SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
"Thày là Sự Sống"
Mục Tử Thần Linh
Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần IV
Phục Sinh
Phụng
Vụ Lời Chúa Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh
(cho các Chúa Nhật)
Bài Ðọc I: Cv 2, 14a. 36-41
"Thiên Chúa đã tôn Người làm Chúa và làm Ðấng Kitô".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: "Xin toàn thể nhà Israel hãy nhận biết chắc rằng: Thiên Chúa đã tôn Ðức Giêsu mà anh em đã đóng đinh, lên làm Chúa và làm Ðấng Kitô".
Nghe những lời nói trên, họ đau đớn trong lòng, nói cùng Phêrô và các Tông đồ khác rằng: "Thưa các ông, chúng tôi phải làm gì?" Phêrô nói với họ: "Anh em hãy ăn năn sám hối, và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Ðức Giêsu Kitô để được tha tội; và anh em nhận lãnh ơn Thánh Thần. Vì chưng, đó là lời hứa cho anh em, con cái anh em, và mọi người sống ở phương xa mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi đến". Phêrô còn minh chứng bằng nhiều lời khác nữa, và khuyên bảo họ mà rằng: "Anh em hãy tự cứu mình khỏi dòng dõi gian tà này". Vậy những kẻ chấp nhận lời ngài giảng, đều chịu phép rửa, và ngày hôm ấy có thêm chừng ba ngàn người gia nhập đạo.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.
2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Pr 2, 20b-25
"Anh em đã trở về cùng Ðấng canh giữ linh hồn anh em".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, khi làm việc lành, nếu anh em phải nhẫn nhục chịu đau khổ, đó mới là ân phúc trước mặt Thiên Chúa. Anh em được gọi làm việc đó, vì Ðức Kitô đã chịu đau khổ cho chúng ta, lưu lại cho anh em một gương mẫu để anh em theo vết chân Người. Người là Ðấng không hề phạm tội, và nơi miệng Người không thấy điều gian trá. Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe; Người phó mình cho Ðấng xét xử công minh; chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người trên cây khổ giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đã được chữa lành. Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Ðấng canh giữ linh hồn anh em.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10, 14
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10, 1-10
"Ta là cửa chuồng chiên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ". Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào".
Ðó là lời Chúa.
1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.
Bài Ðọc I: Cv 4, 8-12
"Ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phêrô được đầy Thánh Thần, đã nói: "Thưa chư vị Thủ lãnh toàn dân và Kỳ lão, xin hãy nghe, nhân vì hôm nay chúng tôi bị đem ra xét hỏi về việc thiện đã làm cho một người tàn tật, về cách thức mà con người đó đã được chữa khỏi, xin chư vị và toàn dân Israel biết cho rằng: Chính nhờ danh Ðức Giêsu Kitô Nadarét, Chúa chúng ta, Người mà chư vị đã đóng đinh, và Thiên Chúa đã cho từ cõi chết sống lại, chính nhờ danh Người mà anh này được lành mạnh như chư vị thấy đây. Chính người là viên đá đã bị chư vị là thợ xây loại ra, đã trở thành viên Ðá Góc tường; và ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác. Bởi chưng, không một Danh nào khác ở dưới gầm trời đã được ban tặng cho loài người, để phải nhờ Danh đó mà chúng ta được cứu độ".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 117, 1 và 8-9. 21-23. 26 và 28cd và 29
Ðáp: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường (c. 22).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn nương tựa ở loài người. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn nương tựa những bậc quân vương. - Ðáp.
2) Con cảm tạ Chúa vì Chúa đã nghe con, và đã trở nên Ðấng cứu độ con. Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. - Ðáp.
3) Phúc đức cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến, từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa của con và con cảm tạ Chúa, lạy Chúa con, con hoan hô chúc tụng Ngài. Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Ngài muôn thuở. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Ga 3, 1-2
"Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, các con hãy coi: tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa, và sự thật là thế. Vì đó mà thế gian không nhận biết chúng ta, vì thế gian không biết Người. Các con thân mến, hiện nay, chúng ta là con cái Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra. Chúng ta biết rằng: khi được tỏ ra, thì chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10, 14
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10, 11-18
"Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên. Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta. Cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đàn chiên. Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn; chúng sẽ nghe tiếng Ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên. Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống khỏi Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Ðó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta".
Ðó là lời Chúa.
1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn nương tựa ở loài người. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn nương tựa những bậc quân vương.
2) Con cảm tạ Chúa vì Chúa đã nghe con, và đã trở nên Ðấng cứu độ con. Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta.
3) Phúc đức cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến, từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa của con và con cảm tạ Chúa, lạy Chúa con, con hoan hô chúc tụng Ngài. Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Ngài muôn thuở.
Bài Ðọc I: Cv 13, 14. 43-52
"Ðây chúng tôi quay về phía các dân ngoại".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba sang qua Perghê và đến Antiôkia xứ Pisiđia; ngày Sabbat, các ngài vào ngồi trong hội đường. Có nhiều người Do-thái và tòng giáo theo các ngài, được các ngài khuyên bảo bền đỗ trong ơn nghĩa Chúa.
Ðến ngày Sabbat sau, hầu hết cả thành đều đến nghe lời Thiên Chúa. Các người Do-thái thấy đám đông dân chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy. Phaolô và Barnaba can đảm nói rằng: "Phải giảng lời Thiên Chúa cho các ngươi trước tiên, nhưng vì các ngươi từ chối lời Thiên Chúa và tự cho mình không xứng đáng sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía các dân ngoại; vả lại Chúa đã truyền lệnh cho chúng tôi rằng: "Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất". Nghe vậy các dân ngoại hân hoan ca tụng lời Chúa; những ai được Chúa tiền định hưởng sự sống đời đời, thì tin theo, nên lời Chúa được rao giảng khắp cả vùng.
Những người Do-thái xúi giục các phụ nữ khá giả đã tòng giáo và các thân hào trong thành bắt bớ Phaolô và Barnaba, rồi trục xuất hai ngài ra khỏi ranh giới xứ họ. Còn hai ngài, sau khi phủi bụi chân lại cho họ, hai ngài đi đến Icôniô. Còn các môn đồ thì đầy hân hoan và Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 99, 2. 3. 5
Ðáp: Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi (c. 3c).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy phụng sự Chúa với niềm vui vẻ; hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá. - Ðáp.
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người, ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi. - Ðáp.
3) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn muôn thế hệ. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Kh 7, 9. 14b-17
"Chiên Con sẽ thống trị họ, và dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan, đã xem thấy một đám đông không thể đếm được, họ thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc và tiếng nói, đứng trước ngai vàng và trước Con Chiên; họ mặc áo trắng dài, tay cầm lá vạn tuế.
Và một bô lão đã nói với tôi: "Ðây là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy nó trắng trong máu Con Chiên. Vì thế, họ ở trước ngai vàng Thiên Chúa, và ngày đêm phụng sự Người trong đền thánh Chúa, Ðấng ngự trên ngai vàng đặt ở giữa họ. Họ sẽ không còn đói khát; mặt trời và nóng bức sẽ không làm khổ họ, vì Con Chiên đứng trước ngai vàng sẽ thống trị họ, sẽ dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống, và Thiên Chúa sẽ lau hết mọi giọt lệ nơi mắt họ.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10, 14
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10, 27-30
"Ta ban cho các chiên Ta được sống đời đời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta. Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là một".
Ðó là lời Chúa.
1) Hãy phụng sự Chúa với niềm vui vẻ; hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá.
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người, ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi.
3) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn muôn thế hệ.
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 11, 1-18
"Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn ăn năn sám hối để được sống".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, các tông đồ và anh em ở Giuđêa nghe tin rằng cả dân ngoại cũng đã đón nhận lời Thiên Chúa. Khi Phêrô lên Giêrusalem, các người đã chịu cắt bì trách móc người rằng: "Tại sao ngài vào nhà những kẻ không chịu cắt bì và ăn uống với họ?" Phêrô trình bày cho họ sự việc từ đầu đến cuối theo thứ tự sau đây: "Tôi đang ở tại thành Gióp-pê, lúc cầu nguyện, trong một thị kiến, tôi thấy một vật gì giống chiếc khăn lớn túm bốn góc, từ trời thả xuống sát bên tôi. Tôi chăm chú nhìn và thấy những con vật bốn chân, những mãnh thú, rắn rết và chim trời. Tôi nghe tiếng phán bảo tôi: "Phêrô, hãy chỗi dậy giết mà ăn". Tôi thưa: "Lạy Chúa, không được, vì con không khi nào bỏ vào miệng con những đồ dơ nhớp hay bẩn thỉu". Tiếng từ trời nói lần thứ hai: "Vật gì Thiên Chúa cho là sạch, ngươi đừng nói là dơ nhớp". Ba lần xảy ra như thế, và mọi sự lại được kéo lên trời.
