SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 56, 1. 6-7
"Ta sẽ dẫn con cái Ta lên núi thánh".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Thiên Chúa phán: "Hãy giữ luật và thực thi công bình, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và sự công chính của Ta sẽ tỏ hiện.
"Người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Người, để trở nên tôi tớ Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabbat, không hề sai lỗi, và trung thành với giao ước của Ta, Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện. Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 66, 2-3. 5. 6 và 8
Ðáp: Chư dân hãy ca tụng Ngài! Thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (c. 4).
Xướng: 1) Xin Thiên Chúa xót thương và chúc phúc lành cho chúng con, xin tỏ ra cho chúng con thấy long nhan Ngài tươi sáng, để trên địa cầu, thiên hạ nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân người ta được rõ ơn Ngài cứu độ. - Ðáp.
2) Các dân tộc hãy mừng vui và khoái trá, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. - Ðáp.
3) Chư dân hãy ca tụng Ngài. Thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, để cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 11, 13-15. 29-32
"Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi Israel, thì Người không hề hối tiếc".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tôi nói với anh em là những người gốc Dân Ngoại rằng: Bao lâu tôi là Tông đồ các Dân Ngoại, tôi sẽ tôn trọng chức vụ của tôi, nếu có cách nào làm cho đồng bào tôi phân bì, mà tôi cứu rỗi được ít người trong họ. Vì nếu do việc họ bị loại ra, mà thiên hạ được giao hoà, thì sự họ được thâu nhận sẽ thế nào, nếu không phải là một sự sống lại từ cõi chết?
Vì Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc. Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót; cũng thế, nay họ không tin, vì thấy Chúa thương xót anh em, để họ cũng được thương xót. Thiên Chúa đã để mọi người phải giam hãm trong sự cứng lòng tin, để Chúa thương xót hết mọi người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 15, 21-28
"Này bà, bà có lòng mạnh tin".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: "Lạy Ngài là con Vua Ðavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm". Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà xin rằng: "Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Người trả lời: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel". Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi". Người đáp: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó". Bà ấy đáp lại: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống". Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy". Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.
Ðó là lời Chúa.
Cảm Nghiệm Lời Chúa
"Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon" - Miền Đất của dân ngoại, để tìm kiếm "con chiên lạc nhà Israel"?
Con chó con trừ quỉ - một tuyệt chiêu đức tin
Không có một tôn giáo nào chính yếu trên thế giới này, hay một dân nước nào trên trần gian này có một lịch sử được gọi là Lịch Sử Cứu Độ ngoài dân tộc Do Thái. Lịch sử của dân tộc Do Thái trở thành Lịch Sử Cứu Độ là vì chính Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân tộc này và ở với họ cho tới cùng, tức cho "tới thời điểm viên trọn, Thiên Chúa sai Con của Ngài sinh ra bởi một người nữ" (Galata 4:4), thời điểm cánh chung của một dân tộc Tân Ước có tính cách Công Giáo là Giáo Hội Chúa Kitô, một dân tộc Tân Ước ở "nơi tất cả mọi dân nước" (Mathêu 28:19), hiện diện trên "khắp thế gian" (Marco 16:15), "cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 1:8).
Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái không được bắt đầu từ ngay sau nguyên tội, mà là từ tổ phụ Abraham, nhưng Lịch Sử Cứu Độ này được hiện tỏ nhất ở biến cố Vượt Qua của dân tộc này nhờ vai trò trung gian của Moisen, một cuộc vượt qua từ mảnh đất nô lệ Ai Cập đến vùng Đất Hứa tự do chảy sữa mạc khải thần linh và mật đức tin tuân phục, một vùng Đất Hứa của dân ngoại trước đó nhưng được Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất giành cho dân tuyển chọn của Ngài qua lời hứa của Ngài với tổ phụ Abram, vị đã bỏ quê hương xứ sở thân thương của mình để đến một vùng đất hoàn toàn xa lạ, không biết ở đâu và như thế nào, theo hướng dẫn của Đấng Quan Phòng Thần Linh vô cùng khôn ngoan mà ông hoàn toàn tin tưởng tuân phục. Thậm chí ông còn dám tuân theo Thánh Ý Chúa trong việc sẵn sàng sát tế chính đứa con trai duy nhất của mình, người con được Thiên Chúa ban cho ông trong lúc cả hai vợ chồng ông đã quá tuổi sinh sản, một người con theo lời hứa cho cả một hậu duệ đông như sao trời nhiều như cát biển.
Bởi thế, ông đã xứng đáng là tổ phụ không phải chỉ của một dân tộc Do Thái bé nhỏ ít oi về cả địa lý lẫn dân số so với các dân chung quanh thuộc khối Ả Rập, mà còn của tất cả mọi dân nước trên thế giới nói chung, nhất là của những kẻ tin vào Thiên Chúa nói riêng. Đúng thế, ý định vô cùng khôn ngoan và toàn thiện của Thiên Chúa trong việc tuyển chọn riêng dân Do Thái để tỏ mình ra trong giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ không phải chỉ cho hạnh phúc của một mình họ, hay chỉ vì yêu thương riêng họ, mà là để nhắm đến tất cả mọi dân nước trên thế giới này, tức để hiện thực lời hứa khởi nguyên trong việc ban cho chung nhân loại một Đấng Cứu Thế (xem Khởi Nguyên 3:15), nhưng lại là Vị Cứu Thế thuộc giòng dõi loài người, được hạ sinh bởi một người nữ, đó là một trinh nữ ở Nazarét tên là Maria (xem Luca 1:26-27), một người nữ Do Thái theo gia phả của vương tộc Đavít (xem Mathêu 1:16; Luca 2:4).
Đó là lý do, qua miệng của Tiên Tri Isaia ở Bài Đọc I hôm nay, Thiên Chúa đã hứa hẹn "Người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Người, để trở nên tôi tớ Chúa" rằng "Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện. Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc".
Thánh Vịnh gia trong Thánh Vịnh 66 ở Bài Đáp Ca hôm nay cũng bày tỏ cảm nghiệm của mình một cách hân hoan phấn khởi về ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa đối với dân ngoại qua việc Ngài mạc khải cho dân Do Thái trước như sau: "xin tỏ ra cho chúng con thấy long nhan Ngài tươi sáng, để trên địa cầu, thiên hạ nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân người ta được rõ ơn Ngài cứu độ" (câu 1). Bởi thế: Vị Thánh Vịnh gia này đã kêu gọi dân ngoại "ca tụng" Thiên Chúa mà rằng: "Các dân tộc hãy mừng vui và khoái trá, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu" (câu 2), và "Chư dân hãy ca tụng Ngài. Thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, để cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài" (câu 3).
Tuy nhiên, Thiên Chúa tỏ lòng yêu thương và muốn cứu độ dân ngoại, bao gồm tất cả mọi dân nước trên thế giới này, không có nghĩa là Ngài muốn loại trừ đi hay hoàn toàn tẩy chay dân Do Thái của Ngài, như thể dân Do Thái đã hết thời, sau khi được Ngài sử dụng như phương tiện để tiến vào thế giới đại đồng, cho dù Ngài đã thực sự tỏ ra muốn tận diệt dân Do Thái hết sức cứng đầu và đầy những ngoan cố này hai lần, một lần họ thờ bò vàng khi mới ra khỏi Ai Cập và Vượt Qua Biển Đỏ (xem Xuất Hành 32:9-10) và một lần họ muốn truất phế Moisen để tự lập kéo nhau quay về lại Ai Cập khi gần vào Đất Hứa (xem Dân Số 14:11-12).
Thật vậy, đúng như xác tín của Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô trong Thư gửi Rôma ở Bài Đọc II hôm nay: "Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc". Ở chỗ nào và ra sao? Cũng Vị Tông Đồ Dân Ngoại này trả lời ngay sau đó thế này: "Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót; cũng thế, nay họ không tin, vì thấy Chúa thương xót anh em, để họ cũng được thương xót. Thiên Chúa đã để mọi người phải giam hãm trong sự cứng lòng tin, để Chúa thương xót hết mọi người".
Nghĩa là, theo Thánh Phaolô, vì "Chúa thương xót hết mọi người" mà Ngài đã thực hiện một đường lối hoàn toàn ngoài dự tưởng tự nhiên hạn hẹp của con người, đó là "đã để mọi người phải giam hãm trong sự cứng lòng tin", như thể Ngài lợi dụng thái độ không tin tưởng và bất tuân phục của dân Do Thái đối với Ngài để tỏ lòng thương Dân Ngoại: "vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót", rồi sau đó Ngài vẫn tỏ lòng thương dân Do Thái: "họ cũng được thương xót", thậm chí vị tông đồ này còn khẳng định về tương lai của dân Do Thái như sau: "Tình trạng mù quáng của dân Do Thái kéo dài cho tới khi đủ số Dân Ngoại thì bấy giờ tất cả dân Do Thái sẽ đươc cứu" (Roma 11:25-26).
Trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tỏ ra coi trọng dân tộc Do Thái theo huyết nhục trần gian của Người: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel". Vì, theo Người thì "dầu sao ơn cứu độ bắt nguồn từ dân Do Thái" (Gioan 4:22). Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao "Thày chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel" mà ở ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu lại được Thánh ký Mathêu ghi nhận rằng: "Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon" là miền đất của dân ngoại, một miền đất ở phía tây bắc nước Do Thái và ở bên ngoài nước Do Thái, nghĩa là ở một vùng không có người Do Thái. Chẳng lẽ Chúa Giêsu đi tìm "con chiên lạc nhà Israel" nào đó ở vùng đất dân ngoại này hay sao? Hay Người ám chỉ "con chiên lạc nhà Israel" đây, không phải chỉ bao gồm thành phần dân Do Thái cứng lòng không tin vào Người, thành phần mù quáng lầm lạc, mà còn chính là dân ngoại, vì dân ngoại, theo dự án cứu độ của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, qua lời hứa với tổ phụ Abraham, được thông phần gia nghiệp cứu độ với dân Do Thái (xem Khởi Nguyên 22:17-18).
Không biết có phải thực sự Chúa Giêsu "lui về miền Tyrô và Siđon " là để tìm kiếm "con chiên lạc nhà Isarel" là dân ngoại hay chăng, nhưng theo cấu trúc của bài Phúc Âm hôm nay thì lý do "Chúa Giêsu lui về (withdrew)" vùng đất của dân ngoại này, (chứ không phải, nếu căn cứ vào vị trí về địa lý Thánh ký Mathêu đáng lẽ phải viết rằng "Chúa Giêsu tiến lên" vùng đất dân ngoại ở miến tây bắc bên ngoài nước Do Thái này mới phải), như thể, qua từ ngữ "rút về" này của Thánh ký Mathêu, Người nghĩ đến, Người quay lại với dân ngoại sau khi Người thấy dân Do Thái của Người cứ tiếp tục tỏ ra mù quáng, đúng như chủ trương của Thánh Phaolô về đường lối trong Bài Đọc I hôm nay: "vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót". Đó là lý do, ngay ở đầu Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Mathêu đã ghi nhận rằng: "Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon", ra khỏi nơi mà ở đoạn phúc âm ngay trước bài Phúc Âm hôm nay, Người đã bị nhóm biệt phái và luật sĩ duy luật nhưng hoàn toàn giả hình chặn hỏi về sự kiện thành phần môn đệ của Người không chịu rửa tay trước khi ăn.
Trong khi thành phần duy luật biệt phái và luật sĩ Do Thái tự phụ và tự đắc là mình thuộc thành phần công chính bởi họ kỹ lưỡng và cẩn thận tuân giữ lề luật nhưng lại không tin "Con Người là Chúa của ngày hưu lễ" (Mathêu 12:8), thì người đàn bà ngoại lai ở Canaan có người "con gái bị quỷ ám khốn cực lắm" lại có một đức tin bất khuất vào một nhân vật mà bà gọi là "con Vua Ðavít", một nhân vật hình như bà mới được gặp lần đầu tiên, sau khi bà chỉ được nghe thấy tiếng tăm vang dội về Người ở cả trong lẫn ngoài nước Do Thái của Người (xem Mathêu 4:25).
Đức tin của người mẹ ngoại bang thương con như chính bản thân mình này: "Lạy Ngài là con Vua Ðavít, xin thương xót tôi", "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi", mãnh liệt đến bất khuất của bà đã có thể thắng vượt tất cả những gì là kỳ thị về chủng tộc "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel", thậm chí bất chấp thái độ khinh bỉ nhân phẩm của bà từ chính Đấng bà tin tưởng cậy trông: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó", Đấng cuối cùng đã chào thua bà và đã đáp ứng đúng như ý nguyện thiết tha của bà cho người con gái của bà: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy" - "Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành".
Như thế có nghĩa là người đàn bà Canaan này, mặc nhiên đã "làm theo những gì Người bảo" (Gioan 2:5), đúng như Mẹ Maria đã hướng dẫn đám gia nhân phục vụ ở tiệc cưới Cana, ở choô, Người bảo bà ấy là "chó con", bà cũng nhận mình là chó con theo ý Chúa, mà ý Chúa thì "muốn sao được vậy", nhờ đó, con chó con là bản thân của bà đã có quyền lực vô địch đến độ chẳng những thắng được cả Đấng thử thách bà mà còn khiến cho cả ma quỉ kinh hoàng khiếp đảm lìa bỏ con gái bà ngay lập tức. Bởi thế mới nói con chó con trừ quỉ là như vậy.
Trường hợp của người đàn bà xứ Canaan ngoại bang này quả thực đã ứng nghiệm lời Chúa Giêsu phán về những ai cởi mở tin tưởng vào Người nên được Người tỏ mình ra cho, như trong câu Người phán được Giáo Hội sử dụng trước Bài Phúc Âm hôm nay: "Alleluia, alleluia! - Chúa phán: 'Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy'. - Alleluia"
Ngày 20 tháng 8
Thánh Bê-na-đô, viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh
lễ nhớ bắt buộc
Tôi yêu vì tôi yêu, tôi yêu để tôi yêu
Trích bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ, về sách Diễm ca.
Tình yêu tự mình đủ cho mình, tự mình và vì mình đem lại niềm vui. Chính tình yêu là công trạng, nhưng cũng chính tình yêu là phần thưởng cho mình. Tình yêu không tìm lý do, không tìm hiệu quả ngoài mình : hiệu quả của tình yêu là chính tình yêu. Tôi yêu vì tôi yêu, tôi yêu để tôi yêu. Tình yêu là một điều cao cả, miễn là luôn trở về với nguyên lý của mình, miễn là luôn trở lại với nguồn gốc của mình, miễn là ngược trở lại nguồn mạch của mình để luôn luôn được tuôn trào. Trong mọi hoạt động, cảm xúc và tâm tình của linh hồn, chỉ có tình yêu có thể giúp thụ tạo đáp lại Đấng Tạo Hoá, dầu không tương xứng, thì ít ra cũng giống nhau được phần nào. Vì khi Thiên Chúa yêu, thì Người không muốn điều gì khác hơn là được yêu : Thật vậy, Thiên Chúa yêu, thì Người không nhằm điều gì khác ngoài được yêu lại, vì Người biết ai yêu mến Người thì sẽ được hạnh phúc nhờ chính tình yêu đó.
Tình yêu của hôn phu, đúng hơn tình yêu là hôn phu, không đòi hỏi gì khác hơn là được yêu lại và giữ lòng chung thuỷ. Do đó người được yêu có quyền yêu lại. Sao hôn thê có thể không yêu, khi chính nàng là hôn thê của tình yêu ? Sao tình yêu lại không được yêu ?
Thế nên hôn thê có lý khi từ bỏ mọi tình cảm khác để hoàn toàn hiến mình cho một tình yêu duy nhất, vì hôn thê phải đáp lại chính tình yêu bằng cách yêu lại. Nhưng khi hôn thê hoà nhập hoàn toàn với tình yêu, thì tình yêu sẽ là gì so với dòng chảy bất tận của nguồn mạch tình yêu ? Người yêu và tình yêu, linh hồn và Ngôi Lời, hôn thê và hôn phu, tạo hoá và thụ tạo không tuôn đổ dòng yêu thương phong phú như nhau, chẳng khác gì người khát với nguồn nước.
Vậy thì sao ? Không lẽ vì thế mà làm mai một và tan biến hoàn toàn lời ước nguyện của vị hôn thê, niềm khát khao của kẻ mong chờ, lòng rạo rực của kẻ đang yêu, lòng tin tưởng của người hãnh diện, vì vị hôn thê đâu có thể chạy sóng đôi với người khổng lồ, tranh đua vị ngọt với mật ong, tính hiền lành với con chiên, màu trắng với hoa huệ, vẻ sáng chói với mặt trời, tình yêu với Đấng là chính tình yêu ? Không phải thế. Vì thụ tạo nhỏ bé hơn, nên vẫn yêu mến ít hơn. Dầu vậy, nếu thụ tạo yêu trọn tình, thì nơi đâu đã trọn vẹn, nơi ấy chẳng thiếu chi. Vậy yêu như thế là đã thành hôn rồi, bởi không thể yêu đến vậy mà chỉ được yêu lại ít, nên khi hai bên đã thuận tình, thì hôn phối trọn vẹn và hoàn hảo đã được kết ước. Nếu không, lại có kẻ nghi ngờ sự thật này : linh hồn vẫn được Ngôi Lời yêu thương trước và yêu thương nhiều hơn.
Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh viện phụ Bê-na-đô đầy nhiệt tâm lo việc nhà Chúa để trở nên ngọn đèn cháy sáng trong Giáo Hội. Nhờ lời người nguyện giúp cầu thay, xin cho chúng con cũng được lòng hăng hái như người, để sống thế nào cho xứng danh là con cái ánh sáng. Chúng con cầu xin
1. Đôi hàng tiểu sử
Thánh Bernađô sinh năm 1090 tại lâu đài Fontaine-les-Dijon, nước Pháp. Nhờ sinh trưởng trong một gia đình thượng lưu và gia giáo, Bernađô sau này đã trở thành người bặt thiệp biết xử sự khôn ngoan với mọi người. Trong số 7 anh em, Bernađô là người con thứ ba. Cậu được gia đình cưng chiều hơn cả vì có tư cách nết na và đạo hạnh hơn các anh em.
