· Về lư do bắt đạo
trong Triều Đại Nhà Nguyễn thế kỷ 19:
Theo một vài tham luận đọc
tại hội nghị này th́ có thể nhận xét rằng,
sự truyền bá đạo Thiên Chúa vào Việt Nam đặc
biệt kể từ cuối thế kỷ XVIII sang nửa
đầu thế kỷ XIX, không thuần túy chỉ là việc
truyền bá đức tin mà chứa đựng đầy
nghi ngờ có cơ sở thực tiễn về sự liên
hệ với âm mưu xâm lược của thực dân
Pháp. Đây chính là nguyên nhân ban đầu, sâu xa, dẫn tới
những nguyên nhân cụ thể trực tiếp khác đẩy
triều Nguyễn đi tới chủ trương cấm
và giết đạo…
Nguyễn Ánh lâm vào t́nh
trạng vừa chịu ơn việc đạo lại vừa
lo sợ việc đạo. Đó là thực chất tờ
chiếu đầu tiên ban hành tháng giêng năm Giáp tư (1804),
nhân khi tuyên bố với dân chúng Bắc Hà về việc thờ
thần Phật… Nguyên văn đoạn chiếu đó như
sau: “Lại như đạo Gia-tô là tôn giáo nước khác
truyền vào nước ta, đặt ra thuyết thiên đường
địa ngục khiến kẻ ngu phu ngu phụ chạy
vạy như điên, tiêm nhiễm thành quen, mê mà không
biết. Từ nay về sau, dân các tổng xă nào có nhà thờ
Gia-tô đổ nát th́ phải đưa đơn tŕnh quan
trấn mới được tu bổ, dựng nhà thờ
mới th́ đều cấm. Những điều trên đây
đều là nên cố đổi tệ cũ, kính giữ
giáo điều. nếu cứ quen thói làng, can phạm phép nước,
có người phát giác th́ xă trưởng phải đồ
lưu đi viễn châu, dân hạng, nặng th́ sung dịch
phu, nhẹ th́ xử roi hay trượng, để bớt
phí cho dân mà giữ phong tục thuần hậu” (ĐNTLCB, tập III, Nxb Sử học,
Hà Nội, 1963, tr. 168).
Minh
Mạng đă ra chỉ dụ đầu tiên về việc
cấm đạo đối với dân chúng Việt Nam
trong toàn quốc tháng 11 Nhâm Th́n (1832). Nội dung đạo
dụ này đại ư như sau: Đạo Gia-tô là của
người Tây dương truyền vào nước ta từ
lâu mê hoặc dân chúng, học thuyết của họ không tin
được, lại trái với phong tục dân ta, việc
này phạm vào pháp luật…
Đạo dụ thứ hai
tháng 1-1836 cấm chỉ tà giáo phương Tây, xử chém
những người Tây dương lẩn lút không khai báo,
những đạo trưởng đang ẩn trong nhân gian…
Chỉ dụ thứ ba, tháng
5 Mậu Tuất 1835 riêng cho ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh,
Thanh Hóa chỉ bắt tội các đạo trưởng
Tây và ta, không trị tội giáo đồ, không được
nhiễu dân. Dụ này nhằm hạn chế sửa
chữa những lệch lạc trong khi thi hành dụ trước,
chủ yếu ở ba địa phương kể trên.
Chỉ dụ thứ tư,
(mật), tháng 6 Kỷ Hợi 1839, cho các tỉnh từ Hà Tĩnh
trở ra Bắc, truy nă, đạo trưởng Tây Dêduminô,
tức Vọng hay Siméon Francois Berneux bằng mọi biện
pháp.
Chỉ dụ thứ năm,
(mật), tháng 6 Kỷ Hợi 1839, cho các tỉnh Nam Kỳ điều
tra phản ứng của giáo dân và t́nh h́nh đạo Thiên
Chúa kể từ sau sự biến Lê Văn Khôi.
