Chúa Nhật
Lời
Chúa
Bài Ðọc I:
Cn 31, 10-13, 19-20. 30-31
"Nàng cần
mẫn dùng tay làm việc".
Bài trích
sách Châm Ngôn.
Ai tìm được
một người vợ tài đức? Nàng đáng giá hơn ngọc ngà. Chồng nàng đặt lòng tin
tưởng nơi nàng và chàng không thiếu thốn vật thực. Trọn đời, nàng sẽ mang
lại cho chồng sự lành, chứ không phải sự dữ. Nàng tìm lông chiên và sợi gai,
rồi nàng cần mẫn dùng tay làm việc. Nàng ra tay đưa thoi dệt vải, và ngón
tay nàng cầm xe kéo sợi. Nàng rộng tay bố thí cho người nghèo khó, và giơ
tay hướng dẫn kẻ bần cùng.
Duyên dáng
thì giả dối và nhan sắc thì hão huyền: Người phụ nữ kính sợ Chúa, sẽ được ca
tụng. Hãy tặng cho nàng hoa quả do tay mình làm ra, và sự nghiệp của nàng
hãy ca tụng nàng tại các cửa thành.
Ðó là lời
Chúa.
Ðáp Ca: Tv
127, 1-2. 3. 4-5
Ðáp: Phúc
thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa (x. c. 1a).
Xướng: 1)
Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của
Người. Công quả tay bạn làm ra bạn được an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ
gặp may. - Ðáp.
2) Hiền thê
bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn, con cái bạn
như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. - Ðáp.
3) Ðó là
phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Thiên Chúa. Nguyện Thiên Chúa từ Sion
chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi
ngày trong đời sống bạn. - Ðáp.
Bài
Ðọc II: 1 Tx 5, 1-6
"Ngày của
Chúa bắt chợt anh em như kẻ trộm".
Bài trích
thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân
mến, về thời nào và lúc nào, anh em không cần chúng tôi viết cho anh em. Vì
chính anh em đã biết rõ ngày Chúa sẽ đến như kẻ trộm trong đêm tối.
Khi người ta
nói rằng: "Yên ổn và an toàn", thì chính lúc đó tai hoạ thình lình giáng
xuống trên họ, như cơn đau đớn xảy đến cho người mang thai và họ không sao
thoát khỏi. Phần anh em, hỡi anh em thân mến, anh em không còn tối tăm, đến
nỗi ngày đó bắt chợt anh em như kẻ trộm, vì tất cả anh em là con cái sự
sáng, con cái ban ngày; chúng ta không thuộc về ban đêm và tối tăm. Vậy
chúng ta đừng mê ngủ như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và điều độ.
Ðó là lời
Chúa.
Alleluia:
Lc 21, 36
Alleluia,
alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng
đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.
Phúc Âm:
Mt 25, 14-30
"Vì ngươi
đã trung tín trong việc nhỏ, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa
Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa,
liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này
năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tuỳ theo khả năng
của mỗi người, đoạn ông ra đi.
"Người lãnh
năm nén bạc, ra đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. Người
lãnh hai nén cũng đi làm lợi được hai nén khác. Còn người lãnh một nén, thì
đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình.
"Sau một
thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người
lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông
trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác". Ông chủ bảo
người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín
trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự
vui mừng của chủ ngươi". Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và nói: "Thưa
ông, ông đã trao cho tôi hai nén bạc; đây tôi đã làm lợi được hai nén khác".
Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã
trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào
hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
"Còn người
lãnh một nén bạc đến và nói: "Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt
nơi không gieo và thu nơi ông không phát: nên tôi khiếp sợ (mà) đi chôn giấu
nén bạc của ông dưới đất. Ðây của ông, xin trả lại cho ông". Ông chủ trả lời
người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ hư thân và biếng nhác, người đã biết ta gặt chỗ
không gieo, thu nơi không phát: vậy lẽ ra người phải giao bạc của ta cho
người đổi tiền, và khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời. Bởi thế, các
ngươi hãy lấy nén bạc lại mà trao cho người có mười nén. Vì người có sẽ cho
thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy
đi. Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở
đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
Ðó là lời
Chúa.
Hoặc bài vắn này: Mt
25, 14-15. 19-20
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa
Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa,
liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này
năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tuỳ theo khả năng
của mỗi người, đoạn ông ra đi.
"Sau một
thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người
lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông
trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác".
Ðó là lời
Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Một thứ “yên ổn và an toàn” nguy hiểm như thể con người “mê ngủ”,
rất dễ bị chụp bắt bởi “đêm tối”
Ý nghĩa của Phụng Vụ Lời Chúa nói chung và
Bài Phúc Âm nói riêng cho Chúa Nhật XXXIII Thường Niên hôm nay cũng vẫn tiếp
tục chiều hướng tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa, một yếu tố then chốt bất
khả thiếu và bất khả phân ly để con người chẳng những được cứu độ, nghĩa là
“được sống” mà còn có thể “sống viên mãn hơn” (Gioan 10:10).
Vì tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa đây là gì, nếu không phải, trước hết,
là chấp nhận những gì Chúa ban cho mình, đó chính là mạc khải thần linh của
Ngài và về Ngài qua giòng Lịch Sử của Dân Do Thái cho “tới thời điểm viên
trọn” (Galata 4:4) là thời điểm mạc khải thần linh của Ngài nên trọn nơi Con
của Ngài là Chúa Giêsu Kitô Nhập Thể và Vượt Qua.
Và tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa đây còn ở chỗ để cho Ngài chiếm đoạt
mình, nhờ đó Ngài muốn làm gì thì làm theo ý muốn tối hậu và toàn thiện của
Ngài, và nhờ đó Kitô hữu như cành nho đã sinh hoa trái lại càng sinh hoa
trái dồi dào hơn nữa (xem Gioan 15:2) nhờ quyền lực vô biên của Ngài nơi họ
như đã thể hiện nơi Đức Maria đầy ơn phúc.
Nếu Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXXII tuần trước liên quan đến 5 cô trình nữ
phù dâu khôn ngoan ở chỗ cầm đèn sáng đi đón chàng rể kèm theo cả dầu là
lòng cậy trông, thì Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXXIII tuần này liên quan đến
thành phần đầy tớ được chủ đi xa trao cho các nén bạc tùy khả năng và sứ vụ
để làm lợi cho chủ, nhưng có kẻ quả thực đã làm lợi có kẻ không.
Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao người đầy tớ không sinh lợi cho chủ,
nhưng cũng chẳng làm thiệt hại gì của chủ, đã cẩn thận giữ nguyên tất cả
những gì chủ trao cho mình để hoàn lại cho chủ một cách nguyên vẹn, mà vẫn
bị đời đời trầm luân: “Còn
tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ
phải khóc lóc nghiến răng"? Trong trường
hợp này phải chăng vị chủ nhân ông này đã là một con người đúng như người
đầy tớ bất hạnh này đã nghĩ: “keo
kiệt, gặt nơi không gieo và thu nơi ông không phát”?
Vấn đề rắc rối ở đây không phải là vị chủ nhân ông mà là người đầy tớ! Tại
sao thế? Tại sao hai người đầy tớ kia không có vấn đề gì với vị chủ nhân ông
này mà người cuối cùng lại có, nếu không phải vì hai người đầy tớ này biết
phận mình trước nhan Thiên Chúa chủ tể bằng niềm tin vào Ngài, trong khi
người đầy tớ bất hạnh ấy không tin tưởng vào vị chủ nhân ông ấy, vị chủ nhân
ông rất công minh và quảng đại đã tưởng thưởng xứng đáp cho hai người đầy tớ
sinh lợi gấp trăm cho nén bạc được trao cho họ, chứ không “keo kiệt” và bóc
lột như người đầy tớ thiển cận và lười biếng gán ghép cho chủ như cái cớ
chính đáng để hưởng nhàn, khỏi phải vất vả khó nhọc.
Vấn đề không phải chỉ có thế mà người đầy tớ bị phạt quá nặng như vậy, mà là
ở chỗ tận thâm tâm người đầy tớ này quá cao ngạo, không muốn làm đầy tớ, làm
tôi cho chủ, để chủ hưởng lợi, còn mình phải vất vả khó nhọc, trái lại,
người đầy tớ này muốn làm chủ, hơn làm tôi cho chủ, muốn hoàn toàn theo ý
riêng mình hơn là ý chủ, khinh khi những gì chủ trao, không muốn chấp nhận
chủ nhân ông của mình, nghĩa là không chấp nhận chủ quyền tối thượng của
Thiên Chúa trong cuộc đời của mình, bằng cách không làm theo ý muốn tối cao
của Ngài đối với hắn.
Nếu trong cơn cám dỗ bất phục tùng ấy, người đầy tớ này vẫn cố gắng tỏ ra
một chút thiện chí nào đó, một chút thiện chí chứng tỏ hắn cũng tin tưởng
cậy trông vào vị chủ nhân ông mà hắn tự nhiên có thành kiến xấu theo chủ
quan của hắn, thì cuối cùng hắn vẫn được xót thương, căn cứ vào thiện chí
của hắn, một thiện chí hắn cố gắng tỏ ra với chủ chẳng khác nào như hắn gửi
nén bạc được chủ trao vào ngân hàng để lấy lời, nhờ một chút thiện chí của
hắn, một thiện chí đã được chính Lòng Thương Xót Chúa chấp nhận và làm cho
sinh hoa kết trái là chính phần rỗi đời đời của hắn.
Nếu Bài Đọc 1 tuần trước nói về sự khôn ngoan giúp
cho con người tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa, nhờ đó họ được cứu độ,
được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô, thì Bài Đọc 1
tuần này lại nói về “một
người vợ tài đức”, ám chỉ tấm lòng gắn bó của loài người với Thiên Chúa, hay
nói cách khác, ám chỉ lòng “kính sợ Chúa” nơi con người, một lòng kinh sợ
bất khả thiếu để có thể dễ dàng phục tùng Thiên Chúa và phụng sự Ngài, một
lòng kính sợ cũng đã được Bài Đáp Ca hôm nay dường như sánh ví như “hiền thê
bạn” như sau:
1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên
Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người. Công quả tay bạn làm ra bạn
được an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái,
trong gia thất nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô
liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn.
3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn
sợ Thiên Chúa. Nguyện Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy
cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống bạn.
Thái độ hưởng nhàn của người đầy tớ bất hạnh
trong Bài Phúc Âm hôm nay đã được Thánh Phaolô, trong Thư thứ nhất gửi Giáo
Đoàn Thessalonica ở Bài Đọc 2 hôm nay so sánh như là một thứ “yên ổn và an
toàn” nguy hiểm như thể con người “mê ngủ”, rất dễ bị chụp bắt bởi “đêm
tối”, cần phải “tỉnh thức và điều độ” để khỏi lâm vào số phận vô cùng khốn
nạn của người đầy tớ bất hạnh trong Phúc Âm, như sau:
“Khi người ta nói rằng: ‘Yên ổn và an toàn’,
thì chính lúc đó tai hoạ thình lình giáng xuống trên họ, như cơn đau đớn xảy
đến cho người mang thai và họ không sao thoát khỏi. Phần anh em, hỡi anh em
thân mến, anh em không còn tối tăm, đến nỗi ngày đó bắt chợt anh em như kẻ
trộm, vì tất cả anh em là con cái sự sáng, con cái ban ngày; chúng ta không
thuộc về ban đêm và tối tăm. Vậy chúng ta đừng mê ngủ như những người khác,
nhưng hãy tỉnh thức và điều độ”.
Thứ
Hai
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) 1
Mcb 1, 11-16. 43-45. 57-60. 65-67
"Dân Israel phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp".
Trích sách Macabê quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, bởi dòng các vua Hy-lạp sinh ra một mầm mống tội lỗi,
là Antiôcô Êpiphan, con vua Antiôcô, trước kia bị bắt làm con tin tại Rôma;
năm vương quốc Hy-lạp một trăm ba mươi bảy, ông lên ngôi vua.
Thời đó từ Israel cũng xuất hiện một số người bất lương mê hoặc được nhiều
người, chúng nói rằng: "Này, ta hãy giao ước với các dân ở chung quanh chúng
ta, vì từ ngày chúng ta đoạn giao với các dân ấy, chúng ta đã gặp nhiều tai
hoạ". Họ cho lời nói ấy là đúng. Một số trong dân chúng hối hả đi yết kiến
nhà vua và được nhà vua cho phép tuân giữ các luật lệ của dân ngoại. Họ liền
xây cất một thao trường ở Giêrusalem theo tập quán của dân ngoại; họ tìm
cách huỷ bỏ vết tích của phép cắt bì, chối bỏ Giao Ước thánh để rồi giao ước
với kẻ ngoại. Họ tự bán mình để làm sự dữ.
Vua Antiôcô ra chiếu chỉ khắp nước truyền cho mọi dân hợp thành một dân và
mỗi dân phải bỏ tục lệ riêng mình; tất cả các dân ngoại đều tuân lệnh nhà
vua. Nhiều người Israel cũng sẵn sàng theo việc phượng tự của nhà vua, họ
liền hiến tế cho ngẫu tượng và phế bỏ ngày sabbat.
Ngày rằm tháng Kislêu, năm một trăm bốn mươi lăm, vua Antiôcô đặt một ngẫu
tượng ghê tởm ngay trên bàn thờ dâng của lễ toàn thiêu. Người ta cũng lập
nhiều bàn thờ khác trong các thành lân cận của Giuđa: người ta đốt hương
cúng tế trước cửa nhà và ở các công trường. Hễ gặp thấy sách luật nào, họ xé
nát và đem đốt đi. Nếu người ta bắt gặp sách giao ước trong nhà người nào
hoặc bắt gặp kẻ nào giữ Luật Chúa, thì kẻ ấy sẽ bị xử tử theo đúng chiếu chỉ
của nhà vua. Nhưng cũng có nhiều người Israel tỏ ra kiên quyết, và nhất định
không ăn của gì dơ nhớp; họ thà chết chẳng thà làm cho mình ra ô uế bởi của
ăn dơ và phạm đến Giao Ước thánh, và quả thực họ đã chết. Dân Israel phải
chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 53. 61. 134. 150. 155. 158
Ðáp: Lạy
Chúa, xin bảo toàn cho con sống, và con sẽ tuân giữ lời nghiêm huấn của Ngài
(x. c. 88).
Xướng: 1) Con nổi cơn uất hận vì những người tội lỗi, bọn chúng bỏ rơi luật
pháp của Ngài. - Ðáp.
2) Thừng chão bọn ác nhân đã trói buộc con, nhưng con chẳng lãng quên luật
pháp của Ngài. - Ðáp.
3) Xin Chúa cứu con khỏi người ta áp bức, để con tuân giữ các huấn lệnh của
Ngài. - Ðáp.
4) Những kẻ bách hại con cách độc ác đang tiến lại gần, bọn chúng sống xa
pháp luật của Chúa. - Ðáp.
5) Ơn cứu độ của Chúa xa bọn ác nhân, vì chúng chẳng lo giữ những thánh chỉ
của Ngài. - Ðáp.
6) Nhìn thấy những kẻ phản bội mà con chán nản, vì chúng không tuân giữ lời
sấm của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Lc 16, 31
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể
xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 18, 35-43
"Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi? - Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa đến gần thành Giêricô, thì có một người mù ngồi ăn xin bên vệ
đường. Khi nghe tiếng đám đông đi qua, anh liền hỏi có chuyện gì đó. Người
ta nói cho anh biết có Ðức Giêsu Nazareth đang đi qua. Bấy giờ anh liền kêu
lên rằng: "Lạy ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Những người đi
trước mắng bảo anh nín đi, nhưng anh lại càng kêu lớn tiếng hơn: "Lạy con
vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Vậy Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến
cùng Người. Khi anh đến gần bên Người, Người hỏi anh: "Ngươi muốn Ta làm gì
cho ngươi?" Anh thưa: "Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy". Chúa Giêsu bảo
anh: "Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". Tức khắc anh thấy
được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy toàn dân liền ca
ngợi Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời
Chúa
Một vũ điệu thần linh tuyệt vời
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Hai Tuần XXXIII Thường Niên,
cũng là bài Phúc Âm theo Thánh Marco (10:46-52) được Giáo Hội
chọn đọc cho Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm B, về phép lạ chữa lành
của Chúa Giêsu "cho một
người mù ngồi ăn xin bên vệ đường".
Tuy nội dung của 2 bài Phúc Âm này được cả hai
Thánh Ký Marco và Luca thuật lại giống nhau,
nhưng về chi tiết hơi khác nhau một chút. Chẳng hạn ở những chi tiết
rõ ràng sau đây:
Trước hết, về
nơi xẩy ra phép lạ Chúa làm, trong khi Thánh ký
Marco thuật lại rằng "Chúa Giêsu ra
khỏi thành Giêricô", thì
Thánh ký Luca trong bài Phúc Âm hôm nay lại viết rằng "Chúa đến
gần thành Giêricô".
Sau nữa, về bản
thân của nạn nhân mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường ở thành Giêricô
này, trong khi Thánh ký Marco (một vị thánh ký viết Phúc Âm ngắn
nhất trong bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm, nhưng lại khá chi tiết về các biến
cố xẩy ra) cho biết rõ lý lịch của nạn nhân là "con
ông Timê tên là Bartimê", thì
Thánh ký Luca lại chẳng nói gì hết.
Còn nữa, về
thái độ của người mù ngồi ăn xin bên vệ đường này, trong khi Thánh
ký Marco cho biết rõ chi tiết về phản ứng của nạn nhân khi nghe thấy
mình được Chúa Giêsu gọi đến là "anh
ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu", thì
Thánh ký Luca lại chỉ vắn tắt viết: "anh
đến gần bên Người".
Sau hết, về lời
truyền chữa lành của Chúa Giêsu phán cùng nạn nhân, trong khi Thánh
ký Marco ghi lại rằng: "Ðược,
đức tin của anh đã chữa anh", thì
Thánh ký Luca ở đây lại chi tiết hơn Thánh ký Marco một chút như thế
này: "Hãy
nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
Ngoài ra, cả hai
vị Thánh ký đều giống nhau ở thái độ của nạn nhân là khi nghe biết
có Chúa Giêsu ở đấy thì van xin, và càng bị trấn át thì càng la to
hơn, cho đến khi được Người gọi đến,
và cũng giống
nhau ở câu đối đáp giữa Chúa Giêsu và nạn nhân trước khi phép lạ xẩy
ra, đó là Chúa Giêsu hỏi nạn nhân muốn Người làm gì cho nạn nhân và
nạn nhân đã xin
Người phục quang cho mình.
Chi tiết thứ nhất liên quan đến đấng chữa lành, đó là "Chúa
Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người", và
chi tiết thứ hai liên quan đến nạn nhân được chữa lành: "anh
thấy được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa".
Thật vậy, đây là
quả là một vũ điệu thần linh tuyệt vời. Ở chỗ, tác động thần linh
từ Đấng Chữa Lành đã được phản hồi hết sức tương xứng bằng một đáp ứng
thần linh từ nạn
nhân được chữa lành.
Nạn nhân trước
khi được chữa lành không hề dám tự động quẳng áo choàng đứng
lên tiến đến gần
Chúa Giêsu khi thoạt tiên vừa nghe thấy Người đến gần chỗ nạn
nhân đang ngồi ăn xin, mà chờ đợi cho tới khi được Người gọi tới.
Thái độ cứ ngồi yên một chỗ đợi chờ không phải là thái độ không
nhiệt tình, mà là một thái độ tin tưởng hơn hết, ở chỗ, một đàng
thì kêu la van xin cho bằng được, trong khi lại ngồi yên tại chỗ như
thể nạn nhân cảm thấy mình hoàn toàn bất xứng không đáng đến gần
Chúa Giêsu, cũng như bất
lực không thể nào
làm gì được nếu không có Người.
Đúng thế, tác động thần
linh bao giờ cũng đến trước đáp ứng thần linh của thụ tạo, như yếu
tố thiết yếu và điều
kiện bất khả thiếu để thụ tạo nhờ đó
và do đó mới có
thể bị động, mới có
thể cảm động và mới có
thể di động theo tác động
thần linh. Bởi
thế, chỉ khi nghe thấy Chúa Giêsu truyền gọi, nạn nhân mù lòa
ngồi ăn xin bên vệ đường ở thành Giêricô này mới đến được
và mới được đến với Người.
Thực tế sống đạo cũng
cho thấy thực tại này, ở
chỗ, những ước
muốn tốt lành của chúng ta cũng cần
phải được
Thiên Chúa tác động trước,
hơn là tự chúng ta có được, vì chúng ta theo bản tính tự
nhiên đã
bị hư đi theo nguyên tội, luôn hướng hạ hơn là hướng thượng. Một
khi chấp nhận ước muốn tốt lành bởi tác động thần linh
khởi động ấy, chúng
ta mới bày
tỏ lòng khát vọng của chúng ta bằng lời cầu nguyện, nhờ đó Thiên
Chúa được dịp ban
cho chúng ta chính những gì Ngài đã muốn ban nên đã soi động chúng
ta ước muốn trước khi van xin.
Cuộc hội ngộ thần linh
trong bài Phúc Âm hôm nay đã
xẩy ra một cách hết
sức ngoạn
mục. Ở chỗ, nạn nhân khao khát được chữa lành, trong khi Thiên Chúa
vô cùng nhân hậu đã sẵn muốn chữa lành cho nạn nhân rồi, và chỉ
chờ đến giờ của mình là ra tay lập tức, tức
là cho đến khi nghe thấy nạn nhân kêu xin mình thì đáp ứng ngay, như
thể Đấng Chữa Lành thụ động còn nạn nhân chủ động, như
xẩy ra trong trường hợp được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại.
Nạn nhân mù ngồi ăn xin
hằng ngày ở
thành Giêricô tên Bartimê này, chắc đã
lâu lắm rồi, với một thân phận nghèo khổ và tương lai mịt mù như
bóng tối hằng che phủ đôi mắt của nạn nhân, có ngờ đâu lại bất
ngờ được gặp và gặp được Đấng
chữa lành cho mình, và
như thế, quả thực cuộc đời của nạn nhân đã được Thiên Chúa sử
dụng để tỏ mình Ngài ra, giống hệt như trường hợp của người mù từ
lúc mới sinh trong Phúc Âm Thánh ký Gioan (9:3).
Phải chăng cảm nhận được
như vậy, nạn nhân diễm phúc này đã không còn thiết gì thế gian này
nữa, vì nạn nhân được sáng mắt không phải chỉ thấy được ánh sáng tự
nhiên mà nhất là thấy được chính "ánh sáng thế gian" (Gioan
8:12), một thứ ánh sáng thần linh ban sự sống đã chữa lành cho nạn
nhân, và vì thế nạn nhân đã "đi
theo Người, và ca tụng Thiên Chúa"?
Bản thân của nạn
nhân đã trở thành một cuộc thần hiển cho Thiên Chúa tỏ mình ra,
chẳng những cho chính nạn nhân, mà còn cho cả cộng đồng gần xa của
nạn nhân nữa. Mục đích của Thiên Chúa ban ơn cho bất cứ một ai không
phải chỉ cho riêng người đó mà còn qua người đó cho các người khác
nữa. Bao giờ cũng thế. Đó là nguyên tắc và đường lối tỏ mình ra của
Ngài. Bởi
thế, bài Phúc Âm
hôm nay đã kết luận như sau: "Thấy
vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa".
Chưa hết, nếu để ý chúng ta còn thấy người mù ăn xin bên vệ đường
này phải là một con người có một đời sống nội tâm siêu việt, được
bộc lộ ra qua lời van xin của anh ta ngỏ cùng Đấng mà anh ta tin có
thể chữa lành cho anh ta: "Lạy ông Giêsu, con Vua Đavít, xin
thương xót tôi" (lần hai cũng thế, tuy không còn lập lại tên
Giêsu).
Tại sao anh mù ăn xin này lại kêu lên câu này, một câu nói cho thấy
tất cả đức tin chân thực của anh ta vào nhân vật Giêsu Nazarét, một
nhân vật lần đầu tiên anh được gặp dù không thấy nhưng vẫn tin, tin
hơn cả thành phần lãnh đạo tôn giáo của dân Do Thái và tin hơn cả
thành phần thông luật và dạy luật trong dân nữa, nếu không phải là
vì anh ta tin rằng nhân vật "Giêsu" ấy chính là Đấng Thiên
Sai Cứu Thế, Đấng được sai đến không phải để giải thoát dân Do Thái
khỏi quyền lực chính trị như hầu hết dân chúng mong đợi, mà là để
giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết. Và vì sự chết và đau
khổ là hậu quả của tội lỗi mà nếu nhân vật "Giêsu" là Đấng Thiên Sai
Cứu Thế thì Người có thể cứu anh ta khỏi mù.
Trong câu trả lời của anh ta cho câu hỏi của Chúa Giêsu "anh
muốn tôi làm gì cho anh?" rằng "xin cho tôi được thấy"
cũng hàm chứa một ước vọng sâu xa của anh ta trong thời gian anh ta
bị mù lòa, một thứ mù lòa về thể lý nhưng không thể bịt bùng tâm hồn
chiêm niệm tràn đầy ánh sáng siêu nhiên của anh ta. Ước vọng được
anh ta bày tỏ qua lời "xin cho tôi được thấy" đó là được
thấy "ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12) là chính Chúa Giêsu, hơn là
chỉ được thấy ánh sáng mặt trời, thấy lại những người thân yêu, thấy
lại họ hàng thân hữu v.v. Đó là lý do, vì "xin cho tôi được
thấy" "ánh sáng thế gian" mà ngay sau khi được chữa lại, được
thấy lại, anh ta đã "đi theo Người và ca tụng Thiên Chúa".
Về tình trạng mù lòa về thể lý được Chúa Kitô chữa lành trong bài
Phúc Âm hôm nay, tiêu biểu cho tình trạng mù lòa thiêng liêng cũng
cần được chữa lành bởi Người, một tình trạng mù quáng thiêng liêng
vô cùng nguy hiểm và khốn nạn đến chính phần rỗi của con người,
chẳng những của chung con người qua hai nguyên tổ ngay từ ban đầu,
mà còn qua chính dân Do Thái được Thiên Chúa của tổ phụ họ tuyển
chọn để làm dân riêng của Ngài và để Ngài có thể qua họ tỏ mình ra
cho dân ngoại. Thế mà, qua giòng lịch sử cứu độ của họ, biết bao
nhiêu lần họ đã mù quáng đến phản bội Vị Thiên Chúa chân thật duy
nhất của mình, đến độ có 2 lần Ngài tính tiêu diệt họ (xem Xuất Hành
32:10; Đệ Nhị Luật 9:14; Dân Số 14:12). Thế mà họ vẫn chưa chừa, vẫn
tiếp tục mù quáng chối bỏ Ngài và truất phế Ngài, nhất là dưới thời
đế quốc Hy Lạp, như Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy:
"Ngày rằm tháng Kislêu, năm một trăm bốn mươi lăm, vua Antiôcô
đặt một ngẫu tượng ghê tởm ngay trên bàn thờ dâng của lễ toàn thiêu.
Người ta cũng lập nhiều bàn thờ khác trong các thành lân cận của
Giuđa: người ta đốt hương cúng tế trước cửa nhà và ở các công
trường. Hễ gặp thấy sách luật nào, họ xé nát và đem đốt đi. Nếu
người ta bắt gặp sách giao ước trong nhà người nào hoặc bắt gặp kẻ
nào giữ Luật Chúa, thì kẻ ấy sẽ bị xử tử theo đúng chiếu chỉ của nhà
vua... Dân Israel phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp".
Tuy nhiên, trong dân Do Thái không phải ai cũng bị mù quáng như
vậy, trái lại "cũng có nhiều người Israel tỏ ra
kiên quyết, và nhất định không ăn của gì dơ nhớp; họ thà chết chẳng
thà làm cho mình ra ô uế bởi của ăn dơ và phạm đến Giao Ước thánh,
và quả thực họ đã chết". Câu họa của bài
Đáp Ca hôm nay phản ảnh tâm nguyện của thành phần sáng mắt tin tưởng
này: "Lạy
Chúa, xin bảo toàn cho con sống, và con sẽ tuân giữ lời nghiêm huấn
của Ngài", một bài Đáp Ca (từ Thánh Vịnh 118) đồng thời cũng
chất chứa tâm tình trung kiên của họ:
1) Con nổi cơn uất hận vì những người tội lỗi, bọn chúng bỏ rơi
luật pháp của Ngài.
2) Thừng chão bọn ác nhân đã trói buộc con, nhưng con chẳng lãng
quên luật pháp của Ngài.
3) Xin Chúa cứu con khỏi người ta áp bức, để con tuân giữ các
huấn lệnh của Ngài.
4) Những kẻ bách hại con cách độc ác đang tiến lại gần, bọn
chúng sống xa pháp luật của Chúa.
5) Ơn cứu độ của Chúa xa bọn ác nhân, vì chúng chẳng lo giữ
những thánh chỉ của Ngài.
6) Nhìn thấy những kẻ phản bội mà con chán nản, vì chúng không
tuân giữ lời sấm của Ngài.
Thứ
Ba
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) 2
Mcb 6, 18-31
"Tôi sẽ để lại một tấm gương cao đẹp, nếu tôi tự ý và anh dũng chết cho các
lề luật đáng kính và thánh thiện của chúng tôi".
Trích sách Macabê quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Êlêazarô, một người trong hàng Luật sĩ vị vọng, ông đã
có tuổi và diện mạo oai phong, ông bị người ta cạy miệng bắt phải ăn thịt
heo. Nhưng ông thà chết vinh còn hơn sống nhục, nên ông tự ý ra pháp trường.
Hiểu rằng ông phải xử trí như thế nào, ông nhẫn nại chịu đựng, khẳng khái
không ăn đồ cấm vì ham sống. Các bạn cố tri đứng đó cảm thương ông, gọi lén
ông ra khuyên ông xin người ta đem cho ông các thứ thịt ông có phép dùng,
rồi ông chỉ giả vờ ăn thịt cúng như nhà vua đã truyền; làm như thế ông sẽ
thoát chết; và do tình bạn cố tri, họ đã tỏ lòng nhân đạo như vậy đối với
ông. Nhưng nghĩ đến địa vị bậc lão thành, mái tóc bạc khả kính, cách ăn ở
tốt đẹp từ thời niên thiếu, mà nhất là sống xứng với lề luật thánh mà chính
Thiên Chúa đã lập, ông liền trả lời, bảo họ rằng ông sẵn sàng chịu chết. Ông
nói:
"Vì ở tuổi chúng tôi không nên giả vờ, kẻo nhiều thanh niên tưởng rằng
Êlêazarô đã chín mươi tuổi đầu mà còn theo lối sống của dân ngoại. Rồi vì sự
giả vờ của tôi để sống thêm một ít lâu nữa, tôi sẽ làm cho chính họ cũng lầm
lạc, và vì thế, tôi sẽ chuốc lấy nhơ nhớp và ố danh cho tuổi già của tôi. Mà
dầu tôi có thoát khỏi hình phạt của loài người, thì dầu sống dầu chết, tôi
sẽ không thoát khỏi bàn tay của Thiên Chúa toàn năng. Bởi thế, nếu giờ đây
tôi can đảm từ giã cuộc đời, tôi sẽ tỏ ra xứng đáng với tuổi già của tôi;
tôi sẽ để lại cho các thiếu niên một tấm gương cao đẹp, nếu tôi tự ý và anh
dũng chết cho các lề luật đáng kính và thánh thiện của chúng tôi".
Nói đoạn ông liền bị điệu đến pháp trường. Các người áp giải ông đổi lòng
thiện cảm họ có đối với ông trước kia thành ác cảm, vì các lời ông vừa nói
mà họ cho là điên khùng. Khi sắp chết vì đòn vọt, ông thều thào trong hơi
thở cuối cùng: "Lạy Chúa là Ðấng thông minh chí thánh, Chúa cũng thấu rõ là
con có thể thoát chết, nhưng con xin chịu đòn vọt đau đớn trong thân xác
con, với niềm vui trong lòng vì kính sợ Chúa". Và như thế ông từ giã cuộc
đời, để lại không những cho các thanh niên mà còn cho toàn dân một tấm gương
anh dũng và một lưu niệm đạo đức.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 3, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Chúa
đã nâng đỡ tôi (c. 6b).
Xướng: 1) Thân lạy Chúa, nhiều thay người bách hại con, nhiều thay người nổi
dậy chống con! Về con, nhiều kẻ thốt ra lời: "Hết trông hắn được Chúa Trời
cứu độ". - Ðáp.
2) Nhưng lạy Chúa, Chúa là thuẫn hộ thân con, là vinh quang con, Chúa cho
con ngẩng đầu lên. - Tôi lên tiếng kêu cầu Chúa, và Chúa đã nghe tôi từ núi
thánh của Ngài. - Ðáp.
3) Tôi nằm xuống và đã ngủ ngon, rồi thức khoẻ vì Chúa đỡ nâng tôi. Tôi
không kinh hãi ức triệu người ở chung quanh đồn trú hại tôi. - Ðáp.
Alleluia: Lc 21, 28
Alleluia, alleluia! - Các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi
các con đã gần đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19, 1-10
"Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa, có một người
tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Ông
tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì
người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một
cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó. Khi vừa đến nơi,
Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: "Hỡi
Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi". Ông vội
vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm
rằng: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi". Ông Giakêu đứng lên thưa
cùng Chúa rằng: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó,
và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn". Chúa Giêsu
bảo ông ấy rằng: "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con
cái Abraham. Vì chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điễu gì đã hư
mất".
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời
Chúa
Chẳng còn gì ngoài ơn cứu độ
- nhờ một kẽ hở ...
Hôm nay, Thứ Ba Tuần XXXIII Thường Niên, Bài Phúc Âm
ở đầu đoạn 19 của Thánh ký Luca, tiếp
ngay sau Bài Phúc Âm hôm qua ở cuối đoạn 18.
Trong khi ở Bài Phúc Âm hôm qua, cuộc hành trình lên
Giêrusalem của Chúa Giêsu mới "đến
gần thành Giêricô", thì
trong Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca ghi nhận tiếp về cuộc hành
trình này, ở chỗ: "Chúa
Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành".
Cuộc hành trình tiến về
Giêrusalem của Người đã khiến Người gặp gỡ một số con người đặc
biệt được thuật lại trong Phúc Âm, chẳng hạn trường hợp của người mù
ngồi ăn xin ở vệ đường trong Bài Phúc Âm hôm qua, hay vị "thủ
lãnh những người thu thuế và là người giàu có" "tên
là Giakêu"
trong Bài Phúc Âm hôm nay.
Về trường hợp của
người mù Batimê trong bài Phúc Âm hôm qua được thuật lại bởi Thánh ký
Luca và Marco, nhưng câu
chuyện về nhân vật thủ lãnh thu thuế này chỉ có trong Phúc Âm Thánh Luca
mà thôi, vì Phúc Âm
Thánh ký Luca là
Phúc Âm về Lòng Thương Xót Chúa, một Phúc Âm chất chứa những dụ ngôn về
Lòng Thương Xót Chúa rất cảm kích không có ở trong bất cứ Phúc Âm nào.
Chẳng hạn 3 dụ ngôn tiêu
biểu nhất sau đây: 1- Dụ
Ngôn Người Samaritanô Nhân Hậu (xem Luca 10:25-37); 2- Dụ
Ngôn Người Cha Nhân Hậu Với Hai Đứa Con Đáng
Thương (xem Luca 15:11:32); 3- Dụ
Ngôn Hai Người Lên Đền Thờ Cầu Nguyện (xem Luca 18:9-14) v.v. Cũng chỉ
trong Phúc Âm Thánh ký Luca mới có câu: "Các con hãy thương xót như
Cha của các con là Đấng thương xót" (Luca 6:36), một Lòng Thương
Xót đã được phản ảnh sống động nhất qua lời đầu tiên của Chúa Kitô khổ
giá cũng chỉ ở trong Phúc Âm Thánh Luca:
"Lạy
Cha, xin Cha tha cho họ vì họ lầm không biết việc họ làm"
(Luca 23:34).
Chính trong Bài Phúc Âm hôm
nay có một câu nói của Chúa Giêsu về Lòng Thương Xót Chúa cũng
chỉ có ở trong Phúc Âm Thánh Luca mà thôi, đó là câu:
"Con
Người đến để tìm
kiếm và cứu vớt
những gì
đã hư vong", điển
hình nhất là viên trưởng ban thu thuế Giakêu được Thánh ký Luca thuật
lại.
Nhân vật trưởng ban thu
thuế Giakêu
này thực sự "đã hư
vong", tức đã sống một cuộc đời bê bối tội lỗi khi hành nghề thu
thuế đầy những mánh khóe gian lận tiền bạc để
có thể làm giầu cách
bất chính, đã thực sự là
thành phần tội nhân, chẳng những trước mặt dân Do Thái mà
chính ngay cả bản thân của đương sự cũng phải chân nhận như thế, qua lời
hứa hẹn của đương sự sau khi được gặp gỡ Chúa Giêsu: "Lạy
Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm
thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn".
Nếu Chúa Kitô "đến để tìm
kiếm và cứu vớt những gì đã hư hoại" thì Người rất nhậy cảm với
những tâm hồn đang sống trong giầu sang phú quí với đầy nhưng băn khoăn khắc
khoải không thỏa mãn
làm sao ấy, như trường hợp của viên trưởng ban thu thuế Giakêu trong bài
Phúc Âm hôm nay, đến độ nhân vật này đã phải sẵn sàng bỏ trạm thu thuế
là nơi làm giầu hằng ngày của mình và lánh xa đám nhân viên thu
thuế đồng nghiệp cùng gian lận dưới quyền mình, để quyết tâm đón
gặp được Người, cho dù chỉ muốn "tìm
cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào" thôi,
bằng cách "chạy
lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi
ngang qua đó".
Đúng vậy, vì cố ý "tìm
kiếm và cứu vớt những gì đã hư hoại" mà
Chúa Giêsu đã nhậy
cảm đến độ, trong khi
hình như không ai trông thấy
nhân vật giầu sang phú quí và quyền hành này, đang ẩn
nấp ở trên
một cái cây bên đường, để
một đàng vừa tránh được cái nhìn khinh bỉ của đám đông vẫn giành
cho đương sự, đàng khác lại vừa
dễ trông thấy Chúa Giêsu đi
ngang qua theo
lòng ước nguyện.
Người quả thực đã nhìn
thấy đương sự, nhìn thấy tận đáy lòng của đương sự ước muốn gặp
Người, cũng như nhìn thấy hành động thiện chí như trẻ con trèo lên
cây ẩn nấp trên đó của đương
sự, nên Người đã
tự động lên tiếng gọi đương sự làm cho đương sự giật nẩy mình lên, chẳng
những vì đương sự bất ngờ bị lộ tẩy chân tướng trước mặt đám đông đối
phương của đương sự, mà
còn vì đương sự cảm
thấy vô cùng sung
sướng được Người gọi đích danh của mình, mà đương sự tưởng rằng Người
không hề hay chưa hề biết đến đương
sự bao giờ.
Có một chi tiết liên quan đến việc gọi đích danh tên của viên trưởng ban
thu thuế trong bài Phúc Âm này đó là hình như chỉ có những ai bê bối tội
lỗi hay khổ đau mới được Người gọi đích danh mà thôi, còn những ai được
Người đặc biệt yêu thương lại không được diễm phúc ấy, chẳng như như
Tông Đồ Gioan là "người môn đệ được Chúa Giêsu thương" (Gioan
13:23; 19:26; 20:2; 21:7,20).
Thật vậy, những nhân vật đã từng sống cuộc đời bê bối đã được Chúa Giêsu
gọi đích danh như đích danh "Giakêu" trong bài Phúc Âm hôm nay,
hay như "Maria" Mai Đệ Liên (Gioan 20:16), một con điếm "đã
được Người trừ bảy quỉ" (Marco 16:9), hoặc như "Simon"
Phêrô (Gioan 21:15-17) đã từng trắng trợn và phũ phàng chối Người 3 lần,
hay như "Saule" (Tông Vụ 9:4; 22:7; 26:14) là kẻ bách hại Người
nơi thành phần tín hữu trong thời Giáo Hội sơ khai, hoặc như "Lazarô"
là một thây ma đã chết 4 ngày trong mồ (Gioan 11:43).
Ôi tuyệt vời thay Lòng
Thương Xót Chúa: "Tôi
là vị mục tử nhân lành. Tôi
biết các chiên tôi và chiên tôi biết Tôi"
(Gioan 10:14). Trong khi tội
nhân không hề biết Người, ở chỗ xúc phạm đến Người, thì Người lại biết
họ và kêu gọi đích danh họ, vạch mặt chỉ tên họ, chứng tỏ Người hằng
theo dõi cuộc đời của họ, và ngồi chờ họ ở những nơi sinh hoạt quen
thuộc của họ, như ngồi chờ người đàn bà tội lỗi bên giếng Giacóp (xem
Gioan 4:6-9), hay đi đến tận những nơi thầm kín của họ, như trường hợp
của viên trưởng ban thu thuế Giakêu trong Bài Phúc Âm hôm nay, để
cố ý cứu đương sự khỏi
cuộc đời lén lút mờ mịt của đương
sự.
Chúa Giêsu đã không
nhắc đến tội lỗi của bất cứ tội nhân nào, khi mới gặp họ, dù Người biết
rõ tội của họ hơn ai hết, mà chỉ tỏ lòng thương họ để họ nhờ đó có
thể ăn năn thống hối thôi. Thậm chí Người không sợ gần gũi với tội nhân
xấu xa nhơ nhớp đáng ghê tởm, cho dù có bị chê trách, như Bài Phúc Âm
hôm nay cho thấy: "Ông
này lại đến trọ nhà một người tội lỗi". Vì
họ mới là thành phần "bệnh nhân cần đến thày thuốc" như Người là
một Vị Lương Y thần linh toàn năng có thể chữa lành cả hồn lẫn xác của
họ (xem Mathêu 9:12).
Việc Người chẳng
những tiến vào mà còn ở lại nhà của nhân vật tội lỗi Giakêu: "Hỡi
Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi", để
giao tiếp với thành phần thu thuế tội lỗi như nhân vật này, thật sự là
một hiện diện thần linh cứu độ: "Hôm
nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì
chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều
gì đã hư mất".
Tác dụng của ơn
cứu độ được Chúa Kitô mang đến cho chẳng những riêng nhân vật Giakêu
mà còn cho cả "nhà"
(gia đình) của đương
sự nữa, thậm chí "nhà" đây
còn có thể hiểu là bao gồm cả thành phần nhân viên thu thuế thuộc quyền
lãnh đạo của đương sự nữa, nhất khi chính họ đích
mắt thấy được lòng nhân lành cảm thương tha thứ của Người giành cho vị
thủ lãnh của họ.
Tác dụng xuất phát từ lòng
cảm thương ấy của Chúa Giêsu đã biến đổi hẳn bản thân và cuộc đời của
một nhân vật tội lỗi, đến độ đương sự chẳng những thật lòng ăn năn thống
hối ở chỗ đền
bù tội lỗi của mình đối với những ai bị thiệt hại vật chất bởi đương sự
gian lận trước đó mà còn giành ra nửa phần gia tài để làm phúc bố thí
nữa, nghĩa là kể như trở về tay không để được đổi lấy Nước Trời, lấy ơn
cứu độ vô giá, không gì sánh được: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa
phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì,
tôi xin đền gấp bốn".
Khi còn sống trong
tội lỗi thì bất cứ ai, dù chẳng làm nghề buôn bán hay thu
thuế như nhân vật Giakêu trong Bài Phúc Âm hôm nay, cũng
sống trong tình trạng gian dối, (tự tội lỗi đã là gian dối), không đúng
với sự thật
về thân phận thụ
tạo làm người trước nhan Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân.
Bởi đó, hoán cải chính là
tác động "đi
từ tối tăm ra ánh sáng lạ lùng"
(1Phêrô 2:9). Sau cuộc đời
sống gian dối bằng hành động gian lận tiền bạc của dân chúng với vai trò
thu thuế của mình, nhân vật Giakêu đã
bắt đầu sống hoàn lương trong chân lý. Nhưng để được
như vậy, Lòng Thương Xót Chúa là chính ơn cứu độ của đương sự tội nhân
này chỉ cần lòng của đương sự hé mở dù chỉ một chút xíu chăng nữa, và
tính tò mò tự nhiên của đương sự muốn xem nhân vật Giêsu Nazarét là
ai chính là kẽ hở cứu độ đó vậy!
Hành động của viên trưởng thu
thuế Giakêu, sau khi gặp được Chúa Kitô, đã chẳng những từ bỏ lòng gian tham
của mình mà còn cả của cải của mình, đến trở thành như một kẻ homelss chẳng
còn gì, cũng tương tự như nhân vật lão thành Eleazaro được Sách Macabê quyển
thứ 2 ở Bài Đọc 1 hôm nay, một con người có thể thoát
chết nhưng vẫn trung kiên với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình cho
dù có phải mất mạng sống của mình: "Dầu tôi có thoát khỏi
hình phạt của loài người, thì dầu sống dầu chết, tôi sẽ không thoát khỏi bàn
tay của Thiên Chúa toàn năng. Bởi thế, nếu giờ đây tôi can đảm từ giã cuộc
đời, tôi sẽ tỏ ra xứng đáng với tuổi già của tôi; tôi sẽ để lại cho các
thiếu niên một tấm gương cao đẹp, nếu tôi tự ý và anh dũng chết cho các lề
luật đáng kính và thánh thiện của chúng tôi..."
Thật vậy, "khi
sắp chết vì đòn vọt, ông thều thào trong hơi thở cuối cùng: 'Lạy Chúa là
Ðấng thông minh chí thánh, Chúa cũng thấu rõ là con có thể thoát chết, nhưng
con xin chịu đòn vọt đau đớn trong thân xác con, với niềm vui trong lòng vì
kính sợ Chúa'", một lời phó thác tuyệt vời như thể chất
chứa tâm tình của Thánh Vịnh 3 ở bài Đáp Ca hôm nay:
1) Thân lạy Chúa, nhiều thay người bách hại con, nhiều thay người nổi
dậy chống con! Về con, nhiều kẻ thốt ra lời: "Hết trông hắn được Chúa Trời
cứu độ".
2) Nhưng lạy Chúa, Chúa là thuẫn hộ thân con, là vinh quang con, Chúa
cho con ngẩng đầu lên. - Tôi lên tiếng kêu cầu Chúa, và Chúa đã nghe tôi từ
núi thánh của Ngài.
3) Tôi nằm xuống và đã ngủ ngon, rồi thức khoẻ vì Chúa đỡ nâng tôi. Tôi
không kinh hãi ức triệu người ở chung quanh đồn trú hại tôi.
Ngày 21 tháng 11
Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ.
(Lễ nhớ)
i ấy, Đức Giê-su còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em
của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người. 47 Có
kẻ thưa Người rằng : “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng
ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy.” 48 Người
bảo kẻ ấy rằng : “Ai là mẹ tôi ? Ai là anh em tôi ?” 49 Rồi
Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói : “Đây là mẹ tôi, đây là anh
em tôi. 50 Vì
phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người
ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.”
Theo truyền
thống Do Thái, người ta thường dâng con trẻ vào đền thờ để được thánh hiến
và sau đó con trẻ sẽ ở trong đền thờ một thời gian giúp việc các vị chủ
tế... Phúc Âm không đề cập đến thời thơ ấu của Ðức Trinh Nữ Maria. Nhưng
theo Thánh Truyền thì Ðức Mẹ cũng đã thi hành tập tục nói trên. Tại đền
thánh Giêrusalem, ngài đã thực hành biết bao hy sinh với một tâm hồn quảng
đại.
Mười hai năm suy
gẫm và cầu nguyện, chính là thời gian chuẩn bị cho chức vụ Mẹ Thiên Chúa.
Theo thánh Hiêronimô, chương trình ngày sống của Ðức Mẹ trong đền thờ được
phác họa như sau: Từ hừng đông đến 9 giờ sáng, Ngài cầu nguyện; từ 9 giờ
sáng đến 3 giờ chiều, Ngài làm việc chân tay và sau đó ngài lại cầu nguyện,
sốt sắng suy gẫm Thánh Kinh và siêng năng đọc Thánh Vịnh.
Ngày lễ Mẹ dâng
mình như bước đầu dẫn tới Ðức Khiết Tịnh Kitô giáo. Sau Ngài, biết bao trinh
nữ đã tận hiến toàn thân cho Thiên Chúa. Vì thế Mẹ Maria thực là gương mẫu
bất diệt, là Ðấng bảo trợ nhiệt thành và là Ðấng hướng dẫn chắc chắn trên
đường nhân đức vậy.
Đức Mẹ đã nhờ lòng tin mà tin, thì cũng nhờ lòng tin mà thụ
thai
Trích bài giảng của thánh Âu-tinh, giám mục.(sermo 25, 7-8; PL
46, 937-938. Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh cho
Giờ Kinh Sách ngày Lễ Mẹ Dâng Mình 21/11)
Tôi xin anh em hãy để ý xem Chúa nói gì khi Người giơ tay chỉ
các môn đệ : Đây
là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha
tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.
Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã không thi hành ý muốn của Chúa Cha sao ?
Người là đấng đã nhờ lòng tin mà tin, thì cũng nhờ lòng tin mà
thụ thai ; Người được chọn để nhờ Người, Đấng cứu độ chúng ta ra
đời ; Người được Đức Ki-tô tạo thành trước khi Đức Ki-tô được
tạo thành nơi Người. Đức Ma-ri-a đã thi hành, hoàn toàn thi hành
ý Chúa Cha ; vì thế, đối với Người, làm môn đệ của Đức Ki-tô thì
quan trọng hơn là làm Mẹ của Đức Ki-tô. Mẹ càng sung sướng vì
được làm môn đệ của Đức Ki-tô hơn là vì được làm Mẹ của Đức
Ki-tô. Vậy, Đức Ma-ri-a được hạnh phúc vì đã cưu mang Thầy trước
khi sinh ra Thầy.
Bạn hãy xem tôi nói có đúng không. Khi Chúa cùng đi đường với
đám đông và làm phép lạ thì một bà nói : Sung
sướng thay người mẹ đã cưu mang Thầy ! Phúc thay người mẹ đã cưu
mang Thầy ! Nhưng, để người ta đừng tìm sung
sướng theo lẽ tự nhiên, thì Chúa đã trả lời ra sao ? Đúng
hơn phải nói rằng : Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên
Chúa. Do đó, Đức Ma-ri-a diễm phúc vì đã nghe và tuân giữ
lời Thiên Chúa ; Người gìn giữ sự thật trong tâm trí hơn là cưu
mang xác phàm trong lòng. Đức Ki-tô là sự thật, Đức Ki-tô là xác
phàm : là sự thật, Đức Ki-tô ở trong tâm trí Đức Ma-ri-a ; là
xác phàm, Đức Ki-tô ở trong lòng Đức Ma-ri-a. Việc Đức Ki-tô ở
trong tâm trí Mẹ thì quan trọng hơn việc Người ở trong lòng Mẹ.
Đức Ma-ri-a thánh thiện, Đức Ma-ri-a diễm phúc, nhưng Hội Thánh
còn hơn Đức Ma-ri-a. Vì sao ? Thưa vì Đức Ma-ri-a là một thành
phần của Hội Thánh, là một chi thể thánh, chi thể cao trọng, chi
thể tuyệt vời, nhưng vẫn là một chi thể của toàn thân. Nếu Người
thuộc về toàn thân, thì chắc chắn thân mình phải hơn một chi
thể. Đầu của thân thể là Chúa nhưng Đức Ki-tô toàn thể gồm đầu
và thân mình. Tôi phải nói gì đây ? Chúng ta có vị thần linh là
đầu, chúng ta có Thiên Chúa là đầu.
Vậy, anh em thân mến, xin anh em để ý : anh em vừa là chi thể
của Đức Ki-tô, vừa là thân mình Đức Ki-tô. Hãy để ý xem anh em
là thế nào mà Chúa lại nói : Đây
là mẹ tôi, là anh em tôi. Anh em là mẹ Đức Ki-tô thế nào ?