Đàng khác Bênadô còn được bà thân mẫu A-let quý mến cách riêng vì một câu chuyện chiêm bao có liên quan tới con bà. Câu chuyện mộng mị đó như sau:
Một tối kia bà Alét mơ thấy trẻ Bênadô đang nô đùa, bỗng hoá thành một con chó cất tiếng sủa vang. Bà đem hiện tượng chiêm bao đó kể lại cho mọi người nghe và ai nấy đều nghĩ đó là điềm báo sau này sẽ trở thành một nhà giảng thuyết đại tài.
Tới tuổi khôn, Bernađô được cha mẹ cho theo học tại trường các thầy kinh sĩ ở Chatillon-sur-Seine. Nhờ sư rèn cặp của các thầy, Bernađô đã dần dần bỏ được tính rụt rè và câu nệ thái quá. Tính nhút nhát đó đã khiến cậu rất sợ hãi khi phải ra trước công chúng; vì thế mà có lần Bênadô đã phải bực mình kêu lên: “Thà rằng tôi chết đi còn hơn nói trước công chúng hay đến trước mặt một người ngoại quốc”.
Năm 16 tuổi giữa lúc cuộc đời đang lên với nhiều hứa hẹn thì bà thân mẫu của Bernađô từ trần khiến cậu phải trải qua một cơn khủng hoảng tinh thần nặng nề, và khiến cậu trở nên trầm lặng và suy tư. Nhưng rồi bỗng người ta thấy cuộc đời của chàng thanh niên ấy xoay hẳn một góc 180o. Chàng đứng lên, cương quyết chống lại mọi thử thách và quyến dũ của gia đình và bạn bè để dâng mình phụng sự Chúa trong dòng Xi-tô. Không những thế Bernađô còn lần lượt lôi cuốn được các anh em và cả ông thân sinh cùng nhiều người khác theo gương mình vào dòng.
Người ta kể lại rằng: Ngày kia người em út của Bênadô là Nivard đang chơi đùa với các trẻ em thì người anh cả bảo cậu rằng: “Các anh đi đây và nhường lại cho các em cả gia nghiệp, em có bằng lòng không?” Người em đáp lại: “Em không muốn thế, sao các anh chiếm nước trời còn để đất đai lại cho em”. Ít lâu sau người em cũng vào dòng.
Bênadô từ ngày dấn thân vào đời sống mới, luôn luôn tự hỏi mình: “Hỡi Bênadô, người vào đây để làm gì?”. Để nhắc nhở mình sống đúng với lý tưởng đã chọn, câu hỏi vắn tắt làm như phương châm cho đời sống, đã giúp thầy Bênadô siêng năng làm việc và làm một cách chu đáo. Một hôm các thầy xin Bênadô nghỉ ngơi để cho các thầy khác gặt lúa bởi vì thấy thầy yếu và không quen. Nhưng thầy khóc lóc xin Chúa cho mình có thể gặt lúa với anh em.
Năm 1115 thầy được cử làm tu viện trưởng Clairvaux một chi nhánh của dòng Xi-tô. Đây là một dịp để thầy hy sinh hãm mình nhiều hơn, dù yếu đuối và sức khỏe rất mỏng manh thầy cũng không chịu thua kém ai trong sự ăn uống kham khổ. Ngài còn mắc chứng đau bụng kinh niên. Tuy nhiên Ngài vẫn cố gắng tham dự các buổi phụng vụ như mọi người khác. Chỉ khi nào không chịu nổi cơn đau Ngài mới bỏ cộng đồng.
Nhận thấy tu viện trưởng Bernađô là người có đầy nhân đức và uy tín nên đức Giám mục Guillaume de Champeaux cho ngài được nhận chức linh mục và sai ngài đi giảng thuyết ở nhiều nơi. Ngài đã vâng lời vui vẻ ra đi. Nhờ đức khiêm nhường sâu thẳm, Chúa đã ban cho Ngài nhiều ơn lạ như nói tiên tri, làm nhiều phép lạ. Hết nhiệm vụ Ngài lại trở về nhà dòng phục vụ. Trong 38 năm làm bề trên, Ngài lập thêm được 68 tu viện chi nhánh của Clervaux. Ngài viết nhiều tác phẩm để bênh vực đức tin, truyền bá lòng yêu mến Chúa và đức bác ái.
Từ bé, Ngài vốn có lòng tôn sùng mầu nhiệm Chúa xuống thế làm người thì bây giờ Ngài cũng năng suy niệm mầu nhiệm ấy. Nhận thấy thánh nhân là người có trí thông minh và tài giảng thuyết cũng như giảng hòa nội bộ. Năm 1145 - Ngài kịch liệt phản đối vua ở miền nam nước Pháp. Lúc còn thanh niên, Ngài rất sợ ra trước công chúng nhưng nhờ ơn Chúa, nay Ngài cảm thấy cương quyết và can đảm nhiều.
Một hôm Ngài tới miền Sens để gặp A-bê-la người mê trí thức và khoa học đời, trước mặt cả cộng đồng giáo sĩ, Ngài phản đối A-bê-la: “Một người công giáo lầm lạc còn nguy hiểm hơn là người theo tà giáo”. Bênadô không phản đối việc trau dồi tri thức nhưng cha nhận đó là phương tiện truyền giáo, Ngài nói: “Người ta không khuất phục tà giáo bằng khí giới nhưng bằng biện luận”. Sau cùng cha Bênadô đã góp phần vào việc tranh đấu bảo vệ mồ thánh Chúa khỏi tay người Hồi giáo. Tuy thành công và danh tiếng nhiều nhưng thánh nhân vẫn khiêm tốn. Đôi khi không làm phép lạ và người ta hỏi thì Ngài chỉ trả lời: trông cậy ở Chúa và Chúa làm còn tôi không có gì đâu.
Sau khi tận tụy và nỗ lực làm việc cho sáng danh Chúa, thánh nhân đã qua đời tại Clairvaux ngày 20 tháng 8 năm 1153 lúc ba giờ chiều ngày thứ năm, thọ 63 tuổi.
Mười năm sau, các tu viện trưởng họp lại lập án xin phong thánh cho cha Bernađô. Ngày 18 tháng 1 năm 1174, án được Đức Alexandro III châu phê. Và năm 1830 Đức Piô VIII tôn phong Ngài lên hàng tiến sĩ Giáo hội.
2. Cuộc sống chứng nhân
Như đã nói ở trên, Bernađô là một người rất khiêm nhường và thánh thiện cho nên Chúa đã thưởng công cho Ngài. Chúa đã ban cho Ngài nhiều ơn lạ như nói tiên tri, làm nhiều phép lạ.
Đây là một giai thoại nổi tiếng khi Ngài ở Clairvaux. Hôm ấy nhà dòng hết muối. Cha Bernađô liền gọi một thầy tên là Guibert đến và bảo:
- Con hãy lấy con lừa (vì đây là con vật duy nhất mà tu viện sở hữu) và đi ra phố mua muối.
- Xin Cha con tiền để trả - thấy Guiber nói.
- Con ơi thánh - Bernađô trả lời -, đã khá lâu Cha không còn tiền cũng không còn vàng. Nhưng trên cao kia có Đấng giữ túi tiền và kho tàng của Cha!
Nghe nói thế thầy Guiber suýt nữa phì cười, nhưng thầy không thể không lưu ý Cha thánh điều này:
- Thưa Cha, nếu con đi với hai bàn tay không thì con cũng trở về chắc chắn với hai bàn tay không.
- Đừng sợ con ạ, hãy tin tưởng. Đấng giữ kho báu của Cha sẽ ở với con và người sẽ tìm cách giúp con có những gì cần thiết để làm xong công tác.
Guiber cúi đầu nhận phúc lành từ tay vị tu viện trưởng và dẫn con lừa ra đi. Các mối nghi ngờ của thầy không hoàn toàn tan biến. Nhưng khi thấy sắp băng qua cửa thành thì có một vị Linh mục đến gần và hỏi:
- Thầy từ đâu đến và đi đâu vậy?
Guiber không do dự thú nhận sự túng thiếu tột độ của tu viện và sự bối rối hiện nay của thầy. Rất cảm động, vị Linh mục dẫn thầy về nhà và cho thầy nửa thùng muối và một số tiền là 30 xu (tương đương với 300 quan Pháp thời nay).
Hãy tưởng tượng xem niềm vui của thầy Guiber lớn như thế nào. Thầy trở về lại tu viện và chỉ còn việc phải làm là ngay lập tức kể lại câu chuyện cho bề trên của thầy nghe.
- Cha đã nói rõ với con, cha Bernađô đáp, và cha lập lại với con điều đó: Đối với người Kitô hữu không có cái gì khác ngoài đức tin!
Lịch sử cũng còn ghi, Ngài lòng sùng kính Mẹ Maria rất lạ lùng. Truyền thuyết cho hay: Mỗi khi đi ngang qua ảnh tượng Đức Mẹ, thánh nhân thường hay chào Mẹ bằng câu: “Kính chào Mẹ Maria!” và một ngày kia, Đức Mẹ đã đáp lại lời chào của ngài: “Chào con, Bernađô!” Bằng cách này, Đức Mẹ cho biết tình yêu và lòng sùng kính thánh Bernađô đã dành cho Đức Mẹ thật lớn lao chừng nào; và Đức Mẹ cũng hài lòng biết bao!
Xin được kết thúc bằng chính lời của thánh Bernađô trích trong bài giảng về sách Diễm Ca Của Ngài: "Khi Thiên Chúa yêu, thì Người không muốn điều gì khác hơn là được yêu: Thật vậy, Thiên Chúa yêu, thì Người không nhằm điều gì khác ngoài việc được yêu lại, vì Người biết ai yêu mến Người thì sẽ được hạnh phúc nhờ chính tình yêu đó."
(Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp lại theo tài liệu của website TGP Sài Gòn)
(ĐTC Biển Đức XVI ngày 21/10/2009 Bài Giáo Lý Giáo Hội Tông Truyền thứ 92/138)
Thứ Hai
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 2, 11-19
"Chúa khiến các quan án đứng ra, nhưng chúng không muốn nghe các ông".
Trích sách Thủ Lãnh.
Trong những ngày ấy, con cái Israel làm điều gian ác trước mặt Chúa và phụng thờ các thần Baal. Chúng lìa bỏ Chúa là Thiên Chúa các tổ phụ chúng, Ðấng đã dẫn chúng ra khỏi đất Ai-cập, mà theo các thần ngoại, những thần các dân tộc cư ngụ chung quanh chúng, và thờ lạy các thần ấy, khiêu khích cơn nghĩa nộ Chúa, chối bỏ Người, và phụng thờ thần Baal và Astaroth. Chúa thịnh nộ Israel, trao chúng vào tay bọn cướp. Bọn này bắt chúng mà bán cho quân thù ở chung quanh chúng, chúng không sao chống lại được địch thù của chúng. Dù chúng muốn đi nơi nào, tay Chúa vẫn đè trên chúng, như Người đã phán và đã thề với chúng, như thế chúng phải chịu khổ cực nặng nề.
Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột, nhưng chúng cũng chẳng muốn nghe theo các vị thủ lãnh. Chúng hướng lòng về các thần ngoại và thờ lạy các thần ấy. Chúng đã vội bỏ đường lối các tổ tiên chúng đã đi, dù chúng có nghe biết các điều răn của Chúa, nhưng chúng vẫn làm mọi điều trái nghịch. Khi Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra, Người tỏ lòng thương xót chúng, nghe lời những kẻ khốn cực kêu van, và giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột sát hại. Nhưng sau khi vị thủ lãnh chết, chúng lại đổi lòng, làm những điều xấu xa hơn cha ông chúng đã làm, theo các thần ngoại, phụng sự và thờ lạy các thần ấy. Chúng không từ bỏ những điều chúng bày đặt ra và đường lối quá ương ngạnh chúng quen đi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 105, 34-35. 36-37. 39-40. 43ab và 44
Ðáp: Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Chúa (c. 4a).
Xướng: 1) Họ không chịu tiêu diệt những dân mà Chúa đã có lệnh truyền cho họ. Họ đã hoà mình với người chư dân, và học theo công việc chúng làm. - Ðáp.
2) Họ sùng bái tà thần của chúng, những tà thần đã hoá thành lưới dò hại họ. Họ đã giết những người con trai và con gái, để làm lễ cúng tế quỷ thần. - Ðáp.
3) Bởi những việc đó, họ tự làm ô uế bản thân, và do hành động tội lỗi, họ đã ngoại tình. Chúa đã bừng cơn thịnh nộ với dân tộc, và tởm ghét phần gia nghiệp của Người. - Ðáp.
4) Nhiều lần Chúa đã thương giải phóng nhưng họ manh tâm chống lại Người. Nhưng Người đã nhìn đến cảnh gian truân của họ, khi Người nghe lời họ kêu xin. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 34
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 19, 16-22
"Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, có một người đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?" Người bảo kẻ ấy rằng: "Sao ngươi hỏi Ta về việc lành? Chỉ có một Ðấng nhân lành là Thiên Chúa. Nếu ngươi muốn vào nơi hằng sống, ngươi hãy tuân giữ các giới răn". Người ấy hỏi rằng: "Những giới răn nào?" Chúa Giêsu đáp: "Ngươi chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối. Hãy thảo kính cha mẹ, và yêu thương kẻ khác như chính mình". Người thanh niên thưa lại rằng: "Tất cả những điều đó tôi đã giữ từ khi còn niên thiếu, vậy tôi còn thiếu sót gì nữa chăng? Chúa Giêsu bảo anh: "Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Ta". Khi người thanh niên nghe lời đó thì buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều sản nghiệp.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Tốt Lành nhưng vẫn chưa Thánh Đức
Bài
Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XX Thường Niên hôm
nay tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm của Thứ Bảy tuần trước, bài Phúc Âm
về "Nước Trời thuộc về những người" sống tinh thần khiêm hạ như trẻ
nhỏ.
Về
nội dung, có thể nói bài Phúc Âm hôm nay tiếp nối bài Phúc Âm Thứ Bảy
tuần trước. Vì trong bài Phúc Âm hôm nay Nước Trời dường như không thuộc
về thành phần giầu có như người giầu có trong bài Phúc Âm, cho dù người
giầu có này sống đạo đàng hoàng chứ không vì giầu mà bê bối.
Trước hết, người
giầu trong bài Phúc Âm sống đạo đàng hoàng, đến độ dường như vẫn còn cảm
thấy thiếu một cái gì đó, cho dù về vật chất giầu sang phú quí, nên mới
lên tiếng hỏi Chúa Giêsu rằng: "Lạy
Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?"
Sau nữa, "người
thanh niên" này không
vì giầu mà sống bê bối, như lời anh ta đã thưa
cùng Chúa Giêsu, Đấng đã
liệt kê các giới răn căn bản trong Thập Giới để được cứu rỗi hay "để được
sống đời đời", những giới răn "chớ
giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối. Hãy thảo
kính cha mẹ, và yêu thương kẻ khác như chính mình", những
giới răn mà
anh ta đã tự thú với Người rằng: "Tất
cả những điều đó tôi đã giữ từ khi còn niên thiếu, vậy tôi còn thiếu sót
gì nữa chăng?"
Đúng thế, con người được
dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Thiên Chúa nên lòng luôn khắc
khoải cho tới khi được nghỉ yên trong Ngài mà cho dù giầu sang phú quí
về vật chất họ vẫn cảm thấy xao xuyến bất an làm sao ấy. Thái độ của
người thanh niên giầu sang trong bài Phúc Âm đã cho thấy rõ tâm trạng
này, chẳng những ở vấn nạn được anh ta đặt ra hỏi Chúa Giêsu: "Lạy
Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?",
mà còn ở hành động cuối cùng của anh ta được Phúc Âm thuật lại rằng: "Khi
người thanh niên nghe lời đó thì buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều sản
nghiệp".
Tuy nhiên, tâm
trạng vẫn còn "thiếu sót" này của chàng thanh niên giầu có trong
bài Phúc Âm hôm nay cũng dễ hiểu thôi. Bởi vì, ơn gọi nên trọn lành
không phải ai cũng có thể theo đuổi, hễ muốn là được, mà cần phải được
kêu gọi và tuyển chọn như các vị tông đồ. Mà muốn nên trọn lành thì điều
kiện tiên quyết đó là từ bỏ tất cả những gì con người sở hữu, nhờ đó họ
mới có thể tiến đến chỗ bỏ mình và vác thập giá mà theo Chúa Kitô Vượt
Qua được, như chính Người đã kêu gọi trong
bài Phúc Âm hôm nay: "Nếu
anh muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải anh có và bố thí cho
người nghèo khó, thì anh sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Tôi".
Dấu hiệu còn cảm thấy "thiếu
sót" và "buồn rầu" của người thanh niên giầu có trong bài
Phúc Âm dầu sao cũng đáng mừng, vì chúng chứng tỏ người
thanh niên giầu có này vẫn
còn ý thức đức tin, vẫn còn khao khát nên trọn lành, tuy chưa thể thực
hiện ngay được, hơn là những con người tham lam làm giầu đến độ bỏ Chúa,
bỏ lễ Chúa Nhật, cho đến khi Chúa để cho thất bại, tan gia bại sản
thì đâm ra trách Chúa, hận Chúa, tại sao Chúa để cho họ bị khốn khó như
vậy v.v. Tại sao họ
không tự trách mình bỏ Chúa mà lại trách Chúa bỏ họ nhỉ?! Thật là đáng
thương...