"Và ngay lúc đó, ba người từ Cêsarêa được sai đến nhà tôi ở. Thánh Thần truyền dạy tôi đừng ngần ngại đi với họ. Sáu anh em cùng đi với tôi, và chúng tôi vào nhà một người. Anh thuật lại cho chúng tôi biết: anh đã thấy thiên thần hiện ra thế nào; thiên thần đứng trong nhà anh và nói với anh rằng: "Hãy sai người đến Gióp-pê tìm Simon có tên là Phêrô; người sẽ dạy ngươi những lời có sức làm cho ngươi và cả nhà ngươi được cứu độ". Lúc tôi bắt đầu nói, Thánh Thần ngự xuống trên họ như ngự trên chúng ta lúc ban đầu. Bấy giờ tôi nhớ lại lời Chúa phán: "Gioan đã rửa bằng nước, còn các con, các con sẽ được rửa bằng Thánh Thần". Vậy, nếu Thiên Chúa ban cho họ cũng một ơn như đã ban cho chúng ta, là những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà có thể ngăn cản Thiên Chúa?"
Nghe những lời ấy, họ thinh lặng và ca tụng Thiên Chúa rằng: "Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn ăn năn sám hối để được sống".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 41, 2. 3; 42, 3. 4
Ðáp: Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống (Tv 41, 3a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi. - Ðáp.
2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống; ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời! - Ðáp.
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. - Ðáp.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ, con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúng con biết rằng Ðức Kitô đã thật sự sống lại từ cõi chết: Lạy Vua chiến thắng, xin thương xót chúng con. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10, 1-10
"Ta là cửa chuồng chiên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ".
Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào".
Ðó là lời Chúa.
Trong Năm A, bài Tin Mừng dưới đây được đọc thay bài Tin Mừng trên, vì bài Phúc Âm này đã được đọc hôm qua Chúa Nhật trong Năm A:
Phúc Âm: Ga 10, 11-18
"Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên. Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta. Cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đàn chiên. Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn; chúng sẽ nghe tiếng Ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên. Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống khỏi Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Ðó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Lời Chúa
Chủ đề
"Thày là sự sống"
theo chiều kích Mục Tử Thần Linh cho Tuần IV Phục Sinh chẳng những được tỏ
hiện rõ ràng ở bài Phúc Âm Chúa Nhật, cũng được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên
Lành, bài phúc âm cho cả ba chu kỳ phụng vụ A, B và C, mà còn cho cả các
bài đọc ở các ngày thường trong tuần lễ này nữa. Rõ ràng nhất là bài Phúc Âm
cho ngày Thứ Hai hôm nay, cũng chính là bài Phúc Âm cho Chúa Nhật IV Năm A
hôm trước, bài Phúc Âm được chính Chúa Kitô khẳng định Người chẳng những là
cửa đàn chiên mà còn đến để mang lại sự sống cho chiên nữa:
"Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến
trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà
vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm
có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho
chúng được sống và được sống dồi dào".
"Ta là mục tử tốt lành. Mục tử
tốt lành thí mạng sống mình vì chiên...
Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta".
Căn cứ vào hai câu Chúa
Giêsu nói về Người là vị mục tử tốt lành, thì vị mục tử tốt lành cần 2 yếu tố
bất khả thiếu và bất khả phân ly, đó là dám chết vì chiên, cũng như chẳng những
biết chiên mà còn được chiên biết đến nữa. Chỉ có những vị mục tử nào biết chiên
và được chiên biết đến mới dám liều mạng sống mình vì chiên.
Tuy nhiên, nếu biết chiên mà không được chiên biết thì cũng không phải hay chưa
phải là mục tử tốt lành, bởi chưa biết chiên thực sự, hay chỉ biết những cái xấu
của chiên để mà sửa phạt, chứ không thông cảm và nâng đỡ, hoặc biết những cái
tốt của chiên nhưng lại không sử dụng, trái lại, còn coi thường và tẩy chay, chỉ sợ mất uy tín
của mình v.v.
Một vị chủ chiên tốt lành thì được chiên mộ mến lắng nghe, tuy nhiên, nếu vị chủ
chiên ấy lợi dụng lòng mộ mến của chiên để mà cạnh tranh với các chủ chiên khác,
hay đàn áp những con chiên dám nói thẳng những gì cần được xây dựng chính đáng,
hoặc tỏ ra bất tuân phục thẩm quyền của mình, hay nể nang mị dân không dám dẫn
dắt chiên theo đúng tinh thần và đường lối của Chúa v.v., thì cũng chỉ là những
chủ chiên tốt lành giả hình, mang tinh thần của kẻ trộm cướp mà thôi, và chắc
chắn sẽ không dám liều mạng sống vì chiên.
Bài Đọc I (Tông
Vụ 11:1-18):
"Khi
Phêrô lên Giêrusalem, các người đã chịu cắt bì trách móc người rằng: 'Tại sao
ngài vào nhà những kẻ không chịu cắt bì và ăn uống với họ?' Phêrô trình bày cho
họ sự việc từ đầu đến cuối theo thứ tự sau đây: '... ngay
lúc đó, ba người từ Cêsarêa được sai đến nhà tôi ở. Thánh Thần truyền dạy tôi
đừng ngần ngại đi với họ. Sáu anh em cùng đi với tôi, và chúng tôi vào nhà một
người. Anh thuật lại cho chúng tôi biết: anh đã thấy thiên thần hiện ra thế nào;
thiên thần đứng trong nhà anh và nói với anh rằng: 'Hãy sai người đến Gióp-pê
tìm Simon có tên là Phêrô; người sẽ dạy ngươi những lời có sức làm cho ngươi và
cả nhà ngươi được cứu độ'".
"Lúc
tôi bắt đầu nói, Thánh Thần ngự xuống trên họ như ngự trên chúng ta lúc ban đầu.
Bấy giờ tôi nhớ lại lời Chúa phán: 'Gioan đã rửa bằng nước, còn các con, các con
sẽ được rửa bằng Thánh Thần'. Vậy, nếu Thiên Chúa ban cho họ cũng một ơn như đã
ban cho chúng ta, là những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà có thể
ngăn cản Thiên Chúa?' Nghe những lời ấy, họ thinh lặng và ca tụng Thiên Chúa
rằng: 'Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn ăn năn sám hối để được
sống'".
1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi.
2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống; ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời!
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ, con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con.
Thứ Ba
Bài Ðọc I: Cv 11, 19-26
"Họ cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người Hy-lạp".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, vì cơn bách hại xảy ra nhân dịp Têphanô bị giết, có nhiều người phải sống tản mác, họ đi đến Phênixê, Cyprô và Antiôkia, họ không rao giảng lời Chúa cho một ai ngoài những người Do-thái. Nhưng một ít người trong họ quê ở Cyprô và Xyrênê; khi đến Antiôkia, họ cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người Hy-lạp nữa. Và tay Chúa ở với họ; nên có đông người tin trở về với Chúa. Tin đó thấu tai Hội Thánh Giêrusalem, nên người ta sai Barnaba đến Antiôkia. Khi đến nơi và thấy việc ơn Chúa thực hiện, ông vui mừng và khuyên bảo mọi người hãy vững lòng tin nơi Chúa; Barnaba vốn là người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin. Và có đoàn người đông đảo tin theo Chúa. Vậy Barnaba đi Tarxê tìm Saolô. Gặp được rồi, liền đưa Saolô về Antiôkia. Cả hai ở lại tại Hội Thánh đó trọn một năm, giảng dạy cho quần chúng đông đảo; chính tại Antiôkia mà các môn đồ lần đầu tiên nhận tên là Kitô hữu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 86, 1-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Hỡi muôn dân, hãy ngợi khen Chúa (Tv 116, 1a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chúa yêu cơ sở Ngài thiết lập trên núi thánh; Ngài yêu cửa nhà Sion hơn mọi cư xá nhà Giacóp. Hỡi thành trì của Thiên Chúa, thiên hạ đang nói những điều hiển hách về ngươi. - Ðáp.
2) Ta sẽ kể Rahab và Babel vào số người thờ phượng Ta, kìa Philitinh, Tyrô và dân Êthiôpi: những người này đã sinh ra tại đó. Và thiên hạ sẽ nói về Sion rằng: "Riêng từng người và hết mọi người đã sinh tại đó, chính Ðấng Tối Cao đã củng cố thành này". - Ðáp.
3) Chúa sẽ ghi chép vào sổ sách của chư dân rằng: "Những người này đã sinh ra tại đó". Và khi ca vũ, người ta sẽ ca rằng: "Mọi nguồn vui thú của tôi đều ở nơi ngươi". - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúa Kitô, Ðấng tác tạo mọi loài, đã sống lại và đã xót thương nhân loại. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10, 22-30
"Tôi và Cha Tôi là một".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, người ta mừng lễ Cung Hiến tại Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. Chúa Giêsu đi bách bộ tại đền thờ, dưới cửa Salômôn. Người Do-thái vây quanh Người và nói: "Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Ðức Kitô, thì xin ông nói rõ cho chúng tôi biết". Chúa Giêsu đáp: "Tôi đã nói với các ông mà các ông không tin. Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về Tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn chiên tôi. Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. Ðiều mà Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một".
Ðó là lời Chúa.
"Khi ấy, người ta mừng lễ Cung Hiến tại Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. Chúa Giêsu đi bách bộ tại đền thờ, dưới cửa Salômôn. Người Do-thái vây quanh Người và nói: 'Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Ðức Kitô, thì xin ông nói rõ cho chúng tôi biết'. Chúa Giêsu đáp: 'Tôi đã nói với các ông mà các ông không tin. Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về Tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn chiên tôi. Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. Ðiều mà Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một'".
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành, đã minh định chiên của Người có bản chất và khuynh hướng tự nhiên ra sao, đó là "nghe tiếng Tôi (tức tin vào Người) và theo Tôi", bởi thế, những ai không nghe tiếng Người, hay "không tin" vào Người, như Người đã nói thẳng vào mặt dân Do Thái bấy giờ "không tin" Người nên "không thuộc về đàn chiên của Tôi".
Ở đây Chúa Giêsu không hất hủi một ai, nhất là thành phần được Cha của Người tuyển chọn làm dân riêng, một dân tộc Người mang huyết thống khi hóa thành nhục thể. Người chỉ nói rằng họ vì không tin nên "không thuộc (đúng hơn chưa thuộc) về đàn chiên của Tôi" thôi, cho đến khi họ tin thì họ sẽ thuộc về đàn chiên của Người, và hành động đầy thiện chí của họ trong việc theo đuổi tìm hiểu về nguồn gốc của Người cho bằng được, như ở đầu bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Ðức Kitô, thì xin ông nói rõ cho chúng tôi biết", đã đủ chứng tỏ họ muốn tin Người, cần Người nhẫn nại tỏ mình ra cho họ, theo cách thức mù tối và cứng lòng của họ để nhờ đó họ có thể tin vào Người.
Riêng đối với chiên của Người, nghĩa là đối với những ai tin vào Người và theo Người, thì như Người quả quyết: 1- "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời", một sự sống thần linh liên quan đến mầu nhiệm nhập thể của Người, ở chỗ "ai chấp nhận Người, thì Người ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12); 2- "Chúng sẽ không bao giờ hư mất", một hứa hẹn thần linh liên quan đến mầu nhiệm tử giá, ở chỗ: "Vì họ mà Con tự thánh hiến để họ được thánh hóa trong chân lý" (Gioan 17:19); và 3- "Không ai có thể cướp chúng khỏi tay Tôi", một quyền lực thần linh liên quan đến mầu nhiệm phục sinh của Người, bởi vì "Thày được toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18).
Thật vậy, "chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi", thế nhưng, nếu "chúng theo Tôi", thì chúng còn cần phải được "Tôi biết chúng" nữa. Bởi vì, tự bản chất hiền lành của mình, chiên của Người cũng dễ bị sói dữ ăn thịt, nếu không có Người luôn ở với chúng, ở chỗ "biết chúng", như tỏ ra quan tâm đến chúng, đến từng nhu cầu của chúng, tỏ ra chăm sóc cho chúng, bằng cách đáp ứng nhu cầu của chúng, và sẵn sàng đi tìm kiếm chúng, một khi chúng bị lạc đàn.
Đời sống của Kitô hữu là một hành trình đức tin là như thế: trước hết ở chỗ "nghe tiếng Tôi" khi lãnh nhận Phép Rửa tái sinh; sau nữa ở chỗ được Đấng biết họ, "Tôi biết chúng" thông ban sự sống thần linh cho: "Vị Chủ Chiên nhân lành đến cho chiên được sống và sống viên mãn" (Gioan 10:10), và sau hết, ở chỗ, "chúng theo Tôi" để truyền đạt sự sống thần linh viên mãn nơi mình nhờ được hiệp thông thần linh với Cây Nho là Chúa Kitô (xem Gioan 15:4), như trường hợp của tông đồ Phêrô được Chúa Kitô là Đấng ủy thác cho ngài sứ vụ chăn dắt các chiên con chiên mẹ cho kèm theo số phận hy sinh cho chiên thì được Người kêu gọi "Hãy theo Thày" (Gioan 21:19).
Bài Đọc I (Tông
Vụ 11:19-26):
"Trong những ngày ấy, vì cơn bách hại xảy ra nhân dịp Têphanô bị giết, có nhiều
người phải sống tản mác, họ đi đến Phênixê, Cyprô và Antiôkia, họ không rao
giảng lời Chúa cho một ai ngoài những người Do-thái. Nhưng một ít người trong họ
quê ở Cyprô và Xyrênê; khi đến Antiôkia, họ cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người
Hy-lạp nữa. Và tay Chúa ở với họ; nên có đông người tin trở về với Chúa. Tin đó
thấu tai Hội Thánh Giêrusalem, nên người ta sai Barnaba đến Antiôkia. Khi đến
nơi và thấy việc ơn Chúa thực hiện, ông vui mừng và khuyên bảo mọi người hãy
vững lòng tin nơi Chúa; Barnaba vốn là người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng
tin. Và có đoàn người đông đảo tin theo Chúa. Vậy Barnaba đi Tarxê tìm Saolô.
Gặp được rồi, liền đưa Saolô về Antiôkia. Cả hai ở lại tại Hội Thánh đó trọn một
năm, giảng dạy cho quần chúng đông đảo; chính tại Antiôkia mà các môn đồ lần đầu
tiên nhận tên là Kitô hữu".
1) Chúa yêu cơ sở Ngài thiết lập trên núi thánh; Ngài yêu cửa nhà Sion hơn mọi cư xá nhà Giacóp. Hỡi thành trì của Thiên Chúa, thiên hạ đang nói những điều hiển hách về ngươi.
2) Ta sẽ kể Rahab và Babel vào số người thờ phượng Ta, kìa Philitinh, Tyrô và dân Êthiôpi: những người này đã sinh ra tại đó. Và thiên hạ sẽ nói về Sion rằng: "Riêng từng người và hết mọi người đã sinh tại đó, chính Ðấng Tối Cao đã củng cố thành này".
3) Chúa sẽ ghi chép vào sổ sách của chư dân rằng: "Những người này đã sinh ra tại đó". Và khi ca vũ, người ta sẽ ca rằng: "Mọi nguồn vui thú của tôi đều ở nơi ngươi".
Thánh Anathasio Giám Mục Tiến Sĩ
2/5 - Thứ Ba
ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Anathasia ở cái link dưới đây:
Thứ Tư 20/6/2007 - Bài Giáo Lý 42 Thánh giáo phụ Athanasius
I. CON NGƯỜI VÀ CUỘC ĐỜI
Thánh Athanasiô (Athanasius) sinh vào khoảng năm 297 tại Alêxanđria,
nước Ai Cập. Thánh nhân đã trung thành tận hiến đời mình để minh chứng
Đức Chúa Giêsu là Thiên Chúa chân thật. Điều này quan trọng bởi vì một
số người theo bè rối Ariô đã chối bỏ chân lý này. Ngay trước khi làm
linh mục, Thánh Athanasiô đã đọc nhiều sách dạy về đức tin. Đó là lý do
tại sao Thánh nhân có thể dễ dàng vạch ra những giáo huấn sai lầm của bè
rối Ariô.
Thánh Athanasiô làm Tổng Giám mục thành Alêxanđria khi chưa đầy ba mươi
tuổi. Suốt bốn mươi sáu năm, Athanasiô là một mục tử hết sức anh dũng.
Cả bốn vị hoàng đế Rôma đã không thể nào bắt ép Athanasiô thôi viết
những bài giải thích rất hay và rất rõ ràng về đức tin thánh thiện của
Kitô giáo. Các kẻ thù của Athanasiô thì tìm mọi cách để khủng bố ngài.
Trong cuộc đời, Thánh Athanasiô bị đuổi ra khỏi giáo phận của ngài tất
cả năm lần. Lần lưu đày đầu tiên kéo dài hai năm. Năm 336,
Athanasiô bị đưa đến thành phố Trier, ở biên giới Đức. ở đây Ngài gặp
được vị giám mục quảng đại tốt lành là Thánh Maximilianô đã tiếp đón rất
nồng hậu. Những lần lưu đày khác kéo dài lâu hơn. Thánh Athanasiô bị
những kẻ thù ngài săn đuổi. Trong một kỳ lưu đày, các đan sĩ đã trông
giữ Athanasiô cách an toàn trong sa mạc suốt bảy năm. Do đó, các kẻ thù
của Thánh Athanasiô đã không thể nào tìm được ngài.
Một lần kia, các binh lính của hoàng đế rượt đuổi Athanasiô trên bờ sông
Nile.”Họ đang đuổi bắt chúng ta!” các bạn hữu của Thánh nhân thét lên
như thế. Nhưng Athanasiô chẳng lo lắng gì cả.”Hãy quay thuyền vòng lại,
“ ngài nói cách bình thản, “và hãy chèo về phía họ!” Các binh lính ở
trong thuyền kia la lên: “Các anh có thấy Athanasiô đâu không?” Đằng sau
có tiếng trả lời: “Chúng ta chẳng còn cách xa ông ấy bao nhiêu!” Rồi
chiếc thuyền của kẻ thù cố sức phóng nhanh hơn vận tốc bình thường; và
thế là thánh Athanasiô đã an toàn thoát nạn!
Dân thành Alêxanđria rất yêu mến Đức Tổng Giám mục tốt lành của mình.
Ngài thực là người cha của họ. Với những năm tháng trôi qua, họ hiểu rõ
được những đau khổ ngài đã phải chịu vì Đức Chúa Giêsu và Giáo hội của
Người. Chính giáo dân, những người đã cùng làm việc với thánh nhân, làm
chứng rằng Athanasiô đã góp phần rất lớn vào việc kiến tạo hòa bình.
