SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014
2015 - 2018 - 2021
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 5, 1-7
"Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Israel".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Tôi sẽ ca tặng người yêu bài hát của cô bác tôi về vườn nho.
Người tôi yêu có một vườn nho trên đồi xinh tươi. Người rào giậu, nhặt đá, trồng cây chọn lọc, xây tháp giữa vườn, lập máy ép trong vườn, và trông mong nó sinh quả nho, nhưng nó lại sinh toàn nho dại.
Vậy giờ đây, hỡi dân cư Giêrusalem và người Giuđa, hãy luận xét giữa ta và vườn nho ta. Nào còn việc gì phải làm cho vườn nho ta mà ta đã không làm? Sao ta trông mong nó sinh quả nho, mà nó lại sinh quả nho dại!
Giờ đây ta tỏ bày cho các ngươi biết ta sẽ làm gì đối với vườn nho ta: Ta sẽ phá hàng rào, để nó bị tàn phá, sẽ phá tường để nó phải bị giầy đạp. Ta sẽ bỏ nó hoang vu, không cắt tỉa, không vun xới; gai góc sẽ mọc lên, và ta sẽ khiến mây không mưa xuống trên nó. Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Israel, và người Giuđa là chồi cây Chúa vui thích. Ta trông mong nó thực hành điều chính trực, nhưng đây toàn sự gian ác. Ta trông mong nó thực hành đức công bình, nhưng đây toàn là tiếng kêu oan.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 79, 9 và 12. 13-14. 15-16. 19-20
Ðáp: Vườn nho của Chúa là nhà Israel (c. Is 5, 7a).
Xướng: 1) Từ Ai-cập Chúa đã mang về một gốc nho. Chúa đã đuổi chư dân đi để ương trồng nó. Nó vươn ngành ra cho tới nơi biển cả, vươn chồi non cho tới chỗ đại giang. - Ðáp.
2) Tại sao Ngài phá vỡ hàng rào, để bao khách qua đường đều lảy hái nó, để lợn rừng xông ra tàn phá, và muông thú ngoài đồng dùng nó làm cỏ nuôi thân? - Ðáp.
3) Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại; từ trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành nho mà Ngài đã củng cố cho mình. - Ðáp.
4) Chúng con sẽ không còn rời xa Chúa nữa. Chúa cho chúng con được sống, và chúng con ca tụng danh Ngài. Lạy Chúa thiên binh, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Pl 4, 6-9
"Thiên Chúa bình an sẽ ở cùng anh em".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô.
Vả lại, hỡi anh em, những gì là chân thật, trong sạch, công chính, là thánh thiện, đáng yêu chuộng, danh thơm tiếng tốt, là nhân đức, là luật pháp đáng khen, thì anh em hãy tưởng nghĩ những sự ấy. Những điều anh em đã học biết, đã lãnh nhận, đã nghe và đã thấy nơi tôi, anh em hãy đem những điều đó ra thực hành, thì Thiên Chúa bình an sẽ ở cùng anh em.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 21, 33-43
"Ông sẽ cho người khác thuê vườn nho".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông hãy nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh, đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa. Ðến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi. Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: "Ðứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó". Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết. Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào?" Các ông trả lời, "Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi".
Chúa Giêsu phán: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh: "Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc. Ðó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta!" Bởi vậy, Tôi bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Thiên Chúa dại mà khôn - con người khôn mà dại
Nếu đọc bài Phúc Âm của Chúa Nhật XXV và XXVI Thường Niên Năm A chúng ta còn thấy Thiên Chúa còn có lý hay chí lý, ở chỗ trả công cho thợ thuê làm vườn nho chẳng những theo công bằng mà còn theo lòng quảng đại của mình, và ở chỗ những ai tội lỗi ăn năn trở lại đáng được thương xót hơn những kẻ tự cho mình là công chính, thì đọc bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVII Thường Niên Năm A hôm nay chúng ta thấy ông chủ vườn nho, (vẫn cứ vườn nho ở cả 3 bài Phúc Âm cho 3 Chúa Nhật liền: XXV, XXVI và XXVII, rồi cũng cùng một thành phần được Chúa Giêsu nói với là "các trưởng tế và các kỳ lão trong dân"), hình như "bất thường" làm sao rồi ấy.
Đúng thế, theo tự nhiên, ai trong chúng ta biết là nguy hiểm mà còn dám xông vào làm, nhào vào chỗ chết hay chăng, nếu không phải là liều lĩnh, mà nếu đã biết chắc rằng thế nào cũng thất bại và bị hại mà còn cứ nhất định liều mạng cho đến cùng thì thật là khùng điên chứ không phải là khờ khạo dại dột nữa. Không phải hay sao trong trường hợp của "ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho". Ở chỗ nào?
Ở chỗ, ông đã "sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi", và sau hai phái đoàn đầy tớ của ông (ám chỉ các vị tiên tri trong Cựu Ước) được ông sai đến đều bị "những người làm vườn nho bắt: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác", ông lại càng như điên lên, bất chấp nguy hiểm, bất chấp của quí nhất của mình là chính đứa con duy nhất của mình, (ám chỉ Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô), cứ sai đến cho bọn làm vườn nho hung dữ này (ám chỉ thành phần "các trưởng tế và các kỳ lão trong dân" thuộc Hội Đồng Đầu Mục Do Thái) ăn tươi nuốt sống, chẳng khác gì như "Thiên Chúa đã không dung tha cho Con Một của Ngài, một đã phó nộp Người vì tất cả chúng ta" (Roma 8:32).
Tuy nhiên, ở đây và chính ở đây chúng ta mới thấy được Lòng Thương Xót Chúa là gì và ra sao! Lòng Thương Xót Chúa ở chỗ Ngài đã bất chấp tất cả sự dữ để có thể biến sự dữ thành sự lành, ở chỗ, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định ở cuối bài Phúc Âm hôm nay: "Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc. Ðó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta!" Nghĩa là chính bọn thợ làm vườn nho hung ác này đã không ngờ rơi vào bàn tay quan phòng thần linh của Thiên Chúa, Đấng hoàn toàn không hề đụng đến tự do của họ, không hề ngăn cản tự do của họ, hoàn toàn để họ có cơ hội để thực hiện ý nghĩ khôn ngoan nhất của họ: "Ðứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó".
Thế mà Đấng làm chủ lịch sử loài người như Ngài vẫn thực hiện được dự án thần linh cứu độ vô cùng khôn ngoan và toàn thiện của Ngài nơi Con của Ngài là Lời Nhập Thể, Đấng đã chẳng những hoàn tất sứ vụ Thiên Sai của Người đối với dân Do Thái theo huyết nhục trần gian của Người, mà còn, đối với toàn thể loài người tội lỗi, hiện thực vai trò Cứu Thế của Người theo nhân tính Người mặc lấy, đúng như lời Ngài đã tự hứa với hai nguyên tổ ngay sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15).
Thật vậy, nếu "vườn nho của Chúa là nhà Israel", đúng như câu họa của bài Đáp Ca hôm nay, thì quả thật Thiên Chúa đã quá ư là chăm sóc cho dân Do Thái được Ngài nhưng không tuyển chọn qua Tổ Phụ Abraham của họ. Đến độ, như Ngài đã đặt vấn đề trong Bài Đọc một hôm nay qua miệng của tiên tri Isaia rằng: "Nào còn việc gì phải làm cho vườn nho ta mà ta đã không làm?" Nào là "rào giậu, nhặt đá, trồng cây chọn lọc, xây tháp giữa vườn, lập máy ép trong vườn", để làm gì, nếu không phải để "trông mong nó sinh quả nho", "nhưng nó lại sinh toàn nho dại", đó là những tội ngoại tình (bỏ vị Thiên Chúa chân thật của mình mà đi) tôn thờ các ngẫu tượng do họ tạo ra (điển hình là bò vàng trong sa mạc) và tà thần của dân ngoại (như thời Vua Solomon chiều theo 700 thê và 300 thiếp của vua).
Chính trong tình trạng phải hứng chịu hậu quả do chính mình gây ra như thế, đến độ họ dám trêu ngươi chọc giận Thiên Chúa khiến Ngài phải ra tay, như Ngài đã phán trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Ta sẽ phá hàng rào, để nó bị tàn phá, sẽ phá tường để nó phải bị giầy đạp. Ta sẽ bỏ nó hoang vu, không cắt tỉa, không vun xới; gai góc sẽ mọc lên, và ta sẽ khiến mây không mưa xuống trên nó", để nhờ đó giúp cho họ nghĩ lại mà trở về với Ngài, như tâm tình của chính Thánh Vịnh 79 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Từ Ai-cập Chúa đã mang về một gốc nho. Chúa đã đuổi chư dân đi để ương trồng nó. Nó vươn ngành ra cho tới nơi biển cả, vươn chồi non cho tới chỗ đại giang.
2) Tại sao Ngài phá vỡ hàng rào, để bao khách qua đường đều lảy hái nó, để lợn rừng xông ra tàn phá, và muông thú ngoài đồng dùng nó làm cỏ nuôi thân?
3) Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại; từ trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành nho mà Ngài đã củng cố cho mình.
4) Chúng con sẽ không còn rời xa Chúa nữa. Chúa cho chúng con được sống, và chúng con ca tụng danh Ngài. Lạy Chúa thiên binh, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống.
Theo Bài Phúc Âm hôm nay Thiên Chúa là chủ vườn nho "rào dậu chung quanh (ám chỉ các lề luật của Ngài), đào hầm ép rượu (ám chỉ thử thách đức tin Ngài gửi đến) và xây tháp canh (ám chỉ Đền Thờ là nơi Chúa ngự giữa dân Ngài), đoạn ông cho tá điền thuê (ám chỉ thành phần lãnh đạo dân Chúa nói chung), rồi đi phương xa (ám chỉ tin tưởng vào thành phần tá điền được Ngài chọn lựa và ủy thác cho nhiệm vụ canh tác vườn nho dân Ngài)".
Thế nhưng, lòng tin tưởng của chủ vườn nho vào đám tá điền là thành phần "các trưởng tế và các kỳ lão" được Chúa Giêsu đang nói tới và nhắm tới đây đã bị phản bội bởi thái độ lộng hành phản loạn theo lòng tham lam của họ: "Ðứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó" mà họ đã "bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết". Đúng như những gì đã xẩy ra với chính bản thân Con Thiên Chúa làm người sau này, khi Người bị thuộc hạ của Hội Đồng Đầu Mục Do Thái sai đến bắt Người từ Vườn Cây Dầu để giải ra khỏi khu vườn này đến cho các vị, để bị các vị lên án tử cho Người và dùng tay dân ngoại Roma để đóng đanh Người vào thập tự giá trên Đồi Canvê:
Hành động tìm bắt và sát hại Người Con duy nhất của ông chủ vườn nho là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ chỉ vì lòng tham của họ muốn "chiếm lấy gia tài của đứa con thừa tự", ở chỗ Hội Đồng Đầu Mục Do Thái bấy giờ, qua thượng tế Caipha, đã nhân danh Thiên Chúa để khủng bố Con của Ngài: "Nhân danh Thiên Chúa Ta truyền cho ngươi phải nói ngươi có phải nói cho chúng ta biết: ngươi có phải là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa không?" (Mathêu 26:63).
Quả đã hoàn toàn ứng nghiệm đúng như lời Chúa Giêsu đã báo trước cho họ là "Tôi ra đi, quí vị sẽ tìm Tôi nhưng quí vị sẽ chết trong tội lỗi của quí vị. Nơi Tôi đi quí vị không thể nào đến được (Chúa có ý nói họ sẽ không thể nào hiểu được, không thể nào chấp nhận Đấng Thiên Sai cứu được người khác mà không thể tự cứu lấy bản thân mình). Quí vị sẽ chết trong tội lỗi của mình nếu quí vị không tin vào Tôi" (Gioan 8:21,24).
"Ðức Giêsu trả lời: 'Chính ngài nói đó. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến'. Bấy giờ vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: 'Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Ðấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?' Họ liền đáp: 'Hắn đáng chết!'" (Mathêu 26:64-66)
Họ có ngờ đâu "chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc", ở chỗ, chính biến cố Người bị họ sát hại vì Thánh Danh Thiên Chúa, bởi họ cho rằng họ không giết một "Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), mà họ chỉ giết một con người thuần túy mà dám cả gan "phạm thượng": "Ngài chỉ là một con người lại cho mình ngang hàng với Thiên Chúa" (Gioan 10:33).
Tất cả Lịch Sử Cứu Độ nơi Dân Do Thái nhờ đó đã đạt tới tột đỉnh nơi Chúa Kitô Vượt Qua vào "thời điểm viên trọn" (Galata 4:4) của Người, thời điểm Người thiết lập vương quốc yêu thương và sự sống của Người sau khi Người sống lại từ trong cõi chết để tiêu diệt tội lỗi và sự chết, một vương quốc mà Người đã tiên báo ở cuối bài Phúc Âm hôm nay là "Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái", đó là thành phần dân ngoại làm nên Giáo Hội được Người thiết lập và "ở cùng cho đến tận thế" (Mathêu 28:20), thành phần được Vị Tông Đồ Dân Ngoại trong Bài Đọc 2 hôm nay khuyên dạy giáo đoàn Philiphê sống xứng đáng với Nước Thiên Chúa đã được trao cho họ để trổ sinh hoa trái: "Hỡi anh em, những gì là chân thật, trong sạch, công chính, là thánh thiện, đáng yêu chuộng, danh thơm tiếng tốt, là nhân đức, là luật pháp đáng khen, thì anh em hãy tưởng nghĩ những sự ấy".
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Gn 1, 1 - 2, 1. 11
"Ông Giona chỗi dậy lánh xa mặt Chúa".
Khởi đầu sách Tiên tri Giona.