Thái độ tỏ ra luyến tiếc thế gian, dính bén với tất cả những gì mình có, đến độ không thể từ bỏ mà sống trọn lành hơn của chàng thanh niên giầu có trong bài Phúc Âm hôm nay, là bằng chứng cho thấy mầm mống nguyên tội của con người vẫn còn đó, với đam mê nhục dục và tính mê nết xấu, một mầm mống cho dù đã được lãnh nhận Phép Rửa, và nhờ đó đã như dân Do Thái vào Đất Hứa, nhưng Kitô hữu vẫn cần phải chiến đấu với bản thân mình để Sống Thánh xứng với thân phận là con cái của Thiên Chúa là Đấng Thánh. Thân phận của dân Chúa ở Đất Hứa cũng thế, như hai nguyên tổ ở trong Vườn Địa đường, cũng vẫn phải chiến đấu với chính bản thân mình trước mọi cám dỗ trước đủ mọi thứ thần tượng thế gian rất thích hợp với con người của mình, nhưng lại không phải là chính Thiên Chúa của mình. Bài Đọc 1 hôm nay đã được Sách Thủ Lãnh / Quan Án ghi nhận về tình trạng của dân Chúa vẫn còn xu hướng dân ngoại và hằng được Thiên Chúa tìm hết cách để cải hoá họ, như sau:
Trong những ngày ấy, con cái Israel làm điều gian ác trước mặt Chúa và phụng thờ các thần Baal. Chúng lìa bỏ Chúa là Thiên Chúa các tổ phụ chúng, Ðấng đã dẫn chúng ra khỏi đất Ai-cập, mà theo các thần ngoại, những thần các dân tộc cư ngụ chung quanh chúng, và thờ lạy các thần ấy, khiêu khích cơn nghĩa nộ Chúa, chối bỏ Người, và phụng thờ thần Baal và Astaroth. Chúa thịnh nộ Israel, trao chúng vào tay bọn cướp... Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột, nhưng chúng cũng chẳng muốn nghe theo các vị thủ lãnh. Chúng hướng lòng về các thần ngoại và thờ lạy các thần ấy. Chúng đã vội bỏ đường lối các tổ tiên chúng đã đi, dù chúng có nghe biết các điều răn của Chúa, nhưng chúng vẫn làm mọi điều trái nghịch. Khi Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra, Người tỏ lòng thương xót chúng, nghe lời những kẻ khốn cực kêu van, và giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột sát hại. Nhưng sau khi vị thủ lãnh chết, chúng lại đổi lòng, làm những điều xấu xa hơn cha ông chúng đã làm, theo các thần ngoại, phụng sự và thờ lạy các thần ấy. Chúng không từ bỏ những điều chúng bày đặt ra và đường lối quá ương ngạnh chúng quen đi".
Thánh Vịnh 105 ở bài Đáp Ca hôm nay đã cho thấy nguyên do dân Do Thái vẫn còn xu hướng dân ngoại (câu 1), đã sống như dân ngoại (câu 2), đến độ đã trở nên bất xứng với Thiên Chúa (câu 3), nhưng Chúa là vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ vẫn không bao giờ bỏ rơi họ (câu 4), tất cả 4 câu Thánh Vịnh này như sau:
1) Họ không chịu tiêu diệt những dân mà Chúa đã có lệnh truyền cho họ. Họ đã hoà mình với người chư dân, và học theo công việc chúng làm.
2) Họ sùng bái tà thần của chúng, những tà thần đã hoá thành lưới dò hại họ. Họ đã giết những người con trai và con gái, để làm lễ cúng tế quỷ thần.
3) Bởi những việc đó, họ tự làm ô uế bản thân, và do hành động tội lỗi, họ đã ngoại tình. Chúa đã bừng cơn thịnh nộ với dân tộc, và tởm ghét phần gia nghiệp của Người.
4) Nhiều lần Chúa đã thương giải phóng nhưng họ manh tâm chống lại Người. Nhưng Người đã nhìn đến cảnh gian truân của họ, khi Người nghe lời họ kêu xin.
1. Đôi dòng lý lịch.
Thánh Piô X Giáo hoàng tên thật là Guiseppe Melchierre Sartô, sinh tại
làng Riese miền Venetia, ngày 02 tháng 6 năm 1835. Cha Ngài, ông
Giovanni Battista Sartô thành hôn với mẹ Ngài là bà Margherita Samon,
nhỏ tuổi hơn ông rất nhiều. Vì vậy lên 17 tuổi, Ngài đã mồ côi cha. Thân
phụ ngài là một nông dân nghèo, và mẹ ngài là một thợ may quần áo nữ. Ông
Giovanni Battista làm nghề chạy giấy của xã, làm cha một gia đình nghèo
túng. Chết đi, ông để lại một gia đình càng túng quẫn hơn nữa. Tuy nhiên
nhờ lòng đạo đức của cả hai ông
bà mà gia đình này đã góp phần đào tạo nên một vị thánh lớn cho Giáo
hội.
Piô X là một người rất thông minh, cần mẫn và sáng trí. Ngài xuất thân
từ một gia đình bình dân sinh sống tại Venexia nước
Ý và là con trai thứ hai trong gia đình gồm mười anh chị em.
Ngay khi còn nhỏ, cũng giống như cha mẹ, ngài rất đạo đức và luôn ước ao
được làm Linh Mục. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh kinh
tế của
gia đình quá eo hẹp thiếu thốn, ước muốn thánh thiện đó hầu như chỉ là
một giấc mơ bất thành mà thôi. Khi được mười một tuổi, Beppo -
cái tên cúng cơm người ta thường dùng để gọi ngài - hằng ngày phải đi bộ
bảy cây số đến học tại trường La-tinh ở Castelfranco để kết thúc được
chương trình trung học phổ thông và để theo học triết và thần
học,
mãi cho tới khi ngài được nhận vào Chủng Viện ở Padua.
Học tại trường làng, Guiseppe đã tỏ ra có nhiều triển vọng, Ngài luôn là
một học sinh giỏi đứng đầu lớp học. Theo phong tục thời đó, dù đã vào
ban giúp lễ từ hồi 7 tuổi, mãi tới năm 11 tuổi, Guiseppe mới được rước
lễ lần đầu. Những ngày tháng mong đợi có lẽ đã khiến Ngài khi lên Giáo
hoàng sau này, đã cho phép trẻ em được rước lễ vỡ lòng khi vừa tới tuổi
khôn và nhiệt tình cổ võ lòng tôn sùng bí tích Thánh Thể. Trước bàn thờ
Đức Mẹ, dịp rước lễ lần đầu, Guiseppe đã khấn dâng mình cho Chúa. Từ lâu
rồi Ngài đã nuôi ý định này nhưng không dám tỏ bày với cha mẹ. Khi biết
được ý định của con, mẹ Ngài đã hết sức tán thành, cha Ngài ngập ngừng
vì thấy gia đình nghèo túng, nhưng rồi cũng quảng đại vâng theo ý Chúa.
Mọi người đều vui mừng vì quyết định của Guiseppe, nhất là cha sở Riese.
Cha phó dạy tiếng Latinh cho Ngài. Khi đã đủ lực theo bậc trung học ở
Castelfrancô cách Riese 7 cây số. Suốt 4 năm trời Ngài thường vác giầy
trên vai, để tiết kiệm, và đi bộ tới trường rồi lại đi bộ về nhà. Chính
lý tưởng làm Linh mục là sức mạnh giúp Ngài kiên trì như vậy.
Hết 4 năm tại Castelfrancô, năm 1850, Guiseppe lên đại chủng viện Padua.
Gia đình Guiseppe nghèo, cha sở xin được cho Ngài một học bổng, giáo dân
trong họ hằng năm quyên tiền giúp đỡ Ngài. Thật là những nghĩa cử cao
đẹp đối với một ơn gọi. Năm 17 tuổi, ông thân sinh qua đời, Guiseppe
muốn bỏ về giúp mẹ và săn sóc cho 7 đứa em. Lại một nghĩa cử cao đẹp
khác vun trồng cho ơn gọi Guiseppe chín mùi: mẹ Ngài không chấp nhận ý
kiến, mà quyết tâm dâng con cho Chúa. Trong nếp sống nghèo khó nhưng lại
giàu lòng quảng đại ấy, Guiseppe đã tiến tới chức Linh mục ngày 28 tháng
9 năm 1858, lúc 23 tuổi.
Sau ngày mở tay tại quê nhà, cha Guiseppe đi nhận phó xứ Tombolo, chín
năm sau Ngài được bổ nhiệm làm chính xứ Salzano. 17 năm làm phó xứ rồi
chính xứ, cha Guiseppe sống đời hy sinh tận tụy với giáo dân, nhất là
với những người nghèo khó. Không hề ao ước danh vọng, Ngài lại được
chiếu cố, được tín nhiệm vào chức vụ cao hơn. Đức Giám mục Trevise mời
Ngài về làm trưởng ấn toà giám mục, kiêm nhiệm chức vụ giám đốc chủng
viện. Ngài luôn luôn thi hành các chức vụ bề trên giao phó một cách chu
đáo.
Năm 1884, Đức Lêô XIII, Đấng mà Ngài sẽ kế vị đặt Ngài làm Giám mục cai
quản điạ phận Mantua, Ngài muốn từ khước nhưng đã vâng lời và quyết nên
mọi sự cho mọi người.
- Dân chúng sẽ thấy tôi luôn kiên trì trong chức vụ, luôn hiền từ và đầy
bác ái.
Ôm hôn mẹ hiền, Ngài cho mẹ xem chiếc nhẫn Giám mục của mình. Mẹ Ngài
cũng sung sướng cho Ngài xem chiếc nhẫn cưới của mình và nói:
- Không có chiếc nhẫn của mẹ thì chẳng có chiếc nhẫn của con.
Phải thật nhân đức mới có thể đương đầu với tình trạng đáng thương của
giáo phận: chủng viện gần như trống rỗng, dân chúng chịu ảnh hưởng của
tâm điểm thệ phản thuyết phóng túng nên lòng đạo đức sa sút, chẳng còn
nhiệt tâm gì với việc tông đồ, với đời sống nội tâm. Sợ hãi, nhưng Đức
cha Sartô bắt tay ngay vào việc canh tân. Ngài đi kinh lý khắp điạ phận
rộng lớn. Những cuộc tiếp xúc thường xuyên và thân mật này đã tạo nên
những bước tiến cụ thể. Khi mùa gặt đã tới, Ngài lên tiếng kêu gọi cho
ngân quỹ vơi cạn của chủng viện và được đáp ứng quảng đại. Ngài triệu
tập một hội nghị để trao đổi và để đón nhận các ý kiến. Ngài luôn lo bảo
vệ sự toàn vẹn đức tin và không muốn chấp nhận sự sống nhượng bộ khi
không được phép:
- Người ta phải tranh đấu nơi thanh thiên bạch nhật.
Công việc ngày một nhiều, nhưng Ngài vẫn thường xuyên thăm viếng các
giáo xứ. Buổi sáng kia tới nhà thờ một họ đạo, Ngài thấy giáo dân đứng
chờ trước toà giải tội, Ngài vào ngồi tòa, khiến cha sở tới nơi phải bối
rối. Trợ giúp hàng giáo sĩ về luân lý lẫn tài chánh đó là nét đặc trưng
trong chức vụ của Ngài.
Mỗi hoạt động của vị Giám mục thánh thiện đều tạo thành tiếng vang. Với
những cố gắng phục vụ Giáo Hội, lo lắng cho tha nhân, ngày 15
tháng 6 năm
1893, ngài được phong làm Hồng Y Giáo Chủ Venice. Lần
này Ngài mau mắn vâng lời.
- Khi vị đại diện Chúa Kitô mở lời, không phải là lúc để nghiệm xét, mà
là vâng phục. Không được phép cân nhắc lệnh truyền để tìm giảm thiểu mức
độ vâng phục...
Sau 5 năm liền làm cha tổng đại diện ở Treviso, Giáo
hoàng Lêô XIII đã
chọn và tấn phong linh mục Sarto làm Giám mục Mantua vào năm 1884.
Giám mục Sarto điều khiển giáo phận Mantua mãi cho tới năm 1893.
Triều đình Ý trước
tiên đã từ chối chuẩn nhiệm (exequatur) ngài với lý do là việc bổ nhiệm
ngài là việc của triều đình Áo–Hung.
Đức Cha Sarto phải đợi đến 18 tháng sau mới nhận được giáo phận mới của
mình.
Đức Hồng y tiếp tục cùng một chương trình canh tân. Ngài xây dựng nhiều
thánh đường, cô nhi viện, chủng viện và một phân khoa giáo luật. Ngài
can đảm thiết lập thông tấn xã công giáo. Ngài đến nhà thờ và tranh đấu
cho việc tôn trọng luật Chúa.
Ngày 08 tháng 7 năm 1903, đức Lêô XIII từ trần. Đức Hồng y giáo chủ
Sartô phải đi vay tiền mua vé về họp mật nghị bầu Giáo hoàng. Trong mật
nghị, Đức Hồng y Puzyna cai quản Krakow cho biết Hoàng đế nước Áo phủ
quyết Đức Hồng y Rampella quốc vụ khanh của Đức Lêô XIII mới từ trần.
Cuộc bỏ phiếu đầu ngày 1 tháng 8, Đức Sarto chỉ được 5 phiếu. Đức Hồng y
Gibbons người Mỹ xin Ngài đừng phủ quyết cuộc bầu cử và đến cuộc đầu
phiếu thứ 7 ngày 4 tháng 10, Ngài được 50/62 (vì sự kiện trên, sau này
người ra hiến chế Comomissum Nobis để ngăn chặn mọi mưu toan chính trị
tìm khuynh đảo các cuộc bầu cử Giáo hoàng).
Sau kết quả cuộc bầu cử, Đức hồng y niên trưởng đến hỏi:
- Chúng tôi đã nhân danh Thiên Chúa tiến cử Ngài làm Giáo hoàng, Ngài có
ưng thuận không ?
Sau giây phút yên lặng trong nước mắt giàn dụa, Ngài nghẹn ngào trả lời?
- Ước gì tôi không phải uống chén này, nhưng mong sao ý Chúa được nên
trọn.
Thấy câu trả lời chưa rõ, Đức hồng y niên trưởng hỏi lại lần nữa và Ngài
trả lời:
- Tôi xin nhận như nhận một thánh giá.
- Vậy Ngài muốn nhận tên gì ?
- Vì tôi phải chịu khổ nên tôi nhận tên của những vị đã phải đau khổ.
Tôi nhận tên là PIÔ.
Thế là cuộc bầu cử Giáo hoàng đã xong. Lễ đăng quang được cử hành ngày
09 tháng 8 năm 1903. Trong thông điệp đầu tiên, E Supreni Apostolatus
ngày 04 tháng 10 năm 1903 Ngài công bố:
Nếu người ta muốn hỏi chúng tôi một châm ngôn phát xuất tự đáy lòng, tôi
sẽ luôn nói rằng: canh tân mọi sự trong Đức Kitô.
Suốt triều đại Giáo hoàng, Đức Piô X đã thực hiện châm ngôn ấy. Ngài cho
phép các trẻ em nhỏ rước lễ sớm khi vừa tới tuổi khôn và khuyến khích
việc rước lễ hàng ngày. Với thông điệp Pascendi ngày 08 tháng 9 năm 1908
kết án thuyết duy tâm. Ngài sửa lịch và sách nguyện, canh tân thánh nhạc
và truyền dùng trong cả Giáo hội, Ngài thiết lập các viện nghiên cứu âm
nhạc và kinh thánh tại Roma. Ngài khởi đầu công cuộc hệ thống hóa giáo
luật...Về phương diện chính trị, Ngài tạo ra sự dễ dàng trong việc liên
lạc giữa Giáo hội và vương quốc Ý. Khi tổ chức lại các bộ và các toà án,
cùng giáo triều Roma, tông hiến Sapienti Consiliô năm 1908 cho thấy dấu
hiệu sẵn sàng chấp nhận việc để mất các quốc gia của Giáo hội, cũng
không cần đến cơ cấu cai trị dân sự làm khuôn mẫu. Ngay từ năm 1905 Ngài
đã cương quyết từ khước hoà ước Napolêon và chấp nhận sự phân biệt Giáo
hội với quốc gia vì biết rằng sự nghèo khó của Giáo hội Pháp là có lợi
hơn.
Giữa những tình huống hóc búa này, Đức Piô X không bao giờ thực sự cảm
thấy mình được phép ở nhà. Ngài là “tù nhân ở Vaticanô”. Một lần tiếp
xúc với các bạn cũ, Ngài bật khóc:
- Xem người ta đưa tôi lên ghế này đây.
Tìm lại nếp sống cũ, Ngài đưa các em về Roma để giặt ủi và may vá đồ.
Khi đau bệnh, Ngài xin Linh mục là cháu của Ngài cho rước lễ. Ngài còn
đưa cả cha tuyên úy và người nấu ăn từ Venetia về. Thích sống thanh đạm,
Ngài bỏ các nghi thức nhỏ nhặt và nhiều truyền thống nặng hình thức
khác. Khi Ngài qua đời người ta còn thấy trong túi áo Ngài những vật của
một học sinh: con dao nhỏ và cây bút chì.
Năm 1914 vào năm thứ 11 sau khi Đức Piô được bầu làm Giáo hoàng, Âu Châu
lâm vào cảnh chiến tranh. Ngài ngã bệnh, Ngài dâng lễ cuối cùng vào ngày
lễ Mông Triệu. Ngài qua đời ngày 20 tháng 8. Người ta nói rằng: Ngài bị
vỡ tim vì lo buồn cho nhân loại, 9 năm sau đã bắt đầu hồ sơ phong thánh
và ngày 03 tháng 6 năm 1951 Ngài được phong chân phước, ngày 29 tháng 5
năm 1954, sau 40 năm qua đời Ngài được phong hiển thánh.
Trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma, Giáo hoàng Piô X là một trong
những Giáo hoàng vĩ đại đã canh tân Giáo Hội nhiều nhất, đúng với khẩu
hiệu của ngài đã chọn khi lên ngôi Giáo hoàng: "Đổi mới tất cả trong
Đức Kitô".
Ước gì mỗi người Kitô hữu chúng ta biết học theo gương sống của thánh
Piô X, canh tân đổi mới trong Đức Kitô, làm tất cả vì lòng yêu mến Chúa
và Giáo Hội.
2. Cuộc sống chứng nhân
Ngay từ đầu, Giáo hoàng Piô X đã quan tâm một cách đặc biệt đến chương
trình mục vụ trong Giáo Hội. Ngài tìm cách quân bình giữa thế giới tân
tiến và truyền thống Kitô giáo. Nhưng trước hết, ngài chăm lo đến việc
canh tân nội bộ Giáo Hội, đúng với khẩu hiệu của ngài: "Đổi mới tất
cả trong Đức Kitô".
