóa Công và Đấng Cứu Chuộc của ngươi chứ? Tại sao giờ đây ngươi
không mạnh mẽ trong việc phụng sự Ngài như trước đây ngươi đã đưa ta đến chỗ
xúc phạm đến Ngài chứ? Vô ích thôi cho dù ngươi có than van và chống cự về
tình trạng ngươi đang bị quằn quại, vì giờ đây ngươi cần phải chịu đựng cho
đến cùng cái ách ta đặt lên ngươi, như trong quá khứ ta đã mang lấy cái ách
của ngươi để gây tổn thương cho Đấng đã dựng nên ngươi”.
Thậm chí nàng còn bị một số người trong dân chúng hiểu lầm về chính những nỗ
lực thật tình thống hối ăn năn của nàng và tìm cách gây trở ngại cho việc
chị được dẫn dắt trong đàng thiêng liêng bởi vị linh hướng Dòng Phanxicô.
Thêm vào đó, chính các tu sĩ Dòng Phanxicô cũng hiểu lầm chị trước khi chị
qua đời ít lâu. Về cuối đời, Chúa Giêsu đã cho chị biết về mục đích và ý
nghĩa của việc Chúa hoán cải chị có liên quan tới các người khác nữa chứ
không phải chỉ vì cá nhân chị và cho riêng chị. Chúa nói với chị như sau:
“Giờ đây con hãy chứng tỏ là con đã hoán cải; con hãy kêu gọi những người
khác thống hối nữa… Các ân sủng Cha đã ban cho con không phải chỉ giành
riêng cho một mình con”.
Thế rồi, nhờ nỗ lực đáp ứng của chị trước lời Chúa kêu gọi, chị đã làm cho
các tội nhân chẳng những ở Ý mà còn ở Pháp và Tây Ban Nha bỏ đàng tội lỗi mà
quay về với Lòng Thương Xót Chúa như chị. Thậm chí thành phần dân chúng ở
thành Cortona của chị không còn ngờ vực chị nữa, nhưng đã chạy đến với chị
trong những lúc khó khăn khốn khó. Chị đã qua đời vào ngày 22/2/1297, hưởng
dương 50 tuổi, sau 23 năm ăn năn thống hối. Ngay ngày chị qua đời chị đã
được dân chúng địa phương tuyên xưng là một vị thánh và cùng năm ấy dân
thành Cortona cũng đã xây một thánh đường kính chị. Chị quả thực đã trở
thành một vị thánh lớn của chung hội dòng Phanxicô Khó Khăn, đến nỗi, như
Chúa Giêsu cho chị biết khi chị còn sống rằng: “Con là ánh sáng thứ ba được
ban cho hội dòng của Phanxicô yêu dấu của Cha. Phanxicô là thứ nhất trong số
những người Anh Em Dòng Hèn Mọn; Clara là thứ hai trong số các nữ tu, con sẽ
là thứ ba của Hội Dòng Ba Thống Hối”.
Hiện nay thi hài của chị, một thân thể dù đã trải qua một thời gian chín năm
dài dâm ô lăng loàn đàng điếm vẫn được ơn còn nguyên vẹn sau khi chết, vì
chị quả thực đã có lòng thống hối ăn năn, hãm mình phạt xác và làm việc bác
ái của chị, những việc yêu nhiều thì được tha nhiều, nhờ đó chị có thể đền
bù tội lỗi của chị với tất cả tấm lòng “tan nát khiêm cung” trước Thánh Nhan
của Thiên Chúa vô cùng nhân hậu.
Đúng thế, nếu có những cái bẩn không thể dùng
nước mà rửa được, tuy nước vẫn có tác dụng tẩy rửa, thậm chí đã trở thành
chất thể bất khả thiếu trong Bí Tích Thánh Tẩy Tái Sinh của Kitô Giáo do
Chúa Kitô thiết lập (Marco 16:16; Mathêu 28:19), và thực tế cho thấy chỉ có
lửa mới có thể thanh tẩy được những thứ bẩn ấy thôi, chẳng hạn một thanh sắt
bị rỉ sét. Đúng thế, chỉ có lửa mới làm cho thánh sắt bị rỉ sét chẳng những
hết rỉ sát mà còn trở thành một thanh lửa hay một cục lửa nữa, khi thanh sắt
hay cục sắt rỉ sét ấy bị nung bằng lửa, nhất là lửa yêu mến. Đó là lý do
Chúa Kitô đã được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả loan báo là Đấng rửa trong Thánh
Thần nữa (xem Gioan 1:33), một phép rửa trong Thánh Thần mà ngài báo trước
cho các tông đồ trước khi về trời: "ông
Gio-an thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu
phép rửa trong Thánh Thần"
(Tông Vụ 1:5). Mà Thánh Thần là tình yêu hiệp thông, nên "ai yêu
nhiều sẽ được tha nhiều" (Luca 7:47), như một con điếm Mai Đệ Liên, hay một
Magarita Cortona, được Chúa Giêsu nói tới trong truyện vừa kể.
Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp cả Việt lẫn Anh cũng như liên kết và
diễn giải
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Kh
22, 1-7
"Sẽ không còn đêm tối nữa, Thiên Chúa sẽ soi sáng cho họ".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Thiên thần Chúa chỉ cho tôi là Gioan, thấy sông nước hằng sống, sáng ngời
như thuỷ tinh, từ toà Thiên Chúa và Con Chiên chảy ra. Ở giữa công trường
thành phố và hai bên sông, có cây sự sống sinh hoa kết quả mười hai mùa, mỗi
tháng một mùa, và lá cây thì dùng cứu chữa các dân ngoại lành đã. Sẽ không
còn lời nguyền rủa nào nữa. Toà Thiên Chúa và Con Chiên sẽ dựng lên trong
thành ấy, các tôi tớ Người sẽ phụng thờ Người. Họ sẽ chiêm ngắm tôn nhan
Người, và khắc tên Người trên trán họ. Cũng không còn đêm tối nữa: họ không
cần đến ánh sáng đèn đuốc hay ánh sáng mặt trời nữa: vì Chúa là Thiên Chúa
sẽ soi sáng cho họ, và họ sẽ thống trị muôn đời.
Thiên thần lại bảo tôi rằng: "Những lời này rất trung trực và chân thật.
Chúa là Thiên Chúa thần trí các tiên tri, đã sai thiên thần Người đến chỉ
cho các tôi tớ Người biết những sự sắp phải xảy đến. Và đây tôi vội vã tiến
đến. Phúc cho kẻ vâng giữ các lời ghi trong sách này".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 94, 1-2. 3-5. 6-7
Ðáp: Ma-ra-na-tha!
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến! (1 Cr 16, 22b và Kh 21, 20b)
Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ
của Ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để
hoan hô Người. - Ðáp.
2) Vì Chúa là Thiên Chúa cao sang, là Ðại Ðế siêu việt chư chúa tể. Ở nơi
tay Người những vực sâu của địa cầu, là của Người những chỏm núi cao. Bể
khơi là của Người: vì chính Người tạo tác, và đất khô do tay Người đúc nắn
ra. - Ðáp.
3) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lại, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng
tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn
dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. - Ðáp.
Alleluia: Lc 21,
36
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và
cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. -
Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21,
34-36
"Các con hãy tỉnh thức, để có thể thoát khỏi
những việc sắp xảy đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:
"Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề bởi chè chén say sưa và
lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con như chiếc lưới chụp
xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện
luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con
Người!"
Ðó là lời Chúa.
Suy Nguyện Lời Chúa
"Khi
những điều đó bắt đầu xảy đến..."
Thứ Bảy
cuối Tuần XXXIV Thường Niên cũng là ngày cuối cùng của phụng niên nói chung
và của chu kỳ phụng niên năm B nói riêng, Bài
Phúc Âm hôm
nay chỉ
có 3 trong 5 câu cuối cùng ở đoạn 21 Phúc Âm Thánh Luca.
Đúng thế, 2 câu cuối
cùng 37 và 38 của đoạn 21 được
Thánh ký Luca cho biết về
lịch trình cùng nơi chốn sinh hoạt hay giảng dạy của Chúa Giêsu vào những
giây phút cuối cùng của Người ở
Giêrusalem trước cuộc khổ nạn và tử giá của Người: "Ban
ngày Người giảng dạy trong đền thờ, và ban đêm Người rời thành này mà về Núi
Cây Dầu. Khi ngày tới thì tất cả mọi người đều đến nghe Người trong đền thờ".
Tuy nhiên, cho dù "Khi
ngày tới thì tất cả mọi người đều đến nghe Người trong đền thờ",
mà loạt bài
giáo huấn cuối cùng ở Giêrusalem của Người, từ bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần
trước cho đến nay, Chúa Giêsu chỉ nói với các môn đệ của Người mà thôi,
chứ Người không nói với các vị một cách riêng tư như Người sẽ làm thế khi cử
hành Lễ Vượt Qua với các vị trong Bữa
Tiệc Ly ở căn
thượng lầu riêng biệt giữa Người và các vị, và kể cả trong bài Phúc Âm hôm
nay, Người vẫn nói
với các vị một
cách công khai trước mặt quần chúng và nơi đền thờ Giêrusalem.
Thật vậy, trước ngay
2 câu cuối cùng ở đoạn
24 này, Thánh ký Luca đã ghi lại lời Chúa
Giêsu huấn dụ sau hết của Người trong
loạt giáo huấn cuối cùng của Người ở Giêrusalem, cho riêng
các môn đệ của Người cũng như cho chung dân chúng đang qui tụ lại với các
môn đệ của Người để nghe Người bấy giờ. Và lời huấn dụ cuối cùng mà Người
muốn nhắn nhủ cho cả hai thành phần nghe Người bấy giờ được thánh ký Luca
ghi lại trong bài Phúc Âm hôm nay đó là:
"Các
con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề bởi chè chén say sưa và lo
lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con như chiếc lưới chụp
xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện
luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con
Người!"
Trong lời huấn dụ cuối
cùng ở Giêrusalem này, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ và toàn thể đám đông dân
chúng đang lắng nghe Người bấy giờ 2 điều, một có tính cách tránh lánh tiêu
cực: "hãy
giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề bởi chè chén say sưa và lo lắng việc
đời, mà ngày đó thình lình đến với các con như chiếc lưới chụp xuống mọi
người sống trên mặt đất", và
một có tính cách áp dụng thực
hành tích
cực: "hãy
tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và
đứng vững trước mặt Con Người!"
Về lời khuyên tránh lánh những
gì là tiêu cực "hãy
giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề bởi chè chén say sưa và lo lắng việc
đời, mà ngày đó thình lình đến với các con như chiếc lưới chụp xuống mọi
người sống trên mặt đất" là
lời khuyên được Người lập lại theo lời cảnh báo của Người trước kia liên
quan đến việc ứng phó của thành phần chứng nhân cuối thời khi thấy thành
Giêrusalem bị công hãm thì làm sao phải thoát thân chứ đừng bị kẹt lại mà
khốn, như lời Người trong Bài Phúc Âm Thứ Năm tuần này:
"Khốn
cho những đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì
chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này.
Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt đi làm tôi trong các dân".
Về
lời khuyên áp dụng thực hành tích cực "hãy
tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và
đứng vững trước mặt Con Người!" cũng được
Người lập lại những gì Người đã trấn an và phấn khích thành phần chứng nhân
cuối thời trong cùng Bài
Phúc Âm Thứ Năm tuần này mới hôm kia: "Khi
những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ
cứu rỗi các con đã gần đến".
Vẫn
biết vương quốc của ma quỉ, của thần dữ đã bị phá hủy bởi Chúa Kitô khi
Người đến trần gian lần thứ nhất, đặc biệt là bằng cuộc Vượt Qua của Người (xem
1Gioan 3:8). Tuy nhiên,
khi còn sống trên thế gian này, trong không gian và thời gian, con người
dù đã được cứu độ khi lãnh nhận Phép Rửa tái sinh, vẫn sống với một bản tính
bị nhiễm lây nguyên tội, nên vẫn
phải chịu hậu quả của nguyên tội là khổ đau và chết đi, và
vì thế vẫn sống với tất cả các mầm mống tội lỗi là đam
mê nhục dục và tính mê nết xấu, và
do đó vẫn có thể bị hư đi, nếu không tự "giữ
mình" và "luôn
tỉnh thức và cầu nguyện".
Kinh nghiệm tu đức cho thấy
rõ đúng là như
vậy, và chính Phúc Âm
cũng đã ghi lại trường hợp điển hình nhất về ba vị tông đồ thân tín nhất của
Chúa Kitô ở trong Vườn Cây Dầu vào Đêm Thứ Năm Tuần Thánh với Chúa Giêsu, cả
3 vị đã không thể nào mở mắt thức với Người được lấy 1 giờ đồng hồ trong lúc
Người "buồn thảm đến chết đi được" (xem Mathêu 26:36-46),
bởi thế mà
ba vị tông đồ thân tín
này đã cùng
với những vị còn lại "tất
cả đã bỏ Người mà thoát thân"
(Marco 14:50), ngay chính lúc các
vị cần
phải tỏ
ra hiên ngang cương quyết sống
chết với Thày của mình!
Chỉ có những
ai biết đáp ứng lời cảnh báo của Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay, trong
việc "tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp
xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!" mới thực sự có được một cảm
nghiệm thần linh đúng như Thánh Gioan diễn tả trong Bài Đọc 1 hôm nay, đó là
"không còn đêm tối nữa", vì "họ không cần đến ánh sáng đèn đuốc
hay ánh sáng mặt trời nữa: vì Chúa là Thiên Chúa sẽ soi sáng cho họ, và họ
sẽ thống trị muôn đời".
Chính vì họ "đứng vững trước mặt Con Người"
mà họ mới có thể gắn bó với Người và trông mong Người đến để giải cứu họ và
canh tân tất cả mọi sự thành trời mới đất mới, một niềm trông mong tha thiết
(xem Do Thái 9:28), như được câu họa chung của Bài Đáp Ca hôm nay lập lại
lời Sách Khải Huyền là:
"Ma-ra-na-tha! Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!" Thậm chí họ còn đồng
thanh thúc giục nhau theo tâm tình của Thánh Vịnh 94 trong Bài Đáp Ca hôm
nay rằng:
1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của
Ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan
hô Người.
2) Vì Chúa là Thiên Chúa cao sang, là Ðại Ðế siêu việt chư chúa tể. Ở
nơi tay Người những vực sâu của địa cầu, là của Người những chỏm núi cao. Bể
khơi là của Người: vì chính Người tạo tác, và đất khô do tay Người đúc nắn
ra.
3) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lại, hãy quỳ gối trước nhan Chúa,
Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người
chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.
Trên cõi đời này, dẫu còn phải âu lo, chúng ta hãy cứ hát lên
Ha-lê-lui-a, để một ngày kia khi được yên ổn nơi cõi phúc, chúng ta vẫn
có thể hát lên lời này. Tại sao ở đời này ta phải âu lo ? Tôi đọc thấy
thế này : Cuộc sống con người nơi
dương thế chẳng phải là thời thử thách sao, mà bạn lại bảo tôi đừng
lo lắng ư ? Tôi nghe dạy thế này : Anh
em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ, mà bạn
lại bảo tôi đừng lo lắng ư ? Cám dỗ quá nhiều, đến nỗi Chúa phải truyền
dạy chúng ta cầu nguyện thế này : Xin
tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với
chúng con, mà bạn lại bảo tôi đừng lo lắng ư ? Ngày ngày phải cầu
xin, vì ngày ngày ta mắc tội. Ngày ngày tôi phải xin tha tội, xin cứu
nguy, mà bạn lại bảo tôi cứ yên lòng yên trí sao ? Thật vậy, vừa nhắc
đến tội lỗi đã phạm : Xin tha tội cho
chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con,
tôi đã phải nghĩ ngay đến hiểm nguy sắp tới và thêm : Xin
đừng để chúng con sa chước cám dỗ. Dân hạnh phúc làm sao được khi
còn phải cùng tôi kêu cầu : Xin cứu
chúng con khỏi mọi sự dữ. Tuy vậy, thưa anh em, ngay khi gặp sự dữ
như thế, chúng ta cũng cứ hát Ha-lê-lui-a mừng Thiên Chúa nhân lành là
Đấng cứu chúng ta khỏi sự dữ.
Chúng ta hãy cứ hát Ha-lê-lui-a cùng với mọi người, dầu đang gặp hiểm
nguy, dầu đang chịu cám dỗ. Thánh Phao-lô nói : Thiên
Chúa là Đấng trung tín : Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức.
Vậy giờ đây, chúng ta hãy hát Ha-lê-lui-a. Bây giờ, con người mắc tội,
nhưng Thiên Chúa trung tín. Thánh Tông Đồ không bảo là Thiên Chúa không
để anh em bị thử thách, mà nói : Người
sẽ không để anh em bị thử thách quá sức. Nhưng khi để
anh em bị thử thách, Người sẽ cho lối thoát, để anh em có sức chịu
đựng. Bạn gặp thử thách, nhưng Thiên Chúa sẽ cho lối thoát để bạn khỏi
quỵ ngã trong thử thách. Như chiếc bình trong tay thợ gốm, bạn được lời
giảng dạy nắn đúc và được gian truân tôi luyện. Nhưng khi gặp thử thách,
bạn hãy nhớ là mình có lối thoát, vì Thiên Chúa trung tín : Người
gìn giữ bạn lúc ra vào lui tới.
Hơn nữa, khi thân xác của chúng ta được trở thành bất tử bất hoại thì
không còn cám dỗ nào nữa. Thật vậy, thánh Phao-lô nói : Thân
xác thì phải chết. Tại sao chết ? – Vì
tội đã phạm. Còn Thần Khí làm cho
được sống. Tại sao ? – Vì đã được
nên công chính. Vậy chúng ta bỏ cái thân xác phải chết này sao ?
Không phải vậy đâu. Xin nghe đây : Nếu
Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết ngự trong
anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết, cũng sẽ làm
cho thân xác phải chết của anh em được sống. Thật vậy, bây
giờ thân xác có sinh khí, nhưng bấy giờ thân xác có Thần Khí.
Ôi, lúc ấy, tiếng hát Ha-lê-lui-a sẽ hạnh phúc dường nào ! Ôi, an toàn
biết bao ! Không ai chống đối, không kẻ hiềm thù, không sợ mất bạn hữu
nữa ! Nơi đó ngợi khen Thiên Chúa, nơi đây cũng ngợi khen Thiên Chúa.
Nhưng nơi đây, ngợi khen giữa bao lo lắng, còn nơi đó, trong cảnh an
toàn. Nơi đây là những người sắp chết lên tiếng ngợi khen, nơi đó là
những kẻ sống muôn đời. Nơi đây ngợi khen trong hy vọng, nơi đó ngợi
khen trong hiện thực. Nơi đây là lữ thứ, nơi đó là quê hương.
Vậy giờ đây, anh em thân mến, chúng ta hãy hát lên, không phải để mua
vui lúc nghỉ ngơi, nhưng để nhẹ bớt những lao nhọc. Như các lữ khách vẫn
thường hát, bạn hát lên, nhưng đồng thời vẫn tiến bước. Hãy hát cho vơi
bớt nhọc nhằn, đừng ham lười biếng. Hãy vừa hát vừa đi. Đi là thế nào ?
Là tiến lên, tiến lên trong sự thiện. Vì theo thánh Tông Đồ thì có những
người đang tiến sâu vào sự dữ. Còn bạn, nếu bạn tiến là bạn đang bước
đi. Nhưng hãy tiến lên trong sự thiện, tiến lên trong đức tin chân
chính, tiến lên trong cách ăn nết ở tốt lành. Bạn hãy vừa hát vừa đi.