Có lời phán cùng Giona, con trai ông Amathi, rằng: "Ngươi hãy chỗi dậy đi sang Ninivê, một thành rộng lớn, và giảng tại đó, vì tội ác của nó thấu đến Ta".
Giona liền chỗi dậy để trốn sang Tharsê lánh xa mặt Chúa; ông đi xuống Gioppê, gặp tàu đi sang Tharsê, ông liền mua vé, xuống tàu đi với hành khách sang Tharsê, lánh xa mặt Chúa.
Nhưng Chúa khiến trận cuồng phong thổi trên biển và cơn bão táp dữ dội nổi lên, khiến tàu lâm nguy sắp chìm. Các thuỷ thủ lo sợ, hành khách cầu khẩn cùng thần minh của mình. Người ta vứt đồ vật trên tàu xuống biển cho nhẹ bớt, lúc đó ông Giona xuống lòng tàu nằm ngủ mê mệt. Thuyền trưởng đến gần ông và hỏi rằng: "Sao ông ngủ mê mệt như vậy? Hãy chỗi dậy cầu khẩn cùng Thiên Chúa của ông, may ra Thiên Chúa đoái đến chúng ta và chúng ta khỏi chết".
Ai nấy đều bảo đồng bạn mình rằng: "Các anh hãy lại đây, chúng ta bắt thăm coi biết tại sao chúng ta gặp phải tai hoạ này". Rồi họ bắt thăm, thì trúng phải ông Giona. Họ bảo ông rằng: "Xin ông cho chúng tôi biết vì cớ nào chúng ta gặp phải tai hoạ này: Ông làm nghề gì? Ở nơi nào? Ði đâu? Hoặc thuộc dân nào?" Ông trả lời họ rằng: "Tôi là người Do-thái, tôi kính sợ Thiên Chúa là Chúa Trời, Ðấng tạo thành biển khơi và lục địa".
Họ khiếp sợ quá sức và hỏi ông rằng: "Sao ông hành động thế này? (Vì theo lời ông thố lộ, các hành khách biết ông trốn lánh mặt Chúa). Họ liền hỏi ông rằng: "Chúng tôi phải đối xử với ông làm sao đây, để biển yên lặng? vì biển càng động mạnh thêm". Ông bảo họ rằng: "Các ông hãy bắt tôi vứt xuống biển, thì biển sẽ yên lặng, vì tôi biết tại tôi mà các ông gặp phải trận bão lớn lao này".
Các thuỷ thủ cố chèo thuyền vào đất liền, nhưng không sao được, vì biển càng động dữ dội hơn. Họ kêu cầu cùng Chúa rằng: "Lạy Chúa, chúng tôi xin Chúa vì mạng sống người này cho chúng tôi khỏi chết. Xin chớ đổ máu vô tội trên chúng tôi, vì, lạy Chúa, Chúa hành động theo như Chúa muốn". Rồi họ bắt vứt ông Giona xuống biển, và biển liền hết nổi sóng. Mọi người rất kính sợ Chúa, họ tế lễ dâng lên Chúa và làm lời khấn hứa.
Chúa chuẩn bị sẵn một con cá lớn để nuốt ông Giona, và ông Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. Sau đó, Chúa truyền lệnh cho cá nhả ông Giona vào bờ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Gn 2, 2. 3. 4. 5. 8
Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, từ vực sâu thẳm, Chúa đã cứu sống mạng con (c. 7c).
Xướng: 1) Nằm trong bụng cá, ông Giona thưa cùng Chúa là Thiên Chúa của mình rằng: - Ðáp.
2) Trong cảnh gian truân, con đã kêu cầu tới Chúa, và Ngài đã nhậm lời con; tự lòng vực sâu âm phủ, con đã kêu lên, và Ngài đã nghe rõ tiếng con. - Ðáp.
3) Ngài đã ném con xuống vực sâu, trong lòng biển, các dòng nước đã lôi cuốn thân con, bao sóng cả ba đào đều lướt chảy trên mình con. - Ðáp.
4) Bấy giờ con tự nhủ: Con đã bị loại xa khỏi thiên nhan Chúa, nhưng con sẽ còn được xem thấy thánh điện Ngài. - Ðáp.
5) Khi mà trong người con, linh hồn tuyệt vọng, bấy giờ con đã nhớ (tới) Chúa. Lời cầu nguyện của con đã thấu đến tai Ngài, trong nơi thánh điện của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9; Ga 6, 69
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 10, 25-37
"Ai là anh em của tôi?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có một người thông luật đúng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?" Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?" Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?"
Chúa Giêsu nói tiếp: "Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: "Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông".
"Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Phụng Vụ Lời Chúa cho Thứ Hai Tuần XXVII Thường Niên hôm nay liên quan đến sự sống đời đời là những gì bất khả phân ly với tính chất đại đồng của tình yêu thương nhau.
Thật vậy, vấn đề được đặt ra trong bài Phúc Âm hôm nay từ "một người thông luật đứng dạy hỏi Chúa Giêsu rằng: 'Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?'", đã được Người trực tiếp khẳng định "Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống", ở chỗ, đúng như câu trả lời của chính nhân vật ấy: "Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình".
Nghĩa là muốn được sống đời đời thì phải mến Chúa hết mình và yêu người như chính bản thân mình. "Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: 'Nhưng ai là anh em của tôi?'". Tại sao "người đó muốn bào chữa mình" bằng câu hỏi tiếp theo "ai là anh em của tôi?" Phải chăng vì nhân vật này khó có thể yêu thương bất cứ ai, cùng lắm chỉ yêu thương những ai là ruột thịt của mình, những ai mình thích và những ai thích mình, về phe mình, tức là còn đầy khuynh hướng kỳ thị, còn đầy những thành kiến trong đầu, còn đầy ác cảm với tha nhân v.v.?
Có thể là thế. Bởi vậy, Chúa Giêsu đã phải sử dụng một dụ ngôn để cho nhân vật ấy biết "ai là anh em của tôi?", nhờ đó mà noi gương bắt chước: "đi và làm như vậy", sau khi nhân vật này đã nhận xét rất đúng theo câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra để kết thúc dụ ngôn của Người: "'Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?' Người thông luật trả lời: 'Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy'".
Vậy "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy" là ai và "người ấy" là người nào? Nếu không phải "người ấy" là "Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết".
Và "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy" là ai - theo nhân vật thông luật trả lời thì không phải là "một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua", mà là "một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: 'Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông'".
Vấn nạn của nhân vật thông luật "ai là anh em của tôi", theo dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, không được Chúa Giêsu trả lời đó chính là nạn nhân bị rơi vào tay bọn cướp, mà vấn đề hoàn toàn ngược hẳn lại "ai là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp".
Có nghĩa là, theo kinh nghiệm sống đạo và giao tiếp, bao lâu chúng ta còn đặt vấn đề "ai là anh em của tôi?" là chúng ta còn khuynh hướng kỳ thị, còn kẻ thù, thậm chí là chính những người ruột thịt của chúng ta, bởi chúng ta còn muốn chọn lựa anh em theo ý nghĩ, ý thích và ý muốn tự nhiên thiên lệch đầy vị kỷ của mình, và vì thế chúng ta vẫn còn gặp rất nhiều kẻ thù, rất nhiều đối phương, bất kể người ấy là ai, là thân nhân, ân nhân, thân hữu của mình một thời v.v.
Ngược lại, nếu chúng ta coi mình là anh em của mọi người thì sẽ chẳng bao giờ còn kẻ thù, còn đối phương, còn tranh giành, còn ghen ghét, còn đố kỵ v.v. Chúng ta sẽ như Chúa Kitô đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ (xem Mathêu 20:28), sống hòa đồng với mọi người, tiến đến với mọi người, bất kỳ ai, nhất là những con người thấp hèn bé mọn bần cùng khốn khổ trong xã hội, hơn là chờ mọi người đến với mình, hơn là quen thân gắn bó với thành phần giầu sang quyền quí thế lực v.v.
Ở trong Bài Đọc 1 hôm nay, tiên tri Giona đóng 2 vai một lúc, vừa là nạn nhân vừa là cứu nhân, như hai vai chính trong bài Phúc Âm hôm nay, nạn nhân nằm đường và cứu nhân Samaritanô nhân lành. Vị tiên tri Giona này đóng vai nạn nhân ở chỗ: "trốn sang Tharsê lánh xa mặt Chúa... (và) xuống lòng tàu nằm ngủ mê mệt", đồng thời vị tiên tri nạn nhân này cũng đóng vai cứu nhân: "Các ông hãy bắt tôi vứt xuống biển, thì biển sẽ yên lặng, vì tôi biết tại tôi mà các ông gặp phải trận bão lớn lao này". Tuy vị tiên tri này sẵn sàng hy sinh cho những người vô tội đang gặp nguy tử chỉ vì hậu quả gây ra bởi lầm lỗi của mình, người ta vẫn không nỡ đối xử với phạm nhân như phạm nhân nhận tội và đáng phạt, cho tới khi bất đắc dĩ họ mới đành phải làm một cách tin tưởng:
"Các thuỷ thủ cố chèo thuyền vào đất liền, nhưng không sao được, vì biển càng động dữ dội hơn. Họ kêu cầu cùng Chúa rằng: 'Lạy Chúa, chúng tôi xin Chúa vì mạng sống người này cho chúng tôi khỏi chết. Xin chớ đổ máu vô tội trên chúng tôi, vì, lạy Chúa, Chúa hành động theo như Chúa muốn'. Rồi họ bắt vứt ông Giona xuống biển, và biển liền hết nổi sóng. Mọi người rất kính sợ Chúa, họ tế lễ dâng lên Chúa và làm lời khấn hứa".
Về phần mình, Thiên Chúa muốn lợi dụng chính phạm nhân Giona để tỏ mình ra cho chẳng những dân ngoại là đám thủy thủ vứt phạm nhân Giona xuống biển mà nhất là còn cho cả chính đương sự Giona nữa, ở chỗ "Chúa chuẩn bị sẵn một con cá lớn để nuốt ông Giona, và ông Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. Sau đó, Chúa truyền lệnh cho cá nhả ông Giona vào bờ", và chính vì thế mà vị tiên tri dám trốn lánh thi hành lệnh truyền của Chúa trong sứ vụ đến rao giảng thống hối cho dân Thành Ninive, đám dân thuộc đế quốc Assyria vốn thù địch với dân Do Thái, bắt dân Do Thái đi đầy, đã nhận biết Ngài ngay trong bụng cá, như chính vị tiên tri đã thân thưa cùng Chúa ở Bài Đáp Ca hôm nay:
2) Trong cảnh gian truân, con đã kêu cầu tới Chúa, và Ngài đã nhậm lời con; tự lòng vực sâu âm phủ, con đã kêu lên, và Ngài đã nghe rõ tiếng con.
3) Ngài đã ném con xuống vực sâu, trong lòng biển, các dòng nước đã lôi cuốn thân con, bao sóng cả ba đào đều lướt chảy trên mình con.
4) Bấy giờ con tự nhủ: Con đã bị loại xa khỏi thiên nhan Chúa, nhưng con sẽ còn được xem thấy thánh điện Ngài.
5) Khi mà trong người con, linh hồn tuyệt vọng, bấy giờ con đã nhớ (tới) Chúa. Lời cầu nguyện của con đã thấu đến tai Ngài, trong nơi thánh điện của Ngài.
Thánh Điônysiô / Dennis, Giám mục và các bạn tử đạo
9/9
Điều đầu tiên chúng ta được biết về ba vị này là họ được tử đạo khoảng năm 258, theo như văn bản của Thánh Grêgôriô ở Tours thuộc thế kỷ thứ sáu. "Thánh Điônysiô, Giám mục Paris, đã chịu nhiều đau khổ vì danh Chúa Kitô và kết thúc cuộc đời dưới lưỡi gươm."
Câu nói trên đây của thánh Grêgoriô thành Tours là tất cả những gì chúng ta biết được về thánh Điônysiô. Người ta kể lại truyền thuyết rất hấp dẫn về Ngài như sau:
Dựa theo tường thuật của thánh Ghê-gô-ri-ô thành Tua, năm 200, thì vào năm 251, Đức Giáo Hoàng Fabianô đã sai bảy Giám mục đi truyền giáo tại xứ Gaules (Tên gọi nước Pháp ngày xưa). Các vị tông đồ này đã vượt qua mọi gian nguy và thiết lập nên các giáo đoàn Arles, Toulouse, Narbonne, Clermont, Limoges, Tours và Lutèce. Trước hết, các Ngài dừng lại ở Arles, rồi phân tán đi các tỉnh xứ Gaules. Lutèce là tỉnh xa nhất. Nhiệt tâm với đức tin, Điônysiô đã muốn tới đó. Ngài đến tận kinh đô Pa-ri lúc đó gọi là Lu-téc, và đi khắp nơi giảng đạo Chúa. Đi đến đâu, người ta cũng ùn ùn kéo đến nghe ngài giảng, và rất nhiều người trở lại đạo. Ngài cho cất nhiều nhà thờ để tập họ đọc kinh cầu nguyện, tham dự Thánh lễ và ban các Bí tích cho họ. Với các giáo dân ngày càng đông, thánh nhân thành lập giáo đoàn tại Pa-ri và làm Giám mục tiên khởi giáo phận nầy.
Điônysiô đã thực hiện được nhiều cuộc trở lại rất ngoạn mục. Chỉ kêu cầu đến danh Chúa, Ngài đã làm lật nhào pho tượng thần Hỏa (Mars) khổng lồ. Chứng kiến cảnh tượng này, nhiều người đã phục dưới chân Ngài xin theo đạo. Cùng với linh mục Eleutheeiô và phó tế Rusticô, Điônysiô tiến xa về hướng Bắc và dừng lại tại Lutèce. Ngài thiết lập giáo đoàn Paris và làm Giám mục tiên khởi của giáo đoàn này. Ngài luận bác sự điên dại của các ngẫu thần và rao giảng một Thiên Chúa duy nhất và Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc.
Phần đông thính giả tin theo ánh sáng Kitô giáo. Một trong số những người trở lại là lãnh chúa miền Montmorency. Tên ông là Lisiniue. Ông đã cho thánh Điônysiô trú ngụ và biến gia thất thành nơi hội họp của các Kitô hữu. Dân chúng đổ xô đến nghe rao giảng, từ bỏ tà thần và lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Thánh Điônysiô phong chức cho nhiều thừa tác viên mới. Dùng của cải dân Gaules dâng hiến, Ngài dựng nên bốn nhà nguyện: một dâng hiến Chúa Ba Ngôi (nơi này sẽ thánh thánh đường kính thánh Bênêđictô). Năm 1685, người ta đọc được ở đó những dòng chữ này: “Trong nguyện đường này, thánh Điônysiô đã khởi sự yêu cầu Chúa Ba Ngôi”, một nguyện đường dâng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô (thánh Ghenevière thích đến cầu nguyện và được mai táng tại đây), nguyện đường thứ ba dâng kính thánh STêphanô và nguyện đường thứ tư dâng kính Đức Bà (nay gọi là đền thờ Notre-dame-des-champs).
Thánh Điônysiô vui mừng vì thành quả gặt hái được. Nhưng các
người ngoại, nhất là các tư tế dân ngoại bực tức. Họ than phiền
với quan chức của vương quốc. Khi hoàng đế Maximilianô mang quân
qua xứ Gaules, lệnh bách hại Kitô giáo được ban hành nghiêm
nhặt. Vị tông đồ cùng với hai vị bị điệu ra tòa. Ngài trả lời
rằng:
-
Chúng tôi là tôi tớ Chúa Kitô.
Thánh Denis đặt địa bàn truyền giáo ở một hòn đảo trong vùng Seine gần thành phố Lutetia Parisorium -- sau này trở thành thủ đô Balê. Vì lý do đó ngài được coi là vị giám mục đầu tiên của Balê và là Tông Đồ nước Pháp. Ở đây ngài bị bắt cùng với Rusticus và Eleutherius. Các học giả sau này đề cập đến Rusticus và Eleutherius như linh mục và thầy sáu của Đức Giám Mục Denis, ngoài ra chúng ta không còn biết gì thêm.
Thánh Điônysiô cùng hai bạn bị tống ngục, nơi sẽ trở thành thánh
đường thánh Điônysiô thành Chartres. Bị đánh đòn, bị hành hạ đến
chảy máu, thánh nhân không hề than trách kêu la. Thay tiếng rên
xiết, Ngài nói lên niềm tin và lời ca tụng. Bọn lý hình giương
búa, múa roi trước mặt Ngài, nhưng lão già 110 tuổi đầu bạc vẫn
đầy tin tưởng và êm dịu trả lời:
-
Chớ gì tôi phải chịu tất cả mọi cực hình này cùng một lúc để tôi
sớm được hạnh phúc với Chúa Kitô.
Ngài bị ném cho thú vật xâu xé. Nhưng những thú dữ chỉ liếm chân Ngài. Bị treo lên Thập Giá, nhưng từ trên cao, Ngài giảng về cuộc khổ nạn của Chúa khiến cho nhiều người trở lại. Vừa sợ vừa giận, quan tòa ra lệnh xử trảm con người đầy dũng cảm này. Nơi hành hình là một ngọn đồi dâng kính Thủy thần (Nercure), nhưng sau này được coi là núi các thánh tử đạo (Montmartre). Xác các thánh tử đạo không được chôn cất, nhưng phải để làm mồi cho súc vật. Nhưng có huyền thoại kể rằng: thánh Điônysiô sau khi bị chặt đầu, đã chỗi dậy cầm lấy đầu mình, đi xa khoảng hai dặm về hướng đông. Một sử gia nói rằng: Ngài dừng lại ở nơi Ngài muốn chôn cất và là tu viện của Ngài.
Có một phụ nữ tên là Catulla đã chôn xác Ngài ở một ngôi làng (làng này sẽ mang tên Điônysiô) bà dựng một nguyện đường bằng gỗ. Vào thế kỷ V, tại Catulliacus (nay là thành phố Saint-Denis), thánh nữ Geneviève đã cho xây một ngôi thánh đường tu viện trên phần mộ vị thánh bổn mạng của Paris này. Và vào thế kỷ VII, vua Dagobert cho trùng tu lại; ngôi thánh đường này đã trở thành khu nghĩa trang của các vua nước Pháp.
Đến thế kỷ thứ chín, tiểu sử của Thánh Denis bị lẫn lộn với Thánh Dionysius người Areopagite, nhưng sau này các học giả xác định ngài là một vị thánh riêng biệt.
Thánh Denis thường được vẽ khi ngài tử đạo -- không có đầu (với một cành nho vươn lên từ cổ) và tay ngài cầm chính đầu của ngài với nón giám mục.
Được coi là vị thánh đặc biệt của Balê, Thánh Denis là quan thầy của nước Pháp.
Lời Nguyện của ngày nhắc chúng ta nhớ đến cuộc tử đạo của “thánh giám mục Denis và các bạn tử đạo”. Cuộc hy sinh của các ngài đã xây dựng nên Hội Thánh ở Paris cách nay mười bảy thế kỷ. Khi nhớ lại cuộc tử đạo của các ngài, chúng ta cũng nhớ đến nguồn gốc đức tin của chúng ta và tôn vinh Đức Kitô, Đấng Sáng Lập duy nhất của Hội Thánh. Chính Người đã làm cho máu các thánh tử đạo sinh hoa kết quả và làm cho các môn đệ của Người trở thành muối đất và ánh sáng thế gian (xem Tin mừng của ngày). Trong Phụng vụ Giờ Kinh Sách, thánh Ambrôsiô chú giải Thánh vịnh 118 như sau: “Mỗi ngày, bạn đều làm chứng nhân cho Chúa Kitô... Vì thế bạn hãy trung thành và can đảm trong những thử thách bên trong, để cũng chiến thắng trong những thử thách bên ngoài. Trong các cuộc thử thách bên trong, cũng có những vua chúa, những quan án có quyền lực kinh khủng. Việc Chúa Giêsu chịu ma quỉ cám dỗ là một ví dụ cho bạn về điều này.”
Thánh Đi-ô-ni-xi-ô là một vị thánh rất nổi tiếng, nhất là ở Pháp, nơi có nhiều làng mang tên ngài. Thành phố Paris chọn ngài làm thánh bổn mạng, và được ca tụng là một thành phố “có phước” trong một bài tán dương của vị cố vấn giám mục Giêrusalem ngày 3 tháng 10 năm 833: “Phước thay thành phố đang gìn giữ cái đầu thánh thiện và vinh quang và hài cốt quí báu của ngài – ngài vừa là một vị tử đạo, vừa là một nhà giảng thuyết và giám mục đáng ca ngợi –, cũng như hài cốt của các bạn ngài mà ngài đã giới thiệu với Thiên Chúa như những hiến tế tinh tuyền và toả ngát hương thơm ca tụng. Từ mảnh đất thấm đượm máu đào, vọt trào giòng nước sống để làm giải khát những ai được niềm tin thúc đẩy đến kêu cầu ngài chữa lành các bệnh nhân của họ. Thực vậy, phước thay thành phố Paris! Biết bao thành phố khác của nước Gaule rộng lớn hơn Paris, nhưng nó có thể hãnh diện vì có ngài, vị tiến sĩ đáng kính, một kho báu vinh quang hơn mọi của cải vật chất, một vị thánh quan thầy và bảo trợ. Thiên Chúa đã ban ngài cho Paris để ngài thánh hóa đoàn dân Kitô hữu và các khách hành hương, để ngài trở thành động lực thiêng liêng và nguồn mạch niềm vui sướng, không phải thứ vui sướng làm thoả mãn thể xác, tạo kiêu hãnh cho cung điện, là những thứ mau qua chóng tàn. Ngài là một thành lũy kiên cố cho Paris...một pháo đài được bảo vệ bởi các đồn bót, các tháp canh, các ổ trọng pháo, tựa một bức chắn bằng sắt. Không, cái mang lại sức mạnh cho thành phố là sự thánh thiện của ngài và các bạn tử đạo của ngài.”
Khi mừng kính một trong những vị truyền đạo vĩ đại nhất của đất Gaule, chúng ta nhớ lại nguồn gốc đức tin của chúng ta, và chúng ta tôn vinh chính Thiên Chúa, Đấng kỳ diệu nơi các thánh của Người.
Thánh Gioan Lêônarđô, linh mục
cùng ngày 9/9
Thánh Gioan Lêônarđô sinh năm 1541 tại Luca miền Tuscia. Từ nhỏ thánh nhân đã theo học ngành thuốc, nhưng rồi bỏ nghề, Ngài muốn làm linh mục. Năm 25 tuổi, Ngài mới bắt đầu học tiếng Latinh, triết học và thần học. Năm 1571, Ngài được thụ phong linh mục. Sau khi chịu chức, người rất tích cực hoạt động tông đồ, nhất là ở bệnh viện và nhà tù. Sự tận tụy và gương mẫu đời sống của người đã thu hút vài người trẻ, và họ bắt đầu tiếp tay với người. Sau này chính họ cũng trở thành linh mục.
Hồi đó tại Tuscia, tinh thần đạo đức của dân chúng bị hoang mang vì lạc thuyết mà Bêrnađinô thành Sienna gieo vãi. Là linh mục trẻ đầy nhiệt huyết, cha Gioan đã tìn cách chấn hưng bằng việc chăm lo giảng dạy và ngồi tòa. Hơn nữa, cha còn lập “hội giáo lý” qui tụ những người có thiện chí lo việc dạy giáo lý cho các trẻ em.
Phấn khởi với luồng gió cải cách mà Công Ðồng Triđentinô đề ra, Cha Gioan và các linh mục bạn đề nghị một tổ chức cho các linh mục địa phận. Năm 1574, thánh Gioan Lêônarđô thành lập một hội dòng, đặt trụ sở tại nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi. Ðề nghị này bị chống đối dữ dội, nhưng vào năm 1583, tổ chức của người được đức giám mục của Lucca công nhận với sự phê chuẩn của Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô XIII vào năm 1621, tổ chức này được chính thức đặt tên là Các Tu Sĩ Chuyên Nghiệp của Mẹ Thiên Chúa. Đức Giáo Hoàng Grêgoriô XV đặt tu hội ngang hàng với các dòng tu kỳ cựu khác. Cha Gioan được sự trợ giúp của Cha Philíp Nêri và ChaGiuse Calasanctius, và vào năm 1595, tổ chức này được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê VIII công nhận, và đức giáo hoàng đã giao cho Cha Gioan công việc chấn chỉnh các tu sĩ ở Vallombrosa và Monte Vergine.
Nhiệt tình của thánh Gioan Lêônarđô và của dòng do Ngài sáng lập, đã mang lại nhiều thành quả tốt đẹp. Nhưng cũng vì thành công này, mà Ngài phải chịu rất nhiều thử thách. Cuối cùng, Ngài đành phải chịu rời Tuscia để về Rôma. Tại đây, Ngài được Đức Giáo Hoàng Grêgoriô XIII tiếp đón ân cần. Ngài cũng có dịp làm quen với thánh Philpphê Nêri, là một người hiền hoà tận tụy, thánh Gioan Lêônarđô được nhiều người tín nhiệm, Ngài còn giải quyết được nhiều cuộc tranh chấp khó khăn.
Tại Rôma, thánh Gioan Lêônarđô vẫn nuôi mộng truyền giáo. Cùng với Đức Hồng Y Baotixita Vivès, năm 1603, Ngài góp phần đào tạo nhiều giáo sĩ các xứ truyền giáo. Năm 1627, Đức Giáo Hoàng Urbanô VIII chính thức thiết lập ngôi trường mà thánh Gioan Lêônarđô đặt nền móng thành “trường truyền giáo”, quy tụ các chủng sinh từ các nước xa xăm.
Ngày 09 tháng 10 năm 1609, Gioan Lêônarđô từ trần, khi mới 68 tuổi vì bị lây bệnh dịch khi chăm sóc các bệnh nhân ở Rôma. Người được sùng kính vì những phép lạ và lòng đạo đức nhiệt thành của người, và được coi là một trong những sáng lập viên của Thánh Bộ Truyền Bá Ðức Tin. Người được Ðức Giáo Hoàng Piô XI tuyên thánh năm 1938. Năm 1706, Giáo Hội lập hồ sơ phong thánh cho Ngài. Năm 1861, Ngài được nâng lên hàng Á thánh và năm 1938 Người được Ðức Giáo Hoàng Piô XI tuyên thánh.
Trong buổi tiếp kiến chung hằng tuần tại quảng trường thánh Pherô sáng thứ Tư 7 tháng 10 năm 2009, Ðức thánh cha Beneđitô XVI ôn lại gương sáng của thánh Gioan Leonardi, quan thầy của các dược sĩ. Ðức thánh cha nói rằng, vị thánh người Ý này có thể chỉ cho chúng ta thấy rằng "phương dược của Thiên Chúa, tức Chúa Giêsu, là thước đo của mọi sự".
Cùng với đức ông Juan Vives và cha Martin de Funes, một linh mục Dòng Tên, thánh Gioan Leonardi đã giúp thành lập Trường Truyền Giáo chuyên đào tạo các linh mục.
Mặc dù hiến thân phục vụ Chúa và Giáo hội bằng cuộc sống thánh hiến, thánh nhân không bao giờ quên ngành dược. Ngài xác tín rằng "phương dược của Thiên Chúa, tức Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã chịu đóng đinh và sống lại, là thước đo mọi sự".