Thật khó có thể kể ra đây hết những việc Đức Pio X đã làm trong cuộc đời
của Ngài. Tuy nhiên sau khi đọc lại cuộc đời của Ngài người ta không thể
không lưu ý đến những bài học thật sống động làm cho mọi người phải để
tâm suy nghĩ:
a/ Trước hết ngài được sống trong một gia đình đạo đức và chính ngài
cũng rất yêu quí gia đình của mình. Chính gia đình này đã làm nên
một người con thánh thiện cho Giáo Hội.
Lịch sử còn ghi lại tuy gia đình ngài không đến nỗi bần cùng túng quẫn,
nhưng được xếp vào hạng nghèo túng. Cha ngài là ông Gioan Bacti Sartô,
Mẹ là Magarita Sanson. Ông thân làm nghề chạy giấy tại toà thị xã.
Vì gia đình túng thiếu, bà Magarita vừa phải lo việc nội trợ, vừa đi
khâu thuê kiếm ít tiền sinh sống. Bà rất mực đạo đức, nuôi dạy các con
theo đúng tinh thần đạo Công giáo. Chính tay bà đã đào tạo nên vị Giáo
Hoàng cương quyết và thánh thiện sau này. Người đàn bà nhà quê ấy thật
đáng làm gương mẫu cho mọi người với những đức tính nhẫn nại, hy sinh và
khiêm nhường. Ngày nay ở trên mộ bà, tại nghĩa trang làng Riese, người
ta còn đọc thấy những hàng sau đây mà chính Đức Piô X khi còn đang làm
Hồng Y giáo chủ thành Venise, đã truyền ghi khắc vào bia để ghi công đức
của mẹ mình: “Magarita Sanson, người đàn bà gương mẫu, người vợ trung
thành, người mẹ khôn sánh”.
Truyền thuyết còn ghi ngài có một cuộc sống tình nghĩa rất nặng với gia
đình nhất là với mẹ của ngài. Đức Giáo Hoàng Piô X khi còn là cậu bé ở
làng Riese mỗi ngày phải đi bộ 7 cây số để đến trường, sáng đi 7 chiều
về 7. Bà mẹ, bà Magarita dù nghèo song cũng ráng mua cho con một đôi
giày cho con đỡ đau chân. Đứa con tốt lành này cũng rất thương cha mẹ
cho nên sáng ra khỏi nhà thì mang giày vào chân kẻo mẹ rày, sau khi xa
nhà thì cởi giấy quảy trên vai cho tới khi tới trường mới mang vào để
chúng bạn khỏi cười chê. Ra khỏi trường lại cởi ra, về gần tới mới xỏ
vào sợ mẹ buồn. Cậu bé Sartô làm như thế vì sợ mòn đôi giày và tốn kém
cho cha mẹ.
Khi được được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Mantua, một hôm, ngài về
thăm mẹ. Mẹ con ngồi nói chuyện khá lâu, ngài tếu táo khoe với mẹ chiếc
nhẫn Giám mục của mình: “Mẹ xem này, chiếc nhẫn Giám mục mới của con
đây”.
Mẹ ngài mỉm cười chìa bàn tay thô cộc cho thấy chiếc nhẫn cưới bình dị
của mình và nói: “Không có chiếc nhẫn cưới nghèo nàn này của mẹ đây thì
chẳng có chiếc nhẫn ấy đâu.”
2. Đức Piô X là người luôn để lòng chăm lo cho đời sống Giáo Hội đặc
biệt là các linh mục. Theo ngài, trước hết các Linh Mục phải lo sống thế
nào để có được Chúa
Giêsu trong
chính mình, nếu họ muốn mang Chúa đến cho những kẻ khác. Ngài viết:
“ |
Là những Linh Mục của Chúa, chúng ta cần phải giới thiệu Đức
Kitô cho mọi người và hành động trong tinh thần của Người. Là
bạn hữu nghĩa thiết của Người, chúng ta ‘phải có những tâm tình
như Đức Kitô’ (Pl 2,5), Đấng hoàn toàn thánh thiện, vô tội và
tinh tuyền. Bởi vì tình bạn luôn đòi hỏi phải cùng ước muốn hay
không ước muốn như nhau."
Ngài ưu tiên sống đời sống khó nghèo. Đấy là chúc thư quí báu
ngài còn để lại: |
” |
“Tôi sinh ra khó nghèo, sống khó nghèo, và biết rằng sẽ chết trong khó
nghèo…
Về phần thi hài tôi, thì tôi ra lệnh, đừng ai đụng chạm đến, và không
xức ướp gì cả; tuy làm thế là trái với thói quen thông thường. Tử thi
chỉ trưng bày trong mấy tiếng đồng hồ, rồi đem mai táng…”
Hiện nay trên mộ ngài, người ta ghi thấy dòng chữ
Piô X Giáo Hoàng
Khó nghèo và giàu có
Hiền lành và khiêm nhường
Mạnh mẽ bên vực đạo
Chăm chú cải tổ mọi sự trong Chúa Kitô
Đã yên nghỉ thánh thiện trong Chúa ngày 20 tháng 8 năm 1914.
Lạy Thánh Pio X, xin cầu cho Giáo Hội và chúng con. Amen.
(Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp lại theo tài liệu của website TGP
Sài Gòn)
Hội Thánh cất tiếng ca dịu dàng
Trích tông hiến Chúa Thánh Thần linh hứng của thánh giáo hoàng Pi-ô X.
Nhờ ơn linh hứng của Thiên Chúa, các thánh vịnh đã được sáng tác. Sưu tập các thánh vịnh đã được đưa vào Kinh Thánh để, ngay từ thời đầu của Hội Thánh, rõ ràng là các thánh vịnh đã có sức nung đúc lòng đạo của các tín hữu một cách lạ lùng. Họ dùng lời ngợi khen làm lễ tế dâng lên Thiên Chúa, tức là dùng miệng lưỡi mà ca tụng Thánh Danh. Không những thế, theo thói quen đã có từ thời luật cũ, rõ ràng là các thánh vịnh còn góp phần hiển nhiên vào Phụng vụ thánh và Kinh Thần vụ. Từ đó phát sinh “tiếng nói của Hội Thánh”, như thánh Ba-xi-li-ô thường gọi. Tiếng nói đó chính là lối hát thánh vịnh, hay theo cách gọi của vị tiền nhiệm chúng tôi là đức U-ba-nô VIII, thì tiếng nói đó chính là ái nữ của thánh thi ca ngợi hằng được hát lên trước ngai Thiên Chúa và Con Chiên. Theo thánh A-tha-na-xi-ô thì thánh thi còn dạy cho những người đặc biệt lãnh trách nhiệm cử hành phụng tự biết phải ca ngợi Thiên Chúa làm sao, và phải dùng lời lẽ nào mà xưng tụng Người cho phải đạo. Về vấn đề này, thánh Âu-tinh cũng có những lời rất đẹp : “Vì Thiên Chúa muốn cho nhân loại ca ngợi Người một cách xứng hợp, nên Người đã tự ca ngợi mình trước ; Thiên Chúa đã vì thương mà tự ca ngợi chính mình, nên loài người mới biết cách ca ngợi Thiên Chúa.”
Các thánh vịnh cũng có một sức mạnh nội tại phi thường, có khả năng khơi dậy trong các tâm hồn nỗi khát khao mọi nhân đức. Thật vậy, theo thánh A-tha-na-xi-ô, “toàn bộ Kinh Thánh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, đều đã được Thiên Chúa linh hứng và đều hữu ích cho việc giảng dạy, như Kinh Thánh đã chép. Dầu vậy, sách Thánh vịnh ví được như địa đàng có hoa trái của mọi sách khác : sách này đem lại những bài ca, và khi những bài ca đó được hát lên, sách này lại cho ta những hoa trái đặc sắc bên cạnh các sách khác”. Thánh A-tha-na-xi-ô còn thêm một điều chí lý : “Đối với tôi, thánh vịnh ví tựa tấm gương cho người hát soi mình, để, nơi các thánh vịnh, người hát có thể ngắm nghía chính mình cùng với các rung động của riêng tâm hồn mình, và như thế, họ sẽ đầy tâm tình khi ngâm nga thánh vịnh.” Trong sách “Tự thuật”, thánh Âu-tinh cũng viết : “Con đã khóc ròng khi nghe những bản thánh thi và thánh ca dâng kính Ngài, vì quá cảm kích trước giọng ca dịu dàng của Hội Thánh Ngài. Giọng ca ấy rót vào tai con, thì chân lý cũng thấm vào lòng con, khiến rực lên trong con những tâm tình sốt mến, rồi nước mắt tuôn đổ và hạnh phúc trào dâng.”
Quả thế, ai lại không cảm động trước rất nhiều đoạn thánh vịnh hết lời xưng tụng uy nghi vô tận và uy quyền toàn năng của Thiên Chúa, xưng tụng đức công chính, lòng nhân hậu và từ tâm khôn tả, cũng như nhiều phẩm tính vô cùng đáng ca tụng khác của Người ? Ai lại không cảm thấy những tâm tình giống như thế khi dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì những ơn lành Người đã ban, hay khi khiêm tốn và tin tưởng cầu xin những điều mình đang mong đợi, hoặc khi cất tiếng kêu van tự đáy lòng thống hối tội lỗi ? Ai lại không cảm thấy bừng cháy lòng yêu mến trước hình ảnh Đức Ki-tô, Đấng Cứu Thế, được hoạ lại cẩn thận ? Thật vậy, thánh Âu-tinh “đã nghe thấy tiếng của Đấng Cứu Thế trong mọi thánh vịnh, khi thì đàn ca, khi lại rên siết, lúc thì hân hoan trong hy vọng, lúc lại thở than trong hoàn cảnh hiện tại”.
Thứ Ba
Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 6, 11-24a
"Hỡi Giêđêon, hãy đi giải thoát Israel: ngươi biết Ta thương xót ngươi".
Trích sách Thủ Lãnh.
Trong những ngày ấy, Thiên thần Chúa đến ngồi dưới gốc cây sồi ở đất Êphra, thuộc sở hữu của ông Gioas, tổ gia tộc Abiêzer. Khi ấy, Giêđêon, con trai của ông, đang đập và rê lúa trong nhà ép nho để tránh mắt quân Mađian, thì Thiên thần Chúa hiện ra với ông và nói rằng: "Hỡi người dũng sĩ, Chúa ở cùng ngươi". Giêđêon thưa lại rằng: "Thôi, xin Ngài, nếu Chúa ở cùng chúng tôi, tại sao chúng tôi phải chịu tất cả những sự này? Nào đâu những việc kỳ diệu của Chúa mà cha ông chúng tôi đã kể lại cho chúng tôi mà rằng: "Chúa đã dẫn chúng ta ra khỏi Ai-cập"? Nhưng nay Chúa lại bỏ rơi chúng tôi và trao chúng tôi vào tay quân Mađian". Chúa nhìn ông mà phán rằng: "Ngươi hãy mạnh mẽ tiến đi mà giải thoát Israel khỏi tay quân Mađian: chính Ta sai ngươi đó". Ông thưa lại rằng: "Thôi, xin Chúa, con dựa vào đâu mà giải thoát Israel? Ðây gia đình con là gia đình rốt hết trong chi tộc Manassê, và con là con út trong nhà cha con". Chúa phán cùng ông rằng: "Ta sẽ ở cùng ngươi: ngươi sẽ đánh ngã quân Mađian như đánh một người vậy". Ông thưa rằng: "Nếu con đẹp lòng Chúa, thì xin Chúa ban cho con một dấu chứng rằng chính Chúa phán dạy con. Xin Chúa chớ lìa khỏi nơi đây cho đến khi con trở lại cùng Chúa, mang theo của lễ dâng lên Chúa". Chúa đáp lại rằng: "Ta sẽ đợi ngươi trở lại".
Vậy Giêđêon vào nhà làm thịt một con dê đực, lấy một đấu bột làm bánh không men: để thịt vào giỏ, đổ nước thịt vào nồi, mang các món đó đến dưới cây sồi mà dâng cho Chúa. Thiên thần Chúa bảo ông rằng: "Ngươi hãy đem thịt và bánh không men đặt trên tảng đá kia, rồi đổ nước thịt lên trên". Khi ông làm như vậy, thì Thiên thần Chúa giơ cây gậy Người cầm trong tay lên và chạm đến thịt và bánh không men, tức thì có lửa từ tảng đá bốc lên thiêu đốt thịt và bánh không men. Thiên thần Chúa liền biến đi khuất mắt ông. Giêđêon nhận biết đó là Thiên thần Chúa, liền thưa rằng: "Ôi, lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con đã nhìn thấy Thiên thần Chúa nhãn tiền". Chúa phán cùng ông rằng: "Bình an cho ngươi. Ðừng sợ, ngươi không chết đâu". Giêđêon liền dựng một bàn thờ dâng kính Chúa, và gọi bàn thờ đó là "Bình an của Chúa".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 84, 9. 11-12. 13-14
Ðáp: Chúa phán bảo về sự bình an cho dân tộc Người (x. c. 9).
Xướng: 1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an, bình an cho dân tộc và các tín đồ của Chúa, và cho những ai thành tâm trở lại với Người. - Ðáp.
2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. - Ðáp.
3) Vâng Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất Nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 36a và 29b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin nghiêng lòng con theo lời Chúa răn bảo, và xin rộng tay ban luật pháp của Chúa cho con. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 19, 23-30
"Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo thật các con: Người giàu có thật khó mà vào Nước Trời. Thầy còn bảo các con rằng: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời". Các môn đệ nghe vậy thì bỡ ngỡ quá mà thưa rằng: "Vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu nhìn các ông mà phán rằng: "Ðối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được". Bấy giờ Phêrô thưa Người rằng: "Này đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?" Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Thầy bảo thật các con: Các con đã theo Thầy, thì trong ngày tái sinh, khi Con Người ngự trên toà vinh hiển, các con cũng sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và tất cả những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nhưng có nhiều kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Một tí ti bất khả lọt nhưng cũng bất khả thiếu
"Bấy giờ Phêrô thưa Người rằng: 'Này đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?' Chúa Giêsu bảo các ông rằng: 'Thầy bảo thật các con: Các con đã theo Thầy, thì trong ngày tái sinh, khi Con Người ngự trên toà vinh hiển, các con cũng sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và tất cả những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nhưng có nhiều kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết'".
Trước hết, thành phần "bỏ mọi sự mà theo Thày" - "sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel": Nghĩa là nhân loại sẽ được xét xử căn cứ vào chứng từ của thành phần theo Chúa, một chứng từ cho thấy "đức tin hoạt động qua đức ái" (Galata 5:6), một chứng từ nhờ đó họ có thể nhận biết Thiên Chúa mà được sống.
Đó là lý do trong cuộc chung thẩm, Vị Thẩm Phán Tối Cao đã phân loại chiên dê theo tiêu chuẩn "đức tin hoạt động qua đức ái" này, khi Người phán xét cả hai về đức bác ái theo bề ngoài nhưng thật ra phán xét đức tin của họ, ở chỗ dê không thấy Người nơi thành phần anh chị em hèn mọn nhất của Người nên không thương giúp bởi đó bị loại trừ, còn chiên dù không thấy vẫn ra tay bác ái cứu trợ nên được cứu độ (xem Mathêu 25:31-46).
Sau nữa, thành phần "bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy" - "sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời": Theo Phúc Âm Thánh Marco đoạn 10 câu 30 thì câu nói của Chúa Kitô đây còn được xác định rõ ràng "đời này" và "đời sau" nữa: "sẽ được gấp trăm" ngay "ở đời này" và "được sự sống trường sinh" "ở đời sau". Mà nếu thành phần môn đệ theo Chúa Kitô mà quả thực "được gấp trăm" ngay "ở đời này" thì chắc chắn họ sẽ "được sự sống trường sinh" "ở đời sau".
Đúng thế, ngay "ở đời này" thành phần môn đệ theo Chúa Kitô là thành phần "có tinh thần nghèo khó" nên không phải đã được "Nước Đức Chúa Trời làm của mình vậy" (Mathêu 5:3)hay sao, và họ cũng không phải là thành phần "hiền lành" nên đã "được đất làm của mình vậy" (Mathêu 5:5) hay sao, một thứ "đất" biểu hiệu cho thế gian hay nhân loại. Nghĩa là họ dám đánh đổi tất cả mọi sự họ có để tậu cho bằng được thửa ruộng thế gian là nơi kho tàng Chúa Kitô được chôn giấu (xem Mathêu 13:44). Như thế không phải là họ đã thực sự được "gấp trăm" ngay "ở đời này" hay sao, là được cả Chúa Kitô lẫn ơn cứu chuộc thế gian của Người?
Thật vậy, "đối với loài người thì không thể được,
nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được". Đối
với trường hợp của thành phần giầu có, theo tự nhiên, khó được rỗi,
nếu không muốn nói là bất khả, như lạc đà to lớn cồng kềnh không thể
chui qua lỗ kim nhỏ xíu, và ngược lại, thành phần bỏ hết mọi sự để
có thể theo Chúa, như các vị tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay, một
từ bỏ cũng là những gì bất khả theo bản năng tự nhiên vị kỷ chỉ muốn
hưởng thụ của mình. Bởi thế, Thiên Chúa bao giờ cũng lợi dụng những
gì con người bất xứng, bất lực và bất hạnh để tỏ mình ra cho họ, nhờ
đó họ từ từ nhận biết Ngài hơn, như trong trường hợp của dân Do Thái
trong Bài Đọc 1 được Sách Thủ Lãnh cho thấy Thiên Chúa lợi dụng
chính tình trạng dân Ngài bỏ Ngài để chứng thực Ngài là vị Thiên
Chúa chân thật duy nhất của họ, bằng việc Ngài tìm cách giải cứu họ,
qua một số nhân vật của họ, như chàng Giêđêon:
"Khi ấy, Giêđêon, con trai của ông, đang đập và rê lúa trong nhà ép nho để tránh mắt quân Mađian, thì Thiên thần Chúa hiện ra với ông và nói rằng: 'Hỡi người dũng sĩ, Chúa ở cùng ngươi'. Giêđêon thưa lại rằng: 'Thôi, xin Ngài, nếu Chúa ở cùng chúng tôi, tại sao chúng tôi phải chịu tất cả những sự này? Nào đâu những việc kỳ diệu của Chúa mà cha ông chúng tôi đã kể lại cho chúng tôi mà rằng: Chúa đã dẫn chúng ta ra khỏi Ai-cập? Nhưng nay Chúa lại bỏ rơi chúng tôi và trao chúng tôi vào tay quân Mađian'. Chúa nhìn ông mà phán rằng: 'Ngươi hãy mạnh mẽ tiến đi mà giải thoát Israel khỏi tay quân Mađian: chính Ta sai ngươi đó'. Ông thưa lại rằng: 'Thôi, xin Chúa, con dựa vào đâu mà giải thoát Israel? Ðây gia đình con là gia đình rốt hết trong chi tộc Manassê, và con là con út trong nhà cha con'. Chúa phán cùng ông rằng: 'Ta sẽ ở cùng ngươi: ngươi sẽ đánh ngã quân Mađian như đánh một người vậy'".
Thánh Vịnh 84 ở bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy những ai được Thiên Chúa ở cùng, như nhân vật Giêđêon trang Bài Đọc 1 hôm nay, thì luôn quan tâm đến Ngài (câu 1), nhờ đó xứng đáng được Ngài tỏ mình ra và sử dụng, như thể "lòng nhân hậu (của Chúa) và lòng trung thành (của con người) gặp gỡ nhau" (câu 2), và cũng nhờ đó, dân Chúa được giải cứu, theo đức công minh của Thiên Chúa, Đấng "công minh" thấu suốt tất cả mọi sự về thành phần dân được Ngài tuyển chọn, để tìm cách ban "ơn cứu độ" của Ngài cho họ, như thể "Ðức công minh sẽ đi trước ... và ơn cứu độ theo sau" vậy (câu 3), những câu Thánh Vịnh tuyệt vời diễn tả về Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất ở chỗ Ngài tỏ lòng nhân hậu xót thương:
1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an, bình an cho dân tộc và các tín đồ của Chúa, và cho những ai thành tâm trở lại với Người.
2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống.
3) Vâng Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất Nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài.
Ngày 22 tháng 8
Đức Ma-ri-a Nữ Vương
lễ nhớ bắt buộc
Nữ Vương thế giới và Nữ Vương hoà bình
Bài đọc 2 phụng vụ giờ kinh sách
Trích bài giảng của thánh A-mê-đê, giám mục Lô-dan.
Trước khi được cất lên trời, danh tuyệt diệu của Đức Ma-ri-a đã toả sáng trên toàn cõi đất và danh thơm lừng lẫy của Mẹ đã lan toả khắp nơi, trước cả khi vẻ huy hoàng lộng lẫy của Mẹ được nâng cao vượt các tầng trời. Bạn xem : điều đó thật là phải lẽ. Thật vậy, vì Mẹ đồng trinh và vì danh dự của người Con do Mẹ sinh ra, trước hết Mẹ phải cai trị ở dưới đất, rồi sau cùng đón nhận cõi trời vinh quang. Mẹ phải được đầy tràn ở dưới đất này, để rồi tiến vào trong sung mãn thánh thiện chốn trời cao. Và vì Mẹ đã được Thần Khí của Chúa đưa từ nhân đức này tới nhân đức khác, thì Mẹ cũng được đưa từ chốn rạng ngời dưới đất đến chốn rạng ngời trên trời.
Vậy tuy đang sống trong thân xác, Mẹ đã được thưởng thức trước những hoa quả đầu mùa của vương quốc mai sau : khi thì vươn lên tới Thiên Chúa nhờ sự hoàn thiện khôn thấu, lúc lại hạ cố đến với tha nhân nhờ đức bác ái khôn tả. Ở trên trời, Mẹ được các thiên sứ tới lui phục vụ, ở dưới đất, Mẹ được loài người hầu hạ kính tôn. Tổng lãnh Gáp-ri-en cùng với các thiên sứ đã cung phụng Mẹ. Còn ông Gio-an trinh khiết thì vui mừng vì Mẹ đồng trinh đã được trao phó cho mình dưới chân thập giá, ông cùng với các Tông Đồ chăm sóc Mẹ. Các thiên sứ hân hoan nhìn nhận Mẹ là nữ vương của mình, các Tông Đồ vui mừng nhìn nhận Mẹ là bà chúa của mình. Và tất cả đều đem lòng đạo đức và yêu mến mà vâng phục Mẹ.
Phần Mẹ, Mẹ đang ngự trên lâu đài cao chót vót của các nhân đức và được các ân huệ của Thiên Chúa bao la như biển cả. Mẹ trổi vượt hơn mọi người nhờ ân sủng dồi dào như vực thẳm, nhưng Mẹ lại tuôn đổ thật rộng rãi xuống trên đoàn dân đang tin tưởng và khao khát. Thật vậy, Mẹ ban sức khoẻ cho thân xác và thần dược cho linh hồn, Mẹ có khả năng giúp thân xác và linh hồn được trỗi dậy từ cõi chết. Có ai từ biệt Mẹ ra về mà vẫn còn đau yếu, buồn phiền và dốt nát không hiểu các mầu nhiệm thiên quốc bao giờ ? Có ai về tới nhà mà lại không hân hoan vui mừng, vì đã nhờ Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Chúa, mà được như lòng mong muốn ?
Mẹ là hiền thê đầy dẫy bao ân phúc cao cả, là Mẹ của Vị Hôn Phu độc nhất, Mẹ dịu dàng và rất đáng mến, vì đầy niềm hân hoan vui sướng. Mẹ như nguồn suối cho các thửa vườn thiêng liêng, như giếng đầy nước hằng sống và đem lại sức sống. Nước ấy xuất phát từ núi Li-băng của Thiên Chúa, chảy như thác lũ. Vì thế, Mẹ làm tuôn chảy những dòng sông hoà bình và những con suối ân sủng thiên quốc, từ núi Xi-on cho đến mọi nước chung quanh. Vì vậy, khi Đức Trinh Nữ trên mọi trinh nữ được Thiên Chúa và được Con của Người là Vua trên các vua dẫn vào thiên cung, trước các thiên sứ đang hân hoan, các tổng lãnh đang vui mừng và thiên cung đang reo hò ca ngợi, thì bấy giờ ứng nghiệm lời sấm đã được tác giả thánh vịnh thưa với Chúa : Bên hữu Ngài hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ô-phia lộng lẫy.
Lạy Chúa, Chúa đã đặt Thánh Mẫu của Đức Ki-tô Con Chúa làm Thánh Mẫu và Nữ Vương chúng con. Xin nhậm lời Đức Nữ Vương chuyển cầu mà cho chúng con đạt tới phúc vinh quang Chúa dành sẵn trên trời cho con cái Chúa. Chúng con cầu xin
Kitô Hữu Nhìn Lên Nữ Vương Maria
(Giáo lý Thánh Mẫu của ĐTC Gioan Phaolô II)
1.-
Lòng tôn sùng thịnh hành vốn kêu cầu Mẹ Maria như là một Vị Nữ
Vương. Công Đồng Chung Vaticanô II, sau khi nhắc lại Việc Đức Trinh
Nữ Mông Triệu “cả xác lẫn hồn vào vinh quang thiên quốc”, đã giải
thích rằng Mẹ “được Chúa tôn làm Nữ Vương trên tất cả mọi sự, để Mẹ
có thể hoàn toàn nên giống hơn Con Mẹ là Chúa các chúa (x Rev 19:16)
và là Đấng chiến thắng tội lỗi cùng sự chết” (Lumen Gentium, 59).
Thật vậy, bắt đầu từ thế kỷ thứ năm, hầu như trong cùng một giai
đoạn Công Đồng Chung Êphêsô công bố Mẹ là “Mẹ Thiên Chúa”, thì tước
hiệu Nữ Vương cũng đã được bắt đầu được gán cho Mẹ. Nhận biết hơn về
vai trò cao cả của Mẹ như thế, dân Kitô giáo muốn đặt Mẹ lên trên
tất cả mọi thụ tạo, vinh thăng vai trò và tầm quan trọng của Mẹ nơi
đời sống của hết mọi người cũng như của cả thế giới.
Thế nhưng, trong một khúc bài giảng được cho rằng của giáo phụ
Origen, cũng đã chất chứa lời dẫn giải này về những lời bà Elizabét
thốt lên trong biến cố Thăm Viếng: “Đáng lẽ chị phải đến thăm em, vì
em có phúc hơn mọi người nữ, em là Người Mẹ của Chúa chị, em là Vị
Tôn Nữ của chị” (Fragment, PG 13, 1902 D).
Bản văn chuyển một cách tự nhiên từ lời diễn tả “Người Mẹ của Chúa
chị” sang tước hiệu “Vị Tôn Nữ”, trước cả những gì Thánh Gioan
Đamascênô sau này nói khi thánh nhân gán cho Mẹ tước hiệu “Vương
Chủ”: “Khi Mẹ trở nên Mẹ của Đấng Hóa Công, Mẹ thực sự trở nên nữ
vương của tất cả mọi tạo vật” (De fide orthodaxa, 4, 14, PG 94,
1157).
2.- Vị Tiền Nhiệm đáng kính Piô XII của Tôi, trong bức Thông Điệp Ad
coeli Reginam, một văn kiện được bản văn của Hiến Chế Lumen Gentium
qui chiếu, xác định việc Mẹ cộng tác vào công cuộc Cứu Chuộc đã là
nền tảng cho vai trò nữ vương của Mẹ Maria, thêm vào vai trò mẫu
thân của Mẹ. Bức Thông Điệp đã lập lại bản văn phụng vụ: “Có Thánh
Maria, Nữ Vương thiên đàng và là Vị Vương Chủ thế giới, đau thương
đứng kề bên cây Thập Giá của Chúa Giêsu Kitô” (AAS 46 [1954] 634).
Như thế, bức Thông Điệp này đã nêu lên tính cách tương tự giữa Mẹ
Maria và Chúa Kitô, một tính cách tương tự giúp chúng ta hiểu được
tầm quan trọng nơi trạng thái trung thành của Đức Trinh Nữ. Chúa
Kitô là Vua không phải chỉ vì Người là Con Thiên Chúa, mà còn vì
Người là Đấng Cứu Chuộc; Mẹ Maria là Nữ Vương không phải chỉ vì Mẹ
là Mẹ Thiên Chúa, mà còn vì Mẹ đã cộng tác vào công cuộc cứu chuộc
loài người, với tư cách là tân Evà cùng với tân Adong.
Trong Phúc Âm Thánh Marcô, chúng ta đọc thấy rằng, vào ngày Thăng
Thiên, Chúa Giêsu “được đưa lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”
(16:19). Theo ngôn ngữ Thánh Kinh, “ngồi bên hữu Thiên Chúa” nghĩa
là chia sẻ quyền bính tối cao. Ngồi “bên hữu Cha”, Người thiết lập
vương quốc của Người, vương quốc của Thiên Chúa. Được đưa lên trời,
Mẹ Maria được liên kết với quyền năng của Con Mẹ, và được giành vào
việc phát triển Vương Quốc này, ở chỗ thông phần vào việc ban phát
ân sủng thần linh trên thế giới.
Nhìn vào tính cách tương tự giữa việc Chúa Giêsu Thăng Thiên và việc
Mẹ Maria Mông Triệu, chúng ta có thể kết luận rằng, Mẹ Maria, dựa
vào Chúa Kitô, là một Vị Nữ Vương nắm thượng quyền và thực hiện
thượng quyền do Con Mẹ ban Mẹ trên vũ trụ.
3.- Tước hiệu Nữ Vương dĩ nhiên không thay thế cho tước hiệu Làm Mẹ,
ở chỗ, vai trò làm nữ vương của Mẹ vốn là hệ quả của sứ vụ đặc biệt
làm mẹ, và chỉ để thể hiện quyền năng được ban cho Mẹ để Mẹ thi hành
sứ vụ ấy mà thôi.
Trích lại Trọng Sắc Ineffabilis Deus của Đức Piô IX, Đức Piô XII
nhấn mạnh đến chiều kích làm mẹ nơi vai trò nữ vương của Đức Trinh
Nữ: “Cảm thương chúng ta với lòng từ mẫu và quan tâm đến phần rỗi
của chúng ta, Mẹ vươn vòng tay săn sóc của Mẹ ra ôm ấp tất cả loài
người. Được Chúa cắt đặt làm Nữ Vương trời đất, được nâng lên trên
tất cả mọi ca đoàn thiên thần cũng như tất cả mọi hàng ngũ các thánh
trên trời, ngự bên hữu Người Con duy nhất của mình là Chúa Giêsu
Kitô, Mẹ chắc chắn chiếm được những gì Mẹ muốn dùng lời nguyện cầu
từ mẫu của Mẹ mà kêu xin; Mẹ chiếm được những gì Mẹ tìm kiếm và
không bị khước từ” (xem AAS 46 [1954] 636-637).
4.- Bởi thế, Kitô hữu hãy tin tưởng nhìn lên Nữ Vương Maria, và điều
này chẳng những không làm suy giảm mà thực sự làm tăng thêm việc
trao phó bản thân mình với tình con thảo của họ cho Mẹ, Đấng làm mẹ
theo cấp trật ân sủng.
Thật vậy, nỗi quan tâm của Nữ Vương Maria đối với loài người có thể
hoàn toàn tác hiệu chính là vì trạng thái vinh hiển của Người xuất
phát từ việc Mẹ Mông Triệu. Thánh Germanus I ở Contantinôpôli đã cho
thấy sự kiện này rất hay. Thánh nhân chủ trương rằng trạng thái này
bảo toàn mối liên hệ thân mật giữa Mẹ Maria với Con của Mẹ, và cho
phép Mẹ thực hiện việc Mẹ can thiệp hộ giúp chúng ta. Ngỏ lời cùng
Mẹ Maria, thánh nhân viết, Chúa Kitô muốn “có một kết nối giữa môi
miệng của Mẹ với lòng trí của Mẹ; bởi thế Người đồng ý với tất cả
mọi ước muốn Mẹ bày tỏ cùng Người, khi Mẹ chịu đựng vì con cái của
Mẹ, Người làm tất cả mọi sự Mẹ kêu xin Người bằng quyền năng thần
linh của Người” (Hom. 1 PG 98, 348).
5.- Người ta có thẻ kết luận rằng Việc Mông Triệu làm cho Mẹ Maria
chẳng những hoàn toàn hiệp thông với Chúa Kitô, mà còn với mỗi một
người trong chúng ta nữa, ở chỗ, Mẹ ở bên chúng ta, vì tình trạng
vinh hiển của Mẹ khiến cho Mẹ có thể theo chúng ta trong cuộc hành
trình trần thế hằng ngày của chúng ta. Như chúng ta cũng đọc thấy ở
Thánh Germanus: “Mẹ ở với chúng con một cách thiêng liêng, và việc
Mẹ hết lòng coi sóc chúng con cho thấy Mẹ hiệp thông đời sống với
chúng con” (Hom. 1, PG 98, 344).
Bởi vậy, thay vì tạo nên khoảng cách giữa Mẹ và chúng ta, tình trạng
vinh hiển của Mẹ Maria lại tạo nên một tình trạng liên tục gần gũi
và chăm sóc. Mẹ biết hết mọi sự xẩy ra trong đời sống của chúng ta,
và nâng đỡ chúng ta bằng tình yêu từ mẫu của Mẹ trong những cơn thử
thách cuộc đời của chúng ta.
Được đưa về trời vinh hiển, Mẹ Maria hoàn toàn hiến mình cho công
cuộc cứu độ, để thông truyền cho hết mọi con người sống động thứ
hạnh phúc Mẹ lãnh nhận. Mẹ là một Vị Nữ Vương ban phát tất cả những
gì Mẹ chiếm hưởng, trước hết, ở chỗ Mẹ tham dự vào cuộc sống và tình
yêu của Chúa Kitô.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ
Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ ngày 30/7/1997)
Vinh Quang Trên Thiên Đàng
(Trích Thần Đô Huyền Nhiệm, phần truyện hợp với đời sống thầm lặng của Mẹ, một đời sống làm mẫu gương của Dòng Carmêlô)
Linh hồn rất
thánh của Me. Maria đã hưởng phúc thiên đàng được ba ngày, Thiên
Chúa tỏ cho thần thánh biết quyết định hằng hữu của Ngài là phục
sinh cho Xác Thể đáng kính của Mẹ. Tới lúc đó, Chúa Giêsu từ trời,
đem theo Linh Hồn Mẹ chí ái Ngài xuống mồ Thánh của Mẹ với vô số sư
đoàn các thiên thần, các vị tổ phụ và các tiên tri. Đến mồ Mẹ, Chúa
phán với đoàn tháp tùng rằng: "Mẹ của Cha đã được đầu thai Vô Nhiễm,
đê? Cha mặc lấy Nhân Tính Cha từ nơi bản thể vô nhiễm của Mẹ. Thể
xác Cha là thể xác Mẹ hơn nữa, Mẹ còn đồng công vào hết mọi công
trình việc cứu chuộc của Cha. Cho nên Cha phải phục sinh cho Me.
Cha, như Cha đã sống lại, và phải phục sinh cho Mẹ vào cùng lúc Cha
đã sống lại, vì Cha muốn Mẹ nên tương tư. Cha trong mọi sự". Toàn
thể các Thánh đều ca tụng Chúa vì sự quyết định ấy, nhất là Adong
Eva, thánh ca? Giuse và hai thánh song thân của Me.
Tức thì Linh
Hồn Hiển Vinh của Mẹ vào lại Thân Xác Đồng Trinh của Mẹ trả lại sự
sống cho Thân Xác ấy, mà không hề động chạm gì đến tảng đá che mồ
hay đảo lộn những nếp áo và khăn phủ mặt. Không thể nào tả lại được
vẻ mỹ lệ và ánh sáng chói ngời trang sức cho Mẹ lúc ấy. Ta chỉ cần
nói rằng Chúa Giêsu muốn trả lại cho Mẹ tất cả những gì Ngài đã tiếp
nhận từ Mẹ lúc Nhập Thể đã đủ. Hôm đó là ngày Chúa Nhật, mười lăm
tháng tám, liền ngay sau nửa đêm. Xác Thánh Me. Maria ở trong mồ 30
giờ y như Xác Thánh Chúa Giêsu.
Lúc đó diễn
ra từ phần mộ của Mẹ về thiên đàng một cung nghinh trang trọng không
thể tả hết giữa thanh âm của một điệu nhạc say lòng. Các vị thánh và
các thiên thần vào thiên đàng vị nào theo địa vị ấy. Sau cùng là
Chúa Giêsu Kitô với Mẹ rất thánh Ngài ở bên hữu. Toàn thể thần thánh
đều quay về phía Mẹ để nhìn ngắm và chúc tụng Mẹ trong một nguồn
hoan lạc mới lạ, những khúc thánh ca mới và những lời ở trong chương
ba sách Diễm Ca. Khi Mẹ tới bê. Ngai Chúa Ba Ngôi, Chúa đã tiếp đón
Mẹ với một tiếp đón thỏa tình nhất. Chúa Cha phán với Mẹ: "Con rất
yêu dấu của Cha, Con hãy lên cao hơn trên tất cả mọi thụ tạo". - Và
Chúa Con thêm: "Me. Ạ, xin Mẹ nhận từ tay con phần thưởng Mẹ đáng
được". - Đến lượt Thánh Linh nói: "Bạn dấu yêu, hãy vào hưởng nguồn
vui vĩnh cửu xứng với tình trạng trinh trong của Bạn".
Me. Maria
chìm ngập trong đại dương vô cùng của Thần Tính Thiên Chúa. Khi Mẹ
đã được tôn lên Ngai Thần Linh, Chúa tuyên dương cho cả triều đình
thiên đàng đang tràn ngập tán thưởng, biết những đặc ân đã thông ban
cho Mẹ qua sư. Mẹ thông phần vào Uy Linh của Ngài. Chúa Cha phán:
"Maria là đức nữ tỳ của chúng ta, từng làm nên những khoái lạc đầu
tiên của chúng ta, và đã không bao giờ bỏ mất tước hiệu ấy. Người có
toàn quyền trên cả vương quốc chúng ta. Người được nhìn nhận và tôn
phong là chủ mẫu chính thức, vừa là Nữ Vương độc nhật". - Chúa Con
phán: "Hết mọi thụ tạo Cha đã sáng tạo và cứu chuộc đều thuộc quyền
Mẹ chân thực của Cha: Mẹ là Nữ Vương chính thức cai trị tất cả những
gì Cha là vua cai trị". - Sau cùng Chúa Thánh Linh phán: "Hỡi bạn,
với danh nghĩ là Hiền Thê của Ta, danh nghĩa mà bạn đã tận trung ứng
đáp, bạn được lĩnh vương miện Nữ Vương cho đến muốn đời.
Ba Ngôi
Thiên Chúa đặt trên đầu Mẹ một vương miện vinh quang cực kỳ lộng
lẫy, rạng chiếu luồng sáng tuyệt kỳ, sẽ không bao giờ có nữa. Cũng
lúc ấy, từ ngai Chúa phán ra lời này: "Hỡi người chí ái của chúng
ta, Vương Quốc Của Chúng Ta là Vương Quốc Của Người. Người là Chu?
Mẫu là Nữ Vương hết mọi thụ tạo. Từng được ân sủng nâng cao lên trên
mọi loài, những người đã tự nhận mình hèn kém, hạ mình xuống dưới
hết mọi loài. Giờ đây, người hãy lên chiê"m địa vị tuyệt cao xứng
với người. Từ Ngai cao cả này, Người hãy thống trị toàn thể thụ tạo:
hỏa ngục, trần gian và thiên đàng. Ma qủy, loài người, và thiên thần
đều phải tùng phục Người. Chúng Ta trao ủy cho người quyền bính Thần
Linh của Chúng Ta. Người sẽ nâng đỡ, ủi an, bảo trợ và làm Mẹ của
hết mọi người công chính cũng như là Mẹ của cả giáo hội chiến đấụ để
thi hành sứ mệnh đó, một lần nữa chúng ta tôn nhiệm Người làm đấng
bảo quản, đấng phân phát mọi kho tàng của Chúng Ta. Những gì thuộc
quyền Chúng Ta cũng thuộc quyền Người, như Người đã luôn luôn là của
Chúng Ta.
|
Để thể hiện những đặc ân trao ban cho Đức Nữ Vương vũ trụ, Thiên Chúa ra lệnh cho toàn thể thần thánh trên trời phải tùng phục Mẹ, nhìn nhận Mẹ là chủ mẫu mình. Toàn thể thần thánh đều tôn phục Mẹ: những vị được ở thiên đàng cả hồn xác đều phủ phục trước mặt Mẹ và đều suy phục Mẹ bằng những việc tôn kính bề ngoài. Đấy chính là phần thưởng cho đức khiêm nhượng Mẹ đã tỏ ra để tôn kính các thánh khi Mẹ còn tại thế. Việc tôn phong Mẹ là Nữ Vương Thiên Đàng này đã trào đổ một nguôn vui phụ trội cho toàn thể thần thánh. Những vị được hoan hỉ thêm nhiều hơn cả là thánh ca? Giuse, thánh Gioan Kim, Thánh Nữ Anna rồi những thánh thân nhân và các thiên thần hầu cận Me.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 9, 6-15
"Ðang khi Chúa ngự trị giữa chúng tôi, các ngươi đã nói: "Xin cho một vua cai trị chúng tôi".
Trích sách Thủ Lãnh.
Khi ấy, mọi người Sikem và tất cả các gia tộc thành Mêllô tụ họp lại, rồi kéo nhau đến gần cây sồi ở Sikem, và tôn Abimêlech lên làm vua.
Khi ông Giotham nghe tin ấy, liền đi lên đứng trên đỉnh núi Garizim, lớn tiếng kêu lên rằng: "Hỡi người Sikem, hãy nghe ta, để Thiên Chúa cũng nghe các ngươi. Các cây cối đều đến xức dầu phong một vị vua cai trị chúng, và nói cùng cây ôliu rằng: "Hãy đi cai trị chúng tôi". Cây ôliu đáp lại rằng: "Chớ thì ta có thể bỏ việc sản xuất dầu mà các thần minh và loài người quen dùng, để được lên chức cai trị cây cối sao?" Các cây cối nói cùng cây vả rằng: "Hãy đến cầm quyền cai trị chúng tôi". Cây vả trả lời rằng: "Chớ thì ta có thể bỏ sự ngọt ngào của ta, bỏ hoa trái ngon lành của ta, để được lên chức cai trị các cây cối khác sao?" Các cây cối nói với cây nho rằng: "Hãy đến cai trị chúng tôi". Cây nho đáp rằng: "Chớ thì ta có thể bỏ việc cung cấp rượu, là thứ làm cho Thiên Chúa và loài người được vui mừng, để được lên chức cai trị các cây cối khác sao?" Tất cả những cây cối nói với bụi gai rằng: "Hãy đến cai trị chúng tôi". Bụi gai trả lời rằng: "Nếu các ngươi thật lòng đặt ta làm vua các ngươi, thì các ngươi hãy đến nghỉ dưới bóng ta. Nhưng nếu các ngươi không muốn thì sẽ có lửa từ bụi gai phát ra thiêu huỷ các cây hương nam núi Liban".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 20, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng (c. 2a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng; do ơn Chúa phù trợ, vua xiết bao hân hoan! Chúa đã ban cho sự lòng vua ao ước, và điều môi miệng vua xin, Chúa chẳng chối từ.- Ðáp.
2) Chúa đã tiên liệu cho vua được phước lộc may mắn, đã đội triều thiên vàng ròng trên đầu vua. Nhờ Chúa giúp mà vua được vinh quang cao cả, Chúa khoác lên người vua, oai nghiêm với huy hoàng. - Ðáp.
3) Vua xin Chúa cho sống lâu, thì Chúa đã ban cho một chuỗi ngày dài tới muôn muôn thuở. Chúa đã khiến vua nên mục tiêu chúc phúc tới muôn đời, Chúa đã cho vua được hân hoan mừng rỡ trước thiên nhan. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 135
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 20, 1-16a
"Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông.
"Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng". Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.
"Ðến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: "Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Họ thưa rằng: "Vì không có ai thuê chúng tôi". Ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta".
"Ðến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: "Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết". Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Ðang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?" Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: "Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?"
"Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Ân Sủng - Một đảo lộn Thần Linh
Lời Chúa cho Thứ Tư Tuần XX Thường Niên
hôm nay được tiếp tục trước hết với Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu với
16 câu đầu ở đoạn 20 về dụ ngôn thuê thợ làm vườn nho và trả
công đồng đều cho họ bao gồm cả người làm nhiều giờ nhất, từ "giờ
thứ ba" trong ngày đến người ít giờ
nhất, từ "giờ thứ 11"
trong ngày, tức cách nhau 8 tiếng đồng hồ.
1) Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng; do ơn Chúa phù trợ, vua xiết bao hân hoan! Chúa đã ban cho sự lòng vua ao ước, và điều môi miệng vua xin, Chúa chẳng chối từ.
2) Chúa đã tiên liệu cho vua được phước lộc may mắn, đã đội triều thiên vàng ròng trên đầu vua. Nhờ Chúa giúp mà vua được vinh quang cao cả, Chúa khoác lên người vua, oai nghiêm với huy hoàng.
3) Vua xin Chúa cho sống lâu, thì Chúa đã ban cho một chuỗi ngày dài tới muôn muôn thuở. Chúa đã khiến vua nên mục tiêu chúc phúc tới muôn đời, Chúa đã cho vua được hân hoan mừng rỡ trước thiên nhan.
Thánh Rosa Lima 23/8
Ngày 24 tháng 8
THÁNH BA-TÔ-LÔ-MÊ-Ô, TÔNG ĐỒ
lễ kính
Bài Ðọc I: Kh 21, 9b-14
"Trên mười hai móng có khắc tên mười hai tông đồ của Con Chiên".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Thiên Thần nói với tôi rằng: "Ngươi hãy đến, ta sẽ chỉ cho ngươi xem phu nhân, bạn của Con Chiên".
Thiên Thần đem tôi lên một núi cao chót vót khi tôi ngất trí, và chỉ cho tôi thấy thành thánh Giêrusalem từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Ánh sáng của nó toả ra như đá quý, giống như ngọc thạch, óng ánh tựa pha lê. Thành có tường luỹ cao lớn, trổ mười hai cổng, trên các cổng có mười hai thiên thần, và có khắc tên mười hai chi họ con cái Israel. Phía đông có ba cổng, phía bắc có ba cổng, phía nam có ba cổng, và phía tây có ba cổng. Tường thành xây trên mười hai móng có khắc tên mười hai tông đồ của Con Chiên. Còn đền thờ, tôi không thấy có trong thành, vì Thiên Chúa toàn năng và Con Chiên là đền thờ của thành. Thành không cần mặt trời mặt trăng chiếu soi: vì đã có vinh quang Thiên Chúa chiếu sáng nó và đèn của nó chính là Con Chiên.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 10-11. 12-13ab. 17-18
Ðáp: Lạy Chúa, các bạn hữu Chúa nhận biết vinh quang nước Chúa (c. 12a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. - Ðáp.
2) Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Chúa là nước vĩnh cửu muôn đời; chủ quyền Chúa tồn tại qua muôn thế hệ. - Ðáp.
3) Chúa công minh trong mọi đường lối của Người, và yêu thương mọi kỳ công Người tác tạo. Chúa ở gần những kẻ kêu cầu Người, những kẻ kêu cầu Người với lòng thành thật. - Ðáp.
Alleluia: Ga 1, 49b
Alleluia, alleluia! - Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 1, 45-51
"Ðây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Philipphê gặp Nathanael và nói với ông: "Ðấng đã được Môsê ghi trong Luật và các tiên tri nói đến, chúng tôi đã gặp rồi: đó là Giêsu con ông Giuse, người thành Nadarét". Nathanael đáp: "Bởi Nadarét nào có cái chi hay?" Philipphê nói: "Hãy đến mà xem".
Chúa Giêsu thấy Nathanael đi tới Mình, thì nói về ông: "Ðây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối". Nathanael đáp: "Sao Ngài biết tôi?" Chúa Giêsu trả lời rằng: "Trước khi Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi". Nathanael thưa lại rằng: "Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel". Chúa Giêsu trả lời: "Vì Ta đã nói với ngươi rằng: Ta đã thấy ngươi dưới cây vả, nên ngươi tin, ngươi sẽ thấy việc cao trọng hơn thế nữa". Và Người nói với ông: "Thật, Ta nói thật với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các Thiên Thần Chúa lên xuống trên Con Người".
Ðó là lời Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một lòng tin vững mạnh, để chúng con thật tình gắn bó với Đức Ki-tô, Con Một Chúa, như thánh Ba-tô-lô-mê-ô tông đồ. Xin Chúa cũng nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con sống thế nào, để muôn dân nhận biết Hội Thánh chính là bí tích cứu độ. Chúng con cầu xin
Thứ Năm
(Nếu ngày Thứ Năm trong tuần XX Thường Niên này không bị Lễ Kính Thánh Batholomeo át đi như năm 2023 này)
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 11, 29-39a
"Hễ người nào ra khỏi cửa nhà trước hết, tôi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu".
Trích sách Thủ Lãnh.
Trong những ngày ấy, Thần Trí của Chúa ngự trên ông Giéphtê, ông liền đi quanh đất Galaad, Manassê, (rồi) Maspha (của) Galaad, và từ đó tiến sang đánh con cái Ammon. Ông thề hứa với Chúa rằng: "Nếu Chúa trao con cái Ammon vào tay con, thì khi con từ đất con cái Ammon trở về bình an, hễ người nào ra khỏi nhà con và đón tiếp con trước hết, con sẽ dâng nó cho Chúa làm của lễ toàn thiêu".
Ông Giéphtê liền trẩy sang đánh con cái Ammon, Chúa đã trao chúng trong tay ông. Ông đã đánh phá hai mươi thành trong một trận ác liệt, từ Arôê đến cửa thành Mennith, và đến Abel Kêramim. Con cái Ammon bị con cái Israel hạ nhục. Khi ông Giéphtê trở về nhà ở Maspha, người con gái duy nhất ra với hội hát trống phách đón rước ông, vì ông chẳng có người con nào khác. Khi thấy đứa con gái, ông liền xé áo mình ra mà kêu lên rằng: "Con ơi, con làm khổ cha, con cũng khổ nữa, vì cha đã khấn hứa cùng Chúa, và cha không thể làm gì khác được". Người con gái đáp: "Cha ơi, nếu cha đã khấn hứa cùng Chúa, thì cha cứ làm cho con mọi điều cha đã thề hứa, vì Chúa ban cho cha được trả thù và thắng kẻ thù của cha". Cô lại nói với cha rằng: "Con chỉ xin cha điều này: xin cha cho con hai tháng, để con cùng các bạn con đi quanh núi đồi mà than khóc tuổi thanh xuân của con". Người cha đáp: "Con cứ đi". Và ông đã cho cô đi hai tháng. Khi cô ra đi làm một với bạn nghĩa thiết của cô, thì cô than khóc tuổi thanh xuân của cô trên núi đồi. Sau hai tháng, cô trở về nhà cha cô, và ông đã thi hành như ông đã thề hứa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 39, 5. 7-8a. 8b-9. 10
Ðáp: Lạy Chúa, này con xin đến, để thực thi ý Chúa (c. 8a & 9a).
Xướng: 1) Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa, không theo kẻ thờ thần tượng, không hướng về chuyện gian tà. - Ðáp.
2) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi hy lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Ðáp.
3) Như trong Quyển Vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.
4) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong Ðại Hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.
Alleluia: Tv 147, 12a và 15a
Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai Lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 22, 1-14
"Các ngươi gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới". Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: "Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới". Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.
Ðoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!" Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Ân Sủng - Một thông ban nhưng không... cần đáp ứng tương xứng
Bài
Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm Tuần XX Thường Niên, không còn liên tục với các
bài Phúc Âm trong tuần như các ngày trước, mà là một bài Phúc Âm bắt đầu
từ đầu Đoạn 22,
hoàn toàn bỏ Đoạn
21 và 17
câu của Đoạn 20. Tất
nhiên, việc Giáo Hội cố ý chọn đọc các bài Phúc Âm hằng ngày trong tuần
hay Chúa Nhật này phải liên tục với nhau về nội dung, cho dù có
những đoạn và những câu Phúc Âm bị cắt bỏ như vậy, vì có thể những
chỗ ấy chỉ là những biến cố không hợp vào thời điểm phụng vụ này.
Chẳng hạn như biến cố Chúa Giêsu vào Thánh Giêrusalem và thanh tẩy đền thờ rồi nguyền rủa cây vả và vấn đề thẩm quyền của Chúa Giêsu (xem Mathêu 21:1-27), những gì mà hầu hết đã được Giáo Hội cho đọc theo Phúc Âm của Thánh ký Marco ở các ngày Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần VIII Thường Niên rồi, không cần đọc lại hay lập lại nữa.
Nếu bài Phúc Âm hôm qua về dụ ngôn người chủ vườn nho thuê thợ làm vườn nho và trả công cho họ bằng nhau liên quan cả đến ân sủng của Thiên Chúa thì bài Phúc Âm hôm nay về dụ ngôn một "vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử" lại càng liên quan đến ân sủng của Thiên Chúa.
Thật vậy, nếu 4 nhóm thợ được chủ vườn nho thuê làm vườn nho cho ông để được trả công tương xứng, một khoản tiền công chẳng những công bằng về lý đối với 3 nhóm thợ đầu mà còn về tình với nhóm thợ cuối cùng, thì thành phần được mời đến dự tiệc cưới trong bài Phúc Âm hôm nay đây hoàn toàn liên quan đến tình nghĩa của Thiên Chúa, tức là họ chỉ việc đến hoan hưởng mà chẳng phải vất vả làm gì hết, một đặc ân bao gồm chẳng những thành phần được ấn định ám chỉ dân Do Thái mà còn tất cả mọi người không trừ ai ám chỉ chung nhân loại hay dân ngoại nữa:
Thành phần đã được ấn định: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: 'Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới'. Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi".
Thành phần không được mời trước cũng được tham dự: "Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: 'Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới'. Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc".
Căn cứ vào dụ ngôn về việc mở tiệc cưới và mời khách đến dự hôm nay, chúng ta thấy nếu tiệc cưới đây ám chỉ mầu nhiệm nhập thể của Chúa Kitô, Đấng là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), Đấng đã kết hiệp thiên tính và nhân tính lại với nhau nơi ngôi vị thần linh của mình, thì thành phần được mời đến tham dự tiệc cưới này, tức thành phần được tham phần vào chính mầu nhiệm nhập thể này tất nhiên phải bao gồm cả dân Do Thái là giòng dõi Chúa Giêsu được sinh ra về thể lý, lẫn dân ngoại vì Người mặc lấy nhân tính của cả loài người của họ và như họ.
Chính vì dân Do Thái đã được
mời trước, ở chỗ đã được Thiên Chúa tuyển chọn và lập giao ước với qua
các tổ phụ của họ, mà họ không chấp nhận Chúa Kitô đã đến trong xác
thịt, lại còn giết Người nữa, nên họ đúng là thành phần đã từ chối không
đến dự tiệc cưới vậy.
Tuy nhiên, để xứng đáng với đặc ân tự nhiên được tham dự tiệc cưới cứu độ này, một ân sủng được ban cho chẳng những dân Do Thái mà còn cả dân ngoại, chẳng những ban cho những người tốt lành mà còn cả những người không tốt lành: "bất cứ ai", "bất luận tốt xấu", thành phần tham dự một khi đã được mời và đã đến tham dự thì cần phải tỏ ra xứng đáng nữa, bằng không sẽ bị loại trừ:
"Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: 'Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?' Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: 'Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!' Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".
Như bài Phúc Âm về việc trả lương cho thợ làm vườn nho, mới nghe qua thì có vẻ bất công thế nào thì việc ông vua đối xử với thành phần được ông lùa vào dự tiệc cưới của con ông đã bị ông trừng phạt vì không mặc áo cưới cũng thế. Ở chỗ, nếu những người này biết trước là cần phải mặc áo cưới thì có lẽ họ đã không vào, bởi bấy giờ họ không kịp sửa soạn áo cưới hay không có tiền mua áo cưới v.v.
Thế nhưng, áo cưới đây là gì, nếu không phải, trước hết là chính việc chấp nhận Lời Nhập Thể, Đấng Thiên Sai, Đấng "đã đến trong xác thịt" (xem 2Gioan 7), "đã mặc lấy thân phận tôi đòi, được sinh ra như loài người" (Philiphê 2:7), "bởi một người nữ" (Galata 4:4): "Người đã ở trong thế gian, và nhờ Người mà thế gian đã được tạo thành, nhưng thế gian đã không nhận biết Người là ai. Người đã đến với những ai thuộc về Người nhưng họ đã không chấp nhận Người. Bất cứ ai chấp nhận Người thì Người đã ban cho họ được quyền trở nên con cái của Thiên Chúa" (Gioan 1:10-12).
Chưa hết, áo cưới đây, nếu áp dụng vào thành phần dân ngoại Kitô hữu thì có thể còn được hiểu là lòng biết ơn, do đó không thể tỏ ra thờ ơ lãnh đạm với ơn cứu độ được ban cho mình và chính mình đã lãnh nhận khi chịu Phép Rửa, thờ ơ lãnh đạm đến độ khi được chất vấn tại sao không mặc áo cưới cũng không lên tiếng trả lời. Và một khi thờ ơ lãnh đạm với ơn cứu chuộc thì Kitô hữu sẽ khinh thường và không sống xứng đáng với ơn cứu độ, như thể không mặc áo cưới vậy.
Sau hết, và bởi thế, áo cưới đây còn được hiểu là chính phẩm vị làm con Thiên Chúa của Kitô hữu - không mặc áo cưới nghĩa là không sống với phẩm vị con Thiên Chúa của mình. Nhất là bằng những tội trọng, như thể họ đã cố tình lột bỏ chiếc áo rửa tội của mình đi. Đó là lý do khi người con hoang đàng phung phá trở về, nó đã được cha của nó phục hồi lại cho nó tất cả những gì của một người con, chẳng những thân phận làm con (qua hình ảnh mang giầy, chứ không phải đi chân không như thân phận của một tên nô lệ) và quyền làm con (qua hình ảnh đeo nhẫn), mà còn chính phẩm vị làm con (qua hình ảnh mặc lại cho nó áo đẹp nhất).
Số phận của con người được mời vào dự tiệc cưới mà không chịu mặc áo cưới nên đã bị trừng phạt tương xứng ở trong bài Phúc Âm hôm nay đã chứng thực cho thấy tác động đáp ứng ân sủng thần linh nhưng không của Thiên Chúa là những gì bất khả thiếu. Việc đáp ứng ân sủng thần linh đã được Sách Thủ Lãnh thuật lại ở Bài Đọc về nhân vật Giéphtê hôm nay, một nhân vật, sau khi thắng trận do Chúa ban, đã giữ đúng lời thế hứa của mình với Ngài, bất chấp điều ấy như thế nào, nghĩa là hoàn toàn bất lợi cho người con gái của mình, liên quan đến thân phận son sẻ suốt đời của nó, nhưng chính nó cũng cùng với cha của nó đáp ứng ân sủng thần linh một cách can đảm như sau:
"Trong những ngày ấy, Thần Trí của Chúa ngự trên ông Giéphtê, ông liền đi quanh đất Galaad, Manassê, (rồi) Maspha (của) Galaad, và từ đó tiến sang đánh con cái Ammon. Ông thề hứa với Chúa rằng: 'Nếu Chúa trao con cái Ammon vào tay con, thì khi con từ đất con cái Ammon trở về bình an, hễ người nào ra khỏi nhà con và đón tiếp con trước hết, con sẽ dâng nó cho Chúa làm của lễ toàn thiêu'. Ông Giéphtê liền trẩy sang đánh con cái Ammon, Chúa đã trao chúng trong tay ông. Ông đã đánh phá hai mươi thành trong một trận ác liệt, từ Arôê đến cửa thành Mennith, và đến Abel Kêramim. Con cái Ammon bị con cái Israel hạ nhục. Khi ông Giéphtê trở về nhà ở Maspha, người con gái duy nhất ra với hội hát trống phách đón rước ông, vì ông chẳng có người con nào khác. Khi thấy đứa con gái, ông liền xé áo mình ra mà kêu lên rằng: 'Con ơi, con làm khổ cha, con cũng khổ nữa, vì cha đã khấn hứa cùng Chúa, và cha không thể làm gì khác được'. Người con gái đáp: 'Cha ơi, nếu cha đã khấn hứa cùng Chúa, thì cha cứ làm cho con mọi điều cha đã thề hứa, vì Chúa ban cho cha được trả thù và thắng kẻ thù của cha'".
Đúng thế, không việc gì đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng nhận biết Ngài bằng việc đáp ứng tác động thần linh của Ngài, nghĩa là luôn tuân theo Thánh Ý tối hậu của Ngài, để Ngài hoàn toàn có thể tỏ mình ra cho họ và qua họ cho ngưòi khác nữa. Thánh Vịnh 39 ở bài Đáp Ca hôm nay đã chất chứa niềm xác tín chân thật này như sau:
1) Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa, không theo kẻ thờ thần tượng, không hướng về chuyện gian tà.
2) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi hy lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến".
3) Như trong Quyển Vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con.
4) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong Ðại Hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi.
Thứ Sáu
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) R 1, 1. 3-6. 14b-16. 22
"Bà Nôêmi cùng nàng dâu người Moab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem".
Khởi đầu sách truyện Bà Ruth.
Khi các quan án cầm quyền, thì dưới thời một quan án kia, trong xứ xảy ra nạn đói kém. Có một người thành Bêlem, thuộc chi tộc Giuđa, đem vợ và hai con sang cư ngụ trong miền Môab.
Và Elimêlech, chồng bà Nôêmi, qua đời, để bà lại với hai con. Hai con bà cưới hai thiếu nữ Môab làm vợ: một tên là Orpha, còn người kia tên là Ruth. Họ chung sống ở đó được mười năm, thì cả hai người chồng là Mahalon và Kêlion cũng qua đời, còn lại mình bà Nôêmi không chồng con. Bấy giờ bà Nôêmi cùng với hai nàng dâu định bỏ đất Môab trở về quê hương, vì nghe nói Chúa thương dân Người, và ban cho họ lương thực.
Bà Orpha hôn mẹ chồng và ở lại đó. Còn bà Ruth thì đi theo mẹ chồng. Bà Nôêmi bảo bà Ruth rằng: "Kìa, chị dâu con đã ở lại với dân mình và các thần minh của họ, con hãy ở lại với chị con". Bà Ruth thưa lại rằng: "Xin mẹ đừng bắt con bỏ mẹ mà ở lại, vì mẹ đi đâu thì con cũng đi theo đó. Dân tộc của mẹ là dân tộc của con, và Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con".
Vậy bà Nôêmi cùng nàng dâu người Môab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem, vào đầu mùa gặt lúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 145, 5-6. 7. 8-9a. 9bc-10
Ðáp: Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa (c. 2a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Phúc thay người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ, người đặt hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa của mình: Người là Ðấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và muôn vật chúng đang chứa đựng. - Ðáp.
2) Người là Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. - Ðáp.
3) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân, Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. - Ðáp.
4) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường lối đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác. - Ðáp.
Alleluia: Mt 11, 25
Alleluia, alleluia! - Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 22, 34-40
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại. Ðoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?" Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Tình Yêu Bất Diệt - Vinh Hiển Phục Sinh
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XX Thường Niên, cũng không liên tục với bài Phúc Âm hôm qua, cách bài Phúc Âm hôm qua 16 câu, trong đó có hai vấn đề được đặt ra cho Chúa Giêsu, trước hết là vấn đề được nhóm biệt phái cố tình gài bẫy Chúa Giêsu về việc nộp thuế cho Cesar (xem Mathêu 22:22:15-22), và sau đó là vấn đề được nhóm Saducê đặt ra về niềm tin phục sinh (xem Mathêu 22:23-33), cả hai vấn đề đã được Phúc Âm Thánh ký Marcô thuật lại ở Thứ Ba và Thứ Tư Tuần IX Thường Niên trước đây.
Tuy nhiên, bài Phúc Âm hôm nay, bài Phúc Âm trước hết về điều răn trọng nhất, dù đã được Giáo Hội chọn đọc theo Thánh ký Marcô cho Thứ Năm Tuần IX Thường Niên, Giáo Hội vẫn chọn đọc lại một lần nữa, vì giới răn trọng nhất trong bài Phúc Âm hôm nay cũng liên hệ với 2 bài Phúc Âm hôm qua và hôm kia trong tuần này.
Ở chỗ, nếu con người sống trọn giới răn trọng nhất là mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi", thì các nhóm thợ làm vườn nho lâu giờ đã không tỏ thái độ bất mãn với chủ và ghen tị với nhóm thợ cuối giờ, và thành phần bất ngờ được mời đến dự tiệc cưới trong hoàng cung sẽ mặc áo cưới xứng đáng với đặc ân diễm phúc khôn lường của mình.
Và vấn đề giới răn trọng nhất này còn liên quan cả đến mầu nhiệm phục sinh nữa. Ở chỗ, tất cả mọi sự trên trần gian này sẽ qua đi, kể cả đức tin, ngoại trừ duy có đức mến. Vì "Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16). Bởi vậy, nếu hai yếu tố làm nên bản tính của con người là linh hồn và thân xác, nhưng linh hồn chi phối thân xác và thân xác lệ thuộc linh hồn thế nào, thì một khi thân xác của con người trở thành khí cụ của lòng mến, tác hành theo lòng mến, theo tình yêu Thiên Chúa, theo đức ái trọn hảo, thì thân xác đó đã chứng tỏ nó mang sẵn mầm sống vĩnh cửu, bất diệt, và trọn hảo nhờ linh hồn thiêng liêng bất tử và trọn lành của nó, và nhờ quyền năng của Thánh Thần, nó sẽ trở nên như thân xác phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô (xem Philiphê 3:21).
Một thanh sắt cho dù có bị rỉ xét đến đâu chăng nữa, một khi được nung bằng lửa thì nó cũng trở nên sáng rực như lửa thế nào thì thân xác của con người cũng thế. Cho dù thân xác đó khi còn sống có dâm ô nhục dục đàng điếm chăng nữa, nhưng một khi tâm hồn của thân xác đó biết ăn năn thống hối với tất cả lòng mến, thì thân xác đó sẽ trở nên tinh tuyền. Bởi xác của con người ngày sau sống lại thì trở nên thiêng liêng như thiên thần, như Chúa Giêsu khẳng định (xem Mathêu 22:30).
Trong các thánh nữ đồng trinh, ngoài Mẹ Maria là đệ nhất trinh nữ và là trinh nữ trên hết, một trinh nữ sinh con duy nhất trên trần gian này, thì vị thánh nữ đồng trinh thứ nhất trong hàng ngũ các thánh trinh nữ là Thánh Catarina Tử Đạo ở Alexandria Ai Cập, sau đó đến Thánh Nữ Mai Đệ Liên đàng điếm và Thánh Nữ Magarita Cortone cũng thuộc về loại ưu hạng trong số các thánh trinh nữ, như chính Chúa Giêsu đã tỏ cho chị thánh Magarita Cortone biết, và dấu chứng thực đó là thân xác sống dâm dục 9 năm trời với một người tình và có một đứa con hoang (ngoại hôn) với chàng của chị chẳng những không bị hư hoại mà vẫn còn nguyên.
Thật vậy, vào
ngày lễ của Thánh Catherine thành Alexandria Tử Đạo (25/11 theo lịch
phụng vụ cũ), khi Thánh Nữ Margarita đang
ở bàn thờ để rước lễ thì nghe thấy Chúa Giêsu nói cùng mình rằng:
“Con
Cha ơi, chỗ của con sẽ ở giữa thần Seraphim cùng với các trinh nữ bừng
cháy tình yêu thần linh”.
Nghe thấy thế Thánh nữ sửng sốt đáp lại rằng:
“Lạy
Chúa, làm sao điều ấy có thể xẩy ra được với một con người nhớp nhúa tội
lỗi chứ?”
Chị đã nghe thấy câu giải đáp của Chúa như sau:
“Những
đau khổ vô vàn của con sẽ thanh tẩy tâm hồn con khỏi tất cả mọi thứ thu
hút phạm tội, và trong nỗi đớn đau và ăn năn thống hối của mình, con sẽ
phục hồi sự tinh tuyền đồng trinh của con”.
Thánh nữ lại càng cảm thấy sợ hãi trước câu trả lời của Chúa và đã than
lên rằng:
“Ôi
Chúa Kitô là Sư Phụ của con, phải chăng Thánh Mai Đệ Liên thuộc về thành
phần các trinh nữ trong vinh quang thiên đình?” Chúa liền tiết lộ cho
chị biết rằng: “Ngoại trừ Mẹ Maria và Catherine Tử Đạo, không ai hơn Mai
Đệ Liên trong hàng ngũ trinh nữ”.
(A Tuscan Petinent: The Life and Legend of Saint Margaret of Cortona, by
Father Cuthbert, Burns Oates and Washbourne, Ltd, 1900, pages 160-161).
Giới răn trọng đại nhất là giới răn mến
Chúa yêu người được Chúa Giêsu tóm gọn và khẳng định trong bài Phúc Âm
hôm nay được tỏ hiện nơi một con người dân ngoại, được Sách Bà Ruth
thuật lại ở Bài Đọc 1 hôm nay, một nữ nhân vật vì trung thành với người
mẹ chồng của mình nên cũng tôn thờ Thiên Chúa của bên chồng mình nữa, dù
chồng mình không còn sống, và dù có được mẹ chồng khuyên giục trở về quê
quán của mình, nhờ đó có thể lập gia đình với người khác:
"Elimêlech, chồng bà Nôêmi, qua đời, để bà lại với hai con. Hai con bà cưới hai thiếu nữ Môab làm vợ: một tên là Orpha, còn người kia tên là Ruth. Họ chung sống ở đó được mười năm, thì cả hai người chồng là Mahalon và Kêlion cũng qua đời, còn lại mình bà Nôêmi không chồng con. Bấy giờ bà Nôêmi cùng với hai nàng dâu định bỏ đất Môab trở về quê hương, vì nghe nói Chúa thương dân Người, và ban cho họ lương thực. Bà Orpha hôn mẹ chồng và ở lại đó. Còn bà Ruth thì đi theo mẹ chồng. Bà Nôêmi bảo bà Ruth rằng: 'Kìa, chị dâu con đã ở lại với dân mình và các thần minh của họ, con hãy ở lại với chị con'. Bà Ruth thưa lại rằng: 'Xin mẹ đừng bắt con bỏ mẹ mà ở lại, vì mẹ đi đâu thì con cũng đi theo đó. Dân tộc của mẹ là dân tộc của con, và Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con'. Vậy bà Nôêmi cùng nàng dâu người Môab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem, vào đầu mùa gặt lúa".
Những con người nhận biết Thiên Chúa là những con người có phúc, dù cuộc đời họ có khốn khổ bần cùng chăng nữa, vì Thiên Chúa muốn để cho họ như vậy để họ càng trở nên đáng thương hơn, càng tin tưởng cậy trông vào Ngài hơn, và nhờ đó Ngài càng tỏ mình ra cho họ hơn, với tư cách là vị chủ tể của cõi lòng họ và cuộc đời của họ như Thánh Vịnh 145 ở bài Đáp Ca hôm nay cảm nhận:
1) Phúc thay người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ, người đặt hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa của mình: Người là Ðấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và muôn vật chúng đang chứa đựng.
2) Người là Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội.
3) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân, Thiên Chúa che chở những khách kiều cư.
4) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường lối đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác.
Ngày 25/8
Thánh Louis Vua Nước Pháp và Thánh Giuse Calasanzio, linh mục
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã trả lời những người hỏi chị về con đường nhỏ thiêng liêng là con đường nào. Thánh nhân không ngần ngại trả lời :”…Đó là con đường thơ ấu thiêng liêng, đó là con đường của niềm tín thác và sống hoàn toàn tín thác. Con muốn chỉ cho họ những cách thế nho nhỏ rất thành công đối với con. Con sẽ bảo họ rằng ở trần gian này chỉ có một việc phải làm : hãy tặng Chúa Giêsu những bông hoa của các việc hy sinh nho nhỏ, hãy làm Chúa vui thích bằng những sự vuốt ve. Chính đó là cách con đã làm Chúa vui thích, và nhờ đó mà con luôn được Chúa đón nhận “. Các thánh là những con người đã biết tín thác nơi Chúa, đã biết trông cậy ở nơi Ngài thật nhiều, nên các Ngài nhận được nhiều. Thánh Luy, Vua nước Pháp cũng không nằm ngoài thông lệ ấy.
Khi đăng quang làm vua nước Pháp, Louis thề hứa sẽ sống như một người được Thiên Chúa xức dầu, đối xử với người dân như một hiền phụ và là tướng công của Vua Hòa Bình. Dĩ nhiên, các vua khác cũng phải thi hành như vậy. Nhưng Thánh Louis khác biệt ở chỗ ngài thực sự nhìn đến bổn phận làm vua dưới con mắt đức tin. Sau những xáo trộn của hai triều đại trước, ngài đã đem lại hoà bình và công bằng trong nước.
Vua Louis sinh ngày 25 tháng 4 năm 1214 tại Poissy, nước Pháp, con của vua Louis VIII và hoàng hậu Blanche ở Castile. Nhờ sống trong một gia đình đạo đức, cho dù Cha Mẹ của Ngài là Vua, là Hoàng Hậu nước Pháp. Sống trong cảnh giầu sang, phú quí và có quyền hành. Nhưng chính đời sống của Mẹ Ngài đã gây ấn tượng lớn lao trong đời sống của Luy. Mẹ Ngài đã uốn nắn, dậy bảo Luy bằng đời sống thánh thiện của bà. Thánh nhân đã được Mẹ gieo vào tâm hồn những mầm mống đạo đức, thánh thiện suốt cả đời niên thiếu. Đến lúc trưởng thành, vào đời, thánh nhân luôn luôn nhắc đi nhắc lại lời Mẹ nhắn nhủ, bảo ban :” Mẹ thà thấy con chết trước mặt Mẹ, còn hơn thấy con Mẹ phạm tội trọng”.
Ngài được tôn vương lúc 12 tuổi, khi cha ngài từ trần. Mẹ ngài cầm quyền trong thời gian khi ngài còn nhỏ. Năm 19 tuổi, thánh nhân kết hôn với Marguerite, con gái quận công miền Provence. Ðó là một hôn nhân hạnh phúc, bất kể tính tình kiêu căng và náo động của bà hoàng hậu. Hai ông bà sinh hạ cả thảy 11 người con. Với cương vị Vua lãnh đạo, trị vì nước Pháp, Luy luôn tỏ ra công chính, liêm khiết, ngay thẳng, hết mực thương dân chúng, đặt quyền lợi của Tổ Quốc và Giáo Hội lên trên những lợi ích cá nhân và danh vọng riêng tư. Thánh nhân dù là Vua nhưng đời sống lại không khác gì một thầy Dòng khổ tu : sáng tham dự thánh lễ, đọc kinh nguyện, xưng tội và đánh tội mỗi tuần. Đời sống của Vua Luy thật sự là một đời sống tín thác, trông cậy và yêu mến Chúa. Để thể hiện lòng yêu mến, thánh nhân đã hiểu rõ lời Chúa trong Tin Mừng của thánh Matthêu 25,31-46, Ngài đã tìm dịp để giúp đỡ những kẻ nghèo, thăm viếng và nâng đỡ những người đau yếu tật nguyền.
Khi 30 tuổi, vua Louis “vác thập giá”. Thánh nhân đã lập Đạo Binh Thánh Giá đi chiến đấu với quân phá đạo ở Giêrusalem. Ðạo quân của ngài chiếm Damietta ở sông Nile nhưng sau đó không lâu, vì bệnh kiết lị và thiếu tiếp viện, họ bị bao vây và bị bắt. Vua Louis và đạo quân được trả tự do bằng cách giao lại thành phố Damietta và nộp một số tiền chuộc. Ngài ở lại Syria trong bốn năm. Ngài đã xây một đền thờ sau khi chinh chiến trở về để tôn kính mão gai Chúa Giêsu do Vua Constantin trao lại cho Ngài.
Mọi người thán phục ngài với tư cách của một thập tự quân, nhưng có lẽ công trạng lớn lao hơn của ngài là những lưu tâm về sự công bằng trong nền hành chính. Ngài đặt ra các quy tắc cho các viên chức chính quyền, mà sau đó trở thành những chuỗi luật cải tổ. Ngài thay thế hình thức xét xử đầy bạo lực bằng việc điều tra các nhân chứng, và nhờ ngài thúc giục, việc ghi chép lại các chi tiết trong toà được bắt đầu.
Vua Louis luôn luôn tôn trọng quyền bính của đức giáo hoàng, nhưng ngài bảo vệ quyền lợi của hoàng gia chống với các giáo hoàng và từ chối không công nhận bản án của Ðức Innôxentê IV chống với hoàng đế Frederick II.
Vua Louis là người tận tụy cho dân chúng, ngài thành lập các bệnh viện, thăm viếng người đau yếu, và cũng giống như quan thầy của ngài là Thánh Phanxicô, ngài chăm sóc ngay cả những người bị bệnh cùi. Bởi sự thánh thiện và cá tính của ngài, vua Louis đã đoàn kết nước Pháp thời bấy giờ, với đủ loại người — tướng công, dân thành thị, nông dân, linh mục và các hiệp sĩ. Trong nhiều năm, quốc gia này sống trong an bình.
Vào năm 1267, lo lắng vì những cuộc tấn công mới của người Hồi Giáo vào Syria, vua Louis dẫn đầu cuộc thập tự chinh khác, khi ấy ngài đã 41 tuổi. Năm 1270, thánh nhân còn thiết lập một Đạo Binh Thánh Giá mới để chống lại quân Hồi Giáo đang hung hăng tàn sát đạo. Tuy nhiên một cơn dịch nặng nề đã khiến Đạo Binh của Ngài tan rã và thánh Luy đã lâm trọng bệnh, trở về nhà Cha vào ngày 25 tháng 8 năm 1270.Chỉ trong vòng một tháng, đạo quân bị tiêu hao nhiều vì bệnh tật, và chính vua Louis đã từ trần ngày 25 tháng 8 năm 1270 tại Tunis, Algeria khi 44 tuổi.; thánh tích của ngài để tại nhà Saint Denis, Paris, nước Pháp; bị tiêu hủy năm 1793 trong thời cách mạng Pháp. Hai mươi bảy năm sau, ngài được Đức Giáo Hoàng Bonifacius VIII phong thánh năm 1297.
Thánh Louis là người có ý chí mạnh mẽ và kiên quyết. Lời của ngài thực sự đáng tin, và sự can trường của ngài thật đáng kể. Ðiều đặc biệt nhất là ngài tôn trọng bất cứ ai mà ngài gặp, nhất là những “người bé mọn của Thiên Chúa.” Ðể chăm sóc dân chúng, ngài xây dựng nhà thờ, thư viện, nhà thương và cô nhi viện. Ngài cũng đối xử với các hoàng tử một cách thành thật và công bằng. Ngài hy vọng cũng sẽ được đối xử tương tự bởi Vua các vua, là Người mà ngài đã dâng hiến cuộc đời, gia đình và quê hương.
Chúa mời gọi mọi người nên thánh. Đường nên thánh không chỉ dành riêng cho giới tu sĩ được đặc tuyển, nhưng con đường nên thánh dành cho mọi người. Từ thứ dân đến Vua Chúa thế trần đều được Chúa mời gọi sống thánh thiện và trở nên thánh. Thánh Luy IX, Vua nước Pháp đã cậy trông nơi Chúa hết lòng, nên Ngài cũng được Chúa cho lãnh nhận thật nhiều những ơn huệ cao quí. Thánh nhân đã lãnh nhận ơn cứu độ của Chúa: Hoàng Hậu và các con của Ngài quả thực là những tặng phẩm cao quí nhất Thiên Chúa tặng ban cho Ngài để Ngài làm vinh danh Chúa và cứu vớt các linh hồn.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, tổng hợp từ website dòng tên và cộng đoàn dũng lạc
Thứ Bảy
Bài Ðọc I: (Năm I) R 2, 1-3. 8-11; 4, 13-17
"Chúa không nỡ để cho bà thiếu kẻ nối dòng. Ðó là thân phụ của Isai, cha của Ðavít".
Trích sách truyện Bà Ruth.
Bấy giờ ông Êlimêlech, chồng bà Nôêmi có một người họ hàng, là người quyền thế và giàu có, tên là Booz. Bà Ruth, người Môab, thưa với mẹ chồng rằng: "Nếu mẹ cho phép, con xin ra đồng mót lúa mà các thợ gặt bỏ sót, nơi nào mà chủ ruộng nhân từ vui lòng cho con mót". Bà mẹ trả lời rằng: "Hỡi con, con cứ đi". Nàng liền đi mót lúa đàng sau các thợ gặt. Bất ngờ chủ ruộng ấy tên là Booz, người có họ với Êlimêlech.
Ông Booz bảo bà Ruth rằng: "Hỡi con, hãy nghe đây, con đừng đi mót lúa ở ruộng khác, đừng rời khỏi nơi này: nhưng hãy đi theo các tớ gái của ta, chúng nó gặt ở đâu, con cứ đi theo đó; vì ta bảo các đầy tớ ta đừng ai làm phiền con. Cả khi con khát nước, cũng cứ đến các vò nước và uống nước mà các đầy tớ ta uống". Bà sấp mình xuống đất, lạy ông ấy mà nói rằng: "Bởi đâu tôi được ơn trước mặt ông, và ông đoái thương tôi là người nữ ngoại bang?" Ông trả lời rằng: "Ta đã nghe đồn mọi sự con đã làm đối với mẹ chồng, sau khi chồng con qua đời, con đã lìa bỏ cha mẹ quê hương và đến cùng dân tộc mà trước đây con không hề biết".
Vậy ông Booz cưới bà Ruth làm vợ. Ông ăn ở với bà, và Chúa ban cho bà có thai, bà sinh được một con trai. Các phụ nữ nói cùng bà Nôêmi rằng: "Chúc tụng Chúa là Ðấng không nỡ để cho gia đình bà thiếu kẻ nối dòng! Và nguyện danh Chúa được ca tụng khắp Israel! Cầu chúc bà có người an ủi tâm hồn và phụng dưỡng tuổi già; vì người đó sẽ sinh ra do người con dâu yêu mến bà, và người con dâu đó đáng quý hơn bảy người con trai". Bà Nôêmi ẵm con trẻ vào lòng, và nuôi nấng nó như người vú. Các phụ nữ láng giềng đến mừng bà mà rằng: "Bà Nôêmi đã được một cháu trai". Họ đặt tên cho con trẻ là Obed: đó là thân phụ của Isai cha của Ðavít.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 127, 1-2. 3. 4-5
Ðáp: Ðó là ơn phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Chúa (c. 4).
Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Ðáp.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. - Ðáp.
3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn. - Ðáp.
Alleluia: x. Cv 16, 14b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 23, 1-12
"Họ nói mà không làm".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta: còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "Thầy". Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là "Thầy", vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là "cha", vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là "người chỉ đạo": vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
"thày", "cha" và "xếp" - không hưởng thụ nhưng phục vụ
Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XX Thường Niên hôm nay cách bài Phúc Âm hôm qua 5 câu, 41-46, những câu cuối của Đoạn 22,
những câu Phúc Âm về vấn đề Chúa Giêsu đặt ra cho thành phần
biệt phái khiến "không ai dám hỏi Người một điều gì nữa từ đó
trở đi" (Mathêu 22:46), đó là vấn đề nếu Đấng Kitô Thiên Sai
là con của Vua Đavít thì tại sao chính vua lại gọi Người là Chúa.
Phải,
Giáo Hội đã không chọn đọc bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu về
vấn đề ấy, vì vấn đề này đã được Giáo Hội chọn đọc cho ngày Thứ Sáu Tuần IX Thường Niên theo
Phúc Âm của Thánh ký Marcô rồi. Bài
Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc hôm nay liên quan đến thành phần
luật sĩ và biệt phái, thành phần bị Người thậm tệ quở trách và
vạch trần bộ mặt giả hình của họ, như chúng ta đã thấy 1 chút
trong bài Phúc Âm của Thánh ký Marcô ở Thứ Bảy Tuần IX Thường
Niên, và sẽ thấy tất
cả ở trong các bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho 3
ngày đầu của tuần tới, tuần cuối cùng theo Phúc Âm của Thánh ký
Mathêu cho Phụng Vụ Lời Chúa ngày thường trong tuần từ
Tuần X Thường Niên.
Đúng thế, ngay từ bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã nghiêm thẳng
vạch trần chân tướng của hai thành phần luật sĩ và biệt phái đầy
kiêu hãnh và ham danh trong
dân này:
"Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì
lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho
thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang
những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm
hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ
gọi là 'rabbi'".
Tuy hai thành phần luật sĩ và biệt phái vốn được coi là thày dạy
trong dân này có những cử chỉ và hành động đầy gương mù gương
xấu phản tác dụng bất khả chấp như vậy, nhưng "Đức Giêsu (vẫn) nói
với dân chúng và các môn đệ Người rằng: 'Các kinh sư và các
người Pharisiêu ngồi trên toà ông Moisen mà giảng dạy. Vậy, tất
cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ
làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm'".
Thế nhưng,
trên thực tế rất khó thực hành theo bản tính tự nhiên của loài
người. Chúng ta hay có khuynh hướng đồng hóa tội nhân với tội
lỗi hay với gương mù gương xấu của họ. Ở chỗ, chúng ta chẳng
những tỏ ra ghê tởm việc làm xấu xa hay tội lỗi của họ mà còn
ghê tởm và khinh bỉ chính con người
của họ nữa. Có những lúc hay nhiều lúc chúng
ta thường tấn
công họ bằng những lời nói nhục mạ họ, (thậm chí công
khai qua phương tiện truyền thông: báo chí, email, internet,
truyền thanh, truyền hình, thơ nặc danh, hay ngay cả trên tòa
giảng v.v.), hơn
là tế
nhị và nhẹ nhàng khôn khéo sửa lỗi cho họ để họ dễ
cảm nhận bản thân hèn yếu lỗi lầm của mình mà hoán
cải trở về cùng Chúa theo tinh thần và đường lối được Chúa
Giêsu huấn dạy trong bài
Phúc Âm Thứ Tư tuần trước.
Chúng
ta thường đối xử với anh chị em lầm lỗi của chúng ta như thể chúng ta là con người
toàn hảo, không bao giờ sai lỗi, động một tí
là ném đá nhau, thậm chí như thể là quan án của họ, có quyền tối
thượng trong việc thưởng phạt nhau, trong khi chúng ta chưa thấu suốt được thâm tâm của nhau
như Thiên Chúa là Đấng duy nhất có quyền phán quyết mọi
người. Quả thực Chúa Giêsu nói về chúng ta quá đúng
khi Người vừa khiển trách vừa nghiêm trọng cảnh
giác chúng ta rằng: "Đồ giả hình! trước hết ngươi hãy
lấy khỏi mắt của mình cái xà đi đã rồi ngươi mới thấy được một
cách rõ ràng mà lấy đi cái rằm trong con mắt của anh chị em của
ngươi" (Mathêu 7:5).
Tuy nhiên, không phải đối xử một cách cảm thông với những người anh
chị em lỗi lầm của mình đến độ không còn biết phân biệt đâu là
phải là trái nữa. Ở chỗ, thương tội nhân nhưng không chấp nhận
tội lỗi của họ. Bởi thế, cho dù ở ngay đầu bài Phúc Âm Chúa
Giêsu khuyên hãy tôn trọng quyền giáo huấn của thành phần luật
sĩ và biệt phái, cuối bài Phúc Âm Người vẫn khuyên dạy dân
chúng và các môn đệ của Người "đừng có làm theo những việc của họ", mà hãy
sống ngược lại như sau:
"Ông Booz bảo bà Ruth rằng: 'Hỡi con, hãy nghe đây, con đừng đi mót lúa ở ruộng khác, đừng rời khỏi nơi này: nhưng hãy đi theo các tớ gái của ta, chúng nó gặt ở đâu, con cứ đi theo đó; vì ta bảo các đầy tớ ta đừng ai làm phiền con. Cả khi con khát nước, cũng cứ đến các vò nước và uống nước mà các đầy tớ ta uống'. Bà sấp mình xuống đất, lạy ông ấy mà nói rằng: 'Bởi đâu tôi được ơn trước mặt ông, và ông đoái thương tôi là người nữ ngoại bang?' Ông trả lời rằng: 'Ta đã nghe đồn mọi sự con đã làm đối với mẹ chồng, sau khi chồng con qua đời, con đã lìa bỏ cha mẹ quê hương và đến cùng dân tộc mà trước đây con không hề biết'".
Đúng thế, việc làm đầu là phục vụ của nhân vật Booz, vì đúng ý Chúa và đẹp lòng Chúa, nên đã trổ sinh hoa trái tốt đẹp, ở chỗ "Ông Booz cưới bà Ruth làm vợ. Ông ăn ở với bà, và Chúa ban cho bà có thai, bà sinh được một con trai... Bà Nôêmi ẵm con trẻ vào lòng, và nuôi nấng nó như người vú. Các phụ nữ láng giềng đến mừng bà mà rằng: 'Bà Nôêmi đã được một cháu trai'. Họ đặt tên cho con trẻ là Obed: đó là thân phụ của Isai cha của Ðavít". Đó là lý do Thánh Vịnh 127 ở bài Đáp Ca hôm nay mới xướng lên một tâm tình ca ngợi người biết kính sợ Chúa như sau:
1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn.
3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn.