“Sự
Sống
chiếu
sáng con người”
S |
ở dĩ “ai theo Tôi
sẽ được ánh sáng sự sống” (Jn 8:12) là v́, như chính Chúa Kitô tuyên
bố với thành phần Tông Đồ là những
chứng nhân tiên khởi của Người: “Thày là
sự sống” (Jn
14:6), cũng như
với thành phần bạn hữu thiết nghĩa với
Người: “Ta là sự sống lại và là sự
sống” (Jn
11:25). V́ “là sự
sống”, do đó, như “ánh sáng chiếu trong tăm
tối” (Jn
1:5), như “ánh
sáng thật đă đến trong thế gian chiếu soi
mọi người” (Jn 1:9),
Lời nhập thể cũng chính là “sự sống
chiếu sáng mọi người” (Jn 1:4), ở chỗ, như
Người tuyên bố với dân Do Thái: “Tôi đến
cho chiên được sự sống và được
sự sống viên măn hơn” (Jn 10:10),
bằng cách “hiến mạng sống ḿnh v́ chiên” (Jn 10:11).
Vậy “sự sống”
nơi Chúa Kitô và là “sự sống” Chúa Kitô ban cho chúng ta
đây là ǵ, nếu không phải là chính “sự sống
đời đời” hay “sự sống trường sinh”
hoặc “sự sống thần linh”, chứ không phải
sự sống tự nhiên hay thậm chí cả sự
sống siêu nhiên đi nữa.
Trước hết, “sự
sống” Chúa Kitô nói đến đây không phải chỉ là
một cuộc tồn tại “đời đời”
của hữu thể. Chẳng hạn, linh hồn con
người tự bản tính thiêng liêng của nó th́
bất tử, nghĩa là sẽ được tồn
tại đời đời, nhưng không phải v́
thế mà có “sự sống đời đời”, một
sự sống chỉ có nơi thành phần sống
trong ơn nghĩa Chúa ở đời này và tồn tại
trong vinh phúc ở đời sau. Vậy nên dùng cụm
từ “sự sống trường sinh” sẽ tránh
được cái lẫn lộn với ư nghĩa
“đời đời” về ngữ vựng liên quan
đến t́nh trạng tồn tại của hữu
thể vô h́nh.
Sau nữa, “sự sống”
Chúa Kitô ban cho chúng ta đây cũng không phải thuần túy
và hoàn toàn là “sự sống siêu nhiên” cho bằng “sự
sống thần linh”. Đúng thế, nếu hiểu
chữ “siêu” ở đây là “vượt trên”, và chữ “siêu
nhiên” là “siêu h́nh”, là “vượt trên tự nhiên”,
“vượt trên hữu h́nh”, th́ “sự sống siêu nhiên”
ở đây, trước hết và trên hết, có nghĩa
là không phải sự sống tự nhiên.
Nếu sự sống tự
nhiên được hiểu là sự sống thuộc
về thế giới hữu h́nh, như sự sống
nơi các loài thực vật, động vật và nhân
vật, th́ sự sống siêu nhiên là sự sống
thuộc về thế giới vô h́nh, như sự sống
của loài thần thiêng. Mà không phải đă là thần
thiêng th́ tự nhiên có “sự sống trường sinh”,
chẳng hạn như trường hợp của ma
quỉ, loài đang sinh hoạt hay đang sống một
sự sống siêu h́nh (siêu nhiên) đời đời
trong hỏa ngục.
Hơn nữa, cho dù tự
bản tính có thiêng liêng và vô h́nh đi nữa, v́ là tạo
vật, thần thiêng vẫn không phải thực sự
đúng nghĩa là Thần Linh như “Thiên Chúa là Thần
Linh” (Jn
4:24), một
Thần Linh thấu suốt mọi sự, kể cả
ở nơi Thiên Chúa (x.1Cor 2:10),
một Thần Linh có thể ở trong con người (x.Rm 8:11; 1Cor 6:19), tác động nội tâm
con người (x.Rm
8:14), cũng như
soi sáng cho con người từ bên trong (x.Rm 8:16), những việc mà không
một thụ tạo thần thiêng nào có thể làm
được. Thế nên, theo ngôn từ, “sự sống
siêu nhiên” không nói lên được một cách hoàn toàn
trọn vẹn chính xác ư nghĩa và bản chất cao
cả của “sự sống trường sinh”, cho bằng
chữ “sự sống thần linh”, tức sự
sống của Thiên Chúa.
Thế nhưng, “sự
sống” của Thiên Chúa, hay “Sự Sống Thần Linh”
(nơi Thiên Chúa) đây là ǵ, nếu không phải là Hiện
Hữu: “Ta là hiện hữu” (Ex 3:14). Thiên Chúa “hiện hữu” hay Thiên Chúa
“sống” đây không phải chỉ là việc Hữu
Thể Thần Linh của Ngài muôn đời tồn
tại, vững vàng như đá(x. Ps 18:31, 46, 62:7), không thay đổi như
nhật nguyệt trên bầu trời (x. Ps 72:5, 17,
89:37-38), mà là tác
động Thiên Chúa “biết” Ngài.
Nếu chết nơi loài sinh
vật hữu h́nh là hoàn toàn và vĩnh viễn không c̣n
biết ǵ nữa, th́ sống đối với sinh vật
chính là biết sinh hoạt (như nơi loài thực
vật), phản ứng (như nơi loài động
vật) và chủ động (như nơi loài nhân vật)
theo bản tính tự nhiên của ḿnh. Thế nhưng,
nơi sinh vật hữu h́nh, sự sống là một
tiến tŕnh phát triển từ t́nh trạng bất toàn
đến thành toàn (về phương diện thể lư),
từ mức độ bất hảo đến hoàn
hảo (về phương diện tâm linh như
trường hợp chỉ có nơi loài người).
V́ chính “là hiện hữu”,
tức tự có (Tự Hữu) và và hằng có (Hằng
Hữu), có tất cả (Toàn Hữu) và có tuyệt
đối (Thiện Hữu), tác động “biết” nơi
Thiên Chúa chính là “hiện hữu”. Nếu nói theo kiểu
trần gian của loài người sống trong thời
gian, th́ ngay khi vừa “hiện hữu” th́ Thiên Chúa
đă “biết” Ngài, bằng không, nếu lúc vừa
“hiện hữu” mà không “biết” ǵ th́ Thiên Chúa kể
như chưa “sống”, có chăng, như loài người,
bấy giờ Ngài chỉ mới có khả năng
“biết” tức là khả năng “sống” mà thôi.
“Là hiện hữu”, Tự
Hữu và Hằng Hữu, Toàn Hữu và Thiện Hữu,
chẳng những Thiên Chúa “sống” là Thiên Chúa “biết”
Ngài, mà Ngài c̣n “biết” Ngài tuyệt đối, biết Ngài
trọn vẹn, như chính Ngài “là” nữa, chứ không
phải Thiên Chúa chỉ “biết” Ngài sơ sơ, biết
Ngài một cách từ từ cho tới khi Ngài “biết” ḿnh
hoàn toàn, để có thể đạt tới mức
sống trọn vẹn như nơi loài người.
Tất nhiên, “là hiện
hữu” đối tượng của tác động
“biết” nơi Thiên Chúa đây không phải là một
thực tại ngoại tại nào khác ngoài chính bản thân
nội tại của Ngài. Và bản thân nội tại
của Thiên Chúa đây là ǵ, nếu không phải là “Lời
ở nơi Thiên Chúa và Lời là Thiên Chúa” (Jn 1:1): “Người Con này là
phản ảnh vinh quang Cha, là hiện thân đích thực
của hữu thể Cha” (Heb 1:3).
Nếu Thiên Chúa “sống” là Thiên Chúa “biết” ḿnh Ngài th́
đối tượng làm cho Ngài “sống” đây là chính
Bản Thân Ngài. Nói cách điển h́nh hơn, nếu con
người được dựng nên tương tự
như Thiên Chúa (x.
Gen 1:26, 27) không
thể sống lẻ loi cô độc (x. Gen 2:18) thiếu vắng đối
tượng yêu, tức thiếu đồng bạn
xứng hợp với ḿnh (x. Gen 2:20), như là lẽ sống, là sự sống
của ḿnh, th́ Con Thiên Chúa cũng chính là “sự sống”
của Thiên Chúa và nơi Thiên Chúa như vậy.
Chính v́ thế, chính v́ Con Thiên
Chúa là “sự sống” của Thiên Chúa và nơi Thiên Chúa mà
một trong những chứng nhân tiên khởi thân t́nh
với Con Ngài nhất (x. Jn 13:23)
là Thánh Tông Đồ Gioan mới khẳng định và minh
quyết rằng:
·
“Đây là điều
chúng tôi loan truyền cho anh em; điều đă có từ ban
đầu, điều chúng tôi đă nghe, điều chúng
tôi đă tận mắt thấy, điều chúng tôi đă
nh́n xem và tay chúng tôi đă đụng chạm – chúng tôi nói
về lời sự sống. (Sự sống này đă
trở nên hữu h́nh; chúng tôi đă thấy và làm chứng
cho sự sống ấy, và chúng tôi loan truyền cho anh em
sự sống trường sinh ở nơi Cha và đă
trở nên hữu h́nh cho chúng ta)” (1Jn 1:1-2).
·
“Thiên Chúa đă ban
cho chúng ta sự sống trường sinh và sự sống
này ở nơi Con của Ngài. Ai có Con là có sự
sống, ai không có Con Thiên Chúa th́ không có sự sống
trường sinh” (1Jn 5:11-12)
Tuy nhiên, để biết
ḿnh, con người được dựng nên theo h́nh
ảnh Thiên Chúa (x.
Gen 1:26, 27) có tâm linh
mới biết được bản thân ḿnh thế nào,
Thiên Chúa cũng có “Thần Linh thấu suốt những
sự sâu thẳm nơi Thiên Chúa” (1Cor 2:10) như vậy. Tức là, Thiên
Chúa “biết” Bản Thân Ḿnh là do chính Thần Linh của
Ngài. Hay nói xác thực hơn, Thần Linh chính là tác động
“biết”, tác động “sống” nơi Thiên Chúa. Do đó,
Thiên Chúa “hiện hữu”, Thiên Chúa “biết” hay Thiên Chúa
“sống” và “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) cũng là một và cũng
như nhau. V́ Thần Linh nơi Thiên Chúa chỉ là tác động
“sống” chứ không phải là chính “sự sống” như
Ngôi Con, nên Ngài đă đóng vai “ban sự sống” trong
bản tuyên xưng đức tin Công giáo:
·
“Tôi tin kính Chúa
Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống”.
Chính Chúa Giêsu cũng đă xác
nhận riêng chân lư này và chung mối hiệp thông của
Thiên Chúa Ba Ngôi được thể hiện nơi Giáo
Hội của Người như sau:
·
“Thày c̣n phải
nói với các con nhiều hơn nữa, nhưng nay các con
không thể nào hiểu thấu. Tuy nhiên, là Thần chân lư,
khi đến, Ngài sẽ dẫn chúng con vào tất cả
sự thật. Ngài sẽ không tự ḿnh mà nói, song Ngài
sẽ chỉ nói những ǵ Ngài nghe thấy, và sẽ thông
truyền cho các con những ǵ sẽ tới. Làm như
thế là Ngài sẽ làm cho Thày được hiển vinh,
v́ Ngài sẽ nhận lấy từ Thày những ǵ Ngài
sẽ thông truyền cho các con. Tất cả mọi sự
Cha có đều ở nơi Thày. Đó là lư do tại sao
Thày nói Ngài sẽ thông truyền cho các con những ǵ Ngài có
từ Thày” (Jn
16:12-15).
“Tất cả sự
thật” đây là ǵ, nếu không phải là chính Chúa Kitô, Đấng
đă tự xưng ḿnh “Thày là sự thật” (Jn 14:6).
Bởi thế, “Ngài sẽ
dẫn chúng con vào tất cả sự thật” tức
là Thần Linh Thiên Chúa “là Thần chân lư” sẽ làm cho
Giáo Hội Chúa Kitô hoàn toàn thấu hiểu “Thày là ai?” (Mt 16:15).
Thế nhưng, để
làm cho Giáo Hội Chúa Kitô hoàn toàn thấu hiểu được
chân lư là Thày ḿnh, “Ngài sẽ không tự ḿnh mà nói, song Ngài
sẽ chỉ nói những ǵ Ngài nghe thấy, và sẽ thông
truyền cho các con những ǵ sẽ tới”. Bởi v́
những ǵ Ngài “thông truyền” cho Giáo Hội Chúa Kitô đây
không phải là chính Ngài, “Đấng ban sự sống”, mà
là chính “sự sống” (Jn 14:6),
là chính Chúa Kitô, cho tới khi Kitô hữu nói riêng và Giáo
Hội nói chung “đạt đến tầm vóc thành toàn
của Chúa Kitô là đầu” (Eph 4:15),
tức là đạt đến “những ǵ sẽ
tới”: “Làm như thế là Ngài sẽ làm cho Thày được
hiển vinh, v́ Ngài sẽ nhận lấy từ Thày
những ǵ Ngài sẽ thông truyền cho các con”.
“Tất cả mọi sự
Cha có đều ở nơi Thày. Đó là lư do tại sao
Thày nói Ngài sẽ thông truyền cho các con những ǵ Ngài có
từ Thày”. Đúng
thế, v́ Chúa Kitô là “phản ảnh vinh quang Cha, là hiện
thân đích thực của hữu thể Cha” (Heb 1:3) nên Người mới xác
quyết “tất cả mọi sự Cha có đều
ở nơi Thày”. Và “Thần chân lư” đến để
“thông truyền cho các con những ǵ Ngài có từ Thày”
nghĩa là, trước hết, làm cho họ nhận
biết Cha qua Con là Thày của họ:
·
“Con đă trao cho
họ sứ điệp Cha đă trao cho Con, và họ đă
nhận lấy. Họ thực sự đă biết
rằng Con từ Cha mà đến, họ đă tin rằng
chính Cha là Đấng đă sai Con” (Jn 17:8)
Như thế, Thần Linh “là
Đấng ban sự sống” cho riêng mỗi Kitô hữu
cũng như cho chung Giáo Hội đây là việc Ngài làm cho
họ “nhận biết” cả Cha lẫn Con, hay
nhận biết Cha qua Con, hoặc “nhận biết”
Con từ Cha, tóm lại tức là “nhận biết” “Con
ở trong Cha và Cha ở trong Con” (Jn 14:10). Và đó là lư do, đối với con
người nói chung và Giáo Hội của ḿnh nói riêng, Chúa
Kitô đă định nghĩa:
·
“Sự sống
trường sinh là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân
thật duy nhất (tức nhận biết “Ta là hiện
hữu”) và Đấng
Cha sai là Đức Giêsu Kitô” (Jn 17:3)
Chính v́ “sự sống
trường sinh là nhận biết”, và Thần Linh “là
Đấng ban sự sống”, mà đường
lối Thiên Chúa thông ban “sự sống” là việc làm
chứng của Thần Linh (x. 1Jn 5:6,8).
·
“Chính Thần Linh
làm chứng cho tâm trí chúng ta rằng chúng ta là con cái của
Thiên Chúa” (Rm
8:16).
·
“Khi Đấng
Huấn Dụ đến, Thần chân lư từ Cha mà đến
cũng là Đấng chính Thày sai đến từ Cha, Ngài
sẽ làm chứng cho Thày. Các con cũng phải làm chứng
nữa, v́ các con đă từng ở với Thày từ ban đầu”
(Jn
15:26-27).
Nếu đường
lối của Thiên Chúa trong việc thông ban “sự sống”
của Ngài ra cho nhân loại, trước hết là việc
Ngài mạc khải Bản Thân Ḿnh là Con Ngài cho con người,
qua chính “Đấng đă tỏ Cha ra” (Jn 1:18), rồi sau đó tới
việc Ngài “dẫn con người vào tất cả sự
thật” qua “Thần chân lư”, th́ đúng như Chúa Kitô
khẳng định và quả quyết với Nicôđêmô:
·
“Tôi bảo
thật cho ông biết, không ai có thể vào được
vương quốc của Thiên Chúa nếu không được
hạ sinh bởi nước (biểu hiệu cho Lời Chúa
thanh tẩy linh hồn con người – Jn 15:3) và Thần Linh” (Jn 3:5).
Về phần con
người, đường lối để họ có
thể nhận được “sự sống” của Thiên
Chúa đó là tin tưởng, được biểu lộ
qua việc chấp nhận Con Thiên Chúa:
·
“Thiên Chúa đă yêu
thế gian đến ban Con một của ḿnh, để
ai tin Con th́ không phải chết nhưng được
sự sống trường sinh” (Jn 3:16).
·
“Ai chấp
nhận Người th́ Người ban cho họ quyền
làm con Thiên Chúa. Đó là những người tin vào danh
Người, những người được sinh ra
không phải bởi huyết nhục, bởi đam mê
nhục dục, bởi ư muốn con người mà là
bởi Thiên Chúa” (Jn 1:12-13).
Thế nhưng, cho dù tự
ḿnh, “sự sống thần linh” có là và đă là một
“sự sống viên măn” (Jn 10:10)
đi nữa, nhưng một khi được gieo
xuống đất là ḷng con người, “sự sống”
này sẽ trở thành “Nước Thiên Chúa giống
như một hạt cải được
người kia lấy đem gieo trong thửa ruộng
của ḿnh” (Mt
13:31) cần
phải theo tiến tŕnh nẩy sinh và phát triển cho
tới khi “nên một bụi cây lớn (biểu hiệu
cho Đức Tin cao cả hay cho Giáo Hội hoàn vũ) đến nỗi chim
trời (biểu
hiệu cho các hồn thiếng cao cả hay các nền
văn hóa nhân bản)
đến làm tổ nơi các cành lá (biểu hiệu
cho các vị thánh hay cho Giáo Hội địa phương) của nó” (Mt 13:32).
Linh đạo Kitô giáo (xem lại trang 150) chính là tiến tŕnh
triển nở “sự sống” cho tới khi “viên măn”
nơi riêng Giáo Hội Chúa Kitô cũng như nơi “tất
cả mọi tạo vật” (Mk 15:16).
Như đă xẩy ra nơi
chính thành phần Tông Đồ là các môn đệ tiên
khởi của Chúa Kitô, linh đạo này được
chia làm ba cấp hay ba chặng rơ ràng:
Theo Chúa Kitô (Con Người)
là Đường,
Nhận biết Chúa Kitô
(Tử Giá) là sự thật, và
Làm chứng cho Chúa Kitô
(Phục Sinh) là sự sống.
Các Tông Đồ trước
hết đă theo Chúa Kitô là Đường, khi “bỏ
mọi sự mà theo Thày” (Mt 19:27)
như được Người chọn gọi (x. Jn 15:19), sau đó đă nhận
biết Chúa Kitô là Sự Thật, khi tuyên xưng “Thày là Đức
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16), và sau hết đă “làm chứng cho Thày
ở Giêrusalem, khắp Giuđêa và Samaria, cho đến
tận cùng trái đất” (Acts 1:8).
Linh đạo triển
nở “sự sống” cho tới lúc “viên măn” qua ba giai đoạn
theo Chúa Kitô là Đường, nhận biết Chúa Kitô là
Sự Thật và làm chứng cho Chúa Kitô là Sự Sống
ấy đă được Chúa Kitô diễn tả tóm
gọn trong đoạn mở đầu của Bài
Giảng Trên Núi, tức trong Chín Mối Phúc Đức.
Thật vậy, Chín Mối
Phúc Đức này, nếu suy nghiệm kỹ lưỡng,
Kitô hữu chúng ta chẳng những sẽ thấy được
chúng có dính dáng với chín hoa trái của Thần Linh (xem Gal 5:22-23), mà c̣n diễn tả toàn
diện tiến tŕnh của linh đạo Kitô giáo, trong đó
ư nghĩa của mỗi Mối Phúc Đức cũng
như giá trị cùng thứ tự của mỗi Mối
Phúc Đức liên hệ hết sức chặt chẽ
với nhau từ đầu tới cuối. Mối Phúc Đức
từ một tới ba cho thấy giai đoạn linh
hồn theo Chúa Kitô là Đường, Mối Phúc Đức
từ bốn tới sáu cho thấy giai đoạn linh
hồn nhận biết Chúa Kitô là Sự Thật, và Mối
Phúc Đức từ bảy tới chín cho thấy giai đoạn
linh hồn làm chứng cho Chúa Kitô là Sự Sống.
1.
“Thứ nhất
là Đức khó nghèo trong tinh thần đi với Phúc được
nước Thiên Chúa. Tại sao Đức khó nghèo lại là
Đức đầu tiên trong các cặp Phúc Đức
ở đây, nếu không phải không có Đức khó nghèo
căn bản này cũng sẽ không thể nào có các Đức
khác. Vậy Đức khó nghèo ở đây là ǵ? Đức
khó nghèo ở đây là một Đức khó nghèo ‘trong tinh
thần’ chứ không phải chỉ là t́nh trạng khó nghèo
bề ngoài hay hoàn cảnh khó nghèo vật chất. Bằng
không, tất cả những người lâm vào t́nh trạng
khó nghèo hay sống trong hoàn cảnh khó nghèo trên thế gian
này đă là thành phần có Đức khó nghèo rồi. Như
thế th́ thuyết cộng sản là một lư thuyết đúng
theo và đảng cộng sản là thành phần sống
hợp với tinh thần khó nghèo của Phúc Âm Chúa Kitô
nhất. Và như thế Thần Học Giải Phóng càng
trở thành một chủ trương sai lầm v́ muốn
làm sao cho con người được giải phóng
khỏi t́nh trạng hay hoàn cảnh khó nghèo.
“Thật ra, Đức khó
nghèo trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức của Chúa Giêsu đây
cũng cần phải được tỏ ra bề ngoài,
bằng một cuộc sống khó nghèo, chẳng hạn
như trường hợp điển h́nh nơi các vị
tu sĩ khấn giữ Đức khó nghèo. Bảo ḿnh có
tinh thần khó nghèo hay Đức khó nghèo mà lại không
chịu được thiếu thốn, lúc nào cũng
muốn được đầy đủ, tiện nghi,
và chỉ thích dùng những đồ sang trọng, thời
trang, th́ thử hỏi con người đó có thực
sự được Phúc Nước Thiên Chúa là của ḿnh
chưa? Bởi v́, ‘Nước Thiên Chúa không phải là
vấn đề ăn uống mà là công chính, an b́nh và hoan
lạc được Thánh Linh ban cho’ (Rm.14:17).
“Do đó, Đức khó
nghèo trong tinh thần mà Chúa Giêsu nói đến trước
tiên nơi Bài Giảng trên núi Phúc Đức đây chính là
một tinh thần, nếu nói theo ngôn ngữ tu đức
học, đó là một tinh thần dửng dưng thánh
thiện đối với hết mọi sự trần
gian. Không phải hay sao, đó là lư do Chúa Giêsu đă diễn
giải ư nghĩa của Đức khó nghèo này cũng ngay
trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức khi phán: ‘Đừng
lo tích trữ cho ḿnh kho báu trần gian... Thay vào đó, hăy lo
thu tích kho báu trên trời, một kho báu mà không mối
mọt gặm nhắm hay trộm cắp lấy mất được.
Hăy nhớ rằng kho báu của các con ở đâu th́ ḷng
của các con cũng ở đó... Không ai có thể làm tôi
hai chủ... Các con không thể hiến ḿnh cho cả Thiên
Chúa lẫn tiền của được’ (Mt.6:19-22,24).
“Chính v́ không có tinh thần
khó nghèo, mà người thanh niên đạo đức đă
giữ trọn các giới răn song vẫn không thể nào
‘t́m kiếm sự trọn lành’ được bởi anh ta
không muốn từ bỏ tất cả của cải
giầu có của ḿnh (x. Mt 19:21-22). Nói cách khác, chỉ v́ anh chàng giầu có đạo
đức này chưa được Phúc có Nước Thiên
Chúa ngay nơi bản thân ḿnh là ‘kho báu trên trời’ (Mt 19:21), nên anh ta không thể nào
‘t́m kiếm sự trọn lành’ bằng việc ‘đến
mà theo (Chúa Kitô)’ (Mt
19:21), Đấng
‘không có chỗ dựa đầu’ (Lk 9:58).
2.
“Thứ hai là Đức
sống trong sầu thương đi với Phúc được
an ủi. Tại sao Đức sống trong sầu
thương lại được Chúa Giêsu cho đứng
ngay sau Đức khó nghèo trong tinh thần, nếu không
phải v́ Đức sống trong sầu thương này có
liên hệ mật thiết và trực tiếp đến Đức
khó nghèo. Không phải hay sao, tuy không thể theo Chúa t́m
kiếm sự trọn lành được như ḷng mong
ước, người thanh niên giầu sang phú qúi song đạo
đức, như được đề cập đến
trên đây, cũng đă tỏ ra ‘sầu thương’.
Nỗi ‘sầu thương’ của chàng thanh niên không
phải là v́ anh ta tiếc rẻ hay hối hận sau khi đă
thực sự nghe lời Chúa Giêsu ‘bán hết của
cải và thí cho kẻ nghèo’ (Mt 19:21),
mà là v́ anh ta muốn ‘t́m kiếm trọn lành’ song không được.
“Đó là lư do, cũng trong
Bài Giảng trên núi Phúc Đức, Chúa Giêsu đă khẳng định:
‘Hăy qua cửa hẹp mà vào. Cửa dẫn đến
diệt vong th́ rộng. Đường đi th́ rộng
răi và có nhiều kẻ chọn hành tŕnh theo con đường
này. Thế nhưng cửa dẫn đến sự
sống th́ hẹp ḥi biết bao, đường đi th́
gồ ghề và có ít người t́m được nó
biết bao’ (Mt
7:13-14). ‘Có ít
người t́m được nó’, nghĩa là t́m được
cửa dẫn đến sự sống này là ǵ, nếu
không phải, theo Phúc Âm Thánh Luca, ‘Thày bảo cho các con
biết, nhiều người sẽ cố gắng vào mà
không được" (Lk 13:24).
Người thanh niên đạo đức giầu có trên
đây là một trường hợp điển h́nh.
“Tuy nhiên, không phải
chỉ có kẻ cố gắng mà không vào được
cửa hẹp, cửa dẫn đến sự sống,
mới ‘sầu thương’ như anh chàng giầu có
lại đạo đức kia, mà cả kẻ vào được
cửa hẹp đi nữa, v́ là c̣n mang ‘bản chất th́
yếu nhược’ (Mt 26:41)
trên thế gian, họ cũng không thể nào hoàn toàn thoát được
nỗi ‘sầu thương’, một cách chủ quan nơi
cảm xúc của họ, hay một cách khách quan nơi quan điểm
thế gian, trong việc bỏ ḿnh mà theo Chúa. như
trường hợp chính Chúa Giêsu cũng nhận thấy
nơi các người môn đệ dấu yêu của
Người là thành phần Tông Đồ chứng nhân cho
Người sau này, khi Người thông cảm với các
vị: ‘Thày bảo thật cho các con hay, các con sẽ
khóc lóc than van trong khi thế gian hân hoan vui sướng’ (Jn 16:20).
“Thế nhưng, v́ không
bỏ đi như nhiều môn đệ sau khi nghe Chúa Giêsu
nói về máu thịt của Người là của ăn
của uống (x.
Jn 6:60, 66), nhất
là dù có ‘sầu thương’ khi bị Thày nặng lời
quở trách như trường hợp của vị lănh đạo
Tông Đồ Đoàn (x. Mt.16:23), thành phần chứng nhân tiên khởi đă
có Phúc được ủi an, như lời Chúa Giêsu
trấn an các vị như sau: ‘Các con sẽ chịu sầu
thương trong một thời gian, nhưng nỗi
sầu thương của các con sẽ trở thành
niềm vui’ (Jn 16:20).
“Tại sao ‘nỗi sầu
thương của các con sẽ trở thành niềm vui’ và
‘nỗi sầu thương của các con sẽ trở
thành niềm vui" bằng cách nào? Chúa Giêsu đă cắt
nghĩa thêm cho các vị Tông Đồ như sau: ‘Khi
một người đàn bà lâm bồn th́ sầu
thương v́ giờ của ḿnh đă đến. Lúc bà
sinh được đứa con th́ bà không c̣n nhớ đến
đớn đau của ḿnh nữa, bởi hân hoan khi
thấy một con người được sinh vào đời.
Cũng thế, các con sầu thương trong một
thời gian, nhưng Thày sẽ gặp lại các con;
bấy giờ ḷng các con sẽ hân hoan bằng một
niềm vui không ai có thể cướp đoạt nơi
các con được’ (Jn 16:21-22). Như thế, Phúc được
ủi an nơi thành phần chịu ‘sầu thương’
khi họ nhất định từ bỏ mọi sự
theo tinh thần khó nghèo để có thể vào qua cửa
dẫn đến sự sống, đó là họ luôn luôn
vững tâm trong việc theo Chúa Kitô là cửa hẹp họ
phải qua và là Đường dẫn họ đến
cùng Cha (x.
Jn 14:6).
3.
“Thứ ba là Đức
hiền lành đi với Phúc được hưởng đất
đai. Lư do tại sao Đức hiền lành lại được
Chúa Giêsu xếp vào hạng thứ ba trong Bài Giảng trên núi
Phúc Đức của Người cũng chính v́ mối
liên hệ của Đức này với Đức khó nghèo
trong tinh thần và với Đức chịu sầu
thương trên đây.
“Đúng thế, nếu con
người t́m kiếm sự trọn lành và theo Chúa Kitô đi
đường hẹp chỉ v́ họ cho thế gian hay
khinh thường tất cả những ǵ thuộc về
thế gian tự bản chất là xấu, là đáng ghê
tởm, th́ họ đă đi ngược đường,
chắc chắn, một là họ sẽ bỏ cuộc v́ đi
măi cũng không thấy Thiên Chúa là nguyên ủy và là cùng đích
của mọi sự (x. Rev 21:6), hai là họ sẽ phải quay đầu
lại để chân nhận giá trị đích thực
của mỗi vật cũng như mọi vật, theo đúng
nguyên tắc Chúa Giêsu dạy trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức:
có là có, không là không, ngoài ra chỉ là gian xấu (x. Mt 5:37).
“Chính v́ thế, v́ công
nhận chân giá trị của sự vật hay sự
việc trần gian tự chúng không xấu, con người
t́m kiếm sự trọn lành qua cửa hẹp mới không
đi tới ngơ cụt, trái lại, họ c̣n được
Phúc hưởng đất đai nữa. Ở chỗ,
chẳng những họ không làm hư hoại nơi
bản thân ḿnh tất cả những ǵ họ đă từ
bỏ v́ cho chúng là đáng ghê tởm, mà c̣n nhờ tinh
thần khó nghèo, tức tinh thần lănh đạm lành thánh
của ḿnh, nhất là Đức chịu sầu
thương của họ, trong việc bỏ mọi
sự mà theo Chúa là Đường dẫn đến cùng
Cha, họ trở nên như ‘muối ướp thế gian’
(Mt
5:13) để
giữ cho thế gian khỏi bị hư thối bởi
sự lạm dụng của người chỉ biết
làm tôi tiền của mà không biết trả về cho Thiên
Chúa những ǵ thuộc về Ngài (x. Mt 22:21). Như thế không phải thành phần
có Đức hiền lành này đă được Phúc
huởng đất đai là được gấp trăm
ngay ở đời này hay sao (x. Mt 19:29)?