Thưa : Vì phàm
ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là
anh chị em tôi, là mẹ tôi. Tin tôi đi, tôi hiểu thế nào là
anh em, là chị em của Đức Ki-tô : bởi vì chỉ có một gia sản, do
đó, vì lòng thương xót, Đức Ki-tô, tuy là Con Một, đã không muốn
chỉ mình được hưởng, nhưng muốn chúng ta được làm kẻ thừa tự của
Chúa Cha và đồng thừa tự với Đức Ki-tô.
Bài 29– 7/8/1996: Việc
chọn lựa của Mẹ Maria tác động đức đồng trinh dâng hiến
(Bài
Giáo Lý Thánh Mẫu của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II)
1- Ý muốn
giữ sống đời của một trinh nữ, được hiển nhiên nơi những lời của Mẹ
Maria trong giây phút Truyền Tin, theo truyền thống đã được coi là
khởi điểm và là khởi động cho đức đồng trinh Kitô giáo trong Giáo
Hội.
Thánh Âu
Quốc Tinh không thấy nơi quyết định này việc hoàn tất của một chỉ
thị thần linh mà là một lời khấn tự do chọn lựa. Như thế việc chọn
lựa này mới có thể cho thấy Mẹ Maria là một mẫu gương cho “các kẻ
đồng trinh” suốt giòng lịch sử của Giáo Hội. Mẹ Maria “đã hiến dâng
đức đồng trinh của mình cho Thiên Chúa khi Mẹ chưa biết Đấng Mẹ sẽ
thụ thai, nhờ đó hình ảnh của đời sống thiên đình trong một thân xác
trần gian chết chóc được thực hiện bằng một lời khấn chứ không phải
bằng một chỉ thị, nhờ việc chọn lựa yêu thương chứ không phải bởi
nhu cầu phục vụ” (De Sancta Virg., IV, PL 40:398).
Vị Thiên
Thần không yêu cầu Mẹ Maria sống đời trinh nữ; chính Mẹ Maria tự ý
tỏ ra ý hướng muốn giữ mình đồng trinh của Mẹ. Việc chọn lựa yêu
thương dẫn Mẹ đến chỗ hoàn toàn hiến mình cho Chúa bằng một cuộc
sống đồng trinh được tỏ hiện nơi sự dấn thân này.
Khi nhấn
mạnh đến tính chất tự động nơi quyết định của Mẹ Maria, chúng ta
không được quên rằng nguồn mạch của hết mọi ơn gọi đều do Thiên Chúa
khởi động. Bằng việc chọn sống đời đồng trinh, người thiếu nữ thành
Nazarét đáp ứng một tiếng gọi nội tâm, tức là đáp ứng tác động của
Thánh Linh đã soi sáng cho Mẹ biết về ý nghĩa và giá trị của tặng ân
đồng trinh nơi bản thân của Mẹ. Không ai có thể chấp nhận tặng ân
này mà lại không cảm thấy được kêu gọi hay không lãnh nhận từ Thánh
Linh ánh sáng và sức mạnh cần thiết.
Mẹ
Maria đã mạnh mẽ quyết định sống đồng trinh
2- Mặc dù
Thánh Âu Quốc Tinh sử dụng chữ “khấn hứa” để tỏ cho những ai ngài
gọi là “các trinh nữ thánh” mẫu gương đầu tiên cho bậc sống của họ,
Phúc Âm không chứng thực rằng Mẹ Maria đã minh nhiên thực hiện lời
khấn này, một hình thức tận hiến và dâng hiến đời mình cho Thiên
Chúa là hình thức đã từng được thực hiện từ các thế kỷ đầu tiên của
Giáo Hội.
Theo Phúc
Âm chúng ta thấy rằng Mẹ Maria đã thực hiện một quyết định cá nhân
muốn sống đời trinh nữ, dâng hiến tấm lòng của Mẹ cho Chúa. Mẹ muốn
trở thành một hôn thê trung thành của Ngài, hoàn trọn ơn gọi của Mẹ
như một “nữ tử Sion”. Tuy nhiên, bởi quyết định của mình, Mẹ trở nên
mẫu thức cho tâá cả những ai trong Giáo Hội muốn chọn việc dấn thân
phục vụ Chúa bằng một tấm lòng không chia sẻ nơi đức đồng trinh.
Không có
một cuốn Phúc Âm nào hay bất cứ một bản văn Tân Ước nào nói với
chúng ta về thời điểm Mẹ Maria đã quyết định sống đời trinh nữ. Tuy
nhiên, câu Mẹ hỏi vị thiên thần vào lúc Truyền Tin đã thật hiển
nhiên cho thấy rằng Mẹ đã thực hiện một quyết định rất mạnh mẽ. Mẹ
Maria không ngần ngại bày tỏ lòng ước mong của Mẹ muốn giữ đức đồng
trinh này của mình ngay cả trước vai trò làm mẹ được bày tỏ với Mẹ,
cho thấy rằng ý nguyện của Mẹ đã chín mùi từ lâu.
Thật vậy,
việc Mẹ Maria chọn sống trinh nguyên không được thực hiện trước một
viễn ảnh không thể biết được về việc trở nên Mẹ của Thiên Chúa, thế
nhưng đã được phát triển trong ý thức của Mẹ trước biến cố Truyền
Tin. Chúng ta có thể cho rằng khuynh hướng này bao giờ cũng hiện hữu
trong long của Mẹ: ân sủng đã sửa soạn cho Mẹ trở thành một trinh
mẫu chắc chắn đã tác dụng đến toàn thể cuộc phát triển về con người
của Mẹ, trong khi đó Thánh Linh không thôi tác động nơi Mẹ, từ những
năm ấu thơ nhất của Mẹ, ước muốn được hoàn toàn nên một với Thiên
Chúa.
3- Những
việc kỳ diệu ngày nay vẫn được Thiên Chúa thực hiện trong tâm hồn và
đời sống của rất nhiều giới trẻ trước hết đã được hiện thực nơi linh
hồn của Mẹ Maria. Ngay cả trong thế giới của chúng ta đây, một thế
giới bị phân tâm rất nhiều bởi những thứ thu hút của một nền văn hóa
thường nông nổi hời hợt và hưởng thụ, vẫn có nhiều thanh thiếu niên
chấp nhận lời mời gọi xuất phát từ gương của Mẹ Maria để tận hiến
tuổi trẻ của mình cho Chúa cũng như cho việc phục vụ anh chị em của
mình.
Quyết định
này là sự chọn lựa những giá trị cao cả hơn, hơn là việc từ bỏ những
giá trị về nhân bản. Về vấn đề này, trong Tông Huấn Marialis
Cultus của mình, vị tiền nhiệm khả kính Phaolô VI nhấn mạnh là
bất cứ ai nhìn vào chứng từ của Phúc Âm với một tâm trí cởi mở “sẽ
cảm nhận rằng việc chọn lựa của Mẹ Maria về tình trạng đồng trinh…
không phải là một thứ loại trừ bất cứ những giá trị của bậc sống hôn
nhân mà là một chọn lựa can đảm được Mẹ thực hiện để tận hiến bản
thân mình trọn vẹn cho tình yêu của Thiên Chúa” (số 37) ra sao.
Tóm lại,
việc chọn sống đời đồng trinh được tác động bởi lòng gắn bó trọn vẹn
với Chúa Kitô. Điều này đặc biệt hiển nhiên nơi Mẹ Maria. Mạc dù
trước biến cố Truyền Tin, Mẹ không nhận thức về nó, nhưng Thánh Linh
đã tác động Mẹ việc tận hiến trinh nguyên liên quan đến Chúa Kitô:
Mẹ vẫn là một trinh nữ để tiếp nhận Đấng Thiên Sai và là Đấng Cứu
Thế bằng tất cả con người của Mẹ. Đức đồng trinh đã bắt đầu nơi Mẹ
Maria như thế cho thấy chiều kích tập trung vào Chúa Kitô của nó,
thiết yếu cho cả đức đồng trinh được thực hành trong Giáo Hội, một
đức đồng trinh mô phỏng theo gương mẫu cao cả nơi Người Mẹ của Chúa
Kitô. Nếu đức đồng trinh nơi bản thân của Mẹ, được liên kết với vai
trò làm mẹ thần linh, vẫn là một sự kiện phi thường, thì nó cống
hiến ánh sáng và ý nghĩa cho hết mọi tặng ân trinh nguyên.
Đức
đồng trinh tận hiến là nguồn mạch của việc sinh hoa kết trái thiêng
liêng
4-
Biết bao nhiêu là nữ nhân trẻ trung trong lịch sử Giáo Hội, khi
chiêm ngưỡng thấy tính chất cao cả và mỹ lệ nơi tâm hồn trinh nguyên
của Mẹ Chúa Kitô, đã cảm thấy phấn khởi trong việc quảng đại đáp ứng
tiếng gọi của Thiên Chúa bằng cách theo đuổi lý tưởng sống đồng
trinh! “Như tôi đã nhắc đến trong Thông Điệp Redemptoris Mater –
Mẹ Đấng Cứu Chuộc, “Chính đức đồng trinh này, theo gương của Vị
Trinh Nữ Nazarét, là nguồn mạch của sự phong phú thiêng liêng đặc
biệt: nó là nguồn mạch của vai trò làm mẹ trong Thánh Linh” (số 43).
Đời sống
trinh nguyên của Mẹ Maria đã tác động nơi toàn thể dân Kitô hữu niềm
trân trọng tặng ân đồng trinh và niềm ước muốn là nó cần phải gia
tăng trong Giáo Hội như là một dấu hiệu thượng quyền của Thiên Chúa
trên tất cả mọi thực tại và như là một thứ ngưỡng vọng tiên báo về
một đời sống mai hậu. Cùng nhau, chúng ta hãy cảm tạ Chúa cho những
ai ngày nay vẫn còn quảng đại hiến đời mình sống đồng trinh để phụng
sự vương quốc của Thiên Chúa.
Đồng thời,
trong khi ở các miền khác nhau được phúc âm hóa lâu đời chủ nghĩa
khoái lạc và chủ nghĩa hưởng thụ dường như trở thành những rào cản
cho nhiều giới trẻ trong việc theo đuổi đời sống tận hiến, chúng ta
cần phải gia tăng nguyện xin Thiên Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ
Maria, cho một cuộc triển nở mới về ơn gọi tu trì. Nhờ đó, dung nhan
của Người Mẹ Chúa Kitô, được phản ảnh nơi nhiều trinh nữ đang nỗ lực
theo Vị Thày thần linh, sẽ tiếp tục trở thành dấu hiệu cho tình
thương và lòng âu yếm của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Chuyển dịch từ L'Osservatore Romano Weekly Edition in English
21/8/1996, trang 7.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) 2
Mcb 7, 1. 20-31
"Ðấng Sáng Tạo vũ trụ sẽ trả lại cho các con tinh thần và sự sống".
Trích sách Macabê quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, bảy anh em bị bắt cùng với thân mẫu, và thừa lệnh nhà
vua, người ta dùng gậy và roi gân bò đánh đập họ, bắt buộc họ ăn thịt heo mà
luật đã cấm.
Ðặc biệt là bà mẹ đáng ca tụng và ghi nhớ: chỉ trong một ngày, bà chứng kiến
bảy con mình chết, bà vui lòng chịu đựng và trông cậy vào Thiên Chúa. Bà đầy
khôn ngoan, dùng tiếng của cha ông, can đảm khuyên bảo từng đứa con; bà dùng
sự hăng say nam nhân mà nâng đỡ tâm hồn phụ nữ của bà. Bà nói với các con:
"Mẹ không biết các con đã thành hình trong lòng mẹ ra sao, vì không phải mẹ
ban cho các con tinh thần, linh hồn và sự sống, cũng không phải mẹ sắp đặt
các chi thể của mỗi con, nhưng là Ðấng Sáng Tạo vũ trụ, Người đã dựng nên
loài người, và sáng tạo mọi sự với lòng nhân hậu. Người sẽ trả lại cho các
con tinh thần và sự sống, vì giờ đây các con coi rẻ mạng sống các con để bảo
vệ luật pháp của Người".
Vua Antiôcô tưởng rằng lời lẽ ấy khinh thị và lăng nhục ông. Bởi thế, đối
với đứa con út của bà còn sống, không những ông dùng lời dụ dỗ cậu, ông còn
thề hứa với cậu sẽ làm cho cậu được sung sướng giàu có, nếu cậu chối bỏ lề
luật của cha ông, sẽ coi cậu như bạn hữu của ông và ban cho cậu nhiều tước
lộc. Nhưng cậu không quan tâm đến những lời dụ dỗ ấy, nhà vua liền cho gọi
mẹ cậu đến và khuyên bà nhủ bảo con, để cứu lấy mạng sống con mình. Khi nhà
vua đã dài lời khuyến khích bà, bà nhận lời thuyết phục con. Vậy bà cúi sát
vào con bà, đánh lừa nhà vua độc ác ấy; bà còn dùng tiếng của cha ông mà nói
rằng: "Hỡi con, hãy thương mẹ đã cưu mang con chín tháng trong dạ, đã cho
con bú sữa trong ba năm, đã nuôi dưỡng và dẫn dắt con cho tới tuổi này. Con
ơi, mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất, và tất cả mọi sự trong đó; con biết
rằng Thiên Chúa đã tác tạo những vật đó và loài người từ hư vô, nên con đừng
sợ tên lý hình này, một hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con và hãy nhận lãnh
cái chết, để nhờ lòng lân tuất của Chúa, mẹ sẽ gặp con cùng với các anh
con".
Bà mẹ vừa dứt lời thì cậu con út lên tiếng rằng: "Các ông còn chờ gì nữa?
Tôi không tuân lệnh nhà vua đâu, nhưng tôi tuân theo lề luật mà Môsê đã ban
cho cha ông chúng tôi. Còn nhà vua, là kẻ đã bày ra đủ thứ để bách hại dân
Do-thái, nhà vua sẽ không thoát khỏi tay Thiên Chúa đâu".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 16, 1. 5-6. 8b và 15
Ðáp: Lạy
Chúa, khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa (c. 15b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nghe điều chính nghĩa của con, xin để ý đến lời con
kêu cứu, lắng tai nghe tiếng con thốt ra tự cặp môi chân thành! - Ðáp.
2) Bước con đi bám chặt đường lối của Ngài, chân con đã không hề xiêu té.
Con kêu van Ngài, bởi Ngài nhậm lời con, lạy Chúa, xin lắng tai về bên con,
xin nghe rõ tiếng con. - Ðáp.
3) Xin che chở con trong bóng cánh của Ngài. Phần con, nhờ công chính, sẽ
được thấy thiên nhan; khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Tv 110, 8ab
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, mọi gới răn Chúa được lập ra cho tới muôn
đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19 11-28
"Sao ngươi không gửi bạc Ta ở ngân hàng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán thêm một dụ ngôn nữa, vì Người đã đến gần
Giêrusalem, mà dân chúng lại cứ tưởng là Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện trong
giây lát. Vậy Người phán rằng:
"Có người quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở về. Ông cho
gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và dặn rằng: "Hãy làm
lợi cho đến khi ta trở về". Nhưng các người dân của ông ấy ghét ông, sai
người đi theo mà rằng: "Chúng tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi". Ðược
phong vương rồi ông trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia ông đã giao tiền
cho, để biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu.
"Người thứ nhất đến và thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được mười
nén". Nhà vua bảo: "Ðược, hỡi người tôi tớ tốt lành, ngươi đã trung tín
trong điều nhỏ mọn, ngươi sẽ được quyền cai trị mười thành". Người thứ hai
đến thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được năm nén". Nhà vua đáp:
"Ngươi cũng vậy, hãy cai quản năm thành".
"Người thứ ba đến thưa: "Tâu vua, đây nén bạc của vua, tôi còn giữ trong
khăn, vì tôi sợ ngài: ngài là người hà khắc, và lấy cái ngài không gửi, gặt
cái ngài không gieo". Vua phán rằng: "Hỡi đầy tớ bất lương, ta cứ lời ngươi
mà xử ngươi. Ngươi đã biết ta là người hà khắc, lấy cái ta không gửi, gặt
cái ta không gieo, sao ngươi không gửi bạc ta ở ngân hàng, để rồi khi ta trở
về, ta có thể lấy cả vốn lẫn lời".
"Vua liền bảo những người đứng đó rằng: "Hãy lấy nén bạc của nó mà trao cho
người đã có mười nén". Họ tâu rằng: "Tâu vua, người ấy đã có mười nén rồi".
Vua đáp: "Ta nói cùng các ngươi: Ai có sẽ cho thêm, và người đó sẽ được dư
dật; còn ai không có, người ta sẽ lấy đi cả cái nó đang có. Còn những kẻ
nghịch cùng ta, không muốn ta làm vua, hãy đem chúng ra đây và giết chúng
trước mặt ta". Nói thế rồi Chúa liền dẫn họ lên Giêrusalem.
Ðó là lời Chúa.
Suy
nghiệm Lời
Chúa
Đã có được cho thêm là để dự trữ mà bù đắp...
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XXXIII Thường Niên, tiếp theo ngay
sau bài Phúc Âm hôm qua. Một chi tiết cho thấy điều đó, chẳng
cần theo dõi kỹ về đoạn và câu của 2 bài Phúc Âm, đó là chi tiết
liên quan đến địa điểm của cuộc hành trình Giêrusalem của Chúa
Giêsu.
Thật vậy, trong
bài Phúc Âm hôm qua, nếu "Chúa
Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành"
thì
trong Bài Phúc Âm hôm nay, "Người
đã đến gần Giêrusalem",
và chính "vì"
thế, Phúc Âm hôm nay cho biết tiếp, "mà
dân chúng lại cứ tưởng là Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện trong giây
lát".
Bởi thế, Thánh ký
Luca ghi nhận rằng: "Chúa
Giêsu phán thêm một dụ ngôn nữa", một
dụ ngôn chẳng những trực tiếp liên quan đến cuộc hành trình
Giêurusalem của Người bấy giờ,
mà còn liên
quan đến "Nước
Thiên Chúa", một
thực tại thần linh đã từng được Người sử dụng nhiều hình ảnh khác
nhau để sánh ví trước đó nay Người muốn nói "thêm... nữa" vào
lúc Người gần tới Thành Giêrusalem: "Nói
thế rồi Chúa liền dẫn họ lên Giêrusalem". Và
dụ ngôn ấy được Phúc Âm hôm nay cho biết đã bắt đầu như
thế này:
"Có người quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở
về. Ông cho gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và
dặn rằng: 'Hãy làm lợi cho đến khi ta trở về'. Nhưng
các người dân của ông ấy ghét ông, sai người đi theo mà rằng: 'Chúng
tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi'. Ðược phong vương rồi ông
trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia ông đã giao tiền cho, để
biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu".
Trước hết, "người
quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở về" đây phải
chăng ám
chỉ chính Chúa
Kitô, Con Thiên Chúa ("quí tộc"), từ trời xuống trần gian ("đi
phương xa") để hoàn tất công cuộc cứu chuộc trần gian của
mình, ở chỗ được "treo lên" (Gioan 8:28) trên ngai tòa Thánh
Giá (như "được
phong vương", nhưng
sau đó người đã tự mình sống lại ("rồi
trở về").
Ý nghĩa "đi phương xa" cũng có thể hiểu có liên hệ mật
thiết với lời tiên báo của Chúa Giêsu với các môn đệ của Người trong
Bữa Tiệc Ly về việc Người ra đi đến một nơi mà các môn đệ của Người
không thể tới được và chẳng biết là ở chỗ nào để theo như tông đồ
Toma cảm nhận (xem Gioan 14:5): "Thày chẳng còn ở với các con
bao lâu nữa. Các con sẽ tìm kiếm Thày... Nơi Thày đi các con không
thể nào tới được" (Gioan 13:33).
Trước khi lên đường "đi
phương xa để được phong vương rồi trở về" như
thế, "ông cho
gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và dặn rằng:
'Hãy làm lợi cho đến khi ta trở về'", phải
chăng ở đây Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến Bữa
Tiệc Ly là lúc Chúa Giêsu đã trao cho các
vị, một điều bao
gồm cả 10 điều răn Cựu Ước (ám chỉ "10 nén bạc") đó là "giới
răn mới"
(Gioan 13:34), ở
chỗ các vị phải "yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con.
Tất cả mọi người sẽ dấu ấy mà nhận biết các con là môn đệ của Thày" (Gioan
13:34-35).
Thế nhưng,
việc
Chúa Kitô hành trình lên Giêrusalem để hoàn tất sứ vụ cứu độ trần
gian của Người như một ông vua như thế không được lòng "dân
của" Người là dân Do Thái vốn "ghét" Người nên
họ đã
ra mặt công khai chống đối:
"Chúng
tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi", bằng
cách sát hại Người. Không
ngờ, việc họ tự do sát hại Người một cách độc dữ tàn bạo chưa từng
thấy lại giúp cho Người "được phong vương" - "Giêsu
Vua Dân Do Thái" (Luca 23:38), Đấng
"được toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18).
"Ðược phong vương rồi ông trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia
ông đã giao tiền cho, để biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu". Đúng
thế, khi "trở về" vào lúc quang lâm tái
giáng của mình
trong ngày sau hết, Chúa Kitô sẽ tính sổ sách về nén bạc được Người
trao phó cho thành phần đầy tớ của Người thuộc hàng ngũ lãnh đạo đàn
chiên của Người, từ các
vị tông đồ đến thành
phần thừa kế các vị trong hàng giáo phẩm (bao gồm cả giáo sĩ) dọc suốt
giòng lịch sử của Giáo Hội Người thiết lập.
Nén bạc đó đối với thành phần đầy tớ của Chúa Kitô (nếu hiểu về các
vị chủ chiên trong hàng giáo phẩm và giáo sĩ) quả thực là đức bác
ái, như chính Người đã hỏi tông đồ Phêrô 3 lần có yêu mến Người hay
chăng để Người trao phó các chiên của Người cho ngài, cũng như cho
các vị thừa kế ngài cùng tông đồ đoàn là các vị giáo hoàng và giám
mục sau này trong Giáo Hội. Và quả thực, chính vì nén bạc đó là đức
bác ái yêu thương phục vụ mà Người đã căn cứ vào đức bác ái này mà
phán xét cùng thưởng phạt vậy (xem Mathêu 25:31-46).
Vấn đề ở đây là "người
quí tộc" trong dụ ngôn đã
trao cho 10 người đầy tớ của
mình 10
nén bạc, nghĩa là mỗi người một nén bạc chứ không phải mỗi người 10
nén bạc, ám chỉ 10 điều răn, nhưng được tóm lại thành "một nén
bạc" là "giới răn mới" được Chúa Kitô truyền lại cho
các tông đồ. Vậy "10 người đầy tớ" đây là ai, nếu không
phải ở trong Bữa Tiệc Ly bấy giờ là lúc các môn đệ được Chúa Kitô
trao cho nén bạc "giới răn mới" có thể hiểu là ám chỉ 10 vị
trong số 12, vì
tông đồ Giuđa bấy giờ đã bỏ đi bàn việc nộp Người (xem Gioan 13:30),
và Tông Đồ Gioan không kể vì vị tông đồ này tự bản chất và sứ vụ vốn
gắn liền với "giới răn mới" qua cử chỉ dựa vào ngực Chúa
Kitô (xem Gioan 13:23).
Tuy nhiên việc sinh lợi
nén bạc lại tùy theo trình độ khả năng và mức độ nỗ lực của
mỗi người đầy tớ nữa. Bởi
thế, trong 3 loại người đầy tớ tiêu biểu được chủ gọi đến trình bày
trách nhiệm nén bạc của mình, có người sinh lợi được gấp 10 lần,
nhưng cũng có người chỉ sinh lợi được gấp 5 thôi, như dụ ngôn của
Bài Phúc Âm cho thấy.
Ở đây có thể hiểu nén
bạc "giới răn mới" là "yêu nhau như Thày" nơi từng
người đầy
tớ sinh lợi nhiều
như gấp 10, hay sinh lợi vừa như gấp 5, chẳng những tùy ở ơn gọi hay
bậc sống của Kitô hữu, giáo dân hay giáo sĩ, mà còn tùy ở mức độ
nên một với Chúa
Kitô nữa, ở chỗ, càng hiệp nhất với Người thì Người càng yêu thương
tha nhân như chính Người đã yêu họ, nghĩa là họ càng phản ảnh Chúa
Kitô một cách trung thực nhất và sống động nhất, gấp 10 lần, hơn gấp
5 lần.
Trong số thành phần đầy
tớ cũng không thể thoát được có một thiểu
số nào đó không đáp ứng
trách nhiệm nén bạc được trao phó, ở chỗ sống vị kỷ, hưởng thụ hơn
phục vụ, không
phản ảnh bản chất đức ái trọn hảo của mình như "ánh sáng thế gian"
(Mathêu 5:14) chiếu tỏa Chúa Kitô "là ánh sáng thế gian" (Gioan
8:12).
Nếu họ cảm thấy "giới
răn mới" là "yêu nhau như Thày yêu" là một lý tưởng quá
siêu việt họ không thể nào với tới như lòng mong ước của chủ mình,
nhất là như gương của chủ mình trong việc "được
phong vương" trên
Thánh Giá của
chủ: "hiến mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người" (Mathêu
20:28), thì ít
nhất họ vẫn có thể sinh lợi nén bạc bác ái được
trao cho họ,
bằng cách gửi vào "nhà băng" thần
linh, ở
chỗ tin tưởng
(trust) ký
thác (deposit) vào
Lòng Thương Xót Chúa, để chính Người bù đắp những yếu hèn bất lực
thiếu sót của
họ, nhờ đó Người "có
thể lấy cả vốn lẫn lời" từ
họ, như từ tên tử tội bị đóng đanh bên phải Người trên Đồi Canvê xưa
(xem Luca 23:40-43).
Ở cuối dụ ngôn trong bài
Phúc Âm hôm nay
còn một chi tiết rất hay nữa, đó là "Ai
có sẽ cho thêm, và người đó sẽ được dư dật; còn ai không có, người
ta sẽ lấy đi cả cái nó đang có", điển
hình là người đầy tớ sinh lợi 10 nén nhiều nhất lại được thêm nén
bạc của "người đầy tớ bất lương".
Đúng thế, trong đời sống
thiêng liêng cũng vậy, những tâm hồn thánh thiện (chứ không phải
chỉ ở tầm mức đạo đức thôi) thường được thêm nhiều ơn Chúa ban,
những ơn mà tội nhân vì yếu đuối và mù quáng đánh
mất, nhưng không phải để người đã
có hoan
hưởng một mình, trái lại, là để
bù đắp cho chính tội
nhân đã đánh
mất đi ân sủng của họ được Chúa ban, nhờ đó
chính tội nhân cũng được cứu độ. Ôi Lòng Thương Xót Chúa vô cùng
khôn ngoan và tìm hết cách để cứu độ con người, cứu độ từng người.
Những nén bạc được sinh lợi gấp đôi hay gấp trăm trong bài Phúc Âm
hôm nay có thể là sự sống của những ai tin tưởng vào Chúa, dám hy
sinh nó đi để nó trở thành bất tử và bất diệt trong cõi sống vĩnh
cửu, như trường hợp của 7 người con trai của người mẹ góa sẵn sàng
và hiên ngang tử đạo, nhất là trường hợp của chính người mẹ đã đầu
tư 7 nén bạc là 7 người con trai của mình vào cõi trường sinh, những
trường hợp sinh lợi thiêng liêng này đã được Sách Macabê quyển thứ 2
thuật lại ở Bài Đọc 1 hôm nay:
"Ðặc biệt là bà mẹ đáng ca tụng và ghi nhớ: chỉ trong một ngày,
bà chứng kiến bảy con mình chết, bà vui lòng chịu đựng và trông cậy
vào Thiên Chúa. Bà đầy khôn ngoan, dùng tiếng của cha ông, can đảm
khuyên bảo từng đứa con; bà dùng sự hăng say nam nhân mà nâng đỡ tâm
hồn phụ nữ của bà. Bà nói với các con: 'Mẹ không biết các con đã
thành hình trong lòng mẹ ra sao, vì không phải mẹ ban cho các con
tinh thần, linh hồn và sự sống, cũng không phải mẹ sắp đặt các chi
thể của mỗi con, nhưng là Ðấng Sáng Tạo vũ trụ, Người đã dựng nên
loài người, và sáng tạo mọi sự với lòng nhân hậu. Người sẽ trả lại
cho các con tinh thần và sự sống, vì giờ đây các con coi rẻ mạng
sống các con để bảo vệ luật pháp của Người'".
Đúng
thế, "Lạy
Chúa, khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa" là
một câu trong Thánh Vịnh 16 ở
bài Đáp Ca hôm nay đã phản ảnh lòng tin tưởng vào sự phục sinh và
phúc trường sinh của cậu con út sau khi
nghe mẹ mình phấn khích tử đạo đã khẳng khái nói lên lời cuối cùng
với những kẻ bách hại và sát hại mình rằng: "Các
ông còn chờ gì nữa? Tôi không tuân lệnh nhà vua đâu, nhưng tôi tuân
theo lề luật mà Môsê đã ban cho cha ông chúng tôi. Còn nhà vua, là
kẻ đã bày ra đủ thứ để bách hại dân Do-thái, nhà vua sẽ không thoát
khỏi tay Thiên Chúa đâu".
Ngày 22 tháng 11
Thánh Xê-xi-li-a, trinh nữ, tử đạo
lễ nhớ bắt buộc
Tiểu sử
Cuối thế kỷ V, câu chuyện về cuộc thương khó của các chứng nhân tử đạo
Xê-xi-li-a, Va-lê-ri-a-nô và Ti-buốc đã ca ngợi đức đồng trinh của Ki-tô
giáo, khiến cho tên tuổi của một thiếu nữ người Rô-ma tên là Xê-xi-li-a
trở thành lừng lẫy. Chị đã chịu tử đạo và được mai táng ở nghĩa trang
Ca-lít-tô. Một thánh đường đã được xây dựng để kính thánh nữ và một đoản
văn trong câu chuyện trên đã khiến cho các nhạc sĩ chọn chị làm bổn
mạng.
Bài đọc 2
Hãy tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng
đàn cầm ; kính mừng Người, gảy muôn cung đàn sắt. Nào dâng Chúa một
bài ca mới. Hãy cởi bỏ cái cũ kỹ ; anh em đã biết bài ca mới.
Con người mới, giao ước mới, bài ca mới. Bài ca mới không thích hợp
với những con người cũ. Bài ca đó, chỉ những con người mới mới học
được, vì nhờ ân sủng họ đã được đổi mới từ tình trạng cũ kỹ và từ
nay thuộc về giao ước mới, tức là Nước Trời. Tất cả tình yêu của
chúng ta tha thiết hướng về Nước ấy và hát bài ca mới ; hãy hát bài
ca mới, không phải bằng môi miệng nhưng bằng đời sống.
Hãy dâng Chúa một bài ca mới, hãy
hát cho hay để mừng Người. Mỗi người tự hỏi phải hát mừng Thiên
Chúa thế nào. Hãy hát mừng Người, nhưng đừng hát sai. Người không
muốn bị chói tai. Hãy hát cho hay, hỡi anh em. Trước mặt một người
sành âm nhạc, nếu người ta bảo bạn : “Hãy hát cho ông ấy thưởng
thức”, mà bạn không được huấn luyện về âm nhạc, thì bạn sợ không dám
hát kẻo làm mất lòng người nghệ sĩ. Thật thế, những lỗi người không
thạo nhạc chẳng nhận ra, thì người nghệ sĩ sẽ thấy rõ. Vậy ai dám
cho mình là hát hay để hát mừng Thiên Chúa, Đấng đánh giá người hát,
Đấng xem xét mọi sự, Đấng nghe thấy tất cả ? Bao giờ bạn mới có thể
hát cách điêu luyện đến mức không làm chói đôi tai thành thạo ấy
chút nào ?
Đây chính Người chỉ cho bạn cách hát : đừng tìm lời, như thể bạn có
khả năng diễn tả bằng lời điều làm cho Thiên Chúa ưa thích. Hãy hát
mừng Người bằng tiếng reo vui. Hát bằng tiếng reo vui, đó là hát cho
hay để dâng Chúa. Hát bằng tiếng reo vui là gì ? Phải hiểu rằng
tiếng hát của tâm hồn không thể diễn tả bằng lời. Cũng như những
người hát trong khi gặt lúa hoặc hái nho hay khi làm một công việc
gì phấn khởi : thoạt đầu họ vui mừng hân hoan nhờ những lời của bài
ca, sau đó họ như đầy tràn một niềm vui lớn lao đến nỗi không thể
diễn tả bằng lời, nên họ không dùng lời nữa mà chuyển sang tiếng reo
vui.
Reo vui là một tiếng phát ra để diễn tả rằng : tâm hồn đang trào
dâng một điều gì đó không thể nói lên được. Tiếng reo vui ấy thích
hợp với ai hơn là với Thiên Chúa, Đấng không gì diễn tả được ? Đấng
không gì diễn tả được là Đấng bạn không thể nói lên được bằng lời.
Nếu bạn không thể nói lên bằng lời, mà cũng không được phép thinh
lặng, thì bạn còn cách nào hơn là reo vui ? Tâm hồn cứ hân hoan mà
không cần lời để niềm vui vô biên không bị ngôn từ giới hạn. Hãy
hát cho hay bằng tiếng reo vui để mừng Chúa.
Lời nguyện
Lạy Chúa, nhân ngày lễ kính thánh Xê-xi-li-a, chúng con đến dâng lời
khẩn nguyện : Vì lời thánh nữ chuyển cầu, xin cho chúng con được
xứng đáng hát mừng danh thánh Chúa. Chúng con cầu xin
Thứ
Năm
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) 1
Mcb 2, 15-29
"Chúng tôi tuân theo lề luật cha ông chúng tôi".
Trích sách Macabê quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, vua Antiôcô sai người đến cưỡng bách các người trốn ẩn
tại thành Môđin cúng tế dâng hương và chối bỏ lề luật Thiên Chúa. Có nhiều
người trong dân Israel tuân lệnh đến với họ, nhưng ông Mathathia và các con
ông cương quyết không chịu theo. Các người vua Antiôcô sai đến, lên tiếng
nói với Mathathia rằng: "Ông là thủ lãnh có tiếng tăm và có uy tín trong
thành này và có nhiều con cái và anh em. Vậy ông hãy tiến lên trước tiên và
thi hành lệnh nhà vua, như hết thảy mọi dân tộc, như các người chi tộc Giuđa
và những người còn ở lại Giêru-salem đã thi hành rồi, ông và các con ông sẽ
là bạn hữu của nhà vua, sẽ được nhà vua ban cho vàng bạc và ân huệ khác".
Matha-thia trả lời và nói lớn tiếng rằng: "Cho dầu mọi dân tộc đều tuân lệnh
vua Antiôcô, mọi người đều chối bỏ lề luật của cha ông mà vâng lệnh nhà vua,
phần tôi và con cái cùng anh em tôi, chúng tôi vẫn tuân theo lề luật cha ông
chúng tôi. Xin Thiên Chúa thương đừng để chúng tôi chối bỏ lề luật và giới
răn Chúa. Chúng tôi sẽ không nghe theo lệnh vua Antiôcô, cũng chẳng cúng tế
mà lỗi phạm lệnh truyền của lề luật chúng tôi, kẻo chúng tôi đi theo con
đường khác".
Ông vừa dứt lời thì có một người Do-thái tiến ra cúng thần trước mặt mọi
người, trên bàn thờ ở thành Môđin, theo chiếu chỉ của nhà vua. Thấy vậy,
Mathathia đau lòng xót dạ, ông nổi giận vì yêu mến lề luật, ông xông tới
giết ngay người ấy trên bàn thờ. Ông cũng giết luôn người vua Antiôcô sai
đến để cưỡng bách người ta cúng tế; ông lật đổ cả bàn thờ. Lòng nhiệt thành
của ông đối với lề luật cũng giống như lòng nhiệt thành của Phinê đã đối xử
với Zimri con ông Salomi.
Ðoạn Mathathia kêu lớn tiếng khắp trong thành phố rằng: "Ai nhiệt thành với
lề luật, tuân giữ lời Giao ước, hãy ra khỏi thành theo tôi!" Ông và con cái
ông trốn lên núi, bỏ lại trong thành mọi tài sản họ có. Bấy giờ một số người
còn nhiệt tâm với sự công chính và lề luật, cũng trốn vào hoang địa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 49, 1-2. 5-6. 14-15
Ðáp: Ai
đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).
Xướng: 1) Chúa là Thiên Chúa đã lên tiếng kêu gọi địa cầu, từ chỗ mặt trời
mọc lên tới nơi lặn xuống. Từ Sion đầy mỹ lệ, Thiên Chúa hiển linh huy
hoàng. - Ðáp.
2) Hãy tập họp cho Ta các tín đồ đã ký lời giao ước của Ta cùng hy sinh lễ.
Và trời cao sẽ loan truyền sự công chính của Người, và chính Thiên Chúa
Người là thẩm phán. - Ðáp.
3) Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và làm trọn điều khấn hứa cùng
Ðấng Tối Cao. Ngươi hãy kêu cầu Ta trong ngày khốn khó, Ta sẽ giải thoát
ngươi và ngươi sẽ kính trọng Ta. - Ðáp.
Alleluia: x. Cv 16, 14b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe
lời Con Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19, 41-44
"Chớ chi ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem, trông thấy thành thì Người khóc
thương thành ấy mà rằng: "Chớ chi hôm nay ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà
bình lại cho ngươi! Nhưng giờ đây, sứ điệp ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi.
Vì sẽ đến ngày quân thù đắp luỹ bao vây ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng
sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi cùng con cái ở trong thành. Chúng sẽ không
để lại hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi
được thăm viếng".
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời
Chúa
Những giọt châu lệ của một Tình Yêu Thương Xót quá thống khổ
Hôm nay, Thứ Năm Tuần XXXIII Thường Niên, bài Phúc Âm
tiếp tục thuật lại hành trình lên Giêrusalem của Chúa Kitô, ở chỗ, sau
khi "Người đã gần đến Giêrusalem
- he was near Jerusalem" được
Thánh ký Luca ghi lại trong Bài Phúc Âm hôm qua, thì bài Phúc Âm hôm nay
cho biết "Chúa
Giêsu đến gần Giêrusalem - coming within in sight of the city".
Thật ra giữa bài
Phúc Âm hôm qua và bài Phúc Âm hôm nay cách nhau một khúc phúc âm
không thích hợp vào
thời điểm của Mùa Thường Niên Tuần XXXIII
này, đó là khúc
phúc âm về biến cố Chúa Giêsu vinh hiển tiến vào Thành Thánh Giêrusalem,
một khúc phúc âm đã được Giáo Hội chọn đọc
cho Chúa Nhật Lễ
Lá, ở phần nghi thức rước lá trước
lễ.
Và tầm mức gần Thành
Giêrusalem của Chúa Giêsu đến độ mắt của Người
có thể trông thấy được
toàn cảnh của thành này, và vì trông thấy thành Giêrusalem như thế mà
Người đã thổn thức khóc, như Phúc Âm thuật lại như sau:
"Trông thấy thành thì Người khóc thương thành ấy mà rằng: 'Chớ chi
hôm nay ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi! Nhưng giờ
đây, sứ điệp ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi. Vì sẽ đến ngày quân thù đắp
lũy bao
vây ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi
cùng con cái ở trong thành. Chúng sẽ không để lại hòn đá nào trên hòn đá
nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng".
Đây là lần thứ hai Chúa
Giêsu khóc được Phúc Âm thuật lại; lần thứ nhất xẩy ra vào lúc trước khi
Người hồi sinh Lazarô (xem Gioan 11:35). Vậy tại sao Người lại khóc khi
thấy thành thánh Giêrusalem này, nếu không phải lý do ở ngay những lời
Người nói với thành thánh ấy: phải chăng chính là vì thành thánh có đền
thánh là nơi Thiên Chúa Cha của Người ngự này sẽ bị quân thù phá tan
tành thành
bình địa "không
hòn đá nào trên hòn đá nào", hay
là vì "ngươi
đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng" nên
sẽ bị nông nỗi kinh hoàng khủng khiếp chưa từng thấy ấy?
Chúa Kitô khóc lần thứ
nhất trước ngôi mộ của Lazarô đã chết đến xông
mùi sau 4 ngày (xem Gioan 11:39) không
phải vì Lazarô là người bạn
thân của
Người đã chết sắp được Người
hồi sinh, cho bằng vì Người thấy trước có một số môn đệ của Người sẽ bị
vĩnh viễn hư đi trong mộ tử thần không bao giờ chỗi dậy được nữa, cho dù
có nghe được tiếng Người gọi, hay hoàn toàn không
còn nghe được tiếng Người nữa.
Bởi vậy, lần khóc thứ hai
này của Người trước hình ảnh của một thành thánh Giêrusalem nguy nga đồ
sộ sẽ bị tàn phá liên quan đến hình ảnh về một Giáo Hội của Người cũng
sẽ có ngày bị "các đạo quân Gog và Magog" đông vô kể công hãm,
như Sách Khải Huyền đã tiên báo (20:9), khiến cho một số chi thể của
Người bị tử thương muôn đời về phần rỗi vô cùng tiếc xót của họ!
Nếu biết được Thiên Chúa yêu thương loài người đến đâu thì mới cảm được
sự kiện khóc thương này của Chúa Giêsu, như thể Người tiếc thương chẳng
những cho các linh hồn bất tử vô cùng quí giá bị hư đi mà còn khóc
thương cho chính Tình Yêu Vô Cùng Nhân Hậu đầy Khôn Ngoan và Toàn Năng
của Thiên Chúa, một tình yêu đã yêu thương loài người "đến cùng" (Gioan
13:1), không còn thể nào yêu hơn được nữa, không còn cách nào để yêu họ
hơn được nữa, đã chẳng những trở nên vô ích và thành đồ bỏ đối với những
linh hồn hư đi ấy, mà còn trở thành án phạt đời đời cho họ nữa.
Phải chăng những giọt nước mắt không thể cầm được nơi Chúa Kitô phần nào
diễn tả tất cả nỗi xót xa đớn đau của một Vị Thiên Chúa Toàn Thiện và
Toàn Ái trước thân phận hư đi của một số linh hồn bất hạnh được Ngài yêu
thương dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Ngài để nhờ đó họ có thể
hiệp thông thần linh với Ngài?
Phải chăng những giọt nước mắt ngọc ngà chảy ra từ đôi mắt vô cùng từ bi
nhân hậu của Vị Thiên Chúa hóa thân làm người Giêsu Nazarét ấy mới là
một chút dạo khúc mở đầu cho nỗi thống khổ sẽ lên tới tột cùng ở Vườn
Cây Dầu khi Vị Thiên Chúa làm người này toát mồ hôi máu ra nhỏ xuống đất
(xem Luca 22:44), hình ảnh báo trước cuộc tử nạn vô cùng đau thương của
Đấng cho dù đã chết vẫn chưa được dung tha, vẫn còn bị một lưỡi đòng phũ
phàng oan nghiệt đâm thâu qua làm cho "máu và nước chảy ra" (Gioan
19:34)? Ôi LTXC!
Tuy nhiên, tình trạng Thành Thánh Giêrusalem bị tàn phá được Chúa Giêsu
tiên báo trong bài Phúc Âm hôm nay không phải chỉ là một tai họa, một
hậu quả gây ra do tội lỗi của dân Chúa "đã không nhận biết giờ ngươi
được thăm viếng", mà còn là một thách thức đối với những tâm hồn
nào còn trung thành với Ngài, để Ngài tiếp tục tỏ mình ra cho cả thành
phần vô đạo bách hại họ và sát hại họ nữa, như trường hợp của Matthias
cùng với gia đình của ông và những người bất khuất đáp lại lời kêu gọi
hào hùng của ông, như được Sách Macabê quyển thứ 1 thuật lại trong Bài
Đọc 1 hôm nay:
"Matha-thia trả lời và nói lớn tiếng rằng: 'Cho dầu mọi dân tộc đều
tuân lệnh vua Antiôcô, mọi người đều chối bỏ lề luật của cha ông mà vâng
lệnh nhà vua, phần tôi và con cái cùng anh em tôi, chúng tôi vẫn tuân
theo lề luật cha ông chúng tôi. Xin Thiên Chúa thương đừng để chúng tôi
chối bỏ lề luật và giới răn Chúa. Chúng tôi sẽ không nghe theo lệnh vua
Antiôcô, cũng chẳng cúng tế mà lỗi phạm lệnh truyền của lề luật chúng
tôi, kẻo chúng tôi đi theo con đường khác'"
Thế rồi, "ông vừa dứt lời thì có một người Do-thái tiến
ra cúng thần trước mặt mọi người, trên bàn thờ ở thành Môđin, theo chiếu
chỉ của nhà vua. Thấy vậy, Mathathia đau lòng xót dạ, ông nổi giận vì
yêu mến lề luật, ông xông tới giết ngay người ấy trên bàn thờ. Ông cũng
giết luôn người vua Antiôcô sai đến để cưỡng bách người ta cúng tế; ông
lật đổ cả bàn thờ.... Đoạn Mathathia kêu lớn tiếng khắp trong thành phố
rằng: 'Ai nhiệt thành với lề luật, tuân giữ lời Giao ước, hãy ra khỏi
thành theo tôi!' Ông và con cái ông trốn lên núi, bỏ lại trong thành mọi
tài sản họ có. Bấy giờ một số người còn nhiệt tâm với sự công chính và
lề luật, cũng trốn vào hoang địa".
Thật vậy, lời kêu gọi của Matha-thia trong Bài Đọc 1 hôm nay có thể nói
âm vang lời Thiên Chúa kêu gọi "ai
đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ" trong
Thánh Vịnh 49 ở bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúa là Thiên Chúa đã lên tiếng kêu gọi địa cầu, từ chỗ mặt trời
mọc lên tới nơi lặn xuống. Từ Sion đầy mỹ lệ, Thiên Chúa hiển linh huy
hoàng.
2) Hãy tập họp cho Ta các tín đồ đã ký lời giao ước của Ta cùng hy
sinh lễ. Và trời cao sẽ loan truyền sự công chính của Người, và chính
Thiên Chúa Người là thẩm phán.
3) Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và làm trọn điều khấn hứa
cùng Ðấng Tối Cao. Ngươi hãy kêu cầu Ta trong ngày khốn khó, Ta sẽ giải
thoát ngươi và ngươi sẽ kính trọng Ta.
Thánh Clêmentê ở Rôma
Giáo Hoàng Tử Đạo
Người ta biết được về thánh
Clêmentê, vị giáo hoàng trị vì trong 10 năm chỉ nhờ bức "thư gởi giáo hữu
Côrintô" thôi. Vào thế kỷ thứ IV có lưu hành những chứng thư đầy huyền
thoại. Theo đó, cha Ngài là Phaustin thuộc dòng dõi Giacop. Sinh tại Roma,
được nuôi dưỡng trong Do thái giáo.
Thánh Clêmentê đã nghe theo những
diễn từ của các thánh tông đồ và trở thành môn đệ các Ngài. Ngài đã theo
thánh Phaolô trong các hành trình đi truyền giáo và đã trở thành đấng kế vị
thứ ba của thánh Phêrô. Vua Trajanô đang bách hại các Kitô hữu biết được
rằng: vị giáo hoàng đã đem được nhiều người trở lại đạo. Ông kết án Ngài
phải làm việc khổ sai tại các hầm mỏ bên kia Bắc Hải, trong các miền hoang
vắng. Hai ngàn Kitô hữu đẽo đá tại đây chịu cảnh khát nước thảm khốc.
Tương truyền rằng thánh Clêmentê
cầu nguyện rồi lên một ngọn đồi và thấy một con chiên ghi dấu chân đúng vào
chỗ có dòng nước tươi mát vọt lên làm giảm khát cho người mang án. Các bức
tranh cẩn đâu tiền còn diễn lại biểu tượng một con chiên đứng trên ngọn núi
xanh. Nhà vua khi biết được rằng thánh Clêmentê đã dùng lời nói và phép lạ
để an ủi các Kitô hữu, liền sai các sứ giả tới cột cổ Ngài vào một cái neo
rồi ném xuống biển. Lệnh đường thi hành. Nhưng trong khi các tín hữu cầu
nguyện trên bờ, họ thấy dòng nước rút đi một cách lạ lùng và có thể đưa xác
vị tử đạo lên đất liền.
Điều chắc chắn chính là bức thư
của thánh Clêmentê đã thành một trong các tài liệu quí giá của Kitô giáo
thời Chúa xưa. Các Kitô hữu Côrintô chạy đến Đức giáo hoàng để tìm hoà giải
những cuộc tranh chấp, đã kính cẩn đón tiếp thư của Ngài. Những thư này được
đọc cho các cộng đoàn tín hữu. Thư của thánh Clêmentê chứng thực việc thánh
Phêrô đến và chịu chết ở Roma, việc Nêrô bắt các Kitô hữu làm trò mua vui.
Thư cũng gợi ý cho chúng ta việc tổ chức Giáo hội. Giữa các sự việc lớn lao
khác, thánh Clêmentê đã nói:
- "Ai mạnh hãy lo cho người yếu.
Người giầu hãy giúp đỡ người nghèo và người nghèo hãy chúc tụng Chúa và điều
Ngài muốn cung ứng cho các nhu cầu của họ. Người khôn ngoan hãy tỏ ra khôn
ngoan không phải chỉ trong lời nói mà còn trong các việc lành. Người khiêm
tốn đùng nói gì về mình và đừng tìm phô diễn hành động của mình. Người lớn
không thể tồn tại mà không có người nhỏ và người nhỏ cũng không thể tồn tại
mà không có người lớn... Thân thể không thể bỏ qua sự phục vụ của những chi
thể nhỏ bé hơn.
Các tín hữu còn học biết bằng qua
những âu lo vô ích và sống đời sám hối, mỗi người phải biết vâng phục để trở
nên tôi tớ hoàn tất vinh quang Thiên Chúa. Đức Kitô đã không đến trong kiêu
sa, nhưng đã tự hạ, đã chịu khổ cực. Vậy phải nên thánh và tín thác cho
Chúa.
Chỉ một bức thư này còn quan trọng
trong sự thật vượt xa mọi truyện thần thoại.
Đức Giáo Hoàng Biển
Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 28/2/2007 –
Bài Giáo Lý 32 trong
loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền
Anh Chị Em thân mến,
Trong mấy tháng qua, chún g ta đã suy niệm về những hình ảnh của từng vị
tông đồ và là những vị chứng nhân tiên khởi của đức tin Kitô Giáo, những vị
được đề cập tới trong các bản văn Tân Ước. Giờ đây, chúng ta quay sang các
vị Tông Giáo Phụ , tức đến thế hệ thứ nhất và thứ hai của Giáo Hội sau các
tông đồ. Nhờ đó chún g ta có thể thấy được cách thức Giáo Hội bắt đầu tiến
bước trong lịch sử.
Thánh Clêmentê, Giám Mục Rôma trong những năm cuối cùng của thế kỷ thứ nhất,
là vị thừa kế thứ ba của Thánh Phêrô, sau Đức Linus và Đức Anacletus. Chứng
từ quan trọng nhất về đời sống của ngài được Thánh Irênê là giám mục Lyon
viết mãi vào năm 202. Vị giám mục này cho rằng Thánh Clêmentê ‘đã từng thấy
các vị tông đồ… đã được gặp gỡ các vị ấy’, và ‘vẫn còn văng vẳng bên tai
giáo huấn của các vị, và vẫn còn thấy trước mắt truyền thống của các vị’ (Adv.
Haer. 3,3,3). Những chứng từ sau này, giữa thế kỷ thứ bốn và thứ sáu, thì
qui tước hiệu tử đạo cho Thánh Clêmentê.
Thẩm quyền và thế giá của vị Giám Mục Rôma này như vậy nên có một số bản văn
được qui về cho ngài, thế nhưng chỉ có một bản văn chắc chắn là Bức Thư gửi
cho Giáo Đoàn Côrintô.
Giáo phụ Eusebius thành Caesarea, một đại ‘lưu trữ viên’ của những gốc tích
Kitô Giáo, đã trình bày về bức thư này bằng những lời lẽ như sau: ‘Một bức
thư duy nhất của Đức Clêmentê đã được gửi xuống cho chúng ta được công nhận
là chân thực, trọng đại và tuyệt vời. Bức thư này được ngài viết nhân
danh Giáo Hội Rôma gửi cho Giáo Hội ở Côrintô… Chúng ta biết rằng qua một
thời gian dài, và cho tới cả ngày nay nữa, bức thư n ày được công khai đọc
trong những cuộc tái hợp của tín hữu’ (Hist. Eccl. 3,16).
Một đặc tính hầu như có tính cách giáo luật được qui cho bức thư này. Ở đầu
bản văn ấy, được viết bằng tiếng Hy Lạp, Đức Clêmentê xin lỗi nếu ‘những
biến cố phức tạp và tai hại’ (1:1) đã xẩy ra vì một cuộc can thiệp chậm
chạp. Những ‘biến cố’ ấy có thể được đồng hóa với cuộc bách hại của
Domitian; bởi thế, ngày tháng của bức thư này được viết vào thời điểm ngay
sau cái chết của vị hoàng đế ấy và trước khi chấm dứt cuộc bách hại, tức là
ngay sau năm 96.
Việc can thiệp của Đức Clêmentê – chúng ta vẫn còn ở thế kỷ thứ nhất – được
kêu gọi thực hiện vì những vấn đề trầm trọng Giáo Hội Côrintô đang trải qua;
thật vậy, các vị linh mục của cộng đồng này đã bị loại trừ bởi một số thành
phần trẻ trung mới tạo được uy thế. Biến cố đau thương này một lần nữa được
ghi nhớ bởi Thánh Irênê, vị đã viết rằng: ‘Dưới thời Đức Clêmentê, xẩy ra
một cuộc xung khắc trầm trọng giữa các người anh em ở Corintô, Giáo
Hội Rôma đã gửi cho giáo đoàn Côrintô một bức thư rất quan trọng để hòa giải
họ trong an bình, để canh tân đức tin của họ và để loan báo một truyền thống
họ đã lãnh nhận còn rất mới mẻ từ các vị tông đồ’ (Adv. Haer. 3,3,3).
Bởi thế, chúng ta có thể nói rằng bức thư này là việc hành sử lần đầu tiên
của một Vị Giáo Chủ ở Rôma sau cái chết của Thánh Phêrô. Bức thư của Thánh
Clêmentê đã đụng chạm tới những đề tài thân thương với Thánh Phaolô, vị đã
viết hai bức thư quan trọng cho giáo đoàn Côrintô, nhất là về vấn đề biện
chứng thần học, bao giờ cũng thích hợp, giữa biểu thị của việc cứu độ và
trách nhiệm dấn thân về luân lý.
Trước hết là việc công bố ơn cứu độ. Chúa thấy được là chúng ta cần gì và
ban ơn tha thứ cho chúng ta, ban cho chúng ta tình yêu của Người, ban cho
chúng ta ơn được làm người Kitô hữu, làm anh chị em của Người. Đó là điều
rao giảng làm cho cuộc đời chúng ta hân hoan và giúp cho các hoạt động của
chúng ta được vững chắc. Chúa Kitô luôn thấy được là các hành động của chúng
ta cần đến sự thiện hảo của Người và sự thiện hảo của Chúa bao giờ cũng lớn
hơn tất cả mọi tội lỗi của chúng ta.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải quyết tâm một cách gắn bó với tặng ân chúng ta
được lãnh nhận ấy và đáp lại việc loan truyền ơn cứu độ bằng một đường lối
quảng đại và can trường hướng tới việc hoán cải. So sánh với mô thức của
Thánh Phaolô, thì cái mới mẻ là ở chỗ, tiếp theo sau phần tín lý và phần
thực hành Thánh Clêmentê, có ‘một lời nguyện cầu long trọng’ để kết thúc bức
thư một cách cụ thể.
Dịp trực tiếp của bức thư này đã tạo cơ hội cho vị Giám Mục Rôma để can
thiệp một cách sâu rộng vào vấn đề căn tính của Giáo Hội và sứ vụ của Giáo
Hội. Thánh Clêmen tê ghi nhận là nếu có những c huyện lạm dụng xẩy ra ở
Côrintô thì lý do cần phải lưu ý tới đó là ở tình trạng yếu kém về đức ái và
những nhân đức cần thiết của Kitô Giáo. Đó là lý do tại sao ngài đã kêu gọi
tất cả mọi tín hữu hãy sống khiêm nhượng và yêu thương huynh đệ, hai nhân
đức thật sự là căn bản để làm phần tử của Giáo Hội. Ngài nói: ‘Chúng ta là
phần thể của Đấng Thánh, nên chúng ta hãy làm tất cả những gì liên quan tới
thánh thiện’ (30:1).
Đặc biệt vị Giám Mục Rôma này còn nhắc lại rằng chính Chúa Kitô, ‘Người muốn
những điều ấy được thực hiện ở đâu và bởi ai, thì chính Người đã ấn định
theo ý muốn tối cao của Người, để tất cả mọi sự, được thực hiện một cách đạo
hạnh theo sở thích tốt lành của Người, đáng được Người chấp nhận…. Vì những
việc phục vụ đặc biệt của Người là những gì được bổ nhiệm cho vị thượng tế,
và nơi chốn thích hợp của những việc phục vụ ấy được qui định cho các vị
linh mục, và những thừa tác vụ đặc biệt của những việc ấy được trao cho
thành phần Lêvi. Thành phần giáo dân, theo luật, có trách nhiệm đối với
những gì thuộc giáo dân’ (40:1-5: xin lưu ý là ở đây, trong bức thư từ cuối
thế kỷ thứ nhất này, lần đầu tiên văn chương Kitô Giáo có chữ Hy Lạp
‘laikós’, mang ý nghĩa là ‘phần tử của vương quốc’, tức là thành phần ‘dân
Chúa’).
Như thế, khi qui chiếu về phụng vụ của dân Yến Duyên, Thánh Clêmentê
cho thấy lý tưởng của ngài về Giáo Hội. Đó là một cuộc qui tụ bởi ‘một thần
linh ân sủng được đổ xuống trên chúng ta’, cho thấy, qua các phần tử khác
nhau của Thân Mình Chúa Kitô, tất cả được liên kết bất phân đều là ‘phần tử
của nhau’ (46:6-7).
Việc phân biệt rõ ràng giữa thành phần ‘giáo dân’ và phẩm trật dù sao cũng
không có nghĩa là một cái gì đó tương phản mà chỉ là một liên hệ theo cơ cấu
của một thân thể, của một tổ chức có những phần hành khác nhau. Thật vậy,
Giáo Hội không phải là một nơi hỗn độn và vô chủ, nơi mà ai muốn làm
gì thì làm vào bất cứ lúc nào, mỗi người trong cơ cấu có lớp lang này thực
hành thừa tác vụ của mình theo ơn gọi được nhận lãnh.
Liên quan tới thành phần lãnh đạo của các cộng đồng, Thánh Clêmentê
xác định rõ về tín lý của việc kế thừa tông đồ. Những luật lệ chi phối điều
này đều xuất phát từ chính Thiên Chúa một cách tối hậu. Chúa C ha sai Chúa
Giêsu Kitô, Đấng đến phiên mình thì sai các vị tông đồ. Rồi những vị này sai
thành phần thủ lãnh đầu tiên của các cộng đồng, và đã ấn định rằng họ
cần phải được những con người xứng đáng tuân theo. Bởi thế, tất cả mọi
sự được tiến triển ‘một cách lớp lang, theo ý muốn của lời Chúa’ (42).
Với những lời này, với những câu ấy, Thánh Clêmentê muốn nhấn mạnh rằng Giáo
Hội có một cấu trúc bí tích, chứ không phải là một cấu trúc chính trị. Các
tác động của Thiên Chúa vươn tới chúng ta trong phụng vụ là những gì đi
trước các quyết định và các ý nghĩ của chúng ta. Giáo Hội trước hết là một
tặng ân của Thiên Chúa chứ không phải là một sản phẩm của chúng ta, bởi thế
cấu trúc bí tích này chẳng những bảo đảm được trật tự chung mà còn là những
gì tiền dẫn đến tặng ân của Thiên Chúa tất cả chúng ta cần đến.
Sau hết, ‘lời nguyện long trọng’ cống hiến một thứ hít thở vũ trụ cho việc
bàn luận trước đó. Thánh Clêmentê ca ngợi và cảm tạ Thiên Chúa về sự quan
phòng yêu thương cao cả của Ngài, Đấng đã tạo dựng nên thế giới và
tiếp tục cứu thế giới và chúc lành cho thế giới. Lời kêu cầu cho cơ cấu cai
quản cũng được đặc biệt chú trọng. Sau các bản văn Tân Ước thì đây là lời
cầu nguyện cổ kính nhất cho các tổ chức chính trị. Bởi thế, khi mới có việc
bách hại, Kitô hữu, quá rõ là các cuộc bắt bớ sẽ tiếp tục xẩy ra, đã không
thôi nguyện cầu cho chính những vị thẩm quyền đã lên án họ một cách bất
chính.
Động lực ấy trước hết có tính cách Kitô học, đó là con người cần phải nguyện
cầu cho thành phần bách hại mình, như Chúa Giêsu đã làm trên cây thập giá.
Thế nhưng, lời cầu nguyện ấy cũng chất chứa một giáo huấn, qua giòng lịch
sử, hướng dẫn thái độ của Kitô hữu trước các hoạt động chính trị và quốc
gia.
Trong việc nguyện cầu cho các vị thẩm quyền, Thánh Clêmentê nhìn nhận tín h
cách hợp lý của các cơ cấu chính trị theo trật tự được Thiên Chúa ấn định.
Đồng thời ngài cũng bày tỏ mối quan tâm của ngài về việc những thẩm quyền
này phải làm sao để dễ dạy đối với Thiên Chúa và ‘hành sử quyền hành được
Chúa ban trong an bình và nhân ái xót thương’ (61:2).
Cêsa không phải là tất cả. Còn có một chủ quyền khác, mà nguồn gốc và yếu
tính của nó không thuộc về thế giới này, mà là ‘từ trên cao’: đó là thẩm
quyền của Sự Thật, một sự thật có quyền được lắng nghe cũng như có quyền đối
chất với quốc gia.
Như thế, bức thư của Thánh Clêmentê nêu lên nhiều đề tài vẫn còn thực hữu.
Điều này càng có ý nghĩa hơn, vì nó tiêu biểu, từ thế kỷ thứ nhất, mối quan
tâm của Giáo Hội Rôma, một Giáo Hội chủ sự trong đức ái đối với tất cả mọi
giáo hội khác.
Theo cùng tinh thần ấy, chúng ta thực hiện những lời cầu khẩn của chúng ta
như ‘lời nguyện trọng đại’ này, nơi vị Giám Mục Rôma trở thành tiếng nói cho
toàn thế giới, ‘vâng, lạy Chúa, xin chiếu tỏa dung nhan Chúa trên chúng con
cho thiện ích trong an bình, để chúng con được bàn tay quyền năng của
Chúa bao che… chúng con ca ngợi Chúa qua vị thượng tế và là vị bảo hộ linh
hồn của chúng con là Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà vinh quang và uy nghi
được qui về Chúa bay giờ và qua mọi thế hệ cho tới muôn đời. Amen’ (60-61).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ
biến ngày 7/3/2007
Thứ
Sáu
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) 1
Mcb 4, 36-37, 52-59
"Họ làm lễ cung hiến bàn thờ và hân hoan dâng lễ toàn thiêu".
Trích sách Macabê quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Giuđa và anh em ông nói rằng: "Quân thù chúng ta đã bị
tiêu diệt, nay chúng ta hãy đi thanh tẩy và cung hiến Ðền thánh lại".
Toàn thể quân đội được triệu tập, rồi cùng lên núi Sion.
Ngày hai mươi lăm tháng chín (tức là tháng Kislêu) năm một trăm bốn mươi
tám, họ dậy sớm, dâng lễ tế như Luật dạy trên bàn thờ dùng để dâng lễ toàn
thiêu mà họ vừa mới thiết lập. Bàn thờ đã được cung hiến lại giữa những
tiếng ca, tiếng đàn lục huyền cầm, phong cầm cùng tiếng não bạt, đúng mùa,
đúng ngày trước kia dân ngoại đã xúc phạm đến bàn thờ. Toàn dân sấp mình thờ
lạy và ca tụng Ðấng ngự trên trời đã ban chiến thắng cho họ.
Họ làm lễ cung hiến bàn thờ suốt tám ngày, hân hoan dâng lễ toàn thiêu, lễ
đền tội và lễ tạ ơn. Họ trang hoàng mặt tiền Ðền thờ với những triều thiên
vàng và bảng chương, sửa lại các cửa ra vào và các phòng, đặt cánh cửa lại.
Dân chúng nô nức vui mừng vì đã rửa sạch được nỗi tủi nhục do dân ngoại gây
nên. Giuđa cùng với anh em ông và cộng đoàn Israel quyết định rằng: Hằng
năm, từ ngày hai mươi lăm tháng Kislêu, lễ cung hiến bàn thờ sẽ được cử hành
trong vui mừng hân hoan suốt tám ngày.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: 1 Sb 29, 10. 11abc. 11d-12a. 12bcd
Ðáp: Lạy
Chúa, chúng con chúc tụng thánh danh vinh hiển của Chúa (c. 13b).
Xướng: 1) Ðavít đã chúc tụng Chúa trước mặt toàn thể cộng đồng, Người thưa:
"Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng từ đời
đời tới muôn muôn thuở". - Ðáp.
2) Lạy Chúa, cao sang, quyền bính và vinh quang, chiến thắng, lời ca khen
đều thuộc về Chúa, vì tất cả những gì trên trời dưới đất là của Chúa. - Ðáp.
3) Chúa ngự trên tất cả những đế vương. Giàu sang là của Chúa, và vinh quang
là của Chúa. - Ðáp.
4) Chúa thống trị trên tất cả mọi loài, sức mạnh quyền bính đều ở trong tay
của Chúa; ở trong tay Chúa, mọi uy phong và vững bền. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 34
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp
của Chúa, và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19, 45-48
"Các ngươi đã biến đền thờ Thiên Chúa thành sào huyệt trộm cướp".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào đền thờ, Người liền xua đuổi các người buôn bán tại
đó và phán bảo họ rằng: "Có lời chép rằng: Nhà Ta là nhà cầu nguyện, các
ngươi đã biến thành sào huyệt trộm cướp". Và hằng ngày Người giảng dạy trong
Ðền thờ. Các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão trong dân tìm cách hại Người,
nhưng họ không biết phải làm cách nào, vì dân chúng hết thảy đều chăm chú
nghe Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời
Chúa
Quá yêu thương đến bất khả chấp
Bài Phúc Âm hôm
nay, Thứ Sáu Tuần XXXIII Thường Niên, tiếp tục với cuộc hành trình lên
Giêrusalem của Chúa Kitô, ở chỗ, sau
khi "Người đã gần đến Giêrusalem" trong
Bài Phúc Âm hôm kia, sau đó "Chúa
Giêsu đến gần Giêrusalem" trong bài Phúc Âm hôm qua, và
hôm nay "Chúa
Giêsu vào đền thờ".
Phải, nếu đền thờ
Giêrusalem là nơi Thiên Chúa ngự, là biểu hiệu cho sự hiện diện thần
linh của Thiên Chúa, thì sự kiện Chúa Giêsu có mặt ở đền thờ này cho
thấy Người đã đến được đích điểm
cuộc hành
trình Giêrusalem của Người.
Bởi Người đến "là để
tỏ Cha ra" (Gioan 1:18), tức để làm cho dân của Người biết Cha của
Người thực sự là Đấng nào,
Vị Thiên Chúa đã từng tỏ mình ra cho họ trong suốt giòng lịch sử cứu độ
của họ như là một Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, ngoài
Ngài ra không còn một vị Thiên Chúa nào khác, và vì thế họ phải hết
mình kính mến Ngài, chỉ một mình Ngài thôi, "hết lòng, hết linh hồn và
hết sức" của họ (xem Đệ Nhị Luật 6:4-5), nghĩa là trên hết mọi sự.
Bởi thế, không lạ gì, khi
thấy cảnh tượng dân chúng buôn bán trong đền thờ "là
nhà cầu nguyện", như
chính Người nói trong Bài Phúc Âm hôm nay, đã
bị "biến
thành sào huyệt trộm cướp", thì làm
sao Người là Đấng kính mến Cha Người hết mình và trên hết mọi sự, khi
thấy nơi biểu hiệu cho sự hiện diện thần linh của Cha bị chính dân của
Ngài tục hóa, có thể nào chịu đựng được, đến độ dù Người vốn "hiền
lành và khiêm nhượng trong lòng"
(Mathêu 11:29) cũng
không thể nào không ra tay "xua
đuổi các người buôn bán tại đó".
Phải chăng đó là một
trong những lý do chính yếu khiến Người vừa thấy thành thánh Giêrusalem,
Người đã thổn thức khóc, như bài Phúc Âm hôm qua thuật lại? Người đã
không khóc khi thấy Cha của Người
bị xúc phạm cho bằng
khóc thương dân của Người, vì họ không ngừng liên tục
xúc phạm đến Cha của
Người mà nguy hiểm đến phần rỗi đời đời của chính họ.
Bởi thế mà trên đường vác thập giá lên Núi Sọ, Người đã khuyên đám phụ
nữ thương khóc Người bấy
giờ rằng:
"Chớ
khóc thương Tôi, một khóc thương các ngươi cùng con cháu của các ngươi"
(Luca 23:27-28).
Đúng vậy, nếu
con người ta nói
chung và những ai tin vào Người nói riêng thật sự biết
khóc thương bản thân mình, ở chỗ tỏ ra ăn năn thồng hối tội lỗi của
mình, thì đó là tác động họ khóc thương Người rồi vậy, vì họ sẽ không
dám xúc phạm đến Người nữa, họ sẽ không làm cho Người phải khổ sở vác
thập giá của họ và cho họ nữa, thập
giá do chính họ chất lên vai của Người.
Tội lỗi của họ chính là thập giá mà Người phải vác vậy. Và thập giá cũng
là biểu hiệu cho từng con chiên lạc Người cần
phải tìm
kiếm và vác
trên vai mang về nhà Cha của Người vậy (xem Luca 15:5).
Đó là lý do Người quả thật
không hề ghét bỏ dân của Người qua hành động đánh đuổi họ như thế, trái
lại, chỉ vì Người thương họ hơn bao giờ hết, khi thấy họ lầm lạc đến độ
chính họ là dân được Thiên Chúa là Cha của Người tuyển chọn đã tục hóa
một nơi thánh nhất của họ, chứ không phải bị tục hóa bởi dân ngoại không
biết gì đến Vị Thiên Chúa của họ, như đã phũ phàng và trắng trợn xẩy ra
vào thời kỳ hậu lưu đầy của họ, khi họ bị ngoại bang xâm chiếm và đô hộ,
đến độ quyền lực ngoại bang bấy giờ đã ra
tay tàn phá và tục
hóa đền thờ ấy,
một biến cố lịch
sử đầy nhơ nhớp được
Sách Macabê quyển thứ nhất diễn thuật trong Bài Đọc 1 Thứ Hai đầu tuần
này.
Việc Chúa Giêsu "xua
đuổi các người buôn bán tại đó" còn
mang một ngậm ý trách móc cả thành phần lãnh đạo dân Chúa bấy giờ nữa,
thành phần có thẩm quyền để hướng dẫn dân Chúa theo đường lối của Thiên
Chúa, theo lề luật thánh lại để xẩy ra tình trạng tục hóa công khai này,
một là vì chính họ cho phép hai là vì họ cứ để cho dân
chúng tha hồ tục
hóa đền thờ linh thánh này, không hề ngăn cản tí nào, như thể vừa tán
thành vừa đồng lõa với tội lỗi của dân.
Người biết rằng việc Người
tự động "xua
đuổi các người buôn bán tại đó" chắc
chắn sẽ đụng chạm đến quyền bính của thành phần lãnh đạo này. Thế nhưng,
vì Người đến cứu cả thành phần lãnh đạo mù quáng ấy nữa,
nên Người vẫn bất
chấp, họ có tỏ ra hận thù Người hơn bao giờ hết, như được Bài Phúc Âm
hôm nay cho thấy: "Các
thượng tế, luật sĩ và kỳ lão trong dân tìm cách hại Người, nhưng họ
không biết phải làm cách nào, vì dân chúng hết thảy đều chăm chú nghe
Người".
Họ càng hận thù và
tìm cách hại Người bao nhiêu thì chính họ là thành phần "không muốn" xẩy
ra chuyện "phong vương" của Người càng được thành
tựu, như ý nghĩa
trọng dụ ngôn của
Bài Phúc Âm hôm kia
cho biết vào thời điểm Người "gần đến Giêrusalem" là nơi Người sẽ
bị rơi vào tay họ như Người đã báo trước cho các môn đệ của Người về
biến cố bất khả tránh này 3 lần, đúng
như ý định vô cùng nhiệm mầu của Cha Người về cuộc hành
trình Giêrusalem của Người là để Người được "phong
vương"
trên ngai tòa thập tự
giá một cách danh
chính ngôn thuận: "Giêsu Vua
Dân Do Thái"
(Luca 23:38).
Tuy nhiên, ngay lúc
bấy giờ, lúc Người "xua
đuổi các người buôn bán tại đó" thì
họ còn sợ dân chúng, tức chưa đến giờ của người, nhờ đó, như Phúc Âm cho
biết: "hằng
ngày Người giảng dạy trong Ðền thờ". Và
vì thế, từ ngày mai Thứ Bảy Tuần XXXIII Thường Niên cho tới hết tuần 34
Thường Niên là tuần cuối cùng của phụng niên hằng năm, chúng ta sẽ đọc
thấy các bài Phúc Âm cho ngày thường trong tuần liên quan đến giáo huấn
Giêrusalem của Người, những giáo huấn cuối cùng của hành trình
Giêrusalem được Người công khai truyền
dạy ở chính thành thánh Giêrusalem, giáo đô
của Do Thái giáo, cũng là khởi điểm truyền giáo (xem
Tông Vụ 1:8) ngay sau
biến cố Thánh
Linh Hiện Xuống của
Giáo Hội được Người thiết lập.
Đúng thế, đối với những con người không tin tưởng Thiên Chúa, hay tin
tưởng một cách nửa vời, hoặc tin tưởng một cách giả hình như thành phần
trí thức Do Thái giáo là luật sĩ và biệt phái nói chung, thì Đền Thờ là
nơi Thiên Chúa ngự giữa họ sẽ bị họ tục hóa và biến thành một phương
tiện lạm dụng của họ cho lợi lộc trần gian. Thế nhưng, đối với những tâm
hồn nào thực sự tin tưởng Ngài mới tỏ ra tôn kính Đền Thờ của Ngài, nhất
là khi thấy Đền Thờ của Ngài bị tục hóa chẳng những bởi dân ngoại mà còn
bởi cả chính dân của Ngài nữa, và họ không thể nào không tái thiết đền
thờ xứng với Vị Thiên Chúa tối cao chí thánh của họ, như trường hợp của
nhân vật Giuđa cùng với anh em mình, những người con của người bố anh
hùng đức tin Matha-thia, đã làm trong Bài Đọc 1 theo sách Macabê quyển
thứ 1 như sau:
"Trong những ngày ấy, Giuđa và anh em ông nói rằng: 'Quân thù chúng ta
đã bị tiêu diệt, nay chúng ta hãy đi thanh tẩy và cung hiến Ðền thánh lại'.
Toàn thể quân đội được triệu tập, rồi cùng lên núi Sion. Ngày hai mươi lăm
tháng chín (tức là tháng Kislêu) năm một trăm bốn mươi tám, họ dậy sớm, dâng
lễ tế như Luật dạy trên bàn thờ dùng để dâng lễ toàn thiêu mà họ vừa mới
thiết lập. Bàn thờ đã được cung hiến lại giữa những tiếng ca, tiếng đàn lục
huyền cầm, phong cầm cùng tiếng não bạt, đúng mùa, đúng ngày trước kia dân
ngoại đã xúc phạm đến bàn thờ".
Chưa hết, sau đó "toàn dân sấp mình thờ lạy và ca tụng Ðấng
ngự trên trời đã ban chiến thắng cho họ. Họ làm lễ cung hiến bàn thờ suốt
tám ngày, hân hoan dâng lễ toàn thiêu, lễ đền tội và lễ tạ ơn. Họ trang
hoàng mặt tiền Ðền thờ với những triều thiên vàng và bảng chương, sửa lại
các cửa ra vào và các phòng, đặt cánh cửa lại. Dân chúng nô nức vui mừng vì
đã rửa sạch được nỗi tủi nhục do dân ngoại gây nên". Hành động của dân
Chúa được thuật lại trên đây chính là âm vang của những tâm tình tôn thờ
chân thực được chất chứa trong bài Đáp Ca hôm nay:
1) "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel cha ông chúng con, Chúa
đáng chúc tụng từ đời đời tới muôn muôn thuở".
2) Lạy Chúa, cao sang, quyền bính và vinh quang, chiến thắng, lời ca
khen đều thuộc về Chúa, vì tất cả những gì trên trời dưới đất là của Chúa.
3) Chúa ngự trên tất cả những đế vương. Giàu sang là của Chúa, và vinh
quang là của Chúa.
4) Chúa thống trị trên tất cả mọi loài, sức mạnh quyền bính đều ở trong
tay của Chúa; ở trong tay Chúa, mọi uy phong và vững bền.
Ngày 24 tháng 11
Lễ Thánh Anrê Trần
An Dũng Lạc,
và các bạn Tử Ðạo
(Lễ Các Thánh Tử
Ðạo Việt Nam)
Bài Ðọc I: Kn 3,
1-9
"Chúa chấp nhận các ngài như của lễ
toàn thiêu".
Trích sách Khôn Ngoan.
Linh hồn những người công chính ở
trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Ðối với con
mắt của người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các
ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài
sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài có chịu khổ hình,
lòng trông cậy của các ngài cũng không chết. Sau một giây lát chịu khổ nhục,
các ngài sẽ được vinh dự lớn lao; vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng
trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.
Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn các
ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu toả ra như ánh lửa chiếu
qua bụi lau. Các ngài sẽ xét sử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và
Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời. Các ngài đã tin tưởng ở Chúa,
thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn Chúa
và bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn.
Ðó là Lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 125,
1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6
Ðáp: Chúa đã đối
xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan (c. 3).
Xướng: 1) Khi Chúa đem những người
Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như Người đang mơ, bấy giờ miệng chúng
tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. - Ðáp.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau
rằng: "Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng". Chúa đã đối xử đại lượng với
chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận của
con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân
hoan. - Ðáp.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang
thóc đi gieo; họ trở về hân hoan, vai mang những bó lúa. - Ðáp.
(Khi mừng theo
bậc Lễ Trọng thì có Bài Ðọc II này):
Bài Ðọc II: 1 Cr 1,
17-25
"Vì tiếng nói của Thập Giá là sức
mạnh của Thiên Chúa ban cho chúng ta".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, Ðức Kitô không sai
tôi đi rửa tội, mà là rao giảng Tin Mừng, không phải bằng lời nói khôn khéo,
kẻo Thập giá của Ðức Kitô ra hư không.
Vì chưng lời rao giảng về Thập giá là
sự điên rồ đối với những kẻ hư mất; nhưng đối với những người được cứu độ là
chúng ta, thì điều đó là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì như đã chép rằng: "Ta
sẽ phá huỷ sự khôn ngoan của những kẻ khôn ngoan, sẽ chê bỏ sự thông thái
của những người thông sáng. Người khôn ngoan ở đâu? Người trí thức ở đâu?
Người lý sự đời này ở đâu?" Nào Thiên Chúa chẳng làm cho sự khôn ngoan của
đời này hoá ra điên rồ đó sao? Vì thế gian tự phụ là khôn, không theo sự
khôn ngoan của Thiên Chúa mà nhận biết Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã muốn
dùng sự điên rồ của lời rao giảng để cứu độ những kẻ tin. Vì chưng, các
người Do-thái đòi hỏi những dấu lạ, những người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn
ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập
giá, một cớ vấp phạm cho người Do-thái, một sự điên rồ đối với các người
ngoại giáo. Nhưng đối với những người được gọi, dầu là Do-thái hay Hy-lạp,
thì Ngài là Chúa Kitô, quyền năng của Thiên Chúa, và sự khôn ngoan của Thiên
Chúa, vì sự điên dại của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài
người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sức mạnh của loài người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: 1 Pr 4,
14
Alleluia, alleluia! - Nếu anh em bị sỉ
nhục vì danh Chúa Kitô, thì phúc cho anh em, vì Thánh Thần Chúa sẽ ngự trên
anh em. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 10,
17-22
"Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền
và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại biết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông
đồ rằng: "Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công
nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến
nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được
biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói
thế nào và nói gì. Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì: vì
chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói
trong các con. Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại cha mẹ và
làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét,
nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ".
Ðó là lời Chúa.
Ngày 24 tháng 11
THÁNH AN-RÊ TRẦN AN DŨNG LẠC VÀ CÁC BẠN, TỬ ĐẠO
lễ trọng
(ở Việt Nam)
Hôm nay, phụng vụ
kính nhớ 117 chứng nhân tử đạo Việt Nam. Các vị đã được tôn phong chân
phước trong bốn đợt : Năm 1900, đức giáo hoàng Lê-ô XIII tôn phong 64 vị
; đức giáo hoàng Pi-ô X tôn phong 8 vị năm 1906 và 20 vị năm 1909. Năm
1951, đức giáo hoàng Pi-ô XII tôn phong 25 vị. Tất cả 117 vị đều được
đức giáo hoàng Gio-an Phao-lô II tôn phong hiển thánh ngày 19 tháng 6
năm 1988.
Trong nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, kể
từ lúc Tin Mừng bắt đầu được loan báo tại Việt Nam, thế kỷ XVI, cho đến
cuộc bách hại khốc liệt thế kỷ XIX, đã có nhiều chứng nhân anh dũng cả
người Âu lẫn người Việt hy sinh thân mình vì Chúa Ki-tô.
Hồ sơ phong
thánh và Các Giờ Kinh Phụng Vụ đặc biệt chú ý đến các tên tuổi sau :
Người Việt Nam : thánh An-rê Dũng Lạc, linh mục (+ 1839), thánh Tô-ma
Trần Văn Thiện, chủng sinh (+ 1838), thánh Phao-lô Lê Bảo Tịnh, linh mục
(+ 1857), thánh Em-ma-nu-en Lê Văn Phụng, giáo lý viên và người cha
trong gia đình (+ 1859). Các tu sĩ Đa-minh người Tây Ban Nha, thuộc Tỉnh
Dòng Mân Côi : thánh Giê-rô-ni-mô Héc-mô-xi-la Liêm, giám quản tông toà
địa phận Đông đàng ngoài (+ 1861), thánh Va-len-ti-nô Be-ri-ô Ô-choa,
giám mục (+ 1861) và một vị người Pháp thuộc Hội Thừa Sai Pa-ri, thánh
Tê-ô-phan Vê-na (+ 1861).
Thánh thi
Đoàn
người đông vô kể
Vừa đi vừa hát ca,
Tay cầm cành thiên tuế,
Áo trắng như tuyết pha,
Từ khắp miền huyết lệ,
Từ đau khổ bao la,
Tôn vinh Con Thiên Chúa
Tề tựu trước ngai toà.
Chúng con nơi trần thế
Xin hợp tiếng hoan ca,
Kính mừng chư quý vị
Tử đạo Việt Nam nhà.
Suốt gần ba thế kỷ
Gian khổ dám xông pha,
Nay triều thiên diễm lệ
Rực chiếu khắp sơn hà.
Xin cầu cho hậu duệ
Noi gương sáng ông cha,
Đức tin quyết bảo vệ,
Đức ái toả sáng ra,
Xây dựng nước trần thế,
Mở rộng nước Chúa Cha.
Nguyện cùng chư quý vị
Mai sau trước thiên toà
Tung hô vinh quang Chúa,
Muôn thuở vang lời ca.
Các vị tử đạo được thông phần cuộc chiến thắng của
Đầu là Đức Ki-tô
Trích thư của thánh Phao-lô Lê Bảo Tịnh gửi các chủng
sinh chủng viện Kẻ Vĩnh năm 1843.
Tôi là Phao-lô, đang bị xiềng xích vì Đức Ki-tô. Tôi
muốn nói cho anh em biết những gian truân tôi đang chịu
hằng ngày, để anh em được cháy lửa yêu mến Chúa mà hợp
với tôi dâng lời ca ngợi Thiên Chúa : Chúa
yêu thương ta đến muôn đời.
Ngục thất này quả là một hình ảnh sống động của hoả ngục
đời đời : ngoài gông cùm, xiềng xích, dây thừng, lại còn
thêm sự nóng giận, oán thù, nguyền rủa, những lời tục
tĩu, những sự gây gỗ, những hành vi xấu xa, những lời
thề gian, nói hành, và cả nỗi chán nản, buồn phiền, cả
ruồi muỗi rận rệp.
Nhưng Đấng đã giải thoát ba người thanh niên khỏi ngọn
lửa bừng bừng vẫn luôn ở cùng tôi ; Người cũng đã giải
thoát tôi khỏi những sự khốn khó này bằng cách làm cho
trở nên ngọt ngào : Chúa
yêu thương ta đến muôn đời.
Những cực hình này thường làm cho người khác buồn sầu,
nhưng nhờ ơn Chúa giúp, tôi vẫn đầy vui sướng hân hoan,
bởi vì tôi không chỉ có một mình, nhưng có Đức Ki-tô ở
cùng tôi. Người là Thầy của chúng ta, Người mang tất cả
sức nặng của thập giá, chỉ để cho tôi đỡ phần nhẹ nhất.
Người không chỉ nhìn tôi chiến đấu, mà chính Người đang
chiến đấu và chiến thắng. Vì thế, triều thiên vinh quang
đã được đặt trên đầu Người, nhưng chi thể cũng được hân
hoan vì vinh quang của đầu.
Lạy Chúa, làm sao con sống nổi khi hằng ngày con thấy
quan quyền và thuộc hạ nói phạm đến thánh danh Chúa,
Đấng ngự trên các thần kê-ru-bim và xê-ra-phim ? Kìa
thập giá của Chúa bị kẻ ngoại chà đạp dưới chân ! Còn
đâu là vinh quang Chúa ? Chứng kiến tất cả cảnh này, vì
cháy lửa yêu mến Chúa, con thà chịu chết và chịu phân
thây để chứng tỏ lòng con yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin tỏ cho con thấy quyền năng của Chúa, xin
cứu giúp con, để trong sự yếu đuối của con, sức mạnh của
Chúa được biểu lộ và tôn vinh trước mặt thế gian, kẻo
những thù địch của Chúa lên mặt vì thấy con bị lung lạc.
Khi nghe biết những điều này, anh em hãy vui mừng dâng
những lời tạ ơn bất tận lên Thiên Chúa là Đấng ban mọi
ơn lành, và hãy cùng tôi chúc tụng Chúa, vì Chúa
yêu thương ta đến muôn đời. Linh hồn tôi ngợi khen Đức
Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Người đã đoái
thương nhìn đến phận hèn tôi tớ ; từ nay hết mọi đời sẽ
khen tôi có phúc : Chúa yêu thương ta đến muôn đời.
Muôn nước hỡi, nào ca
ngợi Chúa ; ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người, vì
Thiên Chúa đã chọn cái yếu đuối để hạ nhục cái mạnh mẽ,
chọn cái hèn mạt để triệt phá cái cao sang. Thần Khí
Chúa đã dùng miệng lưỡi tôi để hạ nhục những người khôn
ngoan của thế gian, vì Chúa
yêu thương ta đến muôn đời.
Tôi viết cho anh em những điều này để chúng ta hợp nhất
với nhau trong đức tin. Giữa cơn bão táp này, tôi đã thả
một cái neo vào tận ngai Thiên Chúa : đó là niềm hy vọng
luôn sống động trong lòng tôi.
Anh em thân mến, hãy
chạy đua thế nào để đạt được triều thiên ; hãy
cầm khí giới của Thiên Chúa bên phải và bên trái, hãy
mặc áo giáp là đức tin, như thánh Phao-lô quan thầy
của tôi đã dạy. Thà chột mắt cụt chân mà được vào Nước
Trời, còn hơn lành lặn mà bị ném ra ngoài.
Anh em hãy giúp đỡ tôi bằng lời cầu nguyện, để tôi chiến
đấu hợp lệ, để tôi chiến đấu đến cùng trong cuộc chiến
đấu cao cả, và kết thúc tốt đẹp cuộc chạy đua.
Nếu chúng ta không còn được gặp nhau ở đời này, thì ở
đời sau chúng ta sẽ được hạnh phúc gặp nhau mãi mãi :
Chúng ta sẽ đứng trước ngai của Con Chiên tinh tuyền, và
hân hoan ca tụng tôn vinh Người muôn đời. A-men.
Lời
nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Hội Thánh Việt Nam nhiều chứng
nhân anh dũng biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin
trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con.
Xin nhậm lời các ngài chuyển cầu mà cho chúng con biết noi
gương các ngài để lại : luôn can đảm làm chứng cho Chúa và
trung kiên mãi đến cùng. Chúng con cầu xin
Phụ đề:
Các thánh tử đạo Việt Nam là
danh sách những tín
hữu Công giáo người
Việt hoặc thừa
sai ngoại quốc được Giáo
hội Công giáo Rôma tuyên
thánh với lý do tử
đạo. Trong lịch sử Công
giáo tại Việt Nam, ước tính có đến hàng trăm ngàn người đã tử vì đạo để
làm chứng cho đức tin Kitô
giáo. Trong số đó có 117 vị đã được Giáo
hoàng Gioan Phaolô II tuyên Thánh vào
ngày 19
tháng 6 năm 1988,
và Anrê
Phú Yên được tuyên Chân
phước ngày 5
tháng 3 năm 2000.
Ngày lễ kính chung cho các thánh tử đạo Việt Nam là ngày 24
tháng 11 và ngày Chúa nhật thứ 33 Mùa
Thường niên.
Theo quốc tịch, 117 Thánh Tử đạo Việt Nam được chia ra như sau:
Theo Việt sử, các vị này đã bị giết trong những đời vua chúa sau đây:
Trong thế
kỷ 18 và 19,
có khoảng từ 130 ngàn đến 300 ngàn người Công
giáo đã chết vì đạo; riêng trong thời gian từ 1857 đến 1862,
có khoảng 5 ngàn tín hữu bị giết, khoảng 40 ngàn tín hữu cùng 215 giáo sĩ,
tu sĩ nam nữ đã bị bắt, bỏ tù hay lưu đày vì đạo[cần
dẫn nguồn]. Trong số đó có 117 vị, tử đạo từ 1745 đến
1862, được Giáo
hội Công giáo Rôma tôn vinh Chân phước qua bốn đợt:
Và được tuyên Thánh vào
ngày 19
tháng 6 năm 1988.
Khi được tin về việc tuyên thánh, chính phủ Việt Nam lên tiếng phản đối và
cho rằng, trong số những người sẽ được tuyên
thánh, có nhiều người là tay sai của đế quốc, lót đường cho Pháp đô hộ
Việt Nam từ năm 1884.
Tuy nhiên, theo quan điểm của phía Công giáo thì họ là những tín hữu đã chết
vì lý do tín ngưỡng, họ bị hành quyết bởi bản án do chính tay vua, hay đại
diện triều đình thời đó ký nhận. Không có bằng chứng nào cho thấy bản án này
có liên quan đến chính trị, ngược lại, chỉ trưng ra lý do duy nhất: các giám
mục, linh mục trong số bị kết án vì họ là đạo trưởng (giáo sĩ), các giáo dân
bị kết án vì họ không chịu bỏ đạo Công giáo, không chịu bước qua cây thập
giá. Nói cách khác, lý do được công khai tuyên bố có tính cách hoàn toàn
tôn giáo.[1] Hà
Nội nhận định, việc tuyên thánh này sẽ làm cho mối liên lạc giữa chính quyền
và Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, cũng như mối quan hệ giữa Việt Nam và
Vatican thêm căng thẳng. Đài
tiếng nói Việt Nam đọc lệnh của chính phủ, cấm người Công
giáo cử hành lễ tuyên thánh này. Các Giám mục lẫn giáo dân Việt Nam cũng
không được chính quyền cho phép sang Vatican dự lễ. Trong khi đó, khoảng hơn
10 ngàn người Công giáo Việt Nam ở hải ngoại (chủ yếu sau sự kiện thuyền
nhân), nhiều người từ Pháp, Tây Ban Nha đã đến Vatican để dự lễ vì trong
số người được tuyên thánh có đồng hương và đồng bào của họ[2].
Theo lời Đức Ông Vinh
Sơn Trần Ngọc Thụ - cáo thỉnh viên án tuyên thánh thì: theo
thông lệ, khi xin nhật kì tuyên thánh, bao giờ cũng phải dự tính sẵn 3 ngày,
để đề phòng trường hợp Tòa Thánh đã có chương trình xếp đặt nào khác thì
phải thay đổi theo. Lễ tuyên thánh Việt Nam đã xin vào ngày 29
tháng 6 năm 1988 -
trùng lễ kính hai Thánh Phêrô và Phaolô, nhưng người ta khuyến cáo không nên
chọn vào ngày đó vì sẽ bị lễ hai Thánh quá lừng danh này lấn át mất. Sau đó
có dự tính chuyển sang ngày Chủ nhật 26
tháng 6 nhưng cũng không ổn, vì hôm đó Giáo hoàng phải đi
công du bên nước Áo.
Chỉ còn ngày Chủ nhật 19
tháng 6, nghĩa là xếp trước cuộc công du của Giáo hoàng một tuần lễ, vì
trước và sau ngày đó không còn cách nào khác. Đây là lý do duy nhất và dễ
hiểu cho việc chọn ngày lễ tuyên thánh tử đạo Việt Nam là ngày 19 tháng 6,
chứ không hề có chuyện nghĩ tới, hay là mảy may muốn kỉ niệm Ngày Quân lực
Việt Nam Cộng hòa.[3]
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c_th%C3%A1nh_t%E1%BB%AD_%C4%91%E1%BA%A1o_Vi%E1%BB%87t_Nam
Ngày 24 Tháng 11
Thánh Phêrô
BORIE CAO
Giám mục Thừa sai Paris
(1808 -
1838)
(cùng với 2 vị Lm Việt Nam là Cha Phêrô Vũ Đăng Khoa và Cha Vinhsơn
Nguyễn Thế Điềm,
Vị thánh thừa sai Phêrô Borie Cao là vị tử đạo vào chính ngày 24/11 là
ngày được chọn kính chung 117 vị anh hùng tử đạo trên đất Việt)
Người Thợ Xay Lúa
Giám mục Borie Cao chưa làm giám mục đến một ngày, nhưng ngài xứng đáng với
tước hiệu đó. Căn cứ vào khả năng và nhiệt tình, Đức cha Havard Du đã chọn
ngài làm giám mục phó có quyền kế vị. Cha Cao nhận được giấy quyết định của
Tòa Thánh đang khi ở trong tù, và vì thế chưa kịp thụ phong. Tên thường gọi
của ngài là Dumoulin (tiếng Pháp là máy xay lúa) do bạn bè đặt. Thế nhưng
danh xưng Dumoulin đã đi vào lịch sử với hai tước hiệu vinh quang: Giám mục
và tử đạo. Quả thật đối với Chúa, giá trị con người là nhân đức và thiện
chí, dù thuộc giai cấp nào, mọi người đều được kêu gọi nên thánh.
Khi Thiên Chúa Can Thiệp
Phêrô Borie Cao sinh ngày 20.2.1808, tại Beynat miền Corrèze, thân phụ tên
là Guillaume Berie, thân mẫu là Rose Borie. Thế nhưng vì song thân làm nghề
xay lúa, bạn bè hàng xóm quen gọi cậu là Dumoulin. Sinh trưởng trong một gia
đình tầm thường như vậy, nên thuở bé Dumoulin có tính cẩu thả. Cha mẹ ép cậu
vào chủng viện, cậu nghe theo nhưng chẳng hứng thú gì, và vi phạm kỷ luật
liên tục. Cha giám đốc phải sử dụng nhiều hình thức xử phạt, cũng chẳng làm
cậu khá hơn được. Tuy vậy, Thiên Chúa đã can thiệp vào cuộc đời con người
Ngài tuyển chọn.
Bất ngờ Borie bị một cơn sốt trầm trọng. Trên giường bệnh, cậu có cơ hội suy
tư về đời mình. Một hôm đang khi đọc cuốn niên giám của trường Thừa sai ghi
lại cuộc đời các vị truyền giáo, cậu thấy một tia sáng chói lóa trong tâm
hồn. Thế là như thánh Phaolô trên đường Đamas xưa, cuộc đời cậu Borie từ nay
chỉ lấy Đức Giêsu làm lẽ sống, từ đó cậu siêng năng đến gặp Chúa trong Thánh
Thể. Và trong những giờ gặp gỡ ấy, cậu nghe như Ngài kêu gọi cậu lãnh nhận
một sứ mạng cao quý hơn: Sứ mạng truyền giáo.
Trong những giây phút nguyện cầu linh thiêng ấy, Borie như thấy Chúa nói với
mình về vùng Viễn Đông xa xăm, về những người ở đây còn chưa biết Chúa, về
những Thừa sai đã đến đó rao giảng Tin mừng và hỏi cậu có yêu Ngài đủ để ra
đi như thế không. Câu trả lời của Borie đã được chính cậu ghi lại trong một
buổi tận hiến cho Đức Maria:
“Lạy Mẹ của con, xin hãy tin nơi con, khi con trưởng thành, con sẽ hiến toàn
thân cho việc cảm hóa những người chưa tin. Xin Mẹ giúp con đi theo con
đường và tinh thần của ơn kêu gọi đó. Xin cho con được đau khổ vì danh Đức
Kitô, được đón nhận ngành lá tử đạo và về đến bến vinh quang”.
Đức Mẹ như đã nhận lời cậu. Càng ngày Borie càng cương quyết hơn với giấc mơ
truyền giáo. Để giấc mơ có thể thành hiện thực, cậu xin chuyển qua chủng
viện hội Thừa sai Paris. Tại đây cậu kiên trì học tập, lãnh chức phó tế năm
1829, vị tân linh mục bắt đầu xuống tàu khởi hành đến Viễn Đông. Thế nhưng
vì bão tố phải dừng lại ở Macao khá lâu, ngày 15.5.1832 cha Borie mới tới
được Việt Nam.
Vị Tông Đồ Di Trú
Nửa năm sau, ngày 6.1.1833, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo trên toàn
quốc. Các thừa sai bị lùng bắt gắt gao, nên phải di chuyển liên tục, nay nhà
này, mai nhà khác. Ngày 24.3, cha Borie kể trong thư là “Tôi đã phải đổi chỗ
ở đến mười bảy lần". Những năm sau, mỗi cha đổi chỗ khoảng hai đến sáu lần
nữa. Nét đặc biệt của cha Borie: là hòa mình rất nhanh với phong tục địa
phương. Ngay ngày đầu tiên, cha đã có thể ăn nước mắm cách ngon lành (điều
này thật khó đối với người Âu châu), cha học tiếng Việt cách dễ dàng và phát
âm khá chính xác. Nhờ bản tính bình dân, vui tươi và hoạt bát, cha nhanh
chóng lấy được cảm tình của các tín hữu và với cả lương dân nữa.
Năm 1836, khi đọc những điều vu cáo trong chiếu chỉ của vua Minh Mạng, cha
Borie Cao định viết một lá thư điều trần, nhưng các thừa sai cản lại, vì nói
là vô ích thôi. Năm 1838, sau khi giết thừa sai Jaccard Phan, vua Minh Mạng
vẫn chưa thỏa mãn. Ông cho lệnh tiếp tục truy tìm cha Candalh Kim, giám đốc
chủng viện Di Loan. Ngày 2.7 khi quan quân bắt linh mục Khoa, thì bắt được
hai thầy giảng Đức và Khang. Thầy Khang lúc bị tra tấn quá đau, đã khai rằng
có một thừa sai Âu châu ở Bố Chính, thủ phủ của Nghệ An. Người bị tiết lộ
tung tích đó là cha Cao, không phải là cha Candalh. Dựa vào lời thầy Khang,
quân lính bủa vây khắp vùng Bố Chính, bắt bớ nhiều tín hữu rồi đe dọa, tra
tấn và dụ dỗ, để tìm cho ra chỗ ẩn của vị linh mục.
Giai đoạn này cha Cao không thể ở nhà nào được vài giờ, luôn luôn ngài phải
di động. Các tín hữu có người muốn cho trú, nhưng lại sợ người khác khi bị
đánh đập, sẽ tố cáo họ. Cuối cùng ngày 31.7, cha Cao đành xuống một thuyền
nhỏ chèo ra khơi, chờ mong cuộc lùng bắt lắng dịu. Nhưng trời bỗng nổi cơn
giông bão, dồn nghe của cha tắp vào bờ. Cha nghĩ rằng đây là dấu Chúa muốn
mình ở lại, cha bỏ ghe trở lên đất liền, và ẩn núp dưới một hố sâu có cây
cối che phía trên.
Các Anh Chị Đi Tìm Ai?
Một thiễu nữ mười sáu tuổi bị bắt và bị tra khảo. Dù biết chỗ cha ẩn trốn,
cô cắn răng chịu đựng, không tiết lộ điều mình biết. Nhưng bố cô không dằn
lòng được khi thấy con mình bị đánh đập, đã chỉ chỗ cho lính đến nơi trốn
của ngài. Dầu đang giữa đêm, quân lính cũng kéo nhau rất đông đi bắt vị thừa
sai. Cha Cao nghe rõ tiếng chân của đám lính, biết rằng không thể thoát được
nữa, cha liền leo lên và hỏi: “Các anh đi tìm ai?”. Tất cả đám lính đều ngỡ
ngàng trông thấy một bóng đen to lớn từ đưới đất chui lên, họ cứ tưởng là
ma, nên hoảng sợ không dám hé môi. Lát sau, khi lấy lại bình tĩnh, biết là
linh mục, họ yêu cầu cha ngồi xuống, và cha Cao nhẹ nhàng ngồi xuống. Ngài
muốn bước vào cuộc hiến tế bằng một thái độ vâng phục hoàn toàn.
Thầy Tự thấy cha bị bắt cũng vội chạy đến xưng là đệ tử của cha. Cha chối
không biết, nhưng thầy khẩn khoản: “Xin cha cho con theo cha đến cùng”. Cha
Cao nghe thầy xin thế thì xúc động, ngài tháo chiếc khăn quàng, xé một mảnh
trao cho người môn sinh và nói: “Cầm lấy, con hãy giữ nó làm bằng chứng cho
lời con đã hứa”. Thầy Tự đã giữ mãi miếng vải đó trong những ngày tháng cùng
bị giam với cha. Sau này thầy đã viết lại cuộc tử đạo đau thương của tôn sư
mình, và cuối cùng với mảnh vải như kỷ vật giao ước, thầy Tự đã theo gót
người cha kính yêu: hy sinh mạng sống vì Đức Kitô ngày 10.7.1840.
Tại Đồng Hới, cha Cao phải ra tòa chung với cha Điểm và cha Khoa. Quan hỏi:
“Đạo trưởng Cao, vua đã cấm đạo Gia-tô. Nếu ông bước qua thập giá, ta sẽ thả
ông về ngay”.
“Thà tôi chết ngàn lần còn hơn”.
“Tại sao ông không về nước mà giảng, ở đây làm gì để phải trốn tránh hết chỗ
này đến chỗ khác?”
“Vua cấm đạo sau khi tôi đã đến nước này, từ đó vua cấm tàu Âu châu cập bến
Việt Nam, thì làm sao tôi có thể về được”.
“Ông đã ở nhà những ai?”
“Tôi đã bị quan bắt, tôi xin chịu cực hình một mình tôi thôi”.
Quan liền ra lệnh đánh cha ba mươi roi, lính nọc cha ra, đánh cho đủ số. Tuy
rất đau đớn, cha Cao vẫn không kêu than một lời, quan hỏi ngài có đau không,
cha đáp:
“Tôi cũng bằng xương bằng thịt như ai khác, lẽ nào không đau. Nhưng mặc kệ,
trước và sau trận đánh tôi vẫn thấy thoải mái”.
Quan đành giải cha về ngục, hôm khác, quan bắt cha chứng kiến cảnh tra tấn
thầy Tự và bảo: “Nếu ông không khai chỗ ở, tôi cứ cho lệnh đánh hoài”. Cha
đành khai vài gia đình, nhưng chọn lựa những người đã chết. Quan tưởng thật
vui vẻ tha cho thầy Tự, nhưng đến khi thẩm tra lại, ông gọi cha Cao ra đối
chất:
Tại sao ông cứng đầu thế?
Thưa, câu hỏi của ngài tôi không trả lời khác hơn được.
Đã vậy ngày mai ông sẽ chịu một trăm roi.
Thưa dù đánh ba trăm roi tôi cũng chịu, chỉ xin một điều là đừng hỏi tôi về
dân chúng.
Thế nếu ông phải ra mắt vua, đứng bên lò lửa cháy bùng, với những chiếc kìm
nung đỏ sắp lóc thịt ông ra, liệu ông còn im lặng được không?
Thưa chừng đó sẽ biết, tôi không dám quá tự phụ về mình.
Biết không thể làm cha đổi ý, quan liền nghị án gởi về kinh đô. Cha Cao bị
giam chung với hai cha Điểm và Khoa, ba vị linh mục hằng ngày cùng nhau đọc
kinh Mân Côi và hát vang bài Ave Maria Stella: Kính chào Mẹ Maria là sao mai
rực rỡ, xin chuyển cầu cho chúng con. Mấy ngày đầu, vì chưa tìm ra tràng
hạt, ba vị nhổ lông quạt để đếm kinh. Ba cha phó thác đời mình cho Nữ Vương
các linh mục: “Như xưa Mẹ đã dâng Con yêu quý trong đền thờ, nay xin cung
hiến dâng chúng con trong cuộc tử đạo đầy hồng phúc”.
Trong những ngày tù tội, cha Cao nhận được văn thư Tòa Thánh gởi tới, đặt
ngài làm giám mục hiệu tòa Acanthe và làm đại diện tông tòa coi sóc địa phận
Tây Đàng Ngoài, thay thế Đức cha Havard Du. Thế nhưng vì đang bị cầm tù,
ngài không thể tiến hành nghi lễ thụ phong. Chức vụ đó sau này được trao cho
cha Retord Liêu.
Đường Về Thiên Quốc
Ngày 24.11.1838, quan vào ngục tuyên đọc bản án xử trảm, Đức cha Cao yên
lặng lắng nghe sắc chỉ của nhà vua, rồi nói với quan rằng:
“Thưa quan, từ bé đến nay tôi chưa lạy ai, vì bên Âu châu chúng tôi đó là
hành vi kính trọng chỉ dành cho Đấng Tối Cao. Nhưng điều tôi vừa nghe làm
tôi vui mừng, xin được bày tỏ lòng tri ân của tôi theo kiểu Đông phương”.
Nói xong, ngài quỳ xuống định lạy, nhưng viên quan quá xúc động, không thốt
nên lời, vội cản ngăn ngài lại.
Lúc dẫn đi xử, Đức cha Cao đi đầu, cổ mang gông, tay cầm tràng hạt, vừa đi
vừa đọc kinh. Một viên quan khác, ít thiện cảm với người Công giáo đi lại
gần, hỏi Đức cha có sợ chết không. Ngài trả lời:
“Tôi đâu phải là quân phiến loạn hay quân trộm cướp mà sợ chết. Tôi chỉ sợ
một mình Thiên Chúa. Hôm nay tôi chết, mai sẽ đến phiên ông”.
Nghe thế, viên quan thét lên: “Láo quá, tát cho nó vài cái”. Nhưng không
người lính nào tuân lệnh ông. Đức cha nói với quan: “Nếu lời đó làm phiền
ông, thì xin ông tha lỗi”.
Tại pháp trường Đồng Hới, hai cha Khoa và Điểm bị xử giảo trước. Đến lượt xử
chém Đức cha Cao, người lý hình rất kính phục ngài, phải uống rượu để lấy
bình tĩnh, không ngờ vì quá chén, anh đã chém trật vào tai, hàm và vai Đức
cha. Mãi đến nhát thứ bảy, đầu vị thừa sai mới lìa khỏi cổ. Thân xác ngài
được chôn cất ngay tại chỗ, năm sau mới được các tín hữu cải táng về họ
Hướng Phương.
Năm 1843 hài cốt Đức cha Cao được đưa về chủng viện hội Thừa sai Paris, đặt
cạnh hài cốt thừa sai Kính và Phan.
Đức Lêo XIII suy tôn Giám mục Borie Cao lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900.
ĐTCGPII phong thánh ngày 19/6/1988.
Hiếu Trung, OP
Ngày 21 Tháng 12
Thánh Anrê
TRẦN AN DŨNG LẠC
Linh mục
(1795 - 1839)
(Có 2 vị linh mục Việt Nam tử đạo cùng ngày 21/12, ngày cuối cùng của
năm kính các vị tử đạo, đó là Cha Phêrô Trương Văn Thi và Cha Anrê Trần Dũng
Lạc.
Nhưng Giáo Hội lại chọn danh xưng của Cha Anrê Trần Dũng Lạc làm tiêu
biểu cho chung đoàn tử đạo 117 giọt máu trổ bông trên đất nước Việt Nam)
Theo Gương Thánh Phêrô
Quo vadis, Domine? — Lạy Thầy, Thầy đi đâu?
Trên đường chạy trốn cơn bách hại khủng khiếp của bạo chúa Nêrô đang giáng
xuống kinh thành Rôma, vị tông đồ trưởng Phêrô đã bàng hoàng thốt lên câu
hỏi trên khi bất ngờ gặp Chúa Giêsu vác thập giá đi ngược chiều với mình.
Sau đó là khoảng khắc im lặng... Sự im lặng tưởng chừng như đến muôn đời sẽ
không bao giờ có giây phút nào im lặng như thế! Phêrô như đọc thấy câu trả
lời trong ánh mắt của Đức Kitô, có một chút giống ánh mắt Ngài đã nhìn mình
sau ba lần chối Chúa. Và trong bầu khí thinh lặng đó, chợt vọng tới tai ông
giọng nói buồn bã nhưng ngọt nào:
“Khi anh rời bỏ dân Ta. Ta phải đến Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa”.
Phêrô lặng người đi và chợt hiểu...
Vị sứ đồ đã ra đi để xa lánh cơn điên cuồng của một bạo chúa, vì những lời
nài nỉ chí tình chí thiết của đoàn tín hữu. Họ coi ngài là sức mạnh, là hơi
thở, là chỗ dựa. Cần phải sống để tiếp tục mưu ích cho đoàn chiên. Giờ đây,
Phêrô được ôn lại bài học vĩ đại nhất của vị Tôn Sư Giêsu, người thợ mộc
làng Na-gia-rét đã chết gục vào tuổi ba mươi ba trên thập tự để cứu chuộc
nhân loại.
Thế là trong cái khoảnh khắc kỳ diệu đó, Thánh Phêrô chợt nhớ ra. Để rồi
thay vì những bước chân rời rã, do dự chạy trốn, thì giờ đây ngài bước một
cách mạnh mẽ, dứt khoát quay lại... để có thể trở nên giống Thầy mình. Từ
đó, trên đá tảng Phêrô, Rôma trở nên kinh thành muôn thuở. Đâu có ai thời đó
đã nghĩ ra như thế. Vâng, đâu có ai thời đó đã hiểu được điều ấy.
Sau lần bị bắt thứ ba, cha Anrê Dũng Lạc như cảm nhận được bài học của Thánh
Phêrô xưa. Ý nghĩ con người không hẳn đã phù hợp với ý Chúa. Ngài xin tín
hữu đừng chuộc nữa, ngài đã chấp nhận hy sinh chính bản thân để trở nên một
ngọn đèn, góp lửa với nhiều ngọn đèn khác làm chứng cho Chúa trên quê hương
yêu dấu nầy.
Ba Lần Bị Bắt
Sinh ra trong một gia đình ngoại giáo ở Bắc Ninh năm 1795, Trần an Dũng theo
cha mẹ vào Kẻ Chợ, nay là Hà Nội. Tại đây vì nhà nghèo, cậu được gán cho một
thầy giảng nuôi nấng dạy dỗ và rửa tội với tên thánh là Anrê. Ít lâu sau cậu
Dũng xin vào chủng viện Vĩnh Trị, ở với cha chính Lan. Ngay từ đó, cậu Dũng
đã tỏ ra tư chất thông minh đặc biệt với trí nhớ lạ lùng, lại siêng năng cần
mẫn, có khiếu về thơ phú và giao tiếp với mọi người cách lịch thiệp hòa nhã.
Có người nói rằng cậu chỉ đọc qua một đoạn sách hai lần là đã thuộc lòng.
Sau mười năm làm thầy giảng và ba năm thần học, ngày 15.3.1823, thầy Dũng
được lãnh chức linh mục (cùng với lớp thánh Ngân và Nghi), rồi được bổ nhiệm
làm phó xứ Đoài, rồi lại giúp cha Thuyết ở Sơn Miêng. Cuối cùng, khi cha làm
chánh xứ Kẻ Đầm thì bị bắt. Suốt cuộc đời linh mục, cha Dũng sống nhiệm
nhặt. Ngoài những ngày ăn chay theo luật của Giáo hội, cha còn giữ chay suốt
mùa chay, và nhiều khi cả các ngày thứ Sáu, thứ Bảy quanh năm. Thường xuyên
cha chỉ dùng những thức ăn đơn giản. Cha Dũng hết mình với nhiệm vụ chủ
chăn, chẳng khi nào thấy cha ngại ngùng việc gì. Cha có lòng ưu ái đặc biệt
với người nghèo. Có được của cải gì, cha chia sẽ cho họ hầu hết.
Khi lệnh bách hại của vua Minh Mạng trở nên gay gắt qua chiếu chỉ toàn quốc
ngày 6.1.1833, cha phải ẩn náu tại nhà các bổn đạo, sau trốn lên Kẻ Roi và
lập nhà xứ ở đó. Một hôm, cha dâng lễ vừa xong, thì quân lính ập tới, cha
liền cởi áo lễ và ngồi lẩn trong tín hữu. Lính bắt cha như một trong ba mươi
giáo hữu hôm đó, vì quan quân không biết cha là linh mục. Ông tổng Thìn bỏ
ra sáu nén bạc, nhận cha là thân nhân đi dự lễ để chuộc về. Từ đây cha đổi
tên là Lạc.
Lần thứ hai cha bị bắt khi đến Kẻ Sông xưng tội với cha Thi theo thói quen
hằng tháng. Lý trưởng Pháp bắt được hai linh mục và mặc cả với giáo hữu phải
chuộc với giá hai trăm quan. Các tín hữu gom góp được một trăm quan, nên
viên lý trưởng chỉ thả cha Lạc. Thế nhưng ngay trên đường về, vì gặp mưa
gió, thuyền cha phải ghé vào bờ. Căn nhà cha định trú lại đang bị quân lính
khám xét. Thế là cha bị bắt lần thứ ba và bị giải lên huyện Bình Lục cùng
với cha Thi.
Một lần nữa, giáo hữu cùng Đức cha Retord Liêu tìm cách chuộc hai cha về,
nhưng lần này cha Lạc thấy ý Chúa đã định cho mình. Ngài nhắn về với Đức cha
câu chuyện Thánh Phêrô hai lần thoát khỏi ngục, đến lần thứ ba, Chúa Giêsu
đã yêu cầu ở lại tử đạo tại Rôma, và cha xin các tín hữu đừng lo liệu tiền
chuộc làm chi nữa.
Được Cảm Tình Mọi Giới
Quan huyện Bình Lục đối xử với hai vị linh mục một cách tử tế. Ông truyền
dọn cho hai cha bằng mâm bát của mình, bắt lý trưởng trả lại quần áo đã tịch
thu và thanh minh rằng: “Phép triều đình cấm đạo và giết các cụ, chứ không
phải tôi. Tôi không có tội gì trong việc này”. Ba ngày sau, quan huyện đưa
hai cha xuống thuyền chuyển về Hà Nội. Các tín hữu thương tiếc đi theo rất
đông, hoặc bằng thuyền, hoặc đi bộ trên bờ. Quan lấy làm lạ hỏi: “Đạo trưởng
có cái gì mà dân chúng thương tiếc quá vậy?”. Một phụ nữ đứng gần đó đáp
lại: “Thưa quan, các cha dạy chúng tôi những điều hay lẽ phải, dạy chồng
hiền lành, đừng cờ bạc rượu chè, dạy vợ sống thuận thảo với chồng theo như
giáo lý trong đạo”. Hai vị linh mục khi thấy nhiều người khóc lóc tiễn đưa
mình, đã dừng lại an ủi và khích lệ họ sống đạo cho tốt đẹp.
Tại Hà Nội, sau mấy lần tra hỏi, và dọa nạt hai vị chứng nhân Đức Kitô không
thành công, các quan làm án xin vua xử trảm.
Thời gian trong tù, hai cha chiếm được tình cảm của lính gác, được tôn trọng
và đối xử tử tế. Khi nhận được quà tiếp tế, hai cha chia cho lính canh, chỉ
giữ lại những thứ tối thiểu. Mỗi buổi sáng và mỗi buổi tối, hai cha quỳ bên
nhau cầu nguyện lâu giờ. Tuy các tín hữu xin được phép đưa cơm vào tù mỗi
ngày, hai cha vẫn tìm cách hãm mình dặn họ đừng mang thịt hay cá làm chi,
các ngài vẫn tiếp tục giữ chay ngày thứ Hai, thứ Tư, thứ Sáu và thứ Bảy.
Những ngày đó, hai cha ăn thật ít vừa đủ.
Lễ các Thánh (1.11.1839), linh mục Trân đưa Mình Thánh vào ngục. Vừa thấy
ngài, cha Lạc đã ra chào đón: “Xin chào bác, tôi đợi bác đã lâu vì hết lương
thực rồi”. Sau đó, cha cung kính rước lễ, và trao Mình Thánh cho cha già
Thi.
Cuối năm 1839, khi quân lính đến công bố lệnh xử án, hai cha vui vẻ đón nhận
bản án như một phần thưởng trọng hậu. Trên đường đến pháp trường, hai cha
yên lặng cầu nguyện. Lúc ra khỏi cổng thành, cha Lạc chắp tay lại, hát lớn
tiếng mấy câu Latinh chúc tụng Chúa. Trước phút hành quyết, người lý hình
đến nói với hai cha:
“Chúng tôi không biết các thầy tội gì, chúng tôi chỉ làm theo lệnh trên, xin
các thầy đừng chấp”.
Cha Lạc tươi cười trả lời: “Quan đã truyền lệnh anh cứ thi hành”. Sau đó,
hai cha xin ít phút để cầu nguyện lần chót, rồi nghiêng đầu cho lý hình
chém.
Hai vị đã lãnh phúc tử đạo ngày 21.12.1839 tại bãi ngoài cửa Ô Cầu Giấy (Hà
Nội), giáp đường lên tỉnh Sơn Tây. Thi hài của cha Lạc được đưa về an táng
tại nhà bà Lý Quý gần đó.
Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn Chân Phước cho linh mục Anrê Trần an Dũng
Lạc ngày 27.5.1900.
Nhớ đến Thánh Dũng Lạc, phải nhớ đến những vần thơ ngài tâm sự trong thư
viết trong ngục cho cha Thực rằng:
“Lạc rầy đã rõ chốn quân quan
Bút chép thơ này gửi thở than
Lòng nhớ bạn, nỗi còn vất vả
Dạ thương khách, chạy chữa yên hàn.
Đông qua tiết lại thì xuân tới
Khổ trảm mai sau hưởng phúc an
Làm kẻ anh hùng chi quản khó
Nguyện xin cùng gặp chốn thiên đàng”. (1)
(1): Thơ trích trong Nguyễn văn Tư, Bốn mươi hai Á Thánh Tử Đạo, tr. 76.
Hiếu Trung, OP
Thứ
Bảy
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) 1
Mcb 6, 1-13
"Vì các tai hoạ trẫm đã gây cho Giêrusalem mà trẫm phải buồn bực mà chết".
Trích sách Macabê quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, vua Antiôcô rảo khắp các tỉnh miền bắc. Vua nghe nói
tại Ba-tư có thành Êlymai nổi tiếng là giàu có và lắm vàng bạc; trong thành
lại có một ngôi đền thờ lắm bảo vật, đầy những binh giáp bằng vàng, chiến
bào, khiên mộc di sản của Alexanđrô, con Philipphê, vua xứ Macêđônia, là vua
tiên khởi cai trị dân Hy-lạp. Vậy ông đến tìm cách chiếm lấy thành để cướp
của. Nhưng ông không thành công, vì dân thành đã biết trước ý định của ông,
nên đã vùng lên chống lại. Ông bỏ chạy và buồn bực lui quân trở về Babylon.
Lúc vua còn ở Ba-tư, có người đến đem tin cho vua hay toán quân của ông ở
Giuđa đã bị đánh bại chạy tán loạn, và Lysia, vị tướng chỉ huy một đoàn quân
hùng hậu, cũng đã phải tháo lui chạy trốn quân Do-thái; quân Do-thái lại
càng mạnh thêm nhờ ở khí giới, lương thực và chiến lợi phẩm rất nhiều đã lấy
được của các đoàn quân họ đánh bại. Họ đã hạ tượng thần vua đã đặt trên bàn
thờ ở Giêrusalem; họ cũng đã xây thành đắp luỹ cao như trước chung quanh Ðền
thờ và chung quanh thành Bethsura.
Nghe tin ấy, nhà vua khiếp đảm và rất xúc động. Vua vật mình xuống giường và
buồn đến lâm bệnh, (bởi vì) sự việc đã không xảy ra như vua ước muốn. Vua
liệt giường nhiều ngày, càng ngày càng buồn. Và tưởng mình sắp chết, vua
liền triệu tập tất cả bạn hữu lại mà nói với họ rằng: "Trẫm không còn chớp
mắt được nữa và lòng trẫm tan nát vì ưu tư. Trẫm tự nghĩ: trước kia khi trẫm
còn quyền thế, trẫm vui sướng và được người ta quý mến, mà giờ đây trẫm lâm
cảnh buồn sầu và đau khổ biết bao! Bây giờ trẫm hồi tưởng lại các tai hoạ
trẫm đã gây cho Giêru-salem: trẫm đã chiếm đoạt các chén bằng vàng bạc tại
đó, và đã ra lệnh tiêu diệt dân Giuđêa cách vô cớ. Trẫm nhìn nhận là vì các
việc ấy mà phải khốn khổ như thế này, mà giờ đây trẫm phải buồn bực mà chết
nơi đất khách quê người".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 9, 2-3. 4 và 6. 16b và 19
Ðáp: Lạy
Chúa, con mừng rỡ vì ơn Ngài cứu độ (x. c. 16a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, con sẽ kể ra mọi điều lạ
lùng của Chúa. Con sẽ mừng rỡ hân hoan trong Chúa, con sẽ đàn ca danh Ngài,
lạy Ðấng Tối Cao. - Ðáp.
2) Vì quân thù của con đã tháo lui, chúng chạy trốn và vong mạng trước thiên
nhan Chúa. Chúa trách phạt chư dân, diệt vong đứa ác, bôi nhoà tên tuổi
chúng tới muôn đời. - Ðáp.
3) Người chư dân rơi chìm xuống hố mà họ đã đào, chân họ mắc vào cạm bẫy mà
họ đã che. Vì kẻ cơ bần không bị đời đời quên bỏ, hy vọng người đau khổ
không mãi mãi tiêu tan. - Ðáp.
Alleluia: Pl 2, 15-16
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu
sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 20, 27-40
"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự
sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Môsê đã viết cho
chúng tôi: nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì
người em phải cưới người vợ đó để anh mình có kẻ nối dòng. Vậy có bảy anh
em: người thứ nhất cưới vợ, rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ
goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và
tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào.
Sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà
đó sẽ là vợ ai trong các người ấy, vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm
vợ?"
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai
sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không
cưới vợ lấy chồng; họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ
là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết
sống lại, thì Môsê trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa
Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Thiên Chúa không phải là
Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho Chúa".
Bấy giờ có mấy luật sĩ lên tiếng thưa Người rằng: "Lạy thầy, Thầy dậy đúng
lắm". Và họ không dám hỏi Người điều gì nữa.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời
Chúa
Một cánh chung biến đổi canh tân
Hôm nay, Thứ Bảy, cuối Tuần XXXIII Thường Niên, Bài
Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc vẫn tiếp tục bài
Phúc Âm hôm qua là bài Phúc Âm cho biết cuộc hành trình Giêrusalem
của Người đã tới đích điểm của nó là chung thành thánh Giêrusalem và
riêng đền thánh Giêrusalem, nơi Người sau khi thẳng tay thanh tẩy thì Người tiếp
tục giảng dạy cho dân chúng.
Và
giáo huấn cuối cùng trong cuộc hành
trình Giêrusalem của
Người ở chính giáo đô Giêrusalem là đích điểm tỏ mình ra của Người này, đặc
biệt liên
quan đến mầu nhiệm cánh chung và lai thời hậu
thế, như bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, qua lời vấn đáp của Chúa Giêsu
với "mấy
người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại",
nên đã
"đến
gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng:
"Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: nếu ai có một người anh cưới
vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ đó để
anh mình có kẻ nối dòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ, rồi
chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không
con. Người thứ ba cũng cưới người vợ góa đó.
Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người
con nào. Sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại,
người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy, vì tất cả bảy người đều
lấy người ấy làm vợ?"
Quả thực đây
là một câu hỏi của những người không tin có vấn đề sống lại, nghĩa là
không tin có đời sau, hay có đời sau thì cũng không thể nào xẩy ra
chuyện bao
gồm cả thân xác hữu hình và hữu hạn này, nghĩa
là thân xác con người không thể nào trở thành vô hình và vô hạn bất biến
với thời gian sau thời gian ở đời này được.
Theo lý lẽ tự
nhiên thì không phải là họ
không có
lý. Và
chính vì thế, họ mới phủ nhận sự kiện thân xác phục sinh, hay ngược
lại, vì có ý nghĩ không thể nào có vấn đề phục sinh của thân xác mà
họ mới đặt
ra một
trường hợp không bao giờ có thể xẩy ra, hoàn toàn không thực tế, hợp với
tầm mức hiểu biết thiển cận theo tự nhiên của họ trên đây.
Tuy nhiên, họ đã
lầm. Nhưng cũng may, họ vẫn còn thiện chí để nói ra, để hỏi han, lại hỏi
ngay chính vị mà họ tin rằng, (hơn là cố ý thử Người như thường thấy nơi
thành phần luật sĩ và biệt phái tin có sự sống lại), có thể giải đáp
vấn đề then chốt nhất của họ, nhưng cũng là vấn đề hóc
búa đến độ
như thể bất
khả nan giải của họ.
Câu
trả lời của Chúa Giêsu là Đấng tự thân sẽ
sống lại đầu tiên từ trong kẻ chết như thế này, một
câu trả lời đã được chính thành phần luật sĩ cũng có mặt ở đó bấy giờ
hết sức khâm phục: "Lạy
thầy, Thầy dậy đúng lắm", đến độ
"họ
không dám hỏi Người điều gì nữa". Và
câu trả lời của Chúa Giêsu về chuyện xác loài người ta sẽ sống lại như
sau:
"Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự
phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy
chồng; họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con
cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống
lại, thì Môsê trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa
Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Thiên Chúa không phải
là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho
Chúa".
Trong câu
trả lời này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Đấng "là sự sống lại và là
sự sống" (Gioan 11:25) bao
gồm cả sự sống lại của
thân xác và
sự sống bất
diệt đời sau của cả toàn thân con người cả hồn lẫn xác.
Trước hết, về sự sống lại, lần đầu tiên Chúa
Giêsu được dịp chính
thức mạc
khải cho biết rằng con người
ta sẽ sống lại, mà sống lại là sự kiện trước hết liên quan đến thân
xác đã
chết đi của
họ, nên
vấn đề sống lại là vấn đề của thân xác, và một khi thân xác sống lại thì
"sẽ
không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con cái Thiên
Chúa".
Nghĩa
là thân xác hữu hình và hữu hạn của con người khi còn tại thế, còn sống trong
không gian và thời gian, khi sống
lại sẽ trở thành thiêng liêng vô hình, trở
thành bất tử và bất diệt, như
thân xác phục sinh của Ngưòi sau này, có thể xuyên qua cả căn phòng khóa
kín của các tông đồ đang sợ
sệt trốn
lánh bấy
giờ.
Thế
nhưng, tự mình thân xác hữu hình và hữu hạn của con người không thể nào
sống nếu thiếu linh hồn vẫn được gọi là hồn sống của nó, thì cũng thế nó
sẽ không tự mình sống lại và sống đời sau vô cùng nếu
không có hồn thiêng bất tử của nó.
Nhưng linh hồn của
con người chỉ thực sự sống, sống sự sống thần linh, sống sự sống siêu
nhiên, sống sự sống đời đời, sống sự sống trường sinh bất tử, dù ở đời
này hay ở đời sau, ở chỗ nhận biết "Thiên Chúa chân thật duy nhất" được
tỏ hiện nơi Chúa Giêsu Kitô (xem Gioan 17:3), tức là nhận biết vị Thiên
Chúa bất biến trước sau như một: "Thiên
Chúa của Abraham,
Thiên Chúa của Isaac,
và Thiên Chúa của Giacóp", vị
Thiên Chúa hằng hữu và tồn tại dù con người có
qua đi ba đời Abraham, Isaac và Giacóp, một
khoảng thời gian không ai còn tồn tại trên trần gian thế mà Thiên Chúa
hằng sống vẫn hiện hữu.
"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống" là
như thế,
"vì mọi người đều sống cho Chúa", ở
chỗ nhận biết Ngài như Ngài là, như Ngài đã tỏ ra nơi Chúa Giêsu Kitô
là Người Con nhập thể và vượt qua của Ngài, nhờ đó "họ sẽ
không thể chết nữa" cùng
với thân xác của họ, với tư cách "là
con cái Thiên Chúa" như
Chúa Kitô, nhờ Thánh Linh là Đấng chứng tỏ họ là con cái Thiên Chúa (xem
Roma 8:16; 1Gioan 4:13): "Nếu
Thần Linh của Đấng đã làm cho Chúa Kitô từ trong kẻ chết sống lại thì
cũng sẽ mang lại sự sống cho thân xác chết chóc của anh em, nhờ Thần
Linh của Người ở trong anh em" (Rôma 8:11).
Vậy
vấn đề được đặt ra ở đây là nếu thân xác con người sống lại là nhờ linh
hồn nhận biết Thiên Chúa hằng sống thì những linh hồn nào không nhận
biết Thiên Chúa hằng sống có sống lại nơi thân xác của họ và với thân
xác của họ hay
chăng?
Theo tín
lý dạy thì tất cả mọi người đều sống lại, dù là "kẻ sống" hay "kẻ
chết", kẻ
lành hay kẻ dữ, kẻ được rỗi hay kẻ bị hư đi. Bởi vì, dù là thành phần kẻ dữ
bị hư đi vì khi còn sống trên thế gian này họ không nhận biết Thiên Chúa
chân thật duy nhất để hội đủ điều kiện được cứu
rỗi chăng
nữa, khi qua khỏi trần gian này, khi không còn thời gian nữa thì trong
cõi đời đời họ
lại càng không thể chối cãi sự thật mà họ chối bỏ
chính Vị Thiên Chúa hằng sống của họ.
Và vì các linh hồn hư đi sau khi qua khỏi đời này không thể không nhận
biết Thiên Chúa hằng
sống như Ngài đã
tỏ tất cả bản thân mình ra là
nơi Chúa Giêsu Kitô, một
cách bất đắc dĩ không chân nhận không được, mà
linh hồn
hư đi ấy
vẫn tồn tại với cả
thân xác của họ, vô
cùng ở đời sau, trong cõi đời đời. Nhưng tình
trạng hư đi của họ hoàn
toàn khác với tình
trạng của các
linh hồn được cứu rỗi là thành phần, nhận
biết Thiên Chúa chân thật duy nhất nhờ Thánh Thần, như
lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, "xét
đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết", một
cách rạng
ngời "giống
như thân xác vinh hiển của
Người
(Chúa
Kitô)" (Philiphê
3:21).
Sách Tiên Tri Daniên trong Bài Đọc 1 Chúa Nhật XXXII Chu
Kỳ Năm B cũng chứng thực như vậy, chứng thực rằng cả kẻ dữ người lành
đều sống lại, nhưng kẻ lành thì hiển vinh sáng láng: "Nhiều kẻ an
giấc trong bụi đất sẽ chỗi dậy; có người sẽ được hưởng phúc trường sinh,
có kẻ phải tủi nhục muôn đời. Những
người thông minh sẽ sáng chói như ánh sáng vòm trời, và những kẻ khuyên
dạy sự công chính cho nhiều người, sẽ nên như các vì tinh tú tồn tại
muôn ngàn đời".
Kinh nghiệm
nhân sinh cho thấy con
người ta
khi còn sống trên đời này, vì bản tính đã bị nhiễm lây nguyên tội, nên
luôn hướng hạ theo trần tục hơn là hướng thượng sống siêu nhiên, cho dù
linh hồn họ được Thiên Chúa dựng nên để được hạnh phúc trường sinh ở đời
sau. Và chính vì linh hồn con người vô hình thiêng liêng tự bản chất bất
tử "như các thiên thần" mà họ rất sợ chết, và cho dù cả đời có
tìm kiếm đủ mọi thứ thỏa mãn trên trần gian này họ vẫn không no thỏa,
vẫn không thể nào thỏa đáng được ước vọng bất tử của chính cõi lòng luôn
hướng về vô biên viên mãn của
con người.
Nếu "Thiên
Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống", ở
chỗ "vì mọi người đều sống cho Chúa", nghĩa
là nhận biết và tin tưởng Thiên Chúa, Đấng luôn tỏ mình ra cho từng người,
tùy hoàn cảnh của họ, để họ có thể nhận biết Ngài là "Thiên Chúa của
kẻ sống" khi họ nhận biết Ngài và "sống cho Ngài", thì
trường hợp của Vua Antiôcô của đế quốc Ba Tư trong Sách Macabê quyển thứ
1 ở Bài Đọc 1 hôm nay là một trường hợp điển hình, ở chỗ, sau khi bị
thất bại ở khắp nơi, thì vua đã tỏ ra thống hối ăn năn trước khi chết:
"Nghe tin ấy, nhà vua khiếp đảm và rất xúc động. Vua vật mình xuống
giường và buồn đến lâm bệnh, (bởi vì) sự việc đã không xảy ra như vua
ước muốn. Vua liệt giường nhiều ngày, càng ngày càng buồn. Và tưởng mình
sắp chết, vua liền triệu tập tất cả bạn hữu lại mà nói với họ rằng:
'Trẫm không còn chớp mắt được nữa và lòng trẫm tan nát vì ưu tư. Trẫm tự
nghĩ: trước kia khi trẫm còn quyền thế, trẫm vui sướng và được người ta
quý mến, mà giờ đây trẫm lâm cảnh buồn sầu và đau khổ biết bao! Bây giờ
trẫm hồi tưởng lại các tai hoạ trẫm đã gây cho Giêru-salem: trẫm đã
chiếm đoạt các chén bằng vàng bạc tại đó, và đã ra lệnh tiêu diệt dân
Giuđêa cách vô cớ. Trẫm nhìn nhận là vì các việc ấy mà phải khốn khổ như
thế này, mà giờ đây trẫm phải buồn bực mà chết nơi đất khách quê người'".
Đối với Thiên Chúa, cũng như đối với từng con người, thì ơn cứu độ là
quan trọng nhất của cuộc sống tạm bợ mau qua ngắn ngủi của họ trên trần
gian này. Nếu cuối cùng, cho dù cả cuộc đời có hư thân mất nết, có tội
lỗi xấu xa đến mấy, nếu trước khi chết mà nhận ra chân lý thì thật là có
phúc là dường nào, như Vua Antiôcô trong Bài Đọc 1 hôm nay, một vị vua
có thể xứng hợp với câu họa của bài Đáp Ca hôm nay: "Lạy
Chúa, con mừng rỡ vì ơn Ngài cứu độ", bài Đáp Ca theo
Thánh Vịnh 9 cũng chất chứa những tâm tình của dân Chúa sau khi được
Ngài giải phóng khỏi kẻ thù bởi chính cạm bẫy của kẻ thù, một Vị Thiên
Chúa tỏ mình ra một lúc cho cả hai, chính họ và kẻ thù của họ:
1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, con sẽ kể ra mọi điều lạ
lùng của Chúa. Con sẽ mừng rỡ hân hoan trong Chúa, con sẽ đàn ca danh
Ngài, lạy Ðấng Tối Cao.
2) Vì quân thù của con đã tháo lui, chúng chạy trốn và vong mạng
trước thiên nhan Chúa. Chúa trách phạt chư dân, diệt vong đứa ác, bôi
nhoà tên tuổi chúng tới muôn đời.
3) Người chư dân rơi chìm xuống hố mà họ đã đào, chân họ mắc vào cạm
bẫy mà họ đã che. Vì kẻ cơ bần không bị đời đời quên bỏ, hy vọng người
đau khổ không mãi mãi tiêu tan.
Thánh Catarina Alêxanđria
25/11
Thánh nữ Catarina sống vào thời Giáo hội sơ khai. Ngài là con gái của
một gia đình dân ngoại giàu có ở thành Alêxanđria, nước Ai Cập. Thánh nữ
là một cô gái rất đẹp và rất ham thích việc học hành. Catarina
Alêxanđria say mê nghiên cứu những vấn nạn sâu xa của triết học và tôn
giáo. Một ngày kia, thánh nữ Catarina Alêxanđria bắt đầu đọc các sách
viết về Kitô giáo. Và chẳng bao lâu, Catarina Alêxanđria trở thành Kitô
hữu.
Thánh nữ Catarina Alêxanđria được 18 tuổi khi hoàng đế Maxentiô bắt đầu bách
hại các Kitô hữu. Rất mực can đảm, Thánh nữ đáng yêu này đã đến nói cho nhà
vua biết về sự độc ác của ông. Khi ông vua này bàn về các tà thần, Catarina
đã minh nhiên chỉ cho ông thấy các thần ấy là giả tạo. Maxentiô không thể lý
giải được các vấn nạn của Catarina; và vì thế, ông đã triệu vời 50 triết gia
ngoại giáo hảo hạng nhất đến để đối phó với Catarina. Một lần nữa, Catarina
lại làm sáng tỏ chân lý của đạo Công giáo. Tất cả 50 triết gia này đều phải
công nhận rằng Catarina có lý.
Hết sức tức giận, Maxentiô đã cho lính giết chết từng người trong họ. Sau
đó, ông cố gắng chinh phục Catarina bằng cách tặng cho Thánh nữ chiếc vương
miện hoàng hậu. Khi biết Catarina Alêxanđria nhất mực từ chối, vì ngài tuyên
bố chỉ có một phu quân duy nhất là Chúa Giêsu Kitô là Đấng ngài đã dâng trọn
vẹn sự đồng trinh cho Người, ông liền sai quân lính đánh đòn và tống giam
Catarina vào ngục.
Đang lúc Maxentiô cắm trại ở nơi xa, vợ ông và một viên sĩ quan đã tò mò đến
nghe cô bé Kitô hữu lạ lùng này thuyết giảng. Họ đã tới bên phòng giam của
Catarina Alêxanđria. Kết quả là họ cùng 200 lính canh khác đã được ơn trở
lại. Vì chuyện này, hết thảy cả bọn đã bị Maxentiô lên án tử.
Bản thân Catarina thì bị hành hình hung dữ tàn bạo đến độ toàn thân của chị
toàn là thương tích, khiến máu chảy ra như suối nước. Những ai chứng kiến
thấy đều nức nở khóc, nhưng ngài vẫn đứng ngước mắt lên trời, không có dấu
hiệu nào là sợ hãi hay đớn đau. Ngài lại bị hoàng đế ra lệnh tống ngục bỏ
đói cho chết. Nhưng các thiên thần đã đến băng bó các thương tích cho ngài,
và ngài được một chim câu từ trời xuống mang lương thực cho, và Chúa Kitô
cũng đến thăm ngài, phấn khích ngài can trường để Người ban cho triều thiên
vinh thắng.
Cuối cùng, ngài bị đặt trên một bánh xe đầy đinh nhọn để chịu hành hình. Thế
nhưng khi bánh xe bắt đầu quay, thì lạ lùng thay, nó cứ bị bật ra. Sau cùng,
Catarina Alêxanđria bị trảm quyết. Chính ngài đã bảo những kẻ hành quyết
ngài bắt đầu ra tay, nhưng bấy giờ có một chất tuôn ra từ cổ của ngài không
phải là máu mà là như sữa vậy. 12 ngày sau, khi ngục tù được mở ra thì một
luồng ánh sáng rạng ngời phát tỏa ra, cùng với mùi thơm ngát, trước một nàng
Catarina rạng rỡ và diễm lễ hơn nữa.
Trong nhiều thế kỷ, thánh Catarina thành Alexandria được tôn kính như là bổn
mạng của những triết gia và những nhà thuyết giáo Công giáo. Thánh nhân còn
được xem là biểu tượng như là sự khôn ngoan của các phụ nữ trong công việc
đòi hỏi công bình và tự do cho nữ giới. Vào thế kỷ thứ 6, Hoàng Đế Roma Bên
Đông Phương là Justinianô đaả thiết lập một cơ sở nay được gọi là Đan Viện
Thánh Catarina ở Ai Cập, nơi được rất nhiều khách hành hương tuôn đến để xin
ơn chữa lành. Vào thời trung cổ, ngài là một trong những vị thánh được coi
là quan trọng nhất, và được coi là vị thánh nữ đồng trinh tử đạo quan trọng
nhất, trong số các vị khác như Thánh Agnes Roma, Margarita Antiokia,
Barbara, Lucia Syracuse, Valarie Limoges v.v. Thi thể của chị được cho là
khám phá thấy ở Núi Sinai vào khoảng năm 800, tức khoảng 500 năm sau khi
ngài tử đạo, và được nói rằng tóc của ngài vẫn mọc và từ thi thể của ngài
tuôn ra liên tục dầu chữa lành.
Chính Thống giáo đã tôn kính vị thánh nữ đồng trinh tử đạo này là một vị đại
tử đạo và cử hành phụng vụ vào ngày 24 hay 25/11 hằng năm tùy theo truyền
thống địa phương. Bên Giáo Hội Công giáo Tây phương thì tôn kính ngài vào
ngày 25/11, nhưng lễ của ngài đã không còn từ năm 1969, cho mãi đến năm 2002
mới được phục hồi, ở bậc lễ nhớ không buộc.
Thánh nữ Catarina Alêxanđria đã trân quý vẻ đẹp của niềm tin Kitô giáo. Đó
là lý do thánh nữ có thể thuyết phục cách hiệu quả những người khác tôn giáo
cùng tin theo đạo. Việc theo đuổi sự khôn ngoan của Thiên Chúa có thể không
dẫn chúng ta tới sự giàu có cùng vinh dự trần thế. Trong trường hợp của
Catarina, nó dẫn ngài đến chịu tử vì đạo. Tuy nhiên thánh nữ không điên rồ
khi ngài chọn thà chết cho Đức Giêsu còn hơn là sống mà chối bỏ Ngài. Tất cả
những phần thưởng mà những kẻ hành hạ ngài có thể cống hiến cho ngài, như
danh vọng, giàu có, quyền lực đều mai một như gỉ sắt, tàn úa chẳng còn gì là
vẻ đẹp, hay đúng ra chỉ là những sự đổi chác nghèo nàn so với giá trị của sự
liêm khiết, ngay thẳng của ngài khi đi theo Đức Giêsu Kitô. Chúng ta hãy nài
xin thánh nữ Catarina Alêxanđria giúp chúng ta tăng triển lòng yêu mến đối
với các chân lý đức tin như ngài.
Lời Sách Khôn Ngoan: "Vậy tôi nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự
hiểu biết. Tôi kêu cầu, và Thần khí Đức Khôn ngoan đã đến với tôi. Đức Khôn
ngoan, tôi đã quý trọng còn hơn cả vương trượng, ngai vàng. Tôi không coi
của cải là gì so với Đức Khôn ngoan. Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng
sánh được với Đức Khôn ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn
ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với Đức Khôn ngoan, cũng kể như bùn
đất. Tôi đã ham chuộng Đức Khôn ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp, đã quý Đức
Khôn ngoan hơn ánh sáng, vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn ngoan chẳng bao giờ tàn
lụi. Nhưng cùng với Đức Khôn ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi. Nhờ tay
Đức Khôn ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể. Tôi vui hưởng mọi sự tốt
lành ấy, vì chính Đức Khôn ngoan đem chúng đến với tôi; thế mà tôi lại không
biết rằng Đức Khôn ngoan là mẹ sinh ra chúng". (Kn 7, 7-12)
Thánh nữ Catarina Alêxanđria đã trân quý vẻ đẹp của niềm tin Kitô giáo. Đó
là lý do thánh nữ có thể thuyết phục cách hiệu quả những người khác tôn giáo
cùng tin theo đạo. Chúng ta hãy nài xin Thánh nữ Catarina Alêxanđria giúp
chúng ta tăng triển lòng yêu mến đối với các chân lý đức tin như ngài.
Vào ngày lễ của Thánh Catherine thành Alexandria Tử Đạo (25/11 theo lịch
phụng vụ cũ), khi Thánh Nữ Margaret đang ở bàn thờ để rước lễ thì nghe thấy
Chúa Giêsu nói cùng mình rằng: “Con Cha ơi, chỗ của con sẽ ở giữa thần
Seraphim cùng với các trinh nữ bừng cháy tình yêu thần linh”. Nghe thấy thế
Thánh nữ sửng sốt đáp lại rằng: “Lạy Chúa, làm sao điều ấy có thể xẩy ra
được với một con người nhớp nhúa tội lỗi chứ?” Chị đã nghe thấy câu giải đáp
của Chúa như sau: “Những đau khổ vô vàn của con sẽ thanh tẩy tâm hồn con
khỏi tất cả mọi thứ thu hút phạm tội, và trong nỗi đớn đau và ăn năn thống
hối của mình, con sẽ phục hồi sự tinh tuyền đồng trinh của con”. Thánh nữ
lại càng cảm thấy sợ hãi trước câu trả lời của Chúa và đã than lên rằng: “Ôi
Chúa Kitô là Sư Phụ của con, phải chăng Thánh Mai Đệ Liên thuộc về thành
phần các trinh nữ trong vinh quang thiên đình?” Chúa liền tiết lộ cho chị
biết rằng: “Ngoại trừ Mẹ Maria và Catherine Tử Đạo, không ai hơn Mai Đệ Liên
ở hàng ngũ trinh nữ”.
Thánh Margarita Cortona
Vâng, vị thánh được nói đến đây có liên quan
đến ngày lễ Thánh Catarina Alexander hôm nay, qua biến cố chị được Chúa
Giêsu cho biết về vị thánh nữ này cũng như về bản thân chị, khiến chị cảm
thấy bàng hoàng ngỡ ngàng không thể nào hiểu được theo quan niệm trần gian.
Về cuộc sống thì chị Margarita Cortona và Thánh Catarina Alexander hoàn toàn
trái ngược nhau: trong khi nàng Margarita Cortona hoang dâm thì nàng
Catarina Alaxander tử đạo, nhưng cuối cùng, trước Thánh Nhan Thiên Chúa thì
cả hai lại đồng qui: đều đồng trinh và đều còn nguyên xác sau khi chết.
Thật vậy, nàng Margarita Cortona đã từng sống một cuộc đời hôn nhân và đã có
con, nhưng lại là một cuộc hôn nhân bất chính. Chính vì con điếm có tiếng
trong thành kia, dù thân xác nhớp nhúa dâm ô và đời sống ghê tởm trước mặt
dân chúng, nhất là thành phần luật sĩ và Pharisêu, nhưng vẫn không vì thế mà
không dám tới gần Đấng Thánh là Chúa Giêsu Kitô bấy giờ đang ở trong nhà một
người Pharisiêu tên Simon, thậm chí còn dám chạm tới Ngài, bằng cách lấy
nước mắt mà rửa chân cho Ngài, lấy tóc mình mà lau khô và lấy thuốc thơm mà
xức chân Ngài, mà con điếm này ngay bấy giờ đã được Đấng chị tin tưởng bênh
vực và khẳng định rằng: “Đó là lý do tại sao tội lỗi của cô ta dù nhiều cũng
đều được thứ tha vì cô ta đã yêu mến nhiều” (Lk 7:47). Con điếm “yêu nhiều”
này chính là đệ nhất Mai Đệ Liên (xem Lk 8:2; Jn 11:2, 12:3; Mk 16:9).
“Đệ nhị Mai Đệ Liên” là một trong những vị thánh nữ ở thế kỷ 13 đó là Thánh
Margaret thành Cortona Ý quốc, sau cuộc đời chín năm phóng đãng dâm ô theo
nhan sắc và tình cảm tự nhiên của mình với một chàng thanh niên giầu sang
phú quí trong vùng và có một đứa con trai với anh ta, nhưng không bao giờ
trở thành vợ của anh ta như anh ta hứa hẹn. Tuy nhiên, sau khi nhờ con chó
thân thương và tinh khôn dẫn đường thấy được thi thể của người tình này bất
ngờ bị sát hại trong rừng vắng, nàng đã bắt đầu ăn năn hoán cải và chịu đựng
tất cả những hậu quả hết sức đắng cay gây ra bởi gương mù tội lỗi của mình ở
địa phương quê quán của nàng, nhất là thái độ hất hủi của người cha ruột và
bà mẹ ghẻ của nàng.
Sau đó, nàng đã sống một cuộc đời thống hối ăn năn, đã gia nhập Dòng Ba
Phanxicô, con trai nàng đã trở thành tu sĩ Dòng Phanxicô cùng được phúc tử
đạo, và nàng đã lập Hiệp Hội Đức Mẹ Tình Thương để phục vụ thành phần bệnh
nhân và nghèo khổ. Người thiếu phụ hoang đường tội lỗi này đã sống một cuộc
đời hối nhân đầy nguyện cầu và khổ chế, nằm đất, ăn uống khem khổ, ngủ ít,
mặc áo nhặm, đánh tội, và trải qua những giây phút ngất ngây chiêm niệm.
Nàng đã dứt khoát với thân xác một thời lăng loàn của mình đang bị nàng hành
khổ để đền tội rằng: “Ôi thân xác của ta, tại sao ngươi không giúp ta phụng
sự Đấng Hóa Công và Đấng Cứu Chuộc của ngươi chứ? Tại sao giờ đây ngươi
không mạnh mẽ trong việc phụng sự Ngài như trước đây ngươi đã đưa ta đến chỗ
xúc phạm đến Ngài chứ? Vô ích thôi cho dù ngươi có than van và chống cự về
tình trạng ngươi đang bị quằn quại, vì giờ đây ngươi cần phải chịu đựng cho
đến cùng cái ách ta đặt lên ngươi, như trong quá khứ ta đã mang lấy cái ách
của ngươi để gây tổn thương cho Đấng đã dựng nên ngươi”.
Thậm chí nàng còn bị một số người trong dân chúng hiểu lầm về chính những nỗ
lực thật tình thống hối ăn năn của nàng và tìm cách gây trở ngại cho việc
chị được dẫn dắt trong đàng thiêng liêng bởi vị linh hướng Dòng Phanxicô.
Thêm vào đó, chính các tu sĩ Dòng Phanxicô cũng hiểu lầm chị trước khi chị
qua đời ít lâu. Về cuối đời, Chúa Giêsu đã cho chị biết về mục đích và ý
nghĩa của việc Chúa hoán cải chị có liên quan tới các người khác nữa chứ
không phải chỉ vì cá nhân chị và cho riêng chị. Chúa nói với chị như sau:
“Giờ đây con hãy chứng tỏ là con đã hoán cải; con hãy kêu gọi những người
khác thống hối nữa… Các ân sủng Cha đã ban cho con không phải chỉ giành
riêng cho một mình con”.
Thế rồi, nhờ nỗ lực đáp ứng của chị trước lời Chúa kêu gọi, chị đã làm cho
các tội nhân chẳng những ở Ý mà còn ở Pháp và Tây Ban Nha bỏ đàng tội lỗi mà
quay về với Lòng Thương Xót Chúa như chị. Thậm chí thành phần dân chúng ở
thành Cortona của chị không còn ngờ vực chị nữa, nhưng đã chạy đến với chị
trong những lúc khó khăn khốn khó. Chị đã qua đời vào ngày 22/2/1297, hưởng
dương 50 tuổi, sau 23 năm ăn năn thống hối. Ngay ngày chị qua đời chị đã
được dân chúng địa phương tuyên xưng là một vị thánh và cùng năm ấy dân
thành Cortona cũng đã xây một thánh đường kính chị. Chị quả thực đã trở
thành một vị thánh lớn của chung hội dòng Phanxicô Khó Khăn, đến nỗi, như
Chúa Giêsu cho chị biết khi chị còn sống rằng: “Con là ánh sáng thứ ba được
ban cho hội dòng của Phanxicô yêu dấu của Cha. Phanxicô là thứ nhất trong số
những người Anh Em Dòng Hèn Mọn; Clara là thứ hai trong số các nữ tu, con sẽ
là thứ ba của Hội Dòng Ba Thống Hối”.
Hiện nay thi hài của chị, một thân thể dù đã trải qua một thời gian chín năm
dài dâm ô lăng loàn đàng điếm vẫn được ơn còn nguyên vẹn sau khi chết, vì
chị quả thực đã có lòng thống hối ăn năn, hãm mình phạt xác và làm việc bác
ái của chị, những việc yêu nhiều thì được tha nhiều, nhờ đó chị có thể đền
bù tội lỗi của chị với tất cả tấm lòng “tan nát khiêm cung” trước Thánh Nhan
của Thiên Chúa vô cùng nhân hậu.
Đúng thế, nếu có
những cái bẩn không thể dùng nước mà rửa được, tuy nước vẫn có tác dụng tẩy
rửa, thậm chí đã trở thành chất thể bất khả thiếu trong Bí Tích Thánh Tẩy
Tái Sinh của Kitô Giáo do Chúa Kitô thiết lập (Marco 16:16; Mathêu 28:19),
và thực tế cho thấy chỉ có lửa mới có thể thanh tẩy được những thứ bẩn ấy
thôi, chẳng hạn một thanh sắt bị rỉ sét. Đúng thế, chỉ có lửa mới làm cho
thánh sắt bị rỉ sét chẳng những hết rỉ sát mà còn trở thành một thanh lửa
hay một cục lửa nữa, khi thanh sắt hay cục sắt rỉ sét ấy bị nung bằng lửa,
nhất là lửa yêu mến. Đó là lý do Chúa Kitô đã được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả
loan báo là Đấng rửa trong Thánh Thần nữa (xem Gioan 1:33), một phép rửa
trong Thánh Thần mà ngài báo trước cho các tông đồ trước khi về trời: "ông
Gio-an thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu
phép rửa trong Thánh Thần" (Tông
Vụ 1:5). Mà Thánh Thần là tình yêu hiệp thông, nên "ai yêu nhiều sẽ được tha
nhiều" (Luca 7:47), như một con điếm Mai Đệ Liên, hay một Magarita Cortona,
được Chúa Giêsu nói tới trong truyện vừa kể.
Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp cả Việt lẫn Anh cũng như liên kết và
diễn giải