Thánh nhân cũng làm cố vấn cho một nhóm bạn trẻ mà năm 1574 được qui tụ thành Dòng các linh mục Ðức Trinh Nữ Canh Tân, về sau được biết đến dưới danh hiệu "Các giáo sĩ dòng Mẹ Thiên Chúa".
Ôn lại cuộc đời của thánh Gioan Leonardi, Ðức thánh cha nói: "Gương sáng của vị thánh này mời gọi tất cả mọi tín hữu Kitô, cách riêng các linh mục, hãy cố gắng không ngừng để tiến đến "thước đo cao nhứt của đời sống Kitô là sự thánh thiện". Theo Ðức thánh cha, "chỉ xuyên qua sự trung thành với Chúa Kitô mà sự canh tân Giáo hội đích thực mới có thể phát sinh".
Ðức thánh cha nhắc lại rằng vào thời thánh Gioan Leonardi, người ta đã bắt đầu thấy có sự rạn nứt giữa đức tin và lý trí. Trào lưu này tạo ra những hậu qua tiêu cực, đẩy Thiên Chúa ra bên lề cuộc sống và tạo ra ảo tưởng về sự tự trị hoàn toàn của con người, sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu.
Ðức thánh cha nói rằng đây cũng chính là cuộc khủng hoảng trong tư tưởng hiện đại mà ngài đã nhiều lần nói đến khi đề cập đến những hình thức của chủ nghĩa duy tương đối.
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp TGP Sài Gòn, TGP Hà Nội, Người Tín Hữu, GP Vĩnh Long, Giáo Xứ Tân Việt, VNTaiwan
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Gn 3, 1-10
"Dân thành Ninivê đã bỏ đàng tội lỗi".
Trích sách Tiên tri Giona.
Lời Chúa phán cùng Giona rằng: "Hãy chỗi dậy và đi đến Ninivê, một thành phố lớn, và rao giảng cho nó điều Ta sẽ nói cho ngươi". Giona chỗi dậy và đi đến Ninivê theo lời Chúa dạy. Ninivê là một thành phố lớn, rộng bằng ba ngày đàng. Giona tiến vào thành phố, đi một ngày đàng, rồi rao giảng rằng: "Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá huỷ". Dân thành tin tưởng nơi Chúa; họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ.
Vua thành Ninivê nghe điều đó, liền bỏ ngai vàng, cởi áo cẩm bào, mặc áo nhặm và ngồi trên đống tro. Trong thành Ninivê, người ta rao sắc lệnh sau đây của nhà vua và các vương hầu: "Người, vật, bò, chiên, không được nếm, không được ăn uống gì hết; người và vật phải mặc áo nhặm, phải kêu to lên cùng Chúa và phải cải thiện đời sống, phải bỏ đàng tội lỗi và những điều bất chính đã phạm. Biết đâu Chúa sẽ đổi ý thứ tha, nguôi giận và chúng ta khỏi chết?" Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa đổi ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 129, 1-2. 3-4ab. 7-8
Ðáp: Nếu Chúa nhớ hoài sự lỗi, lạy Chúa, nào ai chịu nổi được ư? (c. 3)
Xướng: 1) Từ vực sâu, lạy Chúa, con kêu lên Chúa. Lạy Chúa, xin nghe tiếng con cầu! Dám xin Chúa hãy lắng tai, hầu nghe thấu tiếng van nài của con. - Ðáp.
2) Nếu Chúa nhớ hoài sự lỗi, lạy Chúa, nào ai chịu nổi được ư? Nhưng Chúa thường rộng lượng thứ tha, để cho thiên hạ tôn thờ kính yêu. - Ðáp.
3) Israel đang mong đợi Chúa: bởi vì Chúa rộng lượng từ bi và Chúa rất giầu ơn cứu độ. Và chính Ngài sẽ giải thoát Israel cho khỏi mọi điều gian ác. - Ðáp.
Alleluia: Tv 144, 14cd
Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 10, 38-42
"Martha rước Người vào nhà mình. Maria đã chọn phần tốt nhất".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy Chúa Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với".
Nhưng Chúa đáp: "Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện (quá). Chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Hôm nay, Thứ Ba Tuần XXVII Thường Niên, Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca thuật lại sự kiện về việc Chúa Giêsu ghé vào thăm gia đình 3 chị em Matta, Maria và Lazarô, và được người chị cả tiếp đón nồng hậu, nhưng rất tiếc bà chị lại đã tỏ ra ghen tị với người em gái của mình trước mặt Chúa Giêsu.
Thật ra Chúa Giêsu không trách Matta về việc phục vụ cần thiết của chị, cho bằng trách chị "lo lắng bối rối về nhiều chuyện", đến độ trở thành bất an, được bộc lộ qua thái độ và ngôn ngữ có tính cách ghen tị với em của chị: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với".
Nếu chị cứ âm thầm làm tất cả những gì cần thiết như chị cảm thấy để ân cần tiếp đãi vị đại khách của gia đình chị là Chúa Giêsu, với một tâm hồn hoàn toàn yêu mến Thày và yêu thương các em trong nhà, sẵn sàng chịu thiệt để cho chúng thay mình đang bận làm việc gần gũi tiếp chuyện với Thày, thì chị đâu có bị khiển trách như thế.
Tuy nhiên, qua lời chị ghen tị với em của chị như thế mới thấy được rằng chính chị cũng muốn được gần gũi với Chúa Giêsu như em của chị. Đó là lý do có những lúc hoạt động không còn giờ cầu nguyện, tâm hồn vẫn có thể khao khát Chúa, vẫn có thể cầu nguyện bằng chính lòng khao khát của mình, miễm là đừng coi thường cầu nguyện khi có giờ và chỉ vì thích hoạt động mà bỏ cầu nguyện khi có thể.
Phải, sống nội tâm và bằng an, sống vì Chúa và cho tha nhân là "sự cần duy nhất mà thôi", bằng không tất cả mọi hoạt động của chúng ta, cho dù lành thánh mấy chăng nữa, cho dù thiện ích mấy chăng nữa, cũng có thể trở thành dịp tội cho con người hoạt động, cuối cùng họ chỉ mất công vô ích mà thậm chí hoạt động còn trở thành nguy hiểm cho tâm hồn của họ nữa.
Như thế, có thể nói Matta là biểu hiệu cho đời sống hoạt động, còn Maria biểu hiệu cho đời sống cầu nguyện: "Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất". Căn cứ vào giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay qua sự kiện Matta-Maria này, chúng ta thấy: 1- đời sống nội tâm cầu nguyện là chính yếu và cần trước hết và trên hết; 2- có biết lắng nghe tiếng Chúa bằng đời cầu nguyện mới có thể làm theo ý Ngài khi hoạt động, bằng không lúc đầu làm vì Chúa cuối cùng làm vì mình.
Trong Bài Đọc 1 chúng ta cũng thấy hiện lên 2 hình ảnh Matta hoạt động nhưng lại không đẹp lòng Chúa, trong khi Maria tĩnh lắng lắng nghe thì lại được Chúa khen. Matta ở Bài Đọc 1 hôm nay đó là tiên tri Giona, vị tiên tri chỉ thi hành ý Chúa một cách bất đắc dĩ, như đã thấy trong Bài Đọc 1 hôm qua và cả ngày mai nữa, trong khi đó Maria ở trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay là chính dân thành Ninivê, vừa nghe thấy vị tiên tri người Do Thái xa lạ cảnh báo liền ăn năn xám hối từ người đến thú, từ vua đến dân, tất cả thành, nên được Chúa thứ tha.
"Vua thành Ninivê nghe điều đó, liền bỏ ngai vàng, cởi áo cẩm bào, mặc áo nhặm và ngồi trên đống tro. Trong thành Ninivê, người ta rao sắc lệnh sau đây của nhà vua và các vương hầu: 'Người, vật, bò, chiên, không được nếm, không được ăn uống gì hết; người và vật phải mặc áo nhặm, phải kêu to lên cùng Chúa và phải cải thiện đời sống, phải bỏ đàng tội lỗi và những điều bất chính đã phạm. Biết đâu Chúa sẽ đổi ý thứ tha, nguôi giận và chúng ta khỏi chết?'. Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa đổi ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó".
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay không phải chỉ tập trung vào vai trò của hai chị em Matta hoạt động và Maria nội tâm, mà là về Lòng Thương Xót Chúa, một lòng thương xót là chính chân dung của Ngài, cần được con người chiêm ngắm và tin tưởng, như Maria trong bài Phúc Âm hôm nay, để Ngài có thể tỏ lòng xót thương, như dân thành Ninive đã tỏ lòng tin tưởng vào vị tiên tri xa lạ được lòng thương xót Chúa sai đến với họ và đã cấp thời đáp ứng lời cảnh báo của vị tiên tri, bằng việc ăn năn thống hối xứng với lòng thương xót Chúa trong Bài Đọc 1 hôm nay, một niềm tin tưởng vào lòng thương xót Chúa được gói ghém trong và phản ảnh qua tâm tình đầy xác tín của Thánh Vịnh 129 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Từ vực sâu, lạy Chúa, con kêu lên Chúa. Lạy Chúa, xin nghe tiếng con cầu! Dám xin Chúa hãy lắng tai, hầu nghe thấu tiếng van nài của con.
2) Nếu Chúa nhớ hoài sự lỗi, lạy Chúa, nào ai chịu nổi được ư? Nhưng Chúa thường rộng lượng thứ tha, để cho thiên hạ tôn thờ kính yêu.
3) Israel đang mong đợi Chúa: bởi vì Chúa rộng lượng từ bi và Chúa rất giầu ơn cứu độ. Và chính Ngài sẽ giải thoát Israel cho khỏi mọi điều gian ác.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Gn 4, 1-11
"Ngươi buồn bực vì dây dưa, chớ thì Ta không tha thứ cho Ninivê, một thành phố rộng lớn sao?"
Trích sách Tiên tri Giona.
Ông Giona buồn bực quá sức và giận dữ, ông cầu nguyện cùng Chúa rằng: "Lạy Chúa, chớ thì chẳng phải như lời con đã cầu xin khi con còn ở quê nhà con sao? Bởi đó con lo trốn sang Tharsê: vì con biết Chúa là Thiên Chúa khoan nhân, từ bi, nhẫn nhục, đầy tình thương và tha thứ tội ác. Lạy Chúa, giờ đây xin Chúa cất linh hồn con ra khỏi con, vì thà con chết còn hơn là sống". Chúa liền hỏi rằng: "Ngươi có nghĩ là ngươi giận đúng không?"
Ông Giona ra khỏi thành phố và ngồi ở phía đông thành phố; ông tự dựng một cái lều, và ngồi dưới bóng nó, chờ xem biến cố sẽ xảy ra trong thành. Chúa là Thiên Chúa khiến một dây dưa mọc lên khỏi đầu ông Giona, rợp bóng trên đầu ông, che mát cho ông (vì ông mệt mỏi); nhờ dây dưa đó, ông Giona rất hân hoan vui mừng. Sáng sớm hôm sau, Thiên Chúa khiến một con sâu cắn dây dưa, và nó ra khô héo. Khi mặt trời mọc lên, Chúa khiến cơn gió nóng thổi lên và mặt trời giọi xuống đầu ông Giona, ông nóng nực và xin cho mình chết mà rằng: "Thà con chết đi còn hơn là sống".
Chúa phán cùng ông Giona rằng: "Ngươi có nghĩ ngươi giận vì dây dưa là đúng không?" Ông thưa: "Ðúng, con giận cho đến chết (đi được!)" Chúa phán: "Ngươi buồn bực vì dây dưa mà ngươi không mất công vun trồng, không làm cho nó mọc lên, đêm nay nó mọc lên và đêm sau nó khô héo. Chớ thì Ta không tha thứ cho Ninivê, một thành phố rộng lớn, trong đó có trên một trăm hai mươi ngàn người chưa biết phân biệt tay tả tay hữu mình thế nào, và nhiều súc vật sao?"
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 85, 3-4. 5-6. 9-10
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa chậm bất bình và rất mực khoan dung (c. 15b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, xin thương con, vì con ân cần kêu van Ngài. Nguyện cho bầy tôi Chúa được hân hoan, vì lạy Chúa, con vươn hồn lên tới Chúa. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giầu lượng từ bi với những ai kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng con van nài. - Ðáp.
3) Các dân tộc mà Chúa tạo thành, họ sẽ tới, lạy Chúa, họ sẽ thờ lạy Ngài, và họ sẽ ca tụng danh Ngài. Vì Ngài cao cả và làm nên những điều kỳ diệu; duy một mình Ngài là Thiên Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 11, 1-4
"Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông". Người nói với các ông: "Khi các con cầu nguyện, hãy nói:
"Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Bài
Phúc Âm của
Thánh ký Luca hôm nay, Thứ Tư Tuần XXVII Thường Niên, tiếp
ngay sau bài
Phúc Âm hôm qua, chẳng những liên tục về bố cục theo đoạn
và câu
mà
còn liên tục về cả nội dung của hai bài Phúc Âm này nữa. Ở
chỗ, nếu bài
Phúc Âm hôm qua liên
quan đến đời sống nội tâm thì bài Phúc Âm hôm nay liên
quan đến tinh thần cầu
nguyện.
Đúng
thế, Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay thuật lại rằng: "Ngày
kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi. Khi Người cầu nguyện
xong, có một môn đệ thưa Người rằng: 'Lạy Thầy, xin dạy
chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông'".
Thánh ký Luca không cho chúng ta biết rõ tên của người "môn đệ" nào trong 12 tông đồ hay trong 72 môn đệ đã xin Người dạy cho chung các vị cầu nguyện, mà là cầu nguyện theo kiểu của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả dạy cho các môn đệ của ngài. Chúng ta có thể suy đoán, người "môn đệ" ấy một là Tông Đồ Anrê hai là Tông Đồ Philiphê, hai môn đệ của vị tiền hô này đã đến xem chỗ Người ở, ba là Nathanael / Bartholomeo và bốn là Simon / Phêrô là 2 người được hai vị đến trước và về rủ đến sau (xem Gioan 1:35-51).
Chúng ta ở đây không biết Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã dạy các môn đệ cầu nguyện của ngài như thế nào mà môn đệ này đã cảm thấy hay đến độ xin Chúa Giêsu dạy cho họ như thế hay hơn thế. Chỉ biết rằng, đích thân Chúa Giêsu đã đáp ứng lời yêu cầu chính đáng của người môn đệ đại diện ấy bằng cách cống hiến cho môn đệ của mình công thức cầu nguyện cùng Cha của Người như sau:
"Khi các con cầu nguyện, hãy nói: 'Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ'".
Chúng ta cũng không biết kinh nguyện trên đây của Chúa Giêsu có phải là chính tâm nguyện chính yếu và liên lỉ của Người đối với Cha của Người, những tâm nguyện được Người bộc phát và bày tỏ ra cùng Cha của Người mỗi lần Người cầu nguyện cùng Cha của Người hay chăng? Nhưng chúng ta chắc chắn một điều rằng nếu những lời cầu nguyện ấy không phải là những gì hay nhất, tuyệt vời nhất và đẹp lòng Cha của Người nhất, vì không ai biết Cha Người bằng Người, thì Người đã không dạy cho các môn đệ của Người, không dạy cho chúng ta.
Thế nhưng, nếu cho rằng những lời cầu ấy là chính tâm nguyện của Chúa Giêsu ấp ủ đối với Cha của Người thì phần "nguyện" đầu của lời cầu mà chúng ta vẫn gọi là Kinh Chúa Dạy hay Kinh Lạy Cha này là những gì có thể khả chấp: "Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến", nhưng còn phần "xin" sau đó dường như không hợp với Người, không xứng với Người, Đấng không cần những vấn đề thuộc hạ giới này của loài thuần nhân như chúng ta: "Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".
Tuy nhiên, ở đây, Chúa Kitô cầu nguyện với tư cách là một Con Người, (chứ không phải với tư cách là một Vị Thiên Chúa), một Con Người cầu nguyện thay con người, cầu nguyện với con người và cầu nguyện cho con người. Vì là Con Người, Người cũng cần "xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày" là biết làm theo và chu toàn ý muốn Cha là Đấng đã sai Người (xem Gioan 4:34). Vì Người là Đấng gánh tội trần gian và đền tội cho trần gian mà Người cũng xin Cha "tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con", ở chỗ tha nợ cho Người cũng là tha nợ cho đồng loại tội nhân của Người, như Người đã tha nợ cho những kẻ lầm lẫn không biết việc mình làm khi ra tay sát hại Người (xem Luca 23:34). Vì là Đấng đã hóa thân làm người, cũng có ý muốn riêng theo bản tính loài người mà Người cũng "xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ" là khuynh hướng luôn tìm theo ý riêng mình hơn là ý muốn của Thiên Chúa, một ý muốn tối cao nhưng vô cùng oan khiên khắc nghiệt của Thiên Chúa đối với ý riêng của con người.
Bài Đọc 1 hôm nay rất thích hợp với Kinh Lạy Cha nói chung, nhất là với lời cầu cuối cùng của Kinh Lạy Cha của bài Phúc Âm hôm nay: "xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ" . Tiên tri Giona chẳng những đã bị cám dỗ bỏ trốn, không thi hành lệnh truyền của Ngài trong việc đến rao giảng thống hối cho dân Thành Ninivê. Thế nhưng, cho dù được Chúa trừng phạt rồi giải cứu, vị tiên tri này lại càng bị cám dỗ trầm trọng hơn trước nữa, ở chỗ thấy Chúa cũng tỏ lòng thương dân ngoại, như dân Do Thái của mình, nhất là khi vị tiên tri này thấy họ lắng nghe Thiên Chúa qua lời cảnh báo của ông mà ăn năn thống hối nên đã được Chúa tha cho họ, không trừng phạt tội lỗi của họ nữa.
Bị cơn cám dỗ ghen tương bủa vây, vị tiên tri này đã "buồn bực quá sức và giận dữ, ông cầu nguyện cùng Chúa rằng: 'Lạy Chúa, chớ thì chẳng phải như lời con đã cầu xin khi con còn ở quê nhà con sao? Bởi đó con lo trốn sang Tharsê: vì con biết Chúa là Thiên Chúa khoan nhân, từ bi, nhẫn nhục, đầy tình thương và tha thứ tội ác. Lạy Chúa, giờ đây xin Chúa cất linh hồn con ra khỏi con, vì thà con chết còn hơn là sống'". Nhưng lòng thương xót Chúa đã tỏ ra cho dân ngoại tội lỗi thế nào thì lại càng tỏ ra cho dân của Ngài hơn nữa, điển hình là qua trường hợp của vị tiên tri Giona này. Và Thiên Chúa đã "cứu chúng con cho khỏi sự dữ" ra sao nơi trường hợp tiên tri Giona bấy giờ? Cách thức của Ngài được chính tiên tri Giona thuật lại như sau:
"Ông Giona ra khỏi thành phố và ngồi ở phía đông thành phố; ông tự dựng một cái lều, và ngồi dưới bóng nó, chờ xem biến cố sẽ xảy ra trong thành. Chúa là Thiên Chúa khiến một dây dưa mọc lên khỏi đầu ông Giona, rợp bóng trên đầu ông, che mát cho ông (vì ông mệt mỏi); nhờ dây dưa đó, ông Giona rất hân hoan vui mừng. Sáng sớm hôm sau, Thiên Chúa khiến một con sâu cắn dây dưa, và nó ra khô héo. Khi mặt trời mọc lên, Chúa khiến cơn gió nóng thổi lên và mặt trời giọi xuống đầu ông Giona, ông nóng nực và xin cho mình chết mà rằng: 'Thà con chết đi còn hơn là sống'. Chúa phán cùng ông Giona rằng: 'Ngươi có nghĩ ngươi giận vì dây dưa là đúng không?' Ông thưa: 'Ðúng, con giận cho đến chết (đi được!)' Chúa phán: 'Ngươi buồn bực vì dây dưa mà ngươi không mất công vun trồng, không làm cho nó mọc lên, đêm nay nó mọc lên và đêm sau nó khô héo. Chớ thì Ta không tha thứ cho Ninivê, một thành phố rộng lớn, trong đó có trên một trăm hai mươi ngàn người chưa biết phân biệt tay tả tay hữu mình thế nào, và nhiều súc vật sao?'"
Bài Đáp Ca hôm nay, được Giáo Hội trích từ Thánh Vịnh 85, chất chứa tâm tình tri ân cảm tạ và chúc tụng ngợi khen của những tâm hồn nào thực sự cảm nghiệm thấy lòng thương xót Chúa đối với bản thân tội lỗi, khốn nạn và bất xứng của mình:
1) Lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, xin thương con, vì con ân cần kêu van Ngài. Nguyện cho bầy tôi Chúa được hân hoan, vì lạy Chúa, con vươn hồn lên tới Chúa.
2) Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giầu lượng từ bi với những ai kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng con van nài.
3) Các dân tộc mà Chúa tạo thành, họ sẽ tới, lạy Chúa, họ sẽ thờ lạy Ngài, và họ sẽ ca tụng danh Ngài. Vì Ngài cao cả và làm nên những điều kỳ diệu; duy một mình Ngài là Thiên Chúa.
Ngày 11/10
Đức Thánh Cha Gioan XXIII là người đã triệu tập Công Đồng Vatican II, mở cánh cửa Giáo Hội ra với thế giới bên ngoài, và đem một sinh khí mới vào đời sống của Giáo Hội.
Triệu tập Công đồng là một công việc vĩ đại, phát xuất từ nhiều lo lắng cho tương lai Giáo Hội với quá nhiều vấn đề khó khăn, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lại vẫn thường cầu nguyện rất đơn sơ nhẹ nhàng trước giờ đi ngủ: “Lạy Chúa, Giáo Hội là của Chúa, con chỉ là tôi tớ. Giáo Hội mạnh yếu thành đạt là trách nhiệm của Chúa. Con đã làm bổn phận của con, giờ này đến giờ con đi ngủ, xin Chúa ban phúc lành cho con.” Nói thế rồi, Ngài đi vào giấc ngủ ngon. Như vậy, dù thường xuyên suy tư trăn trở cho Giáo Hội, ngài lại rất thực tế sống tinh thần phó thác - giống như chỉ chuyên chăm hoàn tất bổn phận hằng ngày của mình với "Mười Điều Tâm Niệm" mà ngài đã đề ra cho mình.
Đức Gioan XXIII cũng thường được gọi là "Giáo hoàng Gioan nhân hậu". Ngài coi mình là "con cái của Thánh Phanxicô" khi gia nhập Dòng Ba Phanxicô lúc còn là một chủng sinh. Vị Giáo hoàng khiêm tốn này thường bắt chước lời của ông Giuse ở Ai Cập (Cựu Ước) chào hỏi các thành viên của Dòng Ba Phanxicô: "Tôi là Giuse, người anh em của quý vị."
Vị Giáo hoàng thứ 261 này có tên khai sinh là Angelo Giuseppe Roncalli, sinh tại làng Sotto il Monte, thuộc tỉnh Bergamo, vào ngày 25.11.1881, con trai đầu của ông Giovanni Battista Roncalli và bà Marianna Mazzola. Ngay buổi chiều hôm đó, trẻ sơ sinh Angelo được rửa tội. Người đỡ đầu là ông Zaverio Roncalli, một trong những người bác của ông bố Battista, rất đạo đức, ở độc thân, tự nhận lấy bổn phận dạy giáo lý cho nhiều đứa cháu. Sau này, Đức Gioan XXIII đã cảm động nhớ lại nhiều kỷ niệm và biết ơn về những lo lắng chăm sóc của ông.
Ngay từ thời thơ ấu, đã có một khuynh hướng nghiêm chỉnh về đời sống Giáo hội, nên sau khi học học bậc tiểu học, cậu chuẩn bị vào chủng viện giáo phận nhờ sự trợ giúp học thêm tiếng Ý và tiếng Latinh của một số linh mục trong khi theo học tại một trường có uy tín của Celana. Ngày 07-11-1892, cậu gia nhập chủng viện Bergamo. Sau khi hoàn tất tốt đẹp năm thứ hai của thần học vào tháng Bảy năm 1900, thầy được gửi về Roma vào tháng Giêng năm sau để vào chủng viện Apollinare, nơi có một số học bổng cho hàng giáo sĩ thuộc giáo phận Bergamo.
Ngày 13 tháng 7 năm 1904, mới hai mươi tuổi rưỡi, thầy đậu tiến sĩ thần học. Ngày 10 tháng 8 năm 1904, thầy được thụ phong linh mục trong nhà thờ Đức Maria di Monte Santo; ngài cử hành Thánh Lễ đầu tiên vào ngày hôm sau trong Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô. Dịp này, ngài quyết tâm tận hiến hoàn toàn cho Chúa Kitô và hết lòng trung thành với Giáo hội.
Sau một thời gian ngắn về nghỉ tại quê nhà, vào tháng Mười, ngài bắt đầu theo học giáo luật tại Rôma, và rồi phải nghỉ học vào tháng Hai năm 1905, khi ngài được chọn làm thư ký của Giám mục mới của giáo phận Bergamo, Đức cha Giacomo Radini Tedeschi.
Ngoài nhiệm vụ thư ký, ngài còn kiêm nhiệm nhiều công việc khác. Từ năm 1906, ngài đảm nhiệm giảng dạy nhiều môn học trong chủng viện: Lịch sử giáo hội, Giáo phụ và Hộ giáo. Từ năm 1910, ngài cũng phụ trách môn Thần học cơ bản. Ngài nghiên cứu lịch sử địa phương, xuất bản tác phẩm viết về những chuyến viếng thăm mục vụ của thánh Carlo Bergamo (1575), một nỗ lực trong nhiều thập kỷ dài và tiếp tục cho đến những ngày trước cuộc bầu cử Giáo hoàng. Ngài cũng là chủ nhiệm tờ báo định kỳ của giáo phận “La Vita Diocesana" và kể từ năm 1910, ngài làm trợ úy cho Liên hiệp những Phụ nữ Công giáo.
Khi Thế chiến thứ I bùng nổ, vào năm 1915 ngài làm tuyên úy hơn ba năm với cấp bậc trung sĩ, chăm sóc thương binh trong các bệnh viện ở Bergamo. Vào tháng Bảy năm 1918, ngài dấn thân phục vụ cho những người lính bị bệnh lao.
Tiếp theo, ngài được giao phụ trách công việc của Bộ Truyền giáo tại Ý, đồng thời cũng làm linh hướng trong chủng viện. Ngài đã thực hiện một chuyến đi lâu dài ra ngoại quốc để thi hành kế hoạch của Tòa Thánh nhằm mang về Roma những tổ chức khác nhau để hỗ trợ cho công cuộc truyền giáo và viếng thăm một số giáo phận Ý để quyên góp nguồn tài trợ và giải thích về công việc mà ngài đang phụ trách.
Vào năm 1925, với sự bổ nhiệm làm Visitatore Apostolico tại Bulgaria, ngài đã bắt đầu giai đoạn phục vụ cho ngành ngoại giao của Tòa Thánh cho đến năm 1952. Sau lễ phong chức giám mục diễn ra tại Roma vào ngày 19 tháng 3 năm 1925, ngài khởi hành đi Bulgaria để giúp đỡ cho cộng đoàn Công giáo nhỏ bé và đang gặp nhiều khó khăn tại đó. Trong hàng chục năm, Đức cha Roncalli đã đặt nền móng cho việc thiết lập một Tông tòa mà ngài đã được bổ nhiệm làm vị đại diện đầu tiên vào năm 1931. Ngài phục hồi được mối quan hệ thân thiện với Chính phủ và Hoàng gia Bulgaria, mặc dù có đôi chút trở ngại vì đám cưới theo nghi lễ chính thống của vua Boris với công chúa Giovanna của hoàng gia Savoia, và đó cũng là dịp để khởi động những mối quan hệ đại kết đầu tiên với Giáo hội Chính thống Bulgaria.
Vào ngày 27-11-1934, ngài được bổ nhiệm làm Khâm sứ Tòa Thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp. Các nước này chưa có quan hệ ngoại giao với Vatican. Với tính nhạy bén và năng động của mình, ngài đã tổ chức được một số lần gặp gỡ chính thức với Đức Thượng phụ Constantinople sau nhiều thế kỷ tách biệt với Giáo hội Công giáo.
Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, ngài đã thận trọng giữ được tính trung lập, giúp cho cả hàng ngàn người Do Thái khỏi thành nạn nhân diệt chủng, và giúp cho người Hy Lạp thoát khỏi nạn đói.
Ngài được bổ nhiệm về làm Khâm sứ tại Paris vào ngày 30 tháng 12 năm 1944. Một hoàn cảnh khá phức tạp đang chờ đợi. Chính phủ lâm thời buộc tội Giáo hội hợp tác với chính phủ Vichy và đòi Giáo hội phải thoái vị ba mươi giám mục. Nhờ sự bình tĩnh và linh động của vị tân sứ thần, chỉ có ba vị bị bãi nhiệm. Phẩm chất con người của ngài đã mang lại sự kính nể trong bối cảnh ngoại giao và chính trị tại Paris.
Sau khi lãnh tước vị hồng y, ngài được chuyển về Venice vào ngày 5 tháng 3 năm 1953 và hoàn thành nhiệm vụ giám mục tại đây cách tốt đẹp với những chuyến thăm viếng mục vụ, cử hành Công nghị giáo phận, thực hiện kế hoạch làm cho các tín hữu gần gũi với Kinh Thánh...
Ngày 28 tháng 10 năm1958, ngài được bầu chọn làm giáo hoàng. Một vị Giáo hoàng nhận chức khi đã bảy mươi bảy tuổi khiến nhiều người nghĩ rằng đây chỉ là một triều đại chuyển tiếp. Nhưng ngay từ đầu, Đức Gioan XXIII đã tỏ ra là một giáo hoàng của thời đại: khôi phục lại các hoạt động đúng đắn trong các cơ quan của giáo triều, viếng thăm các giáo xứ, bệnh viện và nhà tù của giáo phận Rôma, triệu tập Công nghị giáo phận...
Sự đóng góp lớn nhất của Đức Gioan XXIII là việc triệu tập Công đồng Vatican II, được loan báo trong Vương cung Thánh đường Thánh Phaolô vào ngày 25 tháng 01 năm 1959. Các mục tiêu ban đầu của Công đồng được nêu rõ trong bài phát biểu vào lễ khai mạc ngày 11 tháng 10 năm 1962: không phải là để đưa ra những chân lý mới, nhưng để xác định lại các học thuyết truyền thống phù hợp hơn với sự nhạy cảm đương đại. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII mời gọi Giáo hội, thay vì lên án và công kích, hãy hướng về lòng thương xót và ủng hộ việc đối thoại với thế giới, trong một nhận thức mới về sứ mệnh của Giáo Hội là đón nhận tất cả mọi người. Trong tinh thần cởi mở phổ quát ấy, các giáo hội Kitô khác cũng được mời tham dự vào Công đồng để khởi đầu một tiến trình xích lại gần nhau hơn.
Vào mùa xuân năm 1963, Đức Gioan XXIII được trao giải thưởng Balzan về hòa bình, xác nhận những nỗ lực của ngài đối với hòa bình qua việc ban hành Thông điệp Mater et Magistra (1961) và Pacem in Terris (1963), cũng như vai trò của ngài trong cuộc khủng hoảng tại Cuba vào mùa thu năm 1962.
Ngài qua đời vào tối ngày 3 tháng 6 năm 1963 và được phong thánh vào ngày 27-4-2014 lúc 10g tại Vatican.
Gioan XXIII: Giáo Hội cởi mở đại đồng đại kết
Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tiếp tục truyền thống của các giáo hoàng tiền nhiệm, muốn giáo triều chứng tỏ sức mạnh và quyền lực của mình trên cả thế giới. Các Kitô Hữu Tin Lành và các người khác thường cho rằng đức giáo hoàng, và người Công Giáo nói chung, hay đắc thắng, kiêu ngạo đề cao sự vinh hiển và quyền lực thần thánh của Giáo Hội Công Giáo mà không nhận ra sự yếu đuối và khuyết điểm của con người. Vì lý do này, Giáo Hội Công Giáo không được sự tin tưởng của những người bên ngoài giáo hội khi họ thấy các giáo hoàng và Giáo Hội Công Giáo cũng chỉ là một tổ chức con người và cũng phạm tội.
Vị giáo hoàng thay đổi toàn thể hình ảnh của Giáo Hội Công Giáo trong cái nhìn của thế giới là Ðức Gioan XXIII. Trong khi các giáo hoàng trước đây mang hình ảnh của một đấng vị vọng và ngay cả xa cách với người dân, Ðức Gioan XXIII là một người vui tính, thật tự nhiên, yêu quý đời sống cũng như dân chúng và ngài không ngần ngại bộc lộ điều ấy. Ðó là một ông cụ bảy mươi sáu tuổi thường mời bạn hữu đến dùng cơm, hay lang thang trên đường phố Rôma để chuyện trò với dân chúng, luôn đến thăm các bệnh viện và nhà tù, và thường kể chuyện vui làm mọi người đều thích thú. Người Công Giáo và Kitô Hữu nói chung đều hân hoan khi thấy đức giáo hoàng cũng là một con người bình thường, và ngài đã chinh phục được nhiều tâm hồn cũng như sự trung kiên của nhiều người.
Tuy nhiên, thật sai lầm khi nghĩ rằng Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII là một người hiểu biết tầm thường. Ðiều nổi bật trong triều đại ngắn ngủi của ngài là sự tin cậy vào Thiên Chúa và cái nhìn sáng suốt của ngài. Thay vì công khai chống đối cộng sản, hoặc bất cứ chính thể nào, Ðức Gioan XXIII tìm cách hòa giải và chuyển trao thông điệp của ngài đến với mọi người: Pacem in Terris (Hoà Bình Trên Thế Giới) và Mater et Magister về trật tự xã hội. Ngài kêu gọi mọi người hãy cùng nhau làm việc để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, phù hợp với các nguyên tắc về công bằng và ích lợi chung mà đã được mọi người công nhận.
Ðức Gioan XXIII còn là người mở đường cho phong trào đại kết, tái hợp nhất mọi Kitô Hữu. Vào đầu thế kỷ mười chín, sự lưu tâm mạnh mẽ đến vấn đề đại kết được phát sinh trong công cuộc truyền giáo của Tin Lành. Họ thấy thật dại dột và hổ thẹn khi các giáo phái Kitô Giáo khác nhau lại tranh dành các lãnh thổ truyền giáo. Các tổ chức nổi tiếng như "Faith and Order" (1925) và "Life and Work" (1927) cố gắng đem người Tin Lành lại với nhau trên phương diện học thuyết và phục vụ. Vào năm 1948, các tổ chức này kết hợp thành tổ chức duy nhất "World Council of Churches". Giáo Hội Công Giáo vẫn đứng tách biệt không dính dáng gì đến sinh hoạt đại kết này, vì cho rằng các người Tin Lành phải giải quyết các mâu thuẫn của họ trước khi thảo luận về sự tương giao với Giáo Hội Công Giáo. Các giáo hoàng tiền nhiệm cho rằng Ðức Giêsu chỉ thiết lập một đức tin và một giáo hội thực, là Giáo Hội Công Giáo. Trong khi không từ chối tính cách độc đáo của Giáo Hội Công Giáo, Ðức Gioan XXIII nhận thức rằng người Công Giáo phải đến với các Kitô Hữu khác và cộng tác với họ để tìm kiếm sự hiệp nhất mà Ðức Giêsu đã mong muốn cho dân của Ngài. Ðức Gioan XXIII đặc biệt yêu quý Giáo Hội Chính Thống Giáo, vì ngài từng là đại diện đức giáo hoàng ở vùng Cận Ðông. Khi đến lúc triệu tập công đồng, Ðức Gioan XXIII đã mời các quan sát viên từ mọi truyền thống Kitô Giáo, và đón nhận các ý kiến cũng như suy tư của họ về diễn tiến của công đồng.
Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII: "Mười Điều Tâm Niệm" Sống Ngày Hôm Nay
1. Ngày hôm nay, tôi sẽ sống tích cực trọn vẹn, chứ không tìm
cách giải quyết mọi vấn đề của đời mình.
2. Ngày hôm nay, tôi sẽ chú ý đặc biệt đến dáng vẻ của mình: ăn
mặc đơn sơ, không lớn tiếng, lịch sự trong cách ứng xử; tôi sẽ
không phê phán ai; tôi cũng sẽ không đòi ai phải ứng xử hoặc kỷ
luật ai, trừ ra chính con người của mình.
3. Ngày hôm nay, tôi vui sướng tin chắc rằng tôi được tạo dựng
để sống hạnh phúc, không chỉ cho đời sau mà ngay cả từ đời này.
4. Ngày hôm nay, tôi sẽ sống theo hoàn cảnh của mình, mà không
đòi hỏi hoàn cảnh phải phù hợp với những ước muốn của tôi.
5. Ngày hôm nay, tôi sẽ dành 10 phút để đọc điều gì thật hữu
ích, và luôn nhớ rằng lương thực cần cho cuộc sống như thế nào
thì đọc điều hữu ích cũng cần thiết để nuôi dưỡng cho linh hồn
mình như vậy.
6. Ngày hôm nay, tôi sẽ làm một điều tốt mà không kể cho ai
nghe.
7. Ngày hôm nay, tôi sẽ làm ít nhất một điều tôi không thích: và
nếu tôi bị tổn thương, thì tôi cũng không cho ai biết điều này.
8. Ngày hôm nay, tôi sẽ hoạch định một chương trình cho riêng
tôi: tôi có thể không theo sát được từng chữ, nhưng tôi sẽ có
một chương trình như thế. Và tôi sẽ đề phòng hai điều tai hại:
cẩu thả và lừng khừng, không dám quyết tâm.
9. Ngày hôm nay, tôi tin chắc rằng, dù thế nào đi nữa, thì Thiên
Chúa vẫn yêu thưong tôi như chỉ có mình tôi trên thế gian này.
10. Ngày hôm nay, tôi sẽ không sợ hãi gì. Tôi sẽ không ngần ngại
thưởng ngoạn vẻ đẹp thiên nhiên và tin tưởng vào lòng nhân ái
của con người và cuộc đời.
Thực thế, trong vòng 12 tiếng đồng hồ, tôi chắc chắn có thể làm
tốt điều mà tôi nghĩ rằng sẽ thật kinh hoàng nếu phải làm nó
suốt cả đời.
Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp từ tài liệu của TGP Sài Gòn, Đaminh VN và Muốn Nên Thánh
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Ml 3, 13 - 4, 2a
"Ðây sẽ đến ngày bừng cháy lên như lò lửa".
Trích sách Tiên tri Malakhi.
Chúa phán: "Lời của các ngươi chống lại Ta thật thô kệch. Các ngươi đã nói: "Chúng tôi có nói gì chống lại Chúa đâu?" Các ngươi còn nói: "Kẻ phụng thờ Thiên Chúa thật luống công! Chúng ta đã tuân giữ giới răn của Chúa, và đã sầu não tiến bước trước mặt Chúa các đạo binh, nào ích lợi gì? Vậy giờ đây chúng ta kể kẻ kiêu căng là những người có phúc: quả thật, những kẻ làm điều ác thì được thịnh vượng, họ đã thử thách Thiên Chúa mà vẫn được cứu thoát".
Bấy giờ những kẻ kính sợ Chúa đàm đạo với nhau, thì Chúa lắng nghe. Trước mặt Chúa là quyển sách kỷ niệm ghi danh sách những kẻ kính sợ Chúa và tưởng nhớ đến thánh danh Người. Chúa các đạo binh phán: "Trong ngày Ta định hành động, họ sẽ là của riêng Ta. Ta sẽ tha thứ cho họ, như một người tha thứ cho đứa con biết phụng sự mình. Khi trở lại, các ngươi sẽ xem thấy sự khác biệt giữa người lành và kẻ dữ, giữa người phụng thờ Thiên Chúa và kẻ không phụng thờ Người".
"Vì đây sẽ đến ngày bừng cháy lên như lò lửa: tất cả những kẻ kiêu căng và những người làm tội ác sẽ như rơm rạ. Ngày ấy đến sẽ thiêu đốt họ, và không để sót lại cho họ cội rễ ngành chồi gì cả", Chúa các đạo binh phán như vậy. "Phần các ngươi là những kẻ kính sợ thánh danh Ta, các ngươi sẽ được Mặt Trời công chính soi sáng cho, mang theo sự cứu chữa dưới cánh Người".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6
Ðáp: Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa (c. Tv 39,5a).
Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.
2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.
3) Kẻ gian ác không được như vậy, họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi; vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.
Alleluia: Lc 4, 18-19
Alleluia, alleluia! - Chúa đã sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 11, 5-13
"Các con hãy xin thì sẽ được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: "Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi anh ấy". Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: "Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được". Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần.
"Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XXVII Thường Niên hôm nay tiếp tục tinh thần cầu nguyện của bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến lòng tin tưởng vào Đấng ban ân sủng cho những ai chân thành thỉnh nguyện.
Trong bài Phúc Âm hôm nay chúng ta cảm thấy như thể xin gì được nấy, xin gì cũng được, căn cứ vào lời Chúa vừa thúc giục:
"Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho", vừa hứa quyết: "Vì hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho".
Có hai lý do để xin gì được nấy, như chiều hướng của bài Phúc Âm cho thấy: trước hết là chỉ cần nhẫn nại kêu xin bằng cách liên tục quấy rầy Chúa:
"Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần".
Lý do chính yếu để được những gì mình xin là tin tưởng vào tấm lòng yêu thương vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng là Cha trên trời bao giờ cũng yêu thương con cái và muốn ban cho con cái những gì tốt nhất và lợi nhất:
"Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người".
Tất nhiên, một khi đã sâu xa và đích thực nhận biết Thiên Chúa là Cha nhân lành và hoàn toàn tin tưởng vào Ngài thì con người có thể biết được những gì đẹp lòng Ngài nhất, và chỉ xin những gì đáng xin, cần xin và phải xin mà thôi, nhất là xin cho tha nhân, xin vì đức bác ái yêu thương v.v. như trường hợp được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thiết đãi anh ấy".
Đối với những ai cầu xin với Thiên Chúa mà không tin tưởng ở chỗ thiếu nhẫn nại, cứ muốn xin ơn kiểu mì ăn liền, xin là được và xin phải được, được như ý, và được ngay lập tức, thì họ chẳng khác gì như thành phần được bài Đọc 1 hôm nay tự nhủ: "Kẻ phụng thờ Thiên Chúa thật luống công! Chúng ta đã tuân giữ giới răn của Chúa, và đã sầu não tiến bước trước mặt Chúa các đạo binh, nào ích lợi gì? Vậy giờ đây chúng ta kể kẻ kiêu căng là những người có phúc: quả thật, những kẻ làm điều ác thì được thịnh vượng, họ đã thử thách Thiên Chúa mà vẫn được cứu thoát".
Trái lại, đối với những ai cầu xin Chúa với tất cả tấm lòng tin tưởng cậy trông vào Ngài, chỉ tìm biết xem điều gì Chúa muốn và đẹp lòng Chúa để làm theo và để cầu xin, thì lời Chúa qua miệng tiên tri Malachi trong Bài Đọc 1 hôm nay cho biết rằng: "Trước mặt Chúa là quyển sách kỷ niệm ghi danh sách những kẻ kính sợ Chúa và tưởng nhớ đến thánh danh Người... Các ngươi là những kẻ kính sợ thánh danh Ta, các ngươi sẽ được Mặt Trời công chính soi sáng cho, mang theo sự cứu chữa dưới cánh Người".
Thân phận của những tâm hồn thành tâm tìm kiếm Chúa và chỉ biết tin tưởng cậy trông vào Ngài được Thánh Vịnh gia ca ngợi là "Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa" (Câu Họa của Bài Đáp Ca hôm nay), và diễn tả về họ trong Thánh Vịnh 1 ở Bài Đáp Ca hôm nay như thế này:
1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày.
2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.
3) Kẻ gian ác không được như vậy, họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi; vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong.
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Ge 1, 13-15; 2, 1-2
"Ngày của Chúa, ngày của u tối mù mịt".
Trích sách Tiên tri Giôel.
Hỡi các tư tế, hãy thắt lưng và kêu khóc! Hỡi các thừa tác viên bàn thờ, hãy la lên! Hỡi các thừa tác viên của Thiên Chúa tôi, hãy tiến vào, hãy mặc áo vải gai mà thức suốt đêm, vì lễ chay, lễ quán bị cất khỏi đền thờ Thiên Chúa các ngươi.
Hãy công bố cuộc chay thánh. Hãy triệu tập đại hội. Hãy tụ họp các bô lão, tất cả những dân cư trong nước hiệp mặt lại trong đền thờ Thiên Chúa các ngươi và hãy kêu cầu Chúa: Ôi, ôi, ôi! ngày vô phúc, vì ngày của Chúa gần đến rồi, nó đến như cuộc tàn phá do Ðấng Quyền Năng thực hiện.
Hãy thổi kèn tại Sion! Hãy la lối trên núi thánh của Ta! Tất cả dân cư trong nước hãy run sợ, vì ngày Chúa đã gần đến rồi, ngày u tối mù mịt, ngày mây đen bão táp: một dân tộc đông đảo và hùng mạnh như rạng đông giãi trên các núi đồi, từ cổ chí kim và bao thế hệ về sau cũng chẳng xảy ra giống như vậy.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 9, 2-3. 6 và 16. 8-9
Ðáp: Chúa công minh thống trị địa cầu (c. 9a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, con sẽ kể ra mọi điều lạ lùng của Chúa. Con sẽ mừng rỡ hân hoan trong Chúa, con sẽ đàn ca danh Ngài, lạy Ðấng Tối Cao. - Ðáp.
2) Chúa trách phạt chư dân, diệt vong đứa ác, bôi nhoà tên tuổi chúng tới muôn đời. Người chư dân rơi chìm xuống hố mà họ đã đào, chân họ mắc vào cái bẫy mà họ đã che. - Ðáp.
3) Nhưng Chúa ngự trị tới muôn đời, Ngài dựng vững ngai vàng ngõ hầu cai trị. Ngài công minh thống trị địa cầu, Ngài chính trực xét xử chư dân. - Ðáp.
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời, và vinh quang trên các tầng trời! - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 11, 15-26
"Nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, (lúc Chúa Giêsu trừ quỷ), thì có mấy người trong dân chúng nói rằng: "Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ". Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống.
Nhưng Người biết ý của họ, liền phán: "Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.
"Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tán hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán.
"Khi thần ô uế ra khỏi người nào, thì nó đi dông dài những nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng không tìm được, nên nó nói rằng: "Ta sẽ trở lại nhà ta, nơi ta đã ra đi". Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được quét sạch và sắp đặt ngăn nắp. Bấy giờ nó đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và tình trạng sau cùng của người ấy trở nên tệ hại hơn trước".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Bài Phúc Âm cho Thứ Sáu Tuần XXVII Thường Niên hôm nay cách bài Phúc Âm hôm qua chỉ có một câu duy nhất, đó là câu "Chúa Giêsu trừ một quỉ câm, và khi tên quỉ này bị khu trừ thì người câm nói được. Thấy thế đám đông tỏ ra bàng hoàng kinh ngạc" (Luca 11:14).
Tuy nhiên, giữa lúc hầu hết dân chúng chứng kiến thấy thế thì đều tỏ ra bàng hoàng kinh ngạc như vậy, cũng còn có một số người vẫn nhất định không tin bằng những dẫn giải lệch lạc hay tiếp tục đòi hỏi hơn thế nữa theo ý của họ rồi mới chịu tin, như bài Phúc Âm hôm nay kể tiếp: "thì có mấy người trong dân chúng nói rằng: 'Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ'. Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống".
Trước thái độ thách thức của một thiểu số con người cứng lòng tin này, Chúa Giêsu đã nhẫn nại cho họ thấy những dẫn giải của họ là sai lầm, hoàn toàn mâu thuẫn, khi Người lấy gậy ông đập lưng ông, lấy chính lập luận của họ để bẻ gẫy họ, khiến họ cứng họng, ở chỗ:
"Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
Phải, Chúa Giêsu đã chẳng những vạch ra cho những con người cứng lòng tin này thấy cái mâu thuẫn đầy thành kiến của họ, mà còn từ đó cho họ thấy dấu chỉ thời đại về Nước Thiên Chúa ở ngay sự kiện Người trừ quỉ câm bấy giờ nữa: "Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
Nếu theo nguyên tắc "Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán", như Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, thì những kẻ dẫn giải sai lầm về sự kiện trừ quỉ câm của Người trong bài Phúc Âm là thành phần nghịch với Người, đồng thời cũng vì thế mà trở thành những kẻ "phân tán" hay cũng gọi là thành phần thọc gậy bánh xe hay thành phần phá đám.
Đoạn cuối cùng của Bài Phúc Âm hôm nay cũng rất đáng chú ý, bởi vì nó hình như liên quan đến chính bản thân của con người được Chúa Giêsu trừ quỉ cho:
"Khi thần ô uế ra khỏi người nào, thì nó đi dông dài những nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng không tìm được, nên nó nói rằng: 'Ta sẽ trở lại nhà ta, nơi ta đã ra đi'. Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được quét sạch và sắp đặt ngăn nắp. Bấy giờ nó đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và tình trạng sau cùng của người ấy trở nên tệ hại hơn trước".
Ở đây chúng ta có thể áp dụng vào trường hợp của thành phần tân tòng được trừ quỉ nhờ Phép Rửa lúc họ được thanh tẩy khỏi nguyên tội, hay trường hợp của thành phần được trừ quỉ nhờ quyền năng tha tội của Thiên Chúa trong tòa giải tội, hoặc trường hợp của những tâm hồn được trừ quỉ bởi ân sủng dồi dào nhờ một cuộc tĩnh tâm tuyệt vời nào đó v.v.
Thế nhưng, trong tiến trình tiến đức và hành trình đức tin, nhất là gặp những giai đoạn khô khan nguội lạnh, các đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu, (được ám chỉ nơi 7 mối tội đầu, là những gì không bao giờ bị tiêu diệt hoàn toàn trong con người dù họ đã được lãnh nhận Phép Rửa, đã được thánh hóa), bấy giờ chúng được xu hướng xấu nơi con người, một xu hướng đóng vai "thần ô uế" nơi con người, chộp ngay lấy thời cơ này, sau một thời gian thiếp ngủ trước tác dụng của ân sủng thần linh nơi tâm hồn tân tòng hay mới hòa giải hoặc mới tĩnh tâm sốt sắng về, tái hoành hành và tung hoành còn dữ dội hơn trước nữa, vì có thêm vây cánh của nó là 7 mối tội đầu, những mối tội đóng vai như "7 tà thần khác", khiến tình trạng tâm hồn vừa sốt sắng hay trở lại ấy trở nên khốn đốn hơn bao giờ hết, nếu không biết "tỉnh thức và cầu nguyện" (Mathêu 26:41).
Tuy nhiên, theo sự quan phòng thần linh vô cùng huyền diệu của Vị Thiên Chúa toàn thiện và toàn ái thì cuộc tấn công của "thần ô uế" cùng với "7 tà thần khác" đó nơi tâm hồn Kitô hữu chỉ mặc hình thức của một cuộc thử thách đức tin của họ, như tiên tri Joel ở Bài Đọc 1 hôm nay diễn tả như là "ngày Chúa đã gần đến rồi, ngày u tối mù mịt, ngày mây đen bão táp", nhờ đó họ chứng tỏ họ sống công chính thật hay chăng và tới đâu.
Và nếu chỉ vì họ bất trung cách nào mà họ phải chịu hậu quả "khốn nạn hơn trước" như thế, hoặc vì họ đã chiều theo "thần ô uế" là khuynh hướng xấu của họ và "7 tà thần khác" là 7 mối tội đầu trong họ, mà họ đã sống buông tuồng sau một thời gian sốt sắng đạo đức tốt lành, thì việc họ cần phải làm để chống lại xu hướng xấu cùng với 7 mối tội đầu ấy, cũng đã được tiên tri Joel kêu gọi thực hiện, đó là: "hãy thắt lưng và kêu khóc... hãy mặc áo vải gai mà thức suốt đêm... Hãy công bố cuộc chay thánh".
Việc họ trung kiên sống đức tin trước sức cám dỗ của xu hướng xấu và mầm mống tội lỗi nơi họ, hay trở lại với đức tin sau khi sa ngã sống buông tuồng cách nào, cũng chính là việc họ tuyên xưng: "Chúa công minh thống trị địa cầu", như câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay, một bài Đáp Ca chất chứa tâm tình tri ân cảm tạ của những tâm hồn nhận biết Ngài là Vị Thiên Chúa tối cao làm chủ tất cả mọi sự theo dự án thần linh và công cuộc cứu độ của Ngài:
1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, con sẽ kể ra mọi điều lạ lùng của Chúa. Con sẽ mừng rỡ hân hoan trong Chúa, con sẽ đàn ca danh Ngài, lạy Ðấng Tối Cao.
2) Chúa trách phạt chư dân, diệt vong đứa ác, bôi nhoà tên tuổi chúng tới muôn đời. Người chư dân rơi chìm xuống hố mà họ đã đào, chân họ mắc vào cái bẫy mà họ đã che.
3) Nhưng Chúa ngự trị tới muôn đời, Ngài dựng vững ngai vàng ngõ hầu cai trị. Ngài công minh thống trị địa cầu, Ngài chính trực xét xử chư dân.
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Ge 3, 12-21
"Các ngươi hãy tra lưỡi hái, vì mùa gặt đã tới".
Trích sách Tiên tri Giôel.
Ðây Chúa phán: "Các dân hãy chỗi dậy và tiến đến đồng Giosaphát: vì Ta sẽ ngự nơi đó để phán xét mọi dân tộc chung quanh. Các ngươi hãy tra lưỡi hái, vì mùa gặt đã tới. Này, các ngươi hãy xuống đi, vì bàn ép đã đầy, các chum đã tràn, vì tội ác của chúng đã gia tăng.
"Có vô số dân tộc trong cánh đồng giết chóc: vì ngày Chúa đến trong cánh đồng giết chóc đã gần. Mặt trời mặt trăng đã ra tối tăm, các vì sao đã mất ánh sáng. Từ Sion, Chúa sẽ hét to, và từ Giêrusalem, tiếng Người sẽ vọng ra: trời đất sẽ rung chuyển và Chúa sẽ là niềm cậy trông của dân Người, là sức mạnh của con cái Israel. Các ngươi sẽ biết rằng Ta là Thiên Chúa các ngươi, đang ngự trên Sion, núi thánh của Ta: Giêrusalem sẽ là thành thánh và các ngoại kiều không còn lai vãng qua đó nữa.
"Trong ngày ấy, sẽ xảy ra là các núi sẽ nhỏ mật ngọt, các đồi sẽ chảy ra sữa; nước sẽ chảy qua các sông ở Giuđa, mạch nước từ đền thờ Chúa sẽ chảy ra tưới suối gai góc. Ai-cập sẽ trở nên hoang vu; Iđumê sẽ trở thành rừng bị tiêu huỷ: lý do là tại chúng ngược đãi con cái Giuđa, và đổ máu vô tội trong lãnh thổ của chúng. Còn đất Giuđa sẽ có người cư ngụ đời đời, và Giêrusalem cũng sẽ có người cư ngụ từ đời nọ tới đời kia. Ta sẽ rửa sạch máu chúng mà trước Ta chưa rửa sạch, và Chúa sẽ ngự tại Sion".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 96, 1-2. 5-6. 11-12
Ðáp: Người hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa! (c. 12a).
Xướng: 1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy hân hoan; hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui! Mây khói và sương mù bao toả chung quanh, công minh chính trực là nền kê ngai báu. - Ðáp.
2) Núi non vỡ lở như mẩu sáp ong trước thiên nhan, trước thiên nhan Chúa tể toàn cõi đất. Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người. - Ðáp.
3) Sáng sủa bừng lên cho người hiền đức, và niềm hoan hỉ cho kẻ lòng ngay. Người hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa, và hãy ca tụng thánh danh Người! - Ðáp.
Alleluia: Ga 1, 14 và 12b
Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 11, 27-28
"Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ cất tiếng nói rằng: "Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!" Nhưng Người phán rằng: "Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XXVII hôm nay phải nói là bài Phúc Âm ngắn nhất trong các bài Phúc Âm cho phần phụng vụ lời Chúa. Vì bài Phúc Âm này chỉ có 2 câu vắn gọn mà thôi: "Khi ấy, Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ cất tiếng nói rằng: 'Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!' Nhưng Người phán rằng: 'Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn'".
Qua 2 câu ngắn ngủi của bài Phúc Âm này, Thánh ký Luca thuật lại cho chúng ta biết về sự kiện có một người đàn bà nghe thấy Chúa Giêsu giảng dạy thì bị cảm kích nên đã lên tiếng ngợi khen mẹ của nhà đại giảng thuyết có phúc vì đã được cưu mang ngài và cho ngài bú, thế nhưng chính vị đại giảng thuyết gia này đã đính chính về cái phúc thật mẹ của Người có được không như người đàn bà ấy tưởng nghĩ.
Thật vậy, Chúa Giêsu có ý đề cao mẹ của Người về hạnh phúc thật nơi Mẹ không phải chỉ ở tầm mức thể lý là "cưu mang" Người và cho Người "bú" mớm như một người mẹ bình thường, mà trên hết và trước hết ở chỗ Mẹ đã "nghe và giữ lời Thiên Chúa", bằng không Mẹ đã vĩnh viễn không xứng đáng làm Mẹ của Người và có khả năng làm Mẹ của Người, Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Đấng đến không phải để làm theo ý của mình mà là ý của Đấng đã sai Người (xem Gioan 6:38).
Thật vậy, Mẹ Maria đầy ân phúc đã chẳng những được Thiên Chúa ở cùng, được làm Mẹ Con Đấng Tối Cao, làm Mẹ Con Thiên Chúa (xem Luca 1:28,32,34), mà còn đầy ân phúc vì đã tin (xem Luca 1:45), đã xin vâng (xem Luca 1:38), "đã theo Con Chiên đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới" (Khải Huyền 14:4), cho tới khi đứng bên Thánh Giá với con mình (xem Gioan 19:25).
Bản thân Mẹ Maria đầy ơn phúc chỉ biết "nghe và giữ lời Thiên Chúa", luôn đáp ứng từng tác động thần linh của Chúa nơi Mẹ, trung kiên cho đến khi Mẹ đứng bên thập giá của Chúa Kitô Con Mình là chính "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), có thể được ám chỉ nơi một số hình ảnh liên quan đến và ám chỉ về ân sủng thần linh và sự sống thần linh (mật, sữa, nước) được tiên tri Joel tiên báo trong Bài Đọc 1 hôm nay, đó là: "Các núi sẽ nhỏ mật ngọt, các đồi sẽ chảy ra sữa; nước sẽ chảy qua các sông ở Giuđa, mạch nước từ đền thờ Chúa sẽ chảy ra tưới suối gai góc".
Những tâm hồn chỉ biết "nghe và giữ Lời Thiên Chúa" như Mẹ Maria, được Thánh Vịnh 96 ở Bài Đáp Ca hôm nay gọi là "Người hiền đức", thành phần luôn cảm thấy "mừng vui trong Chúa" là Đấng Tối Cao, là Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình, Đấng chí tôn chí ái trên hết mọi sự của họ, Đấng vô cùng đáng tôn vinh chúc tụng, như tâm thức được chất chứa trong Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy:
1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy hân hoan; hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui! Mây khói và sương mù bao toả chung quanh, công minh chính trực là nền kê ngai báu.
2) Núi non vỡ lở như mẩu sáp ong trước thiên nhan, trước thiên nhan Chúa tể toàn cõi đất. Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người.
3) Sáng sủa bừng lên cho người hiền đức, và niềm hoan hỉ cho kẻ lòng ngay. Người hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa, và hãy ca tụng thánh danh Người!
Chúng ta có được những dữ kiện xác thực về vị thánh này là từ người thù địch với ngài, đó là Hippolytus, vị Giáo Hoàng đối lập đầu tiên, sau này đã tử đạo. Nguyên tắc phủ định được áp dụng: Nếu Callistus có làm điều gì sái quấy, chắc chắn Hippolytus sẽ nhắc đến.
Dầu vậy, thánh Hypolytô không thể ngụy tạo các sự kiện hiển nhiên được và biết lượng định theo lương tri, chúng ta biết nhiều về thánh Calistô I hơn các Đức Giáo Hoàng tiên khởi khác. Người là nô lệ của một Kitô hữu tên là Carpôphôrô. Biết được khả năng về kinh tế và tài tổ chức của ngài, ông đặt ngài quản trị một ngân hàng. Công cuộc làm ăn thất bại, chúng ta có thể tin chắc rằng Calistô vô tội chứ không phải ngài biển thủ ngân quỹ như Hipolytô qui trách. Để đòi lại những món nợ bởi người Do thái, ngài bắt buộc phải vào một hội đường. Thế nhưng những người Do thái lại tố cáo ngài là Kitô hữu. Quan tổng trấn Rôma bắt ngài, đánh đòn rồi gửi đi làm lao công ở các hầm mỏ miền Sardinia.
Callistus là một nô lệ trong đám gia nhân của triều đình Rôma, một Kitô hữu tên là Carpôphôrô. Biết được khả năng về kinh tế và tài tổ chức của ngài, ông đặt ngài quản trị một ngân hàng. Công cuộc làm ăn thất bại, chúng ta có thể tin chắc rằng Calistô vô tội chứ không phải ngài biển thủ ngân quỹ như Hipolytô qui trách. Nhưng có nguồn khác lại nói ngài được giao cho công việc giữ tiền của chủ, ngài đánh mất tiền, bỏ trốn và bị bắt. Sau khi phục dịch một thời gian, ngài được thả ra để tìm lại số tiền. Để đòi lại những món nợ bởi người Do thái, ngài bắt buộc phải vào một hội đường. Thế nhưng những người Do thái lại tố cáo ngài là Kitô hữu. Quan tổng trấn Rôma bắt ngài, đánh đòn rồi gửi đi làm lao công ở các hầm mỏ miền Sardinia. Một nguồn khác cho rằng vì quá hăng say, ngài lại bị bắt vì cãi nhau trong đền thờ người Do Thái. Lần này ngài bị đày đi làm hầm mỏ ở Sardinia. Sau đó ngài được thả về nhờ sự can thiệp của bà vợ bé của hoàng đế, và sống ở Anzio (vùng bờ biển địa đầu danh tiếng của thế chiến II)
Một nguồn khác lại kể rằng khi bà Marcia, người thân của hoàng đế Commođô, chắc có lẽ là vợ bé của hoàng đế này, như vừa được đề cập tới, xin được ơn phóng thích cho các tội nhân, Calistô trở về. Đức Giáo Hoàng Victor gửi ngài tới Antium để dưỡng sức và cấp dưỡng cho ngài. Điều này chứng tỏ rằng việc ngài bị Đức Giáo Hoàng Victor gạch tên khỏi sổ những người bị tù tội vì đức tin, mà Hipolytô viết ra là sai sự thật. Đến khi thánh Zephirinô lên kế vị Đức Giáo Hoàng Victor, Calistô được đặt làm Tổng phó tế và có nhiệm vụ coi sóc các nghĩa trang của người Kitô ở Rôma, có lẽ đây là phần đất đầu tiên do Giáo hội làm chủ. Ðức Giáo Hoàng phong cho ngài làm phó tế, coi ngài là bạn và là người cố vấn.. Ngài xây dựng một mộ địa mang tên ngài. Đây là tài sản do một người bạn có quyền thừa kế tên là Cêcilia dâng tặng. Calistô đã tỏ ra là một nhà quản trị có khả năng, nên năm 217, ngài được chọn làm Giáo Hoàng kế vị thánh Zephirinô. Chính ngài được bầu làm Giáo Hoàng với đa số phiếu của hàng giáo sĩ và giáo dân ở Rôma, và do đó bị tấn công cách chua chát bởi Hippolytus, người thất cử, là người tự đặt mình là Giáo Hoàng đối lập đầu tiên trong lịch sử Giáo hội. Sự phân ly này kéo dài 18 năm.
Trên ngai Giáo Hoàng, Đức Callistô I tỏ ra là người kiên quyết bảo vệ đức tin tôn giáo. Ngài đã kết án Sabelliô vì ông này chủ trương sai lạc về tín điều Chúa Ba Ngôi. Đối với Hipolytô, ngài cảnh cáo chủ trương sai lạc theo khuynh hướng nhị nguyên của ông về Chúa Giêsu. Tuy nhiên về phương diện kỷ luật, ngài tỏ ra rất khôn ngoan và nhân từ. Dường như chính ngài là đấng đã tổ chức các tước vị tại Rôma, tại các nhà thờ thuộc giáo xứ ...
Hippolytus được tôn kính như một vị thánh. Ngài bị lưu đày trong thời kỳ cấm cách năm 235, và đã hòa giải với Giáo hội. Ngài chết vì sự tra tấn ở Sardinia. Hippolytus tấn công Callistus về hai điểm — học thuyết và kỷ luật. Dường như Hippolytus đã đi quá xa trong việc phân biệt giữa Chúa Cha và Chúa Con (hầu như hai Chúa), có lẽ vì ngôn ngữ thần học thời ấy chưa được rõ ràng. Ngài cũng kết án Callistus là quá khoan dung, vì những lý do có thể khiến chúng ta ngạc nhiên: (1) Callistus cho phép những người đã thực hiện việc đền tội, sám hối công khai về tội giết người, dâm dục và ngoại tình được Rước lễ; (2) ngài hợp thức hóa hôn nhân giữa người nô lệ và người tự do – trái với luật Rôma; (3) ngài cho phép truyền chức cho các ông đã lập gia đình hai hay ba lần; (4) ngài chủ trương tội trọng không phải là lý do đầy đủ để cách chức một Giám mục; (5) ngài chủ trương chính sách khoan dung đối với những người đã từng chối đạo trong thời kỳ bách hại.
Năm 222, thánh Calistô I từ trần bằng một cái chết dữ dằn. Theo truyền thuyết, ngài bị đám đông giận dữ nổi loạn ném xuống giếng, tại Tarstevere. Người ta cho rằng các lương dân căm thù vì bị ngài trục xuất đã đưa tới cái chết này. Từ đầu tới cuối, ngài là một con người cương nghị và độc tài. Ngài được chôn cất, không phải nơi hầm mộ mang tên ngài, nhưng tại nghĩa địa ở đường Aurelia. Ðức Callistus là vị Giáo Hoàng đầu tiên (ngoại trừ thánh Phêrô) được coi là tử đạo trong danh sách tử đạo tiên khởi của Giáo Hội.
Lời bàn
Ðời sống của thánh nhân cho thấy con đường lịch sử của Giáo hội, cũng như của một tình yêu chân chính, không bao giờ êm ả. Giáo hội đã và đang phải trải qua những phấn đấu cam go để xác định các mầu nhiệm đức tin trong một ngôn ngữ, mà tối thiểu, phải tạo thành bức chắn ngăn trở sự sai lầm. Về phương diện kỷ luật, Giáo hội phải giữ được lòng thương xót của Ðức Kitô chống lại sự khắt khe, trong khi vẫn giữ được lý tưởng Phúc Âm yêu cầu một sự hối cải và kỷ luật bản thân tận căn. Mỗi một Giáo Hoàng – đúng hơn mỗi một Kitô hữu – phải đi trên con đường khó khăn giữa sự khoan hồng "hợp lý" và sự nghiêm khắc "hợp lý".
Vì thánh Callistô I đã quá nhận thức được sự tha thứ của Thiên Chúa trong đời sống tư riêng của mình, nên thánh nhân rất sẵn lòng tha thứ cho người khác. Chúng ta có tha thứ cho người khác với cùng một mức độ mà chúng ta mong muốn Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta không?
Lời trích
Ðức Giêsu nói về những người thời ấy, "giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ nói với nhau, 'Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không than khóc'. Vì ông Gioan [Tẩy Giả] đến, không ăn không uống, thì chúng bảo: 'Ông ta bị quỷ ám'. Con Người đến, ăn uống như mọi người, thì chúng lại bảo: 'Ðây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.'" (Matthew 11:16b-19a).
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ tài liệu của Xito Thiên Phước và Vết Chân Người