Ngài đã sống bảy năm sau cùng với họ trong niềm vui thư thái. Các kẻ thù
của Athanasiô đã lùng bắt ngài nhưng không thể nào tìm được ngài ở đâu.
Suốt thời gian ấy, Thánh Athanasiô viết truyện “Cuộc đời thánh Antôn ẩn
tu”. Thánh Antôn là người bạn chí thân của Athanasiô lúc Athanasiô còn
trẻ.
Thánh Athanasiô qua đời trong an bình vào ngày mùng 2 tháng Năm năm 373.
Ngài luôn là một trong những vị Thánh can đảm đặc biệt nhất qua mọi thời
đại.(Theo tinmung.net)
II. SỰ NGHIỆP
1. Sự nghiệp lớn nhất của thánh Athanasiô là vai trò của ngài trong việc
bảo vệ đức tin chính thống của Giáo Hội chống lại Arius và học thuyết
cùng tên về Giáo lý Chúa Ba Ngôi.
Thế học thuyết Arius là học thuyết như thế nào?
Nói một cách thật vắn gọn thì học thuyết này: Cũng như nhiều lạc thuyết
khác, giáo thuyết Arius bắt đầu với một quan điểm trung thực: Thiên Chúa
là Đấng duy nhất và tự hữu, không thể sinh ra bởi nguyên nhân nào khác. Nhưng
ông nói thêm: Thiên Chúa không thể thông bản tính mình cho ai được,
vì nếu chủ trương khác, tức là phủ nhận Thiên Chúa, Đấng đơn thuần duy
nhất. Bởi ông kết luận tất cả mọi vật ngoài Thiên Chúa đều là thụ tạo,
trong đó có cả Đấng Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa. Theo Arius, Chúa Kitô
không phải là Thiên Chúa, không ngang hàng không đồng bản tính với Ngôi
Cha. Ngài chỉ là một tạo vật hoàn hảo nhất, có trước thời gian, nhưng
không phải vô thủy vô chung. Ngài được chọn làm Con Thiên Chúa, được
tham dự Thiên tính, được đặt làm trung gian giữa Thiên Chúa và loài
người. Arius mượn lời trong Phúc âm thánh Gioan: ”Cha Ta cao
trọng hơn Ta” (XIV, 28), để minh chứng sự xa cách giữa Chúa Cha và
Chúa Con.
Phải nói giáo phái Arius là một trong những thử thách nặng nề và đáng sợ
nhất, mà Giáo hội thời Thượng cổ phải đối phó. Trong gần một thế kỷ, nó
gây ra những cuộc tranh luận sôi nổi về Thiên tính Chúa Kitô, mà cả hai
bên: bên Công giáo cũng như phe Arius đều không nhượng bộ nhau. Nhiều
giáo phụ Công giáo có những thái độ anh hùng, sẵn sàng hy sinh tính mạng
để bảo vệ đức tin. Nhiều người có đầu óc và có địa vị đã tiếp tay cho
giáo phái với những lời tuyên truyền và tranh đấu rất khôn khéo, mềm
dẻo.
Năm 325 trong Công Đồng Nicêa I, dù mới chỉ là một phó tế, mới 27 tuổi,
Thánh Athanasiô đã là người chính yếu tiên phong trong việc bảo vệ giáo
lý về Ba Ngôi, chống lại học thuyết Arius lúc bấy giờ.
Tháng 6 năm 328, ở tuổi 30, Athanasiô trở thành Tổng giám mục Alêxanđria
sau khi vị tiền nhiệm qua đời. Ngài tiếp tục dẫn dắt cuộc tranh luận
chống phái Arius cho tới cuối đời và tham gia đấu tranh chính trị cũng
như thần học chống lại Constantius
II và
các giáo sĩ theo thuyết Arius có thế lực và ảnh hưởng, do Eusebius
thành Nicomedia cùng
các nhân vật khác dẫn dắt. Chính vì thế mà người ta đã gán cho ngài một
danh hiệu rất đáng tự hào: Athanasius Contra Mundum (“Athanasiô
chống lại thế giới”). Vài năm sau khi ngài qua đời, Grêgôriô
thành Nazianzô đã
gọi ngài là “Trụ cột của Giáo hội”. Các tác phẩm của Athanasiô
được các giáo phụ sau này từ cả Đông phương lẫn Tây phương coi trọng.
Trong suốt bốn mươi lăm năm làm giám mục, Đức cha Athanasiô là mục tiêu
tấn công quyết liệt của bè rối Ariô và đã bị đi lưu đày năm lần. Ngài đã
trải qua tất cả mười sáu năm bị lưu đày, liên tục bị phế truất và phục
hồi khi quyền lực thay đổi cả trong Giáo Hội lẫn trong triều đình. Tuy
nhiên, khi Đức Giám mục Athanasiô qua đời vào năm 373, bè phái ariô đã
bị suy yếu bởi những sự chia rẽ nội bộ và không còn là mối đe dọa lớn
cho Giáo Hội nữa.
2. Bên cạnh sự nghiệp bảo vệ Giáo Hội chống lại bè rối Arius, chúng ta
thấy thánh Athanasiô còn nhiều hoạt động khác làm cho Giáo lý trong sáng
của Chúa càng ngày càng phát triển và thêm mạnh mẽ trở nên sức sống cho
Giáo Hội do Chúa thiết lập
Chúa Giêsu Ngôi Hai của Thiên Chúa Cha là Người Đã Mang lấy Cái Chết của
Chúng Ta. Đó
là lý do tại sao Ngôi Lời vô hình và bất diệt của Thiên Chúa đã bước vào
thế giới của chúng ta… .
Ngôi Lời Đã Trở Nên Người Phàm
Người (Đức Giêsu) là Người Con, là Sự Khôn Ngoan và Quyền Năng (Sức
Mạnh) của Thiên Chúa không? Thậm chí, Người còn khiến cho trời đất vạn
vật phá vỡ sự im lặng của nó: Ngay cái chết của Người – hay đúng hơn là
nơi thập giá, đó là chiến tích của Người về cái chết – tất cả các vạn
vật đều thú nhận rằng Người … không chỉ là một con người, mà còn là Con
Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ của tất cả mọi loài. Mặt trời ẩn mặt đi, trái
đất chuyển rung, những tảng đá nứt ra và tất cả mọi người đều kinh
hoàng, sợ hãi. Tất cả những điều này cho thấy rằng Chúa Kitô trên thập
giá là Thiên Chúa và rằng tất cả mọi thọ tạo là tôi tớ của Người và đang
làm chứng bằng sự sợ hãi của chúng trước sự hiện diện của Chủ mình.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã cho thánh giám mục Athanasiô được can đảm đứng lên bênh vực niềm tin của Giáo Hội về thần tính của Đức Kitô, Con Một Chúa. Xin nhận lời thánh nhân chuyển cầu, cho chúng con biết nghe lời Người giảng dạy, để ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa hơn.”( lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Athanasiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh)
.https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-02-05-thanh-athanasiogiam-muc-tien-si-hoi-thanh-295-373-48720
Tại công đồng Nicea, thánh Athanassiô tháp tùng Đức Giám mục Alaxander và đã góp phần vào bản văn chung quyết của cộng đồng, trong đó định tín rằng: Chúa Con đồng bản tính với Chúa Cha.
Thánh Athanasiô sinh khoảng năm
295 có lẽ tại Alexandria. Gia đình Ngài rõ ràng là khá giả vì sau này
Ngài có dịp trốn ở phần mộ của gia đình, Ngài đã theo môn cổ học và sau
này thường trích dẫn các tác giả cổ. Có lẽ Ngài cùng theo học tại một
trường Giáo lý ở Caêsarêa nên tư tưởng của Ngài thấm nhuần Kinh thánh,
cả những chú giải Kinh thánh và cũng theo truyền thống các giáo phụ nữa.
Vào khoảng 25 tuổi Athanasiô đã có
một thời sống với thánh Antôn ẩn tu. Bốn mươi năm sau, Ngài đã mời thánh
An tôn ẩn tu về Alexandria để góp phần bảo vệ đức tin. Khi qua đời thánh
ẩn tu đã nhường lại cho Athanasiô cái áo choàng Ngài vẫn dùng đắp mình
khi ngủ và tấm da chiên để dùng sưởi ấm lúc tuổi già. Những năm chung
sống nơi sa mạc với vị thánh ẩn tu này đã tạo nên nét thánh thiện và
nhân cách của Athanasiô.
Vào năm 320, Athanasiô mới bắt đầu
góp phần vào lịch sử. Khi ấy Đức Cha Alexander Giám mục Alexandria cảm
phục và triều vời Athanasiô từ sa mạc về, đặt làm phó tế. Khi ấy Ariô là
cha sở Boucalis. Ông ta là một nhà giảng thuyết danh tiếng, có một cuộc
sống khắc khổ và hướng dẫn các trinh nữ hiến mình cho Thiên Chúa. Ariô
đã sáng nghĩ và rao giảng những ý tưởng lầm lạc cho rằng: "Ngôi Lời
Thiên Chúa không có từ đời đời, không cùng bản tính với Chúa Cha mà chỉ
là một thụ tạo được mang danh hiệu Con Thiên Chúa". Athanasiô đã bảo bỏ
những sai lầm này. Bút pháp và nội dung của bức thông điệp Đức Giám mục
Alexander ban hành năm 322 cho thấy tác giả chính là Athanasiô.
Tại công đồng Nicea, thánh
Athanassiô tháp tùng Đức Giám mục Alaxander và đã góp phần vào bản văn
chung quyết của cộng đồng, trong đó định tín rằng: Chúa Con đồng bản
tính với Chúa Cha. Ngài đã trở thành mục tiêu cho bọn lạc giáo ghen
ghét.
Mùa hạ năm 328, Đức Giám mục
Alexander qua đời và đặt Athanasiô lên kế vị. Nhận thấy mình bất xứng,
Athanasiô đã bỏ trốn, nhưng rồi bị ép buộc lãnh nhận trách nhiệm. Ngài
đã tỏ ra có nhân cách khôn sánh, có ý chí bất khuất và rất thông minh.
Rảo quanh khắp giáo phận rộng lớn, Ngài gặp thánh Dachômiô từ trong sa
mạc, là Đấng đã nghe Chúa nói với mình rằng: - Ta đã đặt Athanasiô làm
cột trụ Giáo hội, nhưng Ngài sẽ bị đau khổ nhiều.
Nhưng Athanasiô không sợ đau khổ.
Nhiều lần Ngài đã bị trục xuất khỏi giáo phận. Trước hết, dưới ảnh hưởng
của những người theo phái Ariô, năm 335 thánh Athanasiô bị vua
Constantinô đầy đi Trier ở biên thùy nước Đức. Tại đây Ngài trước tác
một số tác phẩm nay vẫn còn danh tiếng.
Nhưng rồi năm sau. Ariô chết cách
khốn khổ. Vua Constantinô cho thánh nhân được trở về giáo phận, Ngài chỉ
trở lại hai năm sau tức năm 337 khi thấy nhà vua mới Constance ngả về
phía lạc giáo. Cuộc trở về của thánh nhân diễn ra như một cuộc khải
hoàn. Tuy nhiên từ năm 337 đến năm 366, cuộc đời Ngài là một cuộc chiến
đấu liên tục với nhóm người ngả theo Ariô có, bảo thủ có, buông thả để
an phận có. Chính hoàng đế cũng muốn can thiệp để sửa đổi giáo thuyết
Hội Thánh khiến các thù địch tỏ ra độc ác và tìm cách tiêu diệt vị giám
mục. Lần kia đang lúc thánh Athanasiô dâng lễ, bọn lính xâm nhập thánh
đường. Thánh nhân trốn thoát được và ẩn mình trong sa mạc. Sợ những
người chứa chấp bị liên lụy Ngài ẩn mình trong một hang đá. Và không
ngừng trung thành với đức tin chân chính.
Hoàng đế Constance qua đời,
Juliano người sẽ mang biệt danh là kẻ bội giáo, lên kế vị và cho phép
những kẻ lưu đày trở về. Đức Giám mục Athanasiô trở lại giáo phận và
thiết lập trật tự trong giáo đoàn cũng như lo truyền bá đức tin sang
Ethiopie và Ả Rập.
Ngài chống lại các mê tín dị đoan
khiến các lương dân tức giận. Họ quyết sát hại thánh nhân. Lần này, Ngài
lại phải chạy trốn theo lệnh của nhà vua, bội giáo chèo thuyền dọc sông
Nil, Ngài bị quân lính đuổi theo sát nút. Nguy ngập Ngài quay thuyền lại
để gặp họ. Bọn lính hung hăng hỏi thăm xem còn cách vị giám mục bao xa.
Ngài trả lời : - Chèo mạnh lên, ông không ở xa đâu.
Bọn lính vội vã làm theo và thánh
nhân thoát nạn, Ngài lang thang đây đó cho tới khi Vua Julianô qua đời,
vào năm sau. Jovianô, vị tân hoàng đế rất kính phục đức giám mục và
thích đàm luận với Ngài. Nhưng triều đại của ông lại quá vắn vỏi. Khi
Valens lên nắm quyền cai trị, lại một cuộc bách hại mới mở ra. Một lần
nữa thánh Athanasiô lại phải trốn đi. Trong bốn tháng liền, Ngài ẩn mình
trong phần mộ của gia đình.
Sau cùng Valens vì hiểu được lòng
kính phục của dân Ai cập đối với vị giám mục của họ, và không muốn xa
rời dân chúng nên chịu cho Ngài trở về. Những năm cuối đời, thánh nhân
được sống trong yên ổn phần nào, bởi vì lúc ấy cuộc tranh chấp thực sự
chưa ngã ngũ, Ngài qua đời ngày 02 tháng 5 năm 373. Phải đợi năm năm
sau, cuộc tranh luận của cộng đồng Nicêa mới toàn thắng với cái chết của
Valens.
Thánh Athanasiô đã viết những tác
phẩm vĩ đại nhất trong 30 năm xáo trộn. Cuốn Uncarnatione Verbi hoàn
thành năm 337, cuốn Virginitate và Orationes khoảng năm 357, cuốn Contra
Arianô có thể sau năm 362. Ngài đã viết rất nhiều và mọi tư tưởng Ngài
cũng như cuộc sống Ngài tập trung vào hai ý niệm: Chúa Con là sự bày tỏ
của Chúa Cha, và Giáo hội là sự bày tỏ của Chúa Con. Giáo hội Tây phương
kính nhớ Ngài như thánh tiến sĩ Chúa Ba Ngôi, nhưng trước hết, Ngài là
Thánh Tiến sĩ về mầu nhiệm nhập thể và về Ơn thánh.
Thánh Athanasiô không sợ gian nan, nguy hiểm, hình phạt. Thánh Athanasiô với cương vị mục tử từ năm 328 tới 373, đã 5 lần bị lưu đầy, tù tội. Thánh nhân thực hiện lời Chúa dậy:” củng cố lòng tin”, Ngài đã hiên ngang, anh dũng, đã giữ vững đức tin, với một ý chí sắt đá, với một lòng tin không gì lay chuyển nổi, thánh Athanasiô đã luôn bảo vệ giáo lý chân chính của Chúa Kitô.
Ca hiệp lễ, lễ thánh giám mục có viết:” Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em. Để anh em ra đi, thu được kết quả, và kết quả của anh em được lâu bền”( Ga 15, 16 ). Thánh Athanasiô đã được Chúa tuyển chọn để làm chứng cho Chúa và củng cố lòng tin cho các tín hữu.
Giáo Hội của Chúa ở trần gian có lúc thịnh, có lúc xem ra đầy an bình, nhưng có những lúc đen xen ánh sáng và bóng tối. Hội Thánh trong mọi thăng trầm của mình đã được Chúa Thánh Thần luôn chở che, gìn giữ và soi sáng. Giữa những phong ba bão táp, bách hại đạo, cấm cách đạo ở muôn thời, Giáo Hội của Chúa Kitô luôn đứng vững vì Chúa luôn thực hiện lời hứa:” Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Năm 311, cơn cấm cách, bắt đạo vừa chấm dứt, Giáo Hội lại bị bè rối nổi lên, phá phách, xuyên tạc giáo lý, làm nhiều người chưa vững đức tin bị lung lay. Arius tại Alexandria tuyên truyền giáo thuyết lạc đạo chối bỏ thiên tích của Chúa Giêsu. Hội Thánh được tràn đầy Thánh Thần luôn cương quyết bảo vệ đức tin, vào năm 325, Giáo Hội triệu tập công đồng Nicée để lên án Arius và xác quyết:” Đức Kitô là Thiên Chúa, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha”. Cuộc chống lại Giáo Hội với giáo thuyết lạc đạo này đã kéo dài tới 50 năm, Arius đã làm lung lạc nhiều người, làm cho nhiều người không biết đâu là bến bờ, là chân lý. Thiên Chúa có cách của Ngài như lời thánh vịnh nói:” Hãy nói với chư dân: Chúa là vua hiển trị, Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng lay chuyển, Người xét xử muôn nước theo đường ngay chính”( TV 96, 10 ). Thiên Chúa đã ban cho Hội Thánh nhiều vị bênh vực đầy Thánh Thần và khôn ngoan mà nổi bật nhất là thánh Athanasiô.
THÁNH ATHANASIÔ BÊNH VỰC GIÁO HỘI
Không sợ Hoàng Đế, không ngán ngẩm, sợ sệt các giám mục chạy theo bè rối chống lại Hội Thánh. Thánh Athanasiô không sợ gian nan, nguy hiểm, hình phạt. Thánh Athanasiô với cương vị mục tử từ năm 328 tới 373, đã 5 lần bị lưu đầy, tù tội. Thánh nhân thực hiện lời Chúa dậy:” củng cố lòng tin”, Ngài đã hiên ngang, anh dũng, đã giữ vững đức tin, với một ý chí sắt đá, với một lòng tin không gì lay chuyển nổi, thánh Athanasiô đã luôn bảo vệ giáo lý chân chính của Chúa Kitô. Thánh nhân đã viết nhiều bài giảng ca tụng đức trinh khiết và bậc sống ẩn tu, Ngài đã diễn tả tình yêu mật thiết với Đức Kitô, Đấng đến trần gian để cho nhân loại được sống và sống dồi dào( Ga 10, 10 ). Thánh nhân đã luôn tâm niệm lời thánh vịnh: “ Ai gieo trong nước mắt sẽ về giữa tiếng cười…”. Thánh Athanasiô đã được Giáo Hội tôn vinh và đặt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã cho thánh giám mục Athanasiô được can đảm đứng lên bênh vực niềm tin của Giáo Hội về thần tính của Đức Kitô, Con Một Chúa. Xin nhận lời thánh nhân chuyển cầu, cho chúng con biết nghe lời Người giảng dạy, để ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa hơn.” (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Athanasiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Thứ Tư
Bài Ðọc I: Cv 12, 24 - 13, 5a
"Hãy dành Saolô và Barnaba riêng cho Ta".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, lời Chúa được lan rộng và tiến triển. Nhưng Barnaba và Saolô, sau khi hoàn tất sứ mạng, đã rời Giêrusa-lem, đem theo Gioan cũng gọi là Marcô.
