NHẬP
ĐỀ 1
Tinh
Thần Và Chân Lư
Đời
sống của người Kitô hữu phải nói là một
đời sống cầu nguyện. Nếu đời Kitô
hữu
và đời cầu nguyện chỉ là một, th́ Kitô hữu
nào không cầu nguyện là Kitô hữu đă chết về
phần thiêng liêng.
Bởi
v́,
CẦU
NGUYỆN LÀ G̀?
Nếu
không phải, theo các định nghĩa thông thường:
-
Cầu nguyện là nâng ḷng lên với Chúa;
-
Cầu nguyện là chuyện văn với Chúa.
Tác
động nâng ḷng lên với Chúa hay chuyện văn với Chúa
chẳng qua là những tác động giao tiếp với
Thiên Chúa, thế thôi.
Nếu
Thiên Chúa là sự sống (x.Gn 1:4, 1Gn 1:2; KH
giao
tiếp với Ngài, tức không cầu nguyện, không phải
là đă mất liên lạc với Sự Sống, nghĩa là
đă chết hay sao!
Đúng
vậy,
CẦU
NGUYỆN CHÍNH LÀ GIAO TIẾP VỚI THIÊN CHÚA.
V́
cầu nguyện tự nó là tác động giao tiếp với
Thiên Chúa, nên, theo nghĩa hẹp, cầu nguyện sẽ bao
gồm những việc như dâng lễ, thụ lănh các bí
tích, đọc kinh, đọc sách
thánh,
làm việc bác ái v.v. Ngoài ra, các việc khác nếu không trực
tiếp liên hệ với Thiên Chúa hay nhắm thẳng vào Ngài,
chẳng hạn như việc đọc sách đạo đức,
việc sinh
hoạt
hằng ngày tại gia đ́nh hay ngoài xă hội v.v. sẽ không
phải là việc cầu nguyện hay thuộc về việc
cầu nguyện.
Thế
nhưng, “Thiên Chúa là Thần Linh” (Gn 4:24), làm thế nào để
con người “thuộc hạ giới” (Gn 8:23) là loài “sinh
bởi xác thịt là xác thịt” (Gn 3:6) có thể giao tiếp
với Ngài,
nghĩa
là có thể cầu nguyện, nếu không phải bằng
phương cách “trong tinh thần và chân lư” (Gn 4:24).
Bởi
v́, chỉ có tinh thần thuần túy của con người
mới có khả năng giao tiếp với Thiên Chúa là Thần
Linh, chứ không phải giác quan, cái tự bản chất
xu hướng về thực nghiệm, là những khả
năng chỉ có thể thấy được những ǵ
bề ngoài, những ǵ h́nh
ảnh,
những ǵ gỉa tạm. Vả lại, cái phản ảnh
đích thực và chứa đựng hoàn toàn Thiên Chúa chỉ
có chân lư mà thôi, chân lư mà trí khôn con người phải theo, mà
ḷng muốn con người phải chấp nhận, chứ
không phải là chính ư nghĩ của con người, hay là những
ǵ con người nghĩ ra.
Như
thế, nhờ tinh thần là khả năng hướng đến
chân lư này mà tất cả những ǵ con người
làm
trong tinh thần và chân lư đều là những tác động
giao tiếp với Thiên Chúa là Thần
Linh,
đều là cầu nguyện. Thậm chí những việc
tầm thường như ăn uống, ngủ nghỉ,
học hành, vệ sinh v.v., nếu được con người
làm trong tinh thần và chân lư, th́, theo tinh thần cầu nguyện,
tất cả đều là việc cầu nguyện, là giao
tiếp với Thiên Chúa, là việc siêu nhiên, việc đáng
thưởng.
Đời
Kitô hữu là đời cầu nguyện là ở chỗ đó
và là như thế.
Ngược
lại, tất cả những việc con người làm,
nếu không làm trong tinh thần và chân lư, đều là những
việc thuần tự nhiên, thậm chí là những việc
bị con người tục hóa dù việc họ làm tự
nó là một việc lành, như ăn chay, bố thí, hay một
việc thánh, như dâng lễ,
rước
lễ.
Bởi
v́, một khi đă không làm việc, nói chung là đă không sống
trong tinh thần và chân lư, tất nhiên sẽ chỉ sống
theo vô thức hay xác thịt. Trên thực tế, vô thức
bị chi phối bởi xác thịt hay dẫn đến xác
thịt, cả hai đều thuộc về tự nhiên, không
phải là siêu nhiên, nên bất xứng với Thiên Chúa là Thần
Linh.
Đó
là lư do “Những ai sống theo xác thịt không thể đẹp
ḷng Thiên Chúa” (Rm 8: 8). Họ là những người “không hợp
với Ta là chống lại Ta” (Mt 12:30). Dù việc lành, việc
thánh họ làm không có ư xấu là tác nhân gây nên tội lỗi
nơi con người, mà chỉ được họ làm một
cách vô thức là t́nh trạng trung dung, (chứ không hoàn toàn
nghịch lại với Ngài như trường hợp họ
có ư xấu), th́, đối với Ngài, những việc làm
của họ ấy cũng kể là những việc làm
“chống lại” Ngài rồi vậy, chỉ v́ con người
đă “không hợp với Ta”, không có ư v́ Chúa và cho Chúa một
cách liên lỉ, nghĩa là đă không hoàn toàn giao
tiếp
với Chúa, hay không thực sự cầu nguyện cũng
thế.
Thật
ra, nơi mà tạo vật có thể đời đời
và liên lỉ như “mặt đối mặt” (1Cor 13:12)
“giao
tiếp” với Thiên Chúa Thần Linh đó là Thiên Đàng. Nơi
đây, các thần thánh “giao tiếp với Thiên Chúa” bằng
việc chiêm ngưỡng, kính mến và chúc tụng Ngài. Đó
là tính cách cầu nguyện đời đời, tính cách cầu
nguyện của các thần thánh, mẫu mực cầu nguyện
cho giáo hội trần thế, nơi mà con người “giao
tiếp với Thiên Chúa” như
“qua
gương mờ mờ” (1Cor 13:12).
Bởi
v́ “cầu nguyện thực sự là giao tiếp với Thiên
Chúa trong tinh thần và chân lư”, nên, là Thần Linh và là Sự
Sống, để loài người có thể “giao tiếp”
với Ḿnh, Thiên Chúa đă tự tỏ ḿnh ra cho loài người
qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, “Sự Sống đời
đời nơi Chúa Cha đă trở nên hữu h́nh cho chúng
ta” (1Gn 1:2).
Phần
con người, c̣n ai “giao tiếp” với “Con Thiên Chúa hằng
sống” (Mt 16:16) là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1:23) một
cách trực tiếp và gần gũi bằng các thánh tông đồ,
những chứng nhân của Ngài (x.Gn 15:27; Lc 24:48), đă được
nghe thấy Ngài bằng tai, nh́n thấy Ngài bằng mắt
và chạm đến Ngài bằng tay của ḿnh (x.1Gn 1:1), hơn
các tiên tri và nhiều đấng thánh đă muốn điều
các ông có mà không được (x.Mt 13:17). Thế mà, tự ḿnh,
các thánh tông đồ vẫn cảm thấy rằng ḿnh không
biết cầu
nguyện
là ǵ, đến nỗi đă phải xin với Thày: “Xin Thày
dạy cho chúng con cầu nguyện” (Lc 11:2).
Phần
Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, Lời Thiên Chúa muốn
nói với con người (x.DT 1:2), chẳng những đă
dạy các ông cầu nguyện theo mô thức “Kinh Lạy
Cha”, mà c̣n dạy các ông sống đời cầu nguyện
theo “Kinh Lạy Cha” nữa. Nghĩa là, Chúa Giêsu dạy
cho
các thánh tông đồ biết “giao tiếp với Thiên Chúa
“trong tinh thần và chân lư”, qua việc làm cho các ông mỗi ngày
một nhận biết “Ngài là ai?” (Mt 16:15; Gn 9:36), một cách
chân thực và chính xác hơn như Ngài là, chứ không phải
như các ông thấy theo giác quan, hay như các ông nghĩ theo
phán đoán của ḿnh.
Chính
Chúa Giêsu, về nhân tính, tuy bẩm sinh được liên lỉ
hiệp nhất với thần tính ngay từ khi mới được
đầu thai trong ḷng Trinh Nữ Maria, Mẹ của Người,
Người vẫn không
ngừng
cầu nguyện, không ngừng “giao tiếp” với Cha của
Người. Chẳng những bằng việc “Cha ở
trong Ta và Ta ở trong Cha” (Gn 14:10), mà c̣n bằng tác động
cầu nguyện theo h́nh thức nữa. Chẳng hạn những
trường hợp được Phúc Âm kể đến
sau đây:
-
“Chúa Giêsu cũng chịu phép rửa và đang lúc Người
cầu nguyện th́ trời mở ra” (x.Lc 3:21).
-
“Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy đi
đến nơi tĩnh vắng và cầu nguyện ở đó”
(Mc 1:35).
-
“Người thường rút lui vào những nơi hoang vắng
mà cầu nguyện” (Lc 5:16).
-
“Khi sai họ (các môn đệ) đi khỏi rồi, Người
lên núi cầu nguyện một ḿnh” (Mt 14:23).
-
“Người lên núi cầu nguyện, thức cả đêm
giao tiếp với Thiên Chúa” (Lc 6:12).
(Ở
đây, “cầu nguyện thực sự là giao tiếp với
Thiên Chúa”, được sáng tỏ hơn bao giờ hết
qua việc làm của Chúa Giêsu. Người lên núi làm ǵ, nếu
không phải để “cầu nguyện”, và Người đă
cầu nguyện thế nào, nếu không phải “giao tiếp”
với Thiên Chúa cả đêm).
-
“Đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến
đổi và quần áo Người trở nên trắng xóa”
(Lc 9:29).
-
“Các con trẻ được mang đến cho Người
để Người đặt tay trên chúng và cầu nguyện”
(Mt 19:13).
-
“Lạy Cha, Con chúc tụng Cha là Chúa trời đất v́ điều
Cha giấu những kẻ khôn ngoan thông thái, Cha lại tỏ
những kẻ bé mọn biết” (Lc 10:21)
-
“Có lần Người đang cầu nguyện ở một
nơi kia. Sau khi Người cầu nguyện xong, một môn
đệ thưa Người: 'Chúa ơi, xin dạy chúng
con cầu nguyện như Gioan đă dậy môn đệ của
ông ấy'” (Lc 11:1).
-
“Con không cầu nguyện cho họ (các môn đệ) mà thôi,
Con c̣n cầu cho những
kẻ
tin Con nhờ lời của họ để tất cả
được nên một” (Gn 17:20-21).
-
“Người lui đến một khoảng bằng ném ḥn đá,
đoạn qùi gối xuống mà cầu nguyện rằng:
'Cha ơi, nếu Cha muốn, xin hăy cất chén này cho Con, nhưng
đừng theo ư Con, một cho ư Cha nên trọn'” (Lc 22:41-42)
Đối
với các môn đệ, như các ông đă xin, để dậy
các ông sống đời cầu nguyện, tức
biết
giao tiếp với “Thiên Chúa là Thần Linh” (Gn 4:24) mà Người
là “hiện thân đích thực của bản thể Cha” (DT
1:3), Chúa Giêsu đă chẳng hướng dẫn các ông qua bốn
giai đoạn cầu nguyện là ǵ:
*
GIAI ĐOẠN CẦU NGUYỆN THỨ NHẤT:
Đó
là giai đoạn các tông đồ bắt đầu gặp
gỡ và sống với Chúa Giêsu. Giai đoạn này là giai đoạn
“đến mà xem” (Gn 1:39) của các tông đồ. Tức là
giai đoạn các tông đồ tự nhận định
về Chúa Giêsu theo nhận xét bề ngoài và suy nghĩ bề
trong của các ông. Và, nhận xét đầu tiên của các ông
về Người là:
-
“Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng phải
tuân lệnh của Người?” (Mt 8:27).
-
“C̣n hồ nghi ǵ nữa, Ngài qủa thật là Con Thiên Chúa!”
(Mt 14:33).
Tuy
nhiên, Thiên Chúa ở với loài người là Chúa Giêsu mà các
tông đồ “giao tiếp” đó, trong giai đoạn đầu
tiên này, đối với các ông, chẳng khác nào như “Hạt
Giống rơi xuống vệ đường là những
kẻ nghe Tin Mừng về Nước Thiên Chúa mà chẳng
hiểu ǵ” (Mt 13:19). Đúng thế, v́ chưa “giao tiếp với
Thiên Chúa trong tinh thần và chân lư”, nên, dù được nghe
giảng dụ ngôn gieo giống (x.Mc 4:13) hay được
chứng kiến phép lạ bánh hoá ra nhiều (x.Mc 6:52), “tâm
trí họ hoàn toàn mịt mù về ư nghĩa của những
biến cố đó” (Mc 6:52).
Dầu
sao đi nữa, các tông đồ, trong giai đoạn mở
màn này, cũng bắt đầu được Ơn Kính Sợ
Chúa, khi các ông biết chạy đến kêu cầu Người
trong lúc lâm nguy: “Chúa ơi, cứu chúng con với, kẻo chúng
con chết mất thôi” (Mt 8:25).
Song,
v́ hạt giống cầu nguyện của các ông là “Con Người
Giêsu Kitô” (1Tim 2:5) chưa hoàn toàn phát triển nơi con người
c̣n như vệ đường của các ông, nên Ơn Kính
Sợ nơi
các
ông cũng chưa mạnh đủ để có thể cản
ngăn “nhiều môn đệ đă bỏ đi, không thuộc
về nhóm của Người nữa” (Gn 6:66), chỉ v́ họ
không nghe được “lời nói trái tai” (Gn 6:60) của Người.