Thiệu Trị lên ngôi thay
Minh Mệnh có ư muốn thay đổi biện pháp khôn ngoan
hơn, dù vẫn không chấp nhận đạo Gia-tô…
Tiếc thay ngay năm đó (Đinh Mùi 1847) lại xẩy
ra sự kiện thủy chiến ở Đà Nẵng, quân
triều đ́nh thua thiệt, lại thấy có hiện tượng
giáo sĩ thông tin tức cho tầu giặc, Thiệu Trị
tức giận đă nói với các triều thần đại
ư: thuốc phiện và đạo Gia-tô là hai mối hại,
phải xuống dụ và ghi vào quốc sử…
Chỉ dụ thứ sáu, tháng
3 Đinh Mùi (4-1847) tuyên bố lại các chỉ dụ
cấm đạo thời Minh Mệnh, như một bị
vong lục, để chứng tỏ Thiệu Trị không
khoan dung với các giáo sĩ và đạo Gia-tô như trước
nữa, bởi họ đă không đếm xỉa ǵ tới
t́nh h́nh đó.
Chỉ dụ thứ bảy,
tháng 9 năm Đinh Mùi (10-1847) ban hành chủ yếu
nhằm đối tượng các quan văn vơ theo đạo,
nếu không hối lỗi sẽ bị trị tội,
lấy tiền đề là việc xuất đội Vũ
Văn Điển tiết lộ quân cơ cho địch
trong sự kiện thủy chiến ở Đà Nẵng kể
trên…
Sau khi Thiệu Trị qua đời,
Tự Đức lên nối ngôi và tuyên bố đi theo đường
lối cũ của cha ông đối với các giáo sĩ
và đạo Thiên Chúa…
Đạo dụ thứ tám,
tháng 6 Mậu Thân (1848) phân biệt xử lư với từng
loại theo các h́nh phạt khác nhau, nhưng nặng nhất
là với các giáo sĩ Tây dương, bị quăng
xuống biển, rồi tới các linh mục Việt Nam
không chịu hối cải bị xử tử, c̣n giáo dân
không bị giết, nếu không hối cải th́ bị thích
chữ vào mặt.
Chỉ dụ thứ chín,
tháng 7 nhuận Giáp Dần (1864) vẫn xử nặng các
giáo sĩ Tây và linh mục Việt, nhưng nhẹ với
giáo dân (chỉ bị phát văng ở miền núi không được
ở miền biển) và nhẹ với quan lại (chỉ
bị cách chức). Ngoài ra chỉ dụ này quy định
thêm tội chứa chấp giáo sĩ Tây dương: các quan
lại từ phủ trở lên bị giáng cấp lưu
nhiệm, tổng lư bị đánh trượng.
Chỉ dụ thứ mười,
tháng 10 Đinh Tỵ (1857) ban hành sau hàng loạt sự kiện
nổi dậy của giáo dân và nông dân vùng Nam Định, Hải
Dương, Hưng Yên và vụ Hồ Đ́nh Hy. Dụ này
qui định việc tịch thu gia sản những người
che giấu đạo trưởng.
Chỉ dụ thứ mười
một, tháng 4 Kỷ Mùi (1859). Chỉ dụ thứ mười
hai, tháng 9 Kỷ Mùi (1859) ban hành liên tiếp sau khi Pháp đánh
Đà Nẵng và Nam Kỳ, khi Tự Đức nghe tân báo có
hiện tượng giáo dân đi theo địch. Các dụ
này đề ra các biện pháp ngăn giữ, quản thúc
những người theo đạo, kể cả kêu gọi
giáo dân đừng theo giặc, phân tán họ vào các xă lương
dân v.v. Điều đặc biệt là các dụ này không hề
đề ra một h́nh phạt nào xử tử cả mà chỉ
nói tới giam giữ, nếu người giáo dân có tội
thực th́ bị bắt giữ, tài sản đem chia đều
cho người khác.
Chỉ dụ thứ mười
ba, tháng Chạp Kỷ Mùi (đă sang tháng 1-1860) ban hành sau khi
hành h́nh cụ Thái (linh mục Đỗ Thế Hùng) cùng nhiều
đồng lơa cầm đầu cuộc nổi loạn phù
Lê Duy Huân. Dụ này trở lại việc xử nặng
các quan văn vơ theo đạo…
Chỉ dụ cuối cùng thứ
mười bốn, tháng 11 Tân Dậu (1861) ban hành khi
chiến sự miền Nam đang ác liệt, đặt ra
biện pháp xử trí rất nặng là thắt cổ và
giam đến chết những giáo dân thực sự
ngạo mạn và có tội đang bị giam giữ.
Những giáo dân đưa đi an trí không hối cải th́
chỉ bị phạt đánh trượng.
Sau khi kư hàng ước Nhâm
Tuất 6-6-1862, Tự Đức cho tha tội các giáo dân bị
bắt giữ, nhưng những người đích
thực có thông đồng với giặc Pháp th́ các quan địa
phương tra xét rơ rồi trị tội. Đây là lệnh
trực tiếp của Tự Đức, không phải một
đạo dụ riêng.
Vậy
nếu kể là mệnh lệnh của đích thân nhà vua th́
15 mệnh lệnh kể trên đầu xuất hiện do
những duyên cớ trực tiếp khi nguy cơ xâm lược
và nguy cơ thua trận mất nước ngày càng khẩn
cấp hơn. Các lư do sâu xa và trước mắt đó là một
hiện thực khách quan. V́ vậy có thể nói, nếu các
giáo sĩ, linh mục nước ngoài kể cả người
Việt Nam Công giáo nào đó có phạm luật nước,
giúp đỡ cho đội quân xâm lược Pháp th́ việc
ngăn cấm và xử tội những người đó
trước chính quyền nhà Nguyễn là điều hoàn toàn
có thể hiểu được. Tuy nhiên trong khi thi hành công
việc có tính cách bảo đảm an ninh toàn quốc này không
tránh khỏi t́nh trạng quá đáng, hoặc nhầm
lẫn gây đau thương cho nhiều người. Biện
pháp cấm và giết đạo tuy là có cơ sở có mềm
dẻo theo t́nh h́nh thực tế và không cố ư gây nên tội
lỗi nhưng là một biện pháp không nh́n xa trông rộng,
không khôn ngoan, do đó là sai lầm. Cái hậu quả
xấu nhất của biện pháp này là lại tạo thêm
cớ rất “mủi ḷng” thuận lợi hơn cho sự
can thiệp vũ trang của thực dân Pháp. Có thể nói
nhà Nguyễn đă sa vào bẫy của chủ nghĩa
thực dân Pháp. Một điều đau xót hơn nữa
và thực trớ trêu là nhờ giáo sĩ mà nhà Nguyễn
giữ được nước, nhưng cũng v́ giáo sĩ
mà nhà Nguyễn bị mất nước. Đó cũng là một
bi kịch lịch sử nhà Nguyễn đă phải chịu
đựng ngay từ cuối thế kỷ XVIII đến
măi thế kỷ XX. Không t́nh huống nào trắc trở
bằng ân nhân ḿnh lại là đối phương của
ḿnh. Ân nhân là đối với một gịng họ Nguyễn.
C̣n đối thủ lại đứng trước
cả một dân tộc mà họ Nguyễn giữ chủ
quyền đại diện… Hăy trả lại cho triều
Nguyễn những ǵ triều đại ấy đă có. Đó
là cách nh́n ḷng lành của tất cả chúng ta, của đời
sau đối với các thế hệ trước.
(Huy Vũ và Huy Hợp,
Viện Sử học Việt Nam,
bài Cái Ǵ Của
Nhà Nguyễn Hăy Trả Về Cho Nhà Nguyễn,
sách đang
dẫn trang 149, 151, 152, 153, 154, 155, 156;)
Dường như có một
số người nào đó không đồng ư với
nhận định này. Họ lập luận rằng các
sắc dụ cấm đạo của các vua triều Nguyễn
– Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, đều
chỉ nêu lên lư do tôn giáo – “Gia-tô là tả đạo… Tả
đạo ấy rất hại cho phong hóa” – chứ tuyệt
nhiên không nêu lên lư do chính trị. Thế nhưng đọc
kỹ một số sắc dụ cấm đạo, chúng
tôi lại thấy trong đó có nói tới lư do chính trị
bên cạnh lư do tôn giáo. Xin đan cử vài thí dụ để
làm minh chứng: Dụ của Thiệu Trị năm 1847 có
đoạn ghi: “Đạo Gia-tô là tà giáo làm mê hoặc ḷng
người rất sâu, không những cám dỗ làm cho tiểu
dân u mê mà cả đến người trong quan chức cũng
có kẻ say mê không tỉnh! Gần đây như việc Đà
Nẵng ở tỉnh Quảng Nam, suất đội Vũ
Văn Điển v́ dương di mà ngầm đưa tờ
ước thúc, làm tiết lộ quân cơ!…” (Đại Nam
thực lục chính biên, Tập XXVI). Dụ của Thiệu Trị
năm 1845 cũng có đoạn viết: “Có người
Kinh là bọn Nguyễn Văn Thất theo tả đạo,
ngầm thông tin tức với thuyền nước ngoài, bị
bắt, chém bêu đầu rêu rao khắp nơi” (cùng sách vừa
dẫn, Tập XXV).
Đến đây, vấn đề
tưởng đă khá rơ.
Tuy nhiên bên cạnh kết
luận trên, cũng cần xác định rằng các vua triều
Nguyễn đă phạm sai lầm trong đối sách, đă
có thái độ quá tả khi ra lệnh cấm đạo
quyết liệt và sát đạo tràn lan, vơ đũa
cả nắm, không có sự phân biệt rạch ṛi giữa
những giáo sĩ, giáo dân cấu kết, làm tay sai, làm gián điệp
hoặc dẫn đường cho giặc với những
giáo sĩ, giáo dân sinh sống và làm ăn b́nh thường, một
ḷng kính Chúa yêu nước, khiến cho có rất nhiều người
vô tội bị chết oan, trong đó có không ít người
đă thực sự “tử v́ đạo”. Mặc dầu
vậy cũng phải nói ngay rằng cái chết của
những con người ấy, một phần do lỗi
lầm cực đoan của nhà cầm quyền, nhưng một
phần có cội nguồn sâu xa của nó, đó là sự
giằng mắc giữa công việc truyền đạo và
theo đạo với sự xâm lược của chủ
nghĩa thực dân. Cho nên chúng tôi nghĩ rằng, chúng ta có
quyền phê phán đường lối cấm đạo
và sát đạo sai lầm của triều đ́nh nhà Nguyễn,
nhưng chúng ta lại không thể lên án quyết liệt động
cơ trong việc làm này của họ. Thử hỏi một
giai cấp cầm quyền nào lại không ra sức bảo
vệ quyền lực và thể chế của ḿnh, một
khi quyền lực và thể chế ấy không những bị
đe dọa bằng chiến tranh xâm lược mà c̣n bị
đe dọa bằng sự phá vỡ những nền
tảng đạo đức và chính trị của nó.
(Huỳnh Lứa,
Viện Khoa học xă hội, TP Hồ Chí Minh,
bài Do Đâu Mà Có
Việc Cấm Đạo Thiên Chúa Trong Các Thế Kỷ
XVII, XVIII và XIX, sách đang dẫn trang 176-178)
Về
chính sách cấm và giết đạo của nhà Nguyễn, có
thể coi đó là một phản ứng tự nhiên, một
sự bùng nổ về văn hóa, về nhân sinh quan, về
lối sống giữa truyền thống cũ vững
chắc ổn định trong nước với nền
văn hóa văn minh Kitô giáo của phương Tây xa
lạ, mới mẻ, du nhập vào. Đó là một
phản ứng tự nhiên. Trước sự kết hợp
của thực dân với việc truyền đạo, các
vua Nguyễn cũng đă chống trả lại nguy cơ
xâm lược với tư cách tự vệ dân tộc.
Sự phản ứng trở lại là một mặt không
tránh khỏi, mặt khác c̣n do phương pháp truyền đạo
của các giáo sĩ ngoại quốc với sự chi
phối của đầu óc tự tôn, muốn giáo hóa, đồng
hóa nhanh chóng những dân tộc xa xôi. Đó là một sự
đụng độ có ư thức, có mục đích của
cả hai phía. Trong sự đồng hành với chủ nghĩa
thực dân, ngoài ư muốn đồng hóa, những người
làm sứ mệnh truyền giáo c̣n dùng cả sự cám dỗ,
mua chuộc bằng lợi ích vật chất trần gian
nữa. Về mặt chính trị, đây là một quá tŕnh
“leo thang” mà khởi đầu không phải là chống đối,
thậm chí lại là hoan nghênh, hoặc là chỗ dựa
lẫn nhau của thế lực phong kiến nào đấy
chống lại các thế lực phong kiến khác. Nhưng
dần dần lộ ra những âm mưu hiểm họa của
nạn mất nước. Nguy cơ này càng được
tăng cường lên từng bước th́ chính sách
cấm và giết đạo cũng có sự leo thang ngày
càng quyết liệt. Chủ nghĩa thực dân tiến tới
lợi dụng chiêu bài tôn giáo để thu thập tin tức
t́nh báo, cố gắng khơi gợi các lực lượng
làm nội ứng. Trong một t́nh h́nh như vậy, việc
tự vệ, bảo đảm an ninh đất nước
là việc làm không tránh khỏi. Nhưng các vua Nguyễn, từng
áp bức bóc lột nhân dân đă trở thành đại biểu
một giai cấp thối nát, không thể và không biết đoàn
kết tập hợp dân tộc, đă dùng các biện pháp
thủ đoạn cấm và giết đạo. Thế là
rơi vào bẫy của chủ nghĩa thực dân Pháp và
phạm sai lầm tai hại. Không phải chúng ta bào
chữa cho triều Nguyễn và chế độ phong kiến
v́ chúng ta là những người cách mạng xă hội chủ
nghĩa, nhưng với lịch sử, chúng ta phải công
tâm, giải thích thỏa đáng các sự kiện… Phải
nói rằng giữa hai chính sách đó th́ chính sách thâm độc
của thực dân là nguyên nhân sâu xa và chủ yếu
nhất…
(Phát Biểu Kết Thúc Hội Nghị
Khoa Học của GS Phạm Như Cương,
Ủy viên dự
khuyết Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Cộng
Sản Việt Nam,
Chủ nhiệm Ủy
ban Khoa học Xă hội Việt Nam, cùng sách trang 272-273, 274).
Nhiều học giả phương
Tây cũng phải thừa nhận rằng, người Việt
Nam quả có một tinh thần khoan dung về tín ngưỡng,
nếu trong một lúc nào đó họ tỏ ra khắc nghiệt
với một thành phần tín hữu của một tôn giáo
nào đó – như trường hợp cấm và sát đạo
Thiên Chúa – th́ đúng như lời của linh mục kiêm
sử gia Louvet trong cuốn Đức cha Puginier: “Sự
bách hại người Công giáo mang tính chất một cuộc
trả thù của ḷng yêu nước chống lại việc
thiết lập chế độ bảo hộ, hơn là
sự kỳ thị tín ngưỡng”.
(Phó tiến sĩ
Đỗ Quang Hưng, Khoa Lịch sử Đại học
Tổng hợp Hà Nội,
bài Một Vài
Suy Nghĩ Về Thái Độ Truyền Thống Của Người
Công Giáo Việt Nam Lịch Sử Và Hiện Tại, sách đang
dẫn trang 236-237)
·
Lư do bắt đạo
của Văn Thân dưới Triều Nhà Nguyễn:
Tôi
muốn dành vài ḍng cuối cùng của bản báo cáo cho
vấn đề tư tưởng sát đạo của
các sĩ phu Văn Thân, mà hành động của họ bị
nhiều người Công gáo hôm nay cho là “có tội nặng
lạm quyền vua, tả đạo”, và hành động
sai lầm của họ cũng xếp ngang với Công giáo
chống Cộng sản và Vô thần… Thậm chí có người
c̣n cho Văn Thân là một cơn ác mộng với cộng đồng
Thiên chúa giáo Việt Nam.
Trước hết tôi
muốn lưu ư rằng không ít các nhà sử học nước
ngoài khi viết về lịch sử Việt Nam thời
kỳ này thường lầm lẫn khái niệm sĩ phu
hay Văn Thân (Lettré) với khái niệm quan lại
(mandarainx).
Không có ví dụ nào tiêu biểu
hơn trong chuyện này bằng Cuộc khởi nghĩa
Giáp Tuất 1874 của Trần Tấn, Đặng Như
Mai, Trần Quang Cán, Nguyễn Huy Điển ở Nghệ
An, Hà Tĩnh và Bắc Quảng B́nh. Tôi đă có một vài
lần trực tiếp đi điền dă, khảo sát cuộc
khởi nghĩa ấy, đă ghi lại biết bao lời
ca như c̣n thấm máu giáo dân các huyện Thanh Chương,
Nam Đàn, Nghi Lộc. Nhưng tôi lại có đủ
bằng chứng để khẳng định rằng,
Trần Tấn, Đặng Như Mai v́ quá căm thù
giặc Pháp vừa dày xéo thành Hà Nội trong cuộc đánh
chiếm lần thứ Nhất và sự phản bội của
triều đ́nh (đă không trợ giúp lực lượng
kháng chiến phát huy chiến thắng Cầu Giấy tiêu diệt
Fransis Garnier, lại hạ bút kư ḥa ước Giáp Tuấn
1874 công nhận về pháp lư chủ quyền của Pháp tại
Nam Kỳ), mà những kẻ thù ấy th́ ở xa, c̣n nhỡn
tiền, là sự dính líu, đồng lơa của Giám mục
Ngô Gia Hậu (Gauthier) cùng một số giáo dân xấu khác, đă
bị sức ép về tâm lư nên có phần lỡ đà khi
nêu lên khẩu hiệu B́nh Tây sát Tả. Tuy vậy, chính họ
cũng chỉ xem sát Tả như là một phương tiện
để kích động, tập hợp quần chúng mà thôi.
Xin hăy đọc kỹ lại Hịch của họ: “Triều
đ́nh dẫu ḥa với Tây mặc ḷng, sĩ phu nước
Nam vẫn không chịu, vậy trước hết xin giết
hết giáo dân rồi sau đánh đuổi Tây cho hết, để
giữ lấy cái văn hóa của ta đă hơn một
ngàn năm nay” (Trần Trọng
Kim, Việt sử lược, Tân Việt, tr. 521). Cũng không nên quên
rằng, mặt chủ yếu và là cái lớn, cái độc
đáo của các Văn Thân trong khởi nghĩa Giáp
Tuất 1874 là tư tưởng kháng Pháp phải đi đôi
với việc chống triều đ́nh đầu hàng:
Dập ŕnh trống đánh cờ
siêu
Phen này quyết đánh cả
Triều lẫn Tây…
(Vè Khởi nghĩa
Giáp Tuất, sưu tầm ở Nghệ Tĩnh)
C̣n
phải tính đến cả chính sách của Giám mục
Puginier Cần phải tiêu diệt bọn nho sĩ, như
chính ông ta thú nhận khi tṛ truyện với De Lanessan.
Vậy th́ làm sao có thể
mạt sát những sĩ phu Văn Thân là giận cá chém thớt
nhất là khi dân tộc ta đang khủng hoảng về
lực lượng lănh đạo trước và cả
trong phong trào Cần Vương (1885-1896)?
(Phó tiến sĩ
Đỗ Quang Hưng, Khoa Lịch sử Đại học
Tổng hợp Hà Nội,
bài Một Vài
Suy Nghĩ Về Thái Độ Truyền Thống Của Người
Công Giáo Việt Nam Lịch Sử Và Hiện Tại, sách đang
dẫn trang 237-238)
·
Lư do chung trong việc
bắt đạo tại Việt Nam là v́ đạo lư và
cách truyền đạo Thiên Chúa giáo:
Lại cũng phải kể
đến một nguyên nhân khác cũng mang tính lịch
sử và không kém phần quan trọng dẫn đến việc
cấm đạo ngày càng gay gắt của thời Nguyễn.
Đó là t́nh trạng tuyệt đối không có chút thích nghi
nào giữa đạo Thiên Chúa được truyền vào
Việt Nam với những truyền thống văn hóa của
dân tộc.
Nước Việt Nam vào lúc đạo
Thiên Chúa du nhập, chủ yếu từ đầu thế
kỷ XVII, đă là một quốc gia có một nền
văn hóa đă định h́nh nằm trong một hệ
văn hóa lớn và nổi tiếng của phương Đông:
Hệ văn hóa Nho giáo vào một nền tảng của
văn hóa bản địa. Do đó việc dung nạp một
tôn giáo thuộc một hệ văn hóa khác không thể là việc
quá dễ dàng. Phải thấy rằng việc truyền bá đạo
Thiên Chúa vào các quốc gia có một nền văn hóa định
h́nh và phát triển, không thể giống như ở các miền
mà nền văn hóa đang c̣n ở vào buổi ban sơ.
Song, các nhà lănh đạo tôn
giáo, đạo Thiên chúa ở phương Tây đă không coi
trọng thực tế lịch sử đó. Ở họ đă
h́nh thành một quan điểm truyền giáo không lịch
sử, thể hiện ở chỗ đề cao tuyệt đối
tôn giáo và văn hóa phương Tây, đánh giá thấp và
khinh miệt mọi nền văn hóa phương Đông,
tuyệt đối không dung nạp bất kỳ một
truyền thống địa phương nào, đă áp dụng
phương pháp áp đặt một tôn giáo mới nguyên
vẹn trên cơ sở tiêu diệt các tôn giáo khác, các truyền
thống địa phương và coi đó là hành động
truyền giáo nhân ái nhất. Quan điểm truyền giáo
ấy tất nhiên sẽ gặp phải sức đẩy
của các nền văn hóa đă phát triển thông quan chính
sách cấm đạo của các Nhà nước…
Chúng ta được biết,
trong kế hoạch đưa Việt Nam vào phạm vi
ảnh hưởng của Pháp, Pigneau de Béhaine rất tha thiết
sử dụng biện pháp tôn giáo, mà chủ yếu là
cải giáo cho vua chúa Việt Nam, trước mắt là cho
Nguyễn Ánh đă có khá nhiều cuộc luận bàn về
tôn giáo, trong đó Nguyễn Ánh thừa nhận đạo
Thiên Chúa là nhân ái, song lại luôn luôn phàn nàn là luật lệ
của đạo quá nghiêm ngặt, cứng rắn không phù
hợp với phong tục Việt Nam nên không thể theo được.
Nguyễn Ánh nói: “Đạo này rất hay nhưng quá nghiêm
ngặt ai mà theo nổi”… hay “Đạo Thiên Chúa rất hợp
với đạo lư nhưng quá nghiêm khắc với tục
đa thê. Đối với ta không thể chỉ lấy một
vợ mặc dù ta thấy rơ là trị cả nước c̣n
dễ dàng và ít mệt mỏi hơn là giữ cho gia đ́nh
ta được yên ấm”.
Ḷng tha thiết cải giáo cho
Nguyễn Ánh đă thúc đẩy Pigneau de Béhaine theo gương
các giáo sĩ Jésuites ở Trung Quốc tuyên bố cho phép giáo
dân Việt Nam được thờ cúng tổ tiên để
đổi lấy một sự tha cấm của Nhà nước
đối với đạo Thiên Chúa. Song, các vị lănh đạo
Thiên Chúa giáo ở phương Tây và cả Ṭa thánh La Mă đă
kiên quyết ngăn chặn, dọa sẽ thi hành án tuyệt
thông đối với Pigneau de Béhaine. Khả năng thi hành
những “Tolérances” (tha cẩm) ở Việt Nam có thể hiểu
là khả năng khơi ra một lối thoát cho sự
cấm đạo đă bị triệt tiêu.
Tóm lại, vào những
thập kỷ 40, 50, 60 của thế kỷ XIX, Nhà nước
phong kiến Nguyễn đă buộc phải đối phó
với một t́nh h́nh là có một bộ phận dân chúng,
khoảng 60 vạn người đă theo đạo Thiên chúa,
một tôn giáo có những yếu tố đạo lư
gần gũi với những đạo lư phổ biến,
song do ảnh hưởng của một phương thức
truyền giáo cứng rắn, sự thao túng của một
tổ chức truyền giáo nước ngoài có sự
gắn bó khắng khít với chủ nghĩa thực dân, không
những không hội nhập được vào dân tộc
mà ngày càng bị lôi cuốn vào một xu thế bất lợi
cho lợi ích của dân tộc.
(GS Nguyễn
Văn Kiệm, Đại học Sư phạm Hà Nội,
bài Nói Thêm Về
Những Nguyên Nhân Dẫn Tới
Sự Cấm Đạo
Của Nhà Nguyễn,
sách đang
dẫn, trang 24-25, 26-28)