Bấy giờ trong Hội Thánh Antiôkia có những tiên tri và tiến sĩ, trong số đó có Barnaba, Simon cũng gọi là Nigê, Luxiô người thành Xyrênê, Manahê bạn của vua Hêrôđê lúc còn thơ ấu, và Saolô. Ðang khi các ông làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo các ông rằng: "Hãy để riêng Saolô và Barnaba cho Ta, để làm công việc mà Ta đã chỉ định". Vậy sau khi ăn chay cầu nguyện, họ đặt tay trên hai ông và tiễn đưa hai ông lên đường.
Ðược Thánh Thần sai đi, hai ông xuống Xêlêucia, rồi từ đó vượt biển sang Cyprô. Khi đến Salamina, hai ông rao giảng lời Chúa trong các hội đường Do-thái.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 66, 2-3. 5. 6 và 8
Ðáp: Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (c. 4).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Xin Thiên Chúa xót thương và chúc phúc lành cho chúng con, xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ. - Ðáp.
2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. - Ðáp.
3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài. Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúa Kitô đã sống lại và chiếu soi chúng ta, là những kẻ Người đã cứu chuộc bằng máu của Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 12, 44-50
"Ta là sự sáng đã đến thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu lớn tiếng nói rằng: "Ai tin vào Ta thì không phải là tin vào Ta, nhưng là tin vào Ðấng đã sai Ta. Và ai thấy Ta là thấy Ðấng đã sai Ta. Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm. Nếu ai nghe lời Ta mà không tuân giữ, thì không phải chính Ta xét xử người ấy, vì Ta đã đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian. Ai khinh dể Ta, và không chấp nhận lời Ta, thì đã có người xét xử: lời Ta đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết. Bởi vì Ta đã không tự mình nói ra, nhưng Cha là Ðấng sai Ta, chính Người đã ra lệnh cho Ta phải nói gì và phải công bố gì. Và Ta biết rằng lệnh của Người là sự sống đời đời. Những điều Ta nói, thì Ta nói theo như Cha đã dạy".
Ðó là lời Chúa.
Chủ đề
"Thày là sự sống"
về khía cạnh Mục Tử Thần Linh cho Tuần IV Phục Sinh vẫn còn được thấy tỏ hiện
trong bài Phúc Âm của Thứ Tư trong Tuần IV Phục Sinh hôm nay. Ở chỗ, Vị Mục Tử
Thần Linh là Chúa Kitô đây, sở dĩ yêu thương chiên của mình đến độ hiến mạng
sống của mình cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn chẳng những vì chiên thuộc về
Cha là chính Đấng đã trao chiên cho Người mà còn vì Người là Đấng Thiên
Sai thật
sự, Đấng vì được Cha sai nên luôn chỉ làm theo ý của Cha, đúng như những gì Cha
muốn và cách thức Cha muốn, như Người đã tự chứng về bản thân Người với dân Do
Thái trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Ai tin vào Ta thì không phải là tin vào Ta, nhưng là tin vào Ðấng đã sai Ta. Và ai thấy Ta là thấy Ðấng đã sai Ta. ... Bởi vì Ta đã không tự mình nói ra, nhưng Cha là Ðấng sai Ta, chính Người đã ra lệnh cho Ta phải nói gì và phải công bố gì. Và Ta biết rằng lệnh của Người là sự sống đời đời. Những điều Ta nói, thì Ta nói theo như Cha đã dạy".
Trong
"Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm. Nếu ai nghe lời Ta mà không tuân giữ, thì không phải chính Ta xét xử người ấy, vì Ta đã đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian. Ai khinh dể Ta, và không chấp nhận lời Ta, thì đã có người xét xử: lời Ta đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết".
Do đó, để có thể dung hòa giữa 2 thái cực chủ trương một là có Lòng Thương Xót Chúa hai là có hỏa ngục chứ không thể nào có cả hai, hãy căn cứ vào nguyên tắc trong bài Phúc Âm hôm nay ngay trên đây. Nghĩa là có cả hai: Thiên Chúa không thể nào không yêu thương, không thương xót, vì đó là bản tính của Ngài, và kẻ nào không chấp nhận tình yêu thương vô cùng nhân hậu của Ngài thì tự họ bị hư đi, và chính tình yêu vô cùng nhân hậu bất diệt của Thiên Chúa sẽ trở thành hình phạt cho họ đời đời trong hỏa ngục, nơi họ chỉ còn khóc lóc và nghiến răng, khóc lóc vì đau khổ và nghiến răng vì hận mình (hơn là hối hận) nhưng đã quá muộn.
Kinh nghiệm làm người cũng đã cho thấy điều ấy. Ở chỗ, một khi con người chối bỏ lương tâm, thì chính lương tâm nơi họ sẽ trở thành quan án của họ và cắn rứt họ, đến độ họ không thể nào chịu được, có trường hợp phải tự ra đầu thú để bớt ray rứt lương tâm cho dù có bị tù đầy khổ sở xác thân và cuộc đời. Khi chết cũng vậy, chính lương tâm là tòa phán xét con người, và tự mình họ biết họ đi về đâu: Thiên Đàng hay hỏa ngục.
Bài Đọc I (Tông
Vụ 12:24 - 13:5a):
"Bấy
giờ trong Hội Thánh Antiôkia có những tiên tri và tiến sĩ, trong số đó có
Barnaba, Simon cũng gọi là Nigê, Luxiô người thành Xyrênê, Manahê bạn của vua
Hêrôđê lúc còn thơ ấu, và Saolô. Ðang khi các ông làm việc thờ phượng Chúa và ăn
chay, thì Thánh Thần phán bảo các ông rằng: 'Hãy để riêng Saolô và Barnaba cho
Ta, để làm công việc mà Ta đã chỉ định'. Vậy sau khi ăn chay cầu nguyện, họ đặt
tay trên hai ông và tiễn đưa hai ông lên đường. Ðược Thánh Thần sai đi, hai ông
xuống Xêlêucia, rồi từ đó vượt biển sang Cyprô. Khi đến Salamina, hai ông rao
giảng lời Chúa trong các hội đường Do-thái".
Chính vì Chúa Kitô là "ánh sáng thế gian" để "bất cứ ai tin vào Tôi người ấy sẽ không đi trong tăm tối", như Chúa Kitô khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay mà Người cần phải được rao giảng, tức là Người, sau khi thăng thiên về cùng Cha là Đấng đã sai Người, vẫn cần phải tiếp tục soi chiếu thế gian, cho đến khi Người lại đến, qua các vị tông đồ và chứng nhân của Người, thành phần phản chiếu Người là ánh sáng thế gian, nhờ đó thế gian có thể nhận biết Người mà được cứu độ.
Và đó là lý do "Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài", như câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay, "vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu", như câu xướng 2 trong cùng Bài Đáp Ca này, theo đúng như ước nguyện của họ ở câu xướng thứ nhất: "Xin Thiên Chúa xót thương và chúc phúc lành cho chúng con, xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ", những khát vọng và nhận thức chân chính của "chư dân" đã được chất chứa trong Thánh Vịnh 66 được Giáo Hội trích lại trong Bài Đáp Ca hôm nay như sau:
1) Xin Thiên Chúa xót thương và chúc phúc lành cho chúng con, xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ.
2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu.
3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài. Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài.
Thứ Tư
Ngày 3 tháng 5
THÁNH PHI-LÍP-PHÊ VÀ THÁNH GIA-CÔ-BÊ, TÔNG ĐỒ
lễ kính
Bài Ðọc I: 1 Cr 15, 1-8
"Chúa hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng mà tôi đã rao giảng cho anh em, và anh em đã lãnh nhận và đang tin theo, nhờ đó anh em được cứu độ, nếu anh em tuân giữ lời lẽ tôi đã rao giảng cho anh em, bằng không anh em đã tin cách vô ích.
Tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã nhận lãnh: đó là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh. Người được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi sau với mười một vị. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em trong một lúc; nhiều người trong số anh em đó hãy còn sống tới nay, nhưng có vài người đã chết. Thế rồi Người hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ. Sau cùng, Người cũng hiện ra với chính tôi như với đứa con đẻ non.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 2-3. 4-5
Ðáp: Tiếng chúng đã vang cùng trái đất (c. 5a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp tay Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyền tụng cho đêm kia. - Ðáp.
2) Ðây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 6b và 9c
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Hỡi Philipphê, ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 6-14
"Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin, Thầy sẽ làm cho".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Tôma rằng: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người".
Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con".
Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Philipphê, ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: 'Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha?' Con không tin Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho".
Ðó là lời Chúa.
Lạy Chúa, hằng năm Chúa cho chúng con được hân hoan mừng lễ hai thánh tông đồ Phi-líp-phê và Gia-cô-bê. Xin Chúa thương nhậm lời các ngài cầu thay nguyện giúp, mà cho chúng con biết thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Ki-tô Con Một Chúa, để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời. Chúng con cầu xin
Thứ Năm
Bài Ðọc I: Cv 13, 13-25
"Bởi dòng dõi Ðavít, Thiên Chúa đã ban Ðức Giêsu làm Ðấng Cứu Ðộ".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Rời Paphô, Phaolô và các bạn vượt biển đến Perghê xứ Pamphy-lia; còn Gioan từ biệt các ngài, và trở về Giêrusalem. Hai ngài sang qua Perghê và đến Antiôkia xứ Pisiđia; ngày Sabbat, các ngài vào ngồi trong hội đường. Sau khi đọc sách luật và các tiên tri, những thủ lãnh nhà hội đường sai người đến nói với các ngài rằng: "Hỡi anh em, nếu ai trong anh em có lời khuyên bảo dân chúng, xin hãy nói".
Phaolô đứng lên, giơ tay ra hiệu cho mọi người yên lặng và nói: "Hỡi người Israel và những kẻ kính sợ Thiên Chúa, hãy nghe đây. Thiên Chúa dân Israel đã chọn Tổ phụ chúng ta, Người đã thăng tiến dân Người khi họ còn cư ngụ trong nước Ai-cập và Người ra tay mạnh mẽ đưa cha ông chúng ta ra khỏi nước ấy. Trong thời gian bốn mươi năm, Người chịu đựng thói xấu họ trong hoang địa; và sau khi đã tiêu diệt bảy dân tộc trong đất Canaan, Người đã cho họ chiếm đất của các dân tộc ấy gần bốn trăm năm mươi năm; và sau đó, Người ban cho họ các thẩm phán cho đến tiên tri Samuel. Kế đó, họ xin một nhà vua và Thiên Chúa cho Saolê, con ông Cis, thuộc chi họ Bengiamin, cai trị họ bốn mươi năm. Sau khi loại bỏ Saolê, Chúa đã đặt Ðavít lên làm vua dân Người, để chứng nhận điều đó, chính Người đã phán: "Ta đã gặp được Ðavít con của Giêsê, người vừa ý Ta, người sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta".
"Bởi dòng dõi Ðavít, theo lời hứa, Thiên Chúa ban cho Israel Ðức Giêsu làm Ðấng Cứu Ðộ, Ðấng mà Gioan đã báo trước khi người đến rao giảng phép rửa thống hối cho toàn dân Israel. Khi Gioan hoàn tất hành trình, ngài tuyên bố: "Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 88, 2-3. 21- 22. 25 và 27
Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời; qua mọi thế hệ, miệng con loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời", trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.
2) Ta đã gặp Ðavít là tôi tớ của Ta. Ta đã xức dầu thánh của Ta cho người, để tay Ta bang trợ người luôn mãi, và cánh tay Ta củng cố thân danh người. - Ðáp.
3) Thành tín và ân sủng của Ta hằng ở với người, và nhân danh Ta, sức mạnh người tăng thêm mãi. Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Tảng Ðá cứu độ của con". - Ðáp.
Alleluia: Mt 28, 19 và 20
Alleluia, alleluia! - Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 13, 16-20
"Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Sau khi đã rửa chân các môn đệ, Chúa Giêsu phán với các ông: "Thật, Thầy bảo thật các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ, kẻ được sai không trọng hơn đấng đã sai mình. Nếu các con biết điều đó mà thực hành thì có phúc. Thầy không nói về tất cả các con, vì Thầy biết những kẻ Thầy đã chọn, nhưng lời Thánh Kinh sau đây phải được ứng nghiệm: Chính kẻ ăn bánh của Ta sẽ giơ gót lên đạp Ta. Thầy nói điều đó với các con ngay từ bây giờ, trước khi sự việc xảy đến, để một khi xảy đến, các con tin rằng: Thầy là ai. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Ðấng đã sai Thầy".
Ðó là lời Chúa.
Khía cạnh
"Mục Tử Thần Linh"
của chủ đề
"Thày là sự sống"
trong Tuần Thứ IV Phục Sinh tiếp tục được chất chứa trong bài Phúc Âm của Thứ
Năm hôm nay. Ở chỗ Chúa Kitô tỏ mình ra cho các tông đồ biết "Ta
là cửa chuồng chiên... Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người
ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân...Ta đến để cho chúng được sống và được
sống dồi dào", khi
Người phục vụ các vị là chiên của Người bằng cách rửa chân cho các vị, và vì
thế, để vào "qua cửa chuồng chiên"
là Người thì các tông đồ cũng phải noi
gương bắt chước Người thì mới thực sự phản ảnh vai trò Mục Tử Thần Linh của
Người, nhờ đó mới mang lại cho chiên sự sống và là sự sống viên mãn.
"Sau
khi đã rửa chân các môn đệ, Chúa Giêsu phán với các ông: 'Thật, Thầy bảo thật
các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ, kẻ được sai không trọng hơn đấng đã sai
mình. Nếu các con biết điều đó mà thực hành thì có phúc...Thật, Thầy bảo thật
các con: Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón
nhận Ðấng đã sai Thầy".
Bài Đọc I (Tông
Vụ 13:13-25):
"Phaolô đứng lên, giơ tay ra hiệu cho mọi người yên lặng và nói: 'Hỡi người
Israel và những kẻ kính sợ Thiên Chúa, hãy nghe đây... Bởi dòng dõi Ðavít, theo
lời hứa, Thiên Chúa ban cho Israel Ðức Giêsu làm Ðấng Cứu Ðộ, Ðấng mà Gioan đã
báo trước khi người đến rao giảng phép rửa thống hối cho toàn dân Israel. Khi
Gioan hoàn tất hành trình, ngài tuyên bố: 'Tôi không phải là người mà anh em lầm
tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân
Người'".
1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời; qua mọi thế hệ, miệng con loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời", trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín.
2) Ta đã gặp Ðavít là tôi tớ của Ta. Ta đã xức dầu thánh của Ta cho người, để tay Ta bang trợ người luôn mãi, và cánh tay Ta củng cố thân danh người.
3) Thành tín và ân sủng của Ta hằng ở với người, và nhân danh Ta, sức mạnh người tăng thêm mãi. Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Tảng Ðá cứu độ của con".
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv 13, 26-33
"Thiên Chúa đã làm trọn lời hứa khi cho Ðức Giêsu sống lại".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, khi Phaolô đến Antiôkia thuộc xứ Pisiđia, ông lên tiếng trong hội đường rằng: "Thưa chư huynh, con cháu Abraham, và những người kính sợ Thiên Chúa ở giữa chư huynh, lời cứu độ đó đã được rao giảng cho chư huynh. Những người cư ngụ ở Giêrusalem và các thủ lãnh của họ đã không nhìn nhận Ðức Giêsu và các lời tiên tri mà họ đọc mỗi ngày Sabbat; thế mà họ đã làm ứng nghiệm lời tiên tri khi lên án Người. Và dầu không thấy nơi Người lý do nào đáng phải chết, họ cũng xin Philatô cho giết Người. Và khi đã hoàn tất mọi điều đã chép về Người, họ đã tháo Người xuống khỏi cây thập giá và mai táng Người trong mồ. Nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết vào ngày thứ ba. Và trong nhiều ngày, Người đã hiện ra với những kẻ đã cùng với Người từ Galilêa lên Giêrusalem. Bây giờ những kẻ đó là những chứng nhân của Người trước mặt dân chúng.
"Phần chúng tôi, chúng tôi loan báo cho chư huynh hay rằng: lời hứa ban cho tổ phụ chúng ta, Thiên Chúa đã làm hoàn tất cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Ðức Giêsu sống lại, như đã chép trong thánh vịnh thứ hai rằng: 'Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con' ".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 2, 6-7. 8-9. 10-11
Ðáp: Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con (c. 7).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chính Ta đã đặt vương nhi Ta trên Sion, núi thánh của Ta. Ta sẽ tuyên rao thánh chỉ của Chúa: Chúa đã phán bảo cùng Ta: "Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con". - Ðáp.
2) Hãy xin Cha và Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần sản nghiệp, và cùng kiệt cõi đất làm gia tài. Con sẽ cai trị chúng bằng cây gậy sắt, như bình thợ gốm, Con đem nghiền nát chúng ra. - Ðáp.
3) Giờ đây, hỡi các vua, hãy nên hiểu biết, quân vương mặt đất nên giác ngộ. Hãy kính sợ làm tôi Chúa và hân hoan mừng Người, hãy khiếp run tỏ bày sự vâng phục Chúa. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúa Kitô đã sống lại ra khỏi mồ, Người đã chịu treo trên thập giá vì chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 1-6
"Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi". Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy".
Ðó là lời Chúa.
Khía cạnh
"Mục Tử Thần Linh"
trong chủ đề
"Thày là sự sống"
cho Mùa Phục Sinh hậu Bát Nhật Phục Sinh tiếp tục với bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần
IV Phục Sinh hôm nay. Ở chỗ, Vị
"Mục Tử Thần Linh"
này tiếp tục tỏ mình ra là
"cửa chuồng chiên",
là đường lối đến với chiên của Người và sống cho chiên như Người. Nếu Vị
"Mục Tử Thần Linh"
là
"cửa chuồng chiên" ở nơi tấm gương
"hiến mạng sống mình vì chiên" (Gioan 10:11)
thì Người cũng muốn các môn đệ tiếp tục vai trò Mục Tử Thần Linh của Người cũng
hiến mạng sống của họ vì chiên như thế, như Người đã ngầm nói trong bài Phúc Âm:
"Anh
em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy,
có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho
anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với
Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường
rồi".
"Thày đi dọn chỗ cho anh em" đây
là gì mà Người trước đó đã phải trấn an các môn đệ của Người rằng "anh
em đừng xao xuyến", nếu không phải là Người "tự
hiến để họ được thánh hóa trong chân lý" (Gioan 17:19),
nghĩa là Người đi
chịu chết, tự hiến "để họ được thánh hóa trong chân lý",
tức là để họ nhận biết
Người là ai, nhờ đó, họ cũng có thể chết vì Người và như Người để làm chứng cho
Người, đúng như ý nghĩa sâu xa của câu Người nói với các tông đồ: "Thầy
lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó".
Bài Đọc I (Tông
Vụ 13:26-33):
"Thưa anh em, là con cái thuộc dòng giống Áp-ra-ham, và thưa anh em đang hiện
diện nơi đây, là những người kính sợ Thiên Chúa, lời cứu độ này được gửi tới
chúng ta. Dân cư thành Giê-ru-sa-lem và các thủ lãnh của họ đã không nhận biết
Đức Giê-su; khi kết án Người, họ đã làm cho ứng nghiệm những lời ngôn sứ đọc mỗi
ngày sa-bát. Tuy không thấy Người có tội gì đáng chết, họ vẫn đòi Phi-la-tô xử
tử. Sau khi thực hiện tất cả mọi điều Kinh Thánh chép về Người, họ đã hạ Người
từ trên cây gỗ xuống và mai táng trong mồ. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người
trỗi dậy từ cõi chết. Trong nhiều ngày, Đức Giê-su đã hiện ra với những kẻ từng
theo Người từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người
trước mặt dân. Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này :
điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là
con cháu các ngài, khi làm cho Đức Giê-su sống lại, đúng như lời đã chép trong
Thánh vịnh 2: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con".
1) Chính Ta đã đặt vương nhi Ta trên Sion, núi thánh của Ta. Ta sẽ tuyên rao thánh chỉ của Chúa: Chúa đã phán bảo cùng Ta: "Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con".
2) Hãy xin Cha và Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần sản nghiệp, và cùng kiệt cõi đất làm gia tài. Con sẽ cai trị chúng bằng cây gậy sắt, như bình thợ gốm, Con đem nghiền nát chúng ra.
3) Giờ đây, hỡi các vua, hãy nên hiểu biết, quân vương mặt đất nên giác ngộ. Hãy kính sợ làm tôi Chúa và hân hoan mừng Người, hãy khiếp run tỏ bày sự vâng phục Chúa.
Thứ Bảy
Bài Ðọc I: Cv 13, 44-52
"Ðây chúng tôi quay về phía các dân ngoại".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Ðến ngày Sabbat sau, hầu hết cả thành đều đến nghe lời Thiên Chúa. Các người Do-thái thấy đám đông dân chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy. Phaolô và Barnaba can đảm nói rằng: "Phải giảng lời Thiên Chúa cho các ngươi trước tiên, nhưng vì các ngươi từ chối lời Thiên Chúa và tự cho mình không xứng đáng sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía các dân ngoại; vả lại Chúa đã truyền lệnh cho chúng tôi rằng: Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất". Nghe vậy, các dân ngoại hân hoan ca tụng lời Chúa; những ai được Chúa tiền định hưởng sự sống đời đời, thì tin theo, nên lời Chúa được rao giảng khắp cả vùng.
Những người Do-thái xúi giục các phụ nữ khá giả đã tòng giáo, các thân hào trong thành, bắt bớ Phaolô và Barnaba, rồi trục xuất hai ngài ra khỏi ranh giới xứ họ. Còn hai ngài, sau khi phủi bụi chân lại cho họ, hai ngài đi đến Icôniô. Còn các môn đồ thì đầy hân hoan và Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4
Ðáp: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta (c. 3c).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.
Alleluia: Cl 3, 1
Alleluia, alleluia! - Nếu anh em sống lại làm một với Ðức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự cao siêu trên trời, nơi Ðức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 7-14
"Ai thấy Thầy là xem thấy Cha".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người".
Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Philipphê, Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin, vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm; người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho".
Ðó là lời Chúa.
Vai trò
"Mục Tử Thần Linh"
của Chúa Kitô là vai trò của một Đấng Thiên Sai, đến để làm theo ý Đấng đã sai
chứ không phải theo ý của mình, đến độ làm cho thế gian nhờ mình mà nhận biết
Cha, và đến độ bất cứ ai tin vào Người thì được sự sống, đúng như Người đã
khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần IV Phục Sinh về chủ đề
"Thày là sự sống".
"Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: 'Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa
Cha'? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?
Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng
luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy:
Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công
việc Thầy làm".
Trong câu khẳng định trên đây của mình, Chúa Giêsu đã ngầm tái xác nhận lời
tuyên xưng của Tông Đồ Phêrô
“Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mathêu
16:16)
là chính xác.
Vì là
“Đức Kitô”
Thiên Sai mà Người đến chỉ
“nói”
và
“làm”
những gì Cha là Đấng đã sai Người muốn mà thôi, chứ không phải những gì
Người muốn, và chính vì thế, Người cho thấy
“Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày”,
và cho thấy Người là
“Con Thiên Chúa hằng sống”, “đồng bản thể với Cha” (Kinh Tin Kính),
đến độ,
“ai thấy Thày là thấy Cha”,
nơi nhân tính của Người, qua những gì Người nói và làm trong bản tính của
con người, một bản tính loài người được Người mặc lấy để
“tỏ Cha ra” (Gioan 1:18),
hay để Cha tỏ mình ra nơi Người và qua Người.
Nếu Chúa Giêsu tỏ mình ra là hiện thân của Cha như thế, thì thành quả hay tác dụng của niềm tin vào Vị Mục Tử Thần Linh Thiên Sai là ở chỗ làm cho kẻ tin vào Người được hiệp nhất nên một với Người, được Người biến đổi, thậm chí đến độ còn làm được những việc hơn Người làm nữa, như cành nho dính liền với thân nho thì sinh muôn vàn hoa trái nhờ nhựa sống từ thân cây, trong khi chính thân nho lại chẳng sinh hoa trái gì:
"Thật,
Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc
Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa
Cha. Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa
Cha được tôn vinh nơi người Con. Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì,
thì chính Thầy sẽ làm điều đó".
“Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” nghĩa là gì? Nếu không phải nghĩa là một khi Người Thăng Thiên "về cùng Cha" thì nhân tính của Người, một bản tính Người mặc lấy khi nhập thể vốn được Ngôi Hiệp với thần tính của Người trên thế gian, nhờ phục sinh đã trở thành linh thiêng, bấy giờ được hoàn toàn hoan hưởng Thực Tại Thần Linh là Thánh Thần với Cha và như Cha. Bởi thế, ai tin vào Người thì được hiệp nhất nên một với Người là Đấng từ Cha sẽ sai Thánh Thần đến (xem Gioan 15:26) để nhờ đó họ có thể làm chứng về Người cho đến tận cùng trái đất (xem Tông Vụ 1:8).
"Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa" là vì thế - vì Chúa Kitô Phục Sinh và Thăng Thiên ở trong họ bằng Thánh Thần của Người, và "Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa" là như thế - ở chỗ nhờ Thánh Thần và cùng với Thánh Thần của Người họ có thể làm chứng về Người, nhờ đó Người được nhận biết và yêu mến khắp thế giới chứ không phải chỉ ở nơi dân Do Thái là thành phần vốn không tin Người cho dù Người đã tỏ hết mình ra cho họ, và nhờ đó Người là hạt lúa miến mục nát đi nơi mầu nhiệm khổ giá trổ sinh muôn vàn hoa trái là phần rỗi các linh hồn (xem Gioan 12:24).
Bài Đọc I (Tông
Vụ ):
Thánh Vịnh 97 trong Bài Đáp Ca hôm nay đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi trường hợp của chung các tông đồ được Chúa Kitô Phục sinh sai đi tuyển mộ môn đồ nơi các dân nước (xem Mathêu 28:19), rao giảng tin mừng cho mọi tạo vật (xem Marco 16:15), điển hình là trường hợp của Thánh Phaolô và Barnaba trong Bài Đọc 1 hôm nay. Những lời Thánh Vịnh 97 thật sự được ứng nghiệm là "Chúa đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng" (câu xướng 1). "Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh" (câu xướng 2). "Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta" (câu xướng 3). Chúng ta hãy đọc lại nguyên văn Bài Đáp Ca từ Thánh Vịnh 97 rất thích hợp với Bài Đọc 1 hôm nay dưới đây:
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca.