Ánh Sáng đă Chiếu Soi

‘Mọi Người’ Các Đạo Giáo 

 

“S

o với Triết lư Hy Lạp bên Tây Phương (xuất hiện cùng thời với Tam Giáo trước Chúa Kitô Giáng Sinh), một khoa học t́m ṭi hoàn toàn thiên về lư trí và thuần siêu h́nh, th́ Tam Giáo Phật-Nho-Lăo đúng là đạo lư, là khát vọng t́m kiếm siêu độ (siêu thoát và cứu độ)”. (trang 97)

 

Đúng thế, dù triết lư và đạo lư đồng qui với nhau ở việc cùng truy nguyên Thực Tại Siêu Việt Tối Hậu, một thực tại được triết lư gọi là Nguyên Lư Đệ Nhất và được đạo lư gọi là Đấng Tối Cao, cả hai vẫn khác nhau về đường lối truy nguyên này, ở chỗ, trong khi triết lư dùng lư trí hướng ngoại th́ đạo lư theo cơi ḷng hướng nội để truy nguyên. Đây là một trong những ư nghĩa và là ư nghĩa trước nhất của thành ngữ “đạo tại tâm”. (Theo ư nghĩa tiên quyết và căn bản “đạo tại tâm” này th́ Khổng Giáo và Lăo Giáo cũng có thể được liệt kê vào số các Đạo).

Thật vậy, tất cả mọi Đạo Lư chân thực phát xuất bởi các Đạo Giáo từ trước đến nay đều là “đạo tại tâm”, tức đều là tất cả những ǵ tỏ ra ḷng con người hằng khao khát Chân-Thiện-Mỹ, hằng mong muốn được cứu độ và siêu thoát. Nếu niềm “khao khát” và ḷng “mong muốn” này nơi con người thực sự cho thấy tính chất “đạo tại tâm”, th́ “đạo tại tâm” không phải chỉ là việc giữ đạo theo h́nh thức bề ngoài để chu toàn những ǵ Đạo Giáo dạy tuân giữ, mà chính là ḷng đạo của con người, tức là mầm mống thần linh nơi ḷng người được nẩy mầm và phát triển qua đời sống đạo của con người, cho đến khi con người thành đạo, đắc đạo hay đạt đạo.

 

Chẳng hạn, đối với Khổng Giáo, để thành đạo làm người, đường lối sống đạo của Nho gia là “khử nhân dục, tồn Thiên lư” (trang 68), “công phu này Nho gia gọi là Chính tâm” (trang 77); đối với Lăo Giáo, để đắc đạo “là căn cốt muôn loài” (trang 90), đường lối sống đạo của Lăo đồ là “tâm tử thần hoạt” (trang 68), cho đến khi “đắc đạo là Hợp Thiên... Đắc Đạo là Đắc Thiên” (trang 91); đối với Phật Giáo, để đạt đạo là Chân Như hay Chân Tâm (trang 60,ø 61, 66), đường lối sống đạo của Phật tử chính là giác ngộ (trang  67) cho khỏi vọng tâm vọng ngă (trang 66) của ḿnh. Đạo Cao Đài ở Việt Nam chúng ta cũng chủ trương:

 

Đạo tại tâm hề, Phật tại tâm,

Vọng cầu bôn ngoại, thị hôn trầm,

Nhân nhân tự hữu Như Lai tánh,

Tánh đắc Như Lai, pháp diệu thâm.”

 

(Thánh Giáo sưu tập, Cao Đài, 1970-1971)

Đạo tại tâm hề, Phật tại tâm,

Lầm t́m ngoại cảnh, ấy mê lầm,

Người người vốn sẵn Như Lai tánh,

Đạt tánh Như Lai, đạo mới thâm.

 

(Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ tạm dịch)

 

V́ là “đạo tại tâm” (theo chiều hướng vừa được bàn giải trên đây), người ta mới thấy được ư nghĩa sâu xa của sự kiện “giao ước” làm nên Do Thái Giáo, một yếu tố độc nhất vô nhị, ngoại trừ Kitô Giáo, không hề có ở nơi một đạo giáo nào khác, kể cả hai tôn giáo độc thần thuộc thời AD chủ trương mạc khải và tiên tri như Do Thái Giáo và Kitô Giáo (xem trang 54) là Hồi Giáo Islam và Thọ Giáo Sikhism.

 

Nếu “giao ước” là việc nói lên hai tấm ḷng hứa hẹn với nhau về một điều ǵ đó, th́ quả thực ḷng Thiên Chúa hoàn toàn v́ yêu thương một cách nhưng không đă tuyển chọn trong loài người cho ḿnh một “dân riêng” (Jn 1:11) là dân Do Thái. Giao ước của Thiên Chúa với dân Do Thái được bắt đầu bằng việc Ngài kêu gọi tổ phụ của họ là Abraham (xem Gn 12:1-3), cũng như đă thiết lập giao ước với các vị tổ phụ của họ là Abraham (xem Gn 22:15-18), Isaac (xem Gn 26:1-5) và Giacóp (xem Gn 28:10-15, 46:1-4). Hơn thế nữa, Giao Ước Thần Linh này c̣n được kéo dài suốt gịng lịch sử dân tộc Do Thái, cho đến khi nó được trọn vẹn hoàn thành nơi gịng dơi của các vị (xem Acts 13:32-33) trong Tân Ước, một giao ước được kư kết bằng máu Con Thiên Chúa (xem Lk. 22:20).

 

Phần dân Do Thái, thành phần đă chấp nhận Giao Ước Thần Linh nơi cha ông của ḿnh, cũng phải tỏ ra xứng đáng với giao ước ấy nữa, bằng cách, như Moisen, nhà giải phóng dân tộc Do Thái cũng là nhà ban hành lề luật cho dân, đă nhận thức và kêu gọi:

 

·        Hỡi Yến-Duyên, hăy nghe đây, Chúa là Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất! Bởi thế, ngươi phải kính mến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta hết ḷng, hết linh hồn và hết sức ngươi” (Deut 6:4-5).

 

Tuy nhiên, cả tâm lư lẫn thực tế đều cho thấy, dù cố gắng “hết ḷng, hết linh hồn và hết sức ḿnh” đi nữa, con người tự ḿnh cũng không thể nào yêu mến Thiên Chúa như Ngài đáng và như được Ngài yêu. Bởi thế, bởi chính v́ t́nh yêu tự nhiên nơi con người không thể đáp lại T́nh Yêu Thần Linh mà, như Sách Thánh của họ ghi lại, lịch sử của họ đă trở thành một màn bi hùng kịch, liên lỉ diễn tiến với những việc họ bất trung song vẫn nỗ lực trở về cùng Thiên Chúa của ḿnh, đến nỗi, cuối cùng, trong cảnh lưu đầy cùng cực của họ ở Babylon, qua miệng tiên tri Êzêkiên, Thiên Chúa đă phải hứa ban cho họ một trái tim mới, trái tim có thể yêu mến Đấng đă tuyển chọn họ cũng là Đấng đă tự động thiết lập giao ước với họ:

 

·        Ta sẽ ban cho họ một con tim mới và đặt nơi họ một thần trí mới; Ta sẽ cất đi khỏi họ trái tim bằng đá và thay vào đấy một trái tim bằng thịt, để họ có thể sống theo các huấn thị của Ta và tuân giữ cùng thi hành các chỉ thị của Ta; nhờ đó, họ sẽ là dân của Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa của họ” (Ez 11:19-20)  

Chúa Kitô đến đă mạc khải cho riêng dân Do Thái (tiêu biểu qua Nicôđêmô), cũng như cho chung con người (tiêu biểu qua người phụ nữ ngoại lai Samaritanô), biết “con tim mới” và “thần trí mới” đây là ǵ.

 

Trước hết, về phần Nicôđêmô, một con người Do Thái chính cống, có chân trong Hội Đồng Do Thái và làm thày dạy dân chúng, nhưng vẫn phải đi t́m chân lư nơi vị “sư phụ” (Jn 3:2) “vào ban đêm” (Jn 3:1), Đấng đă tỏ cho ông thấy rằng:
 
·        Tôi bảo thật cho ông biết, không ai có thể vào được vương quốc của Thiên Chúa nếu không được sinh bởi nước và Thần Linh” (Jn 3:5)

 

Việc “tái sinh bởi nước và Thần Linh” đây đă được Chúa Kitô, sau khi sống lại từ trong cơi chết, làm sáng tỏ khi Người truyền dạy rằng con người cần phải tin tưởng vào tin mừng mới được cứu độ, tức là mới được sống bởi Thần Linh (xem Rm 8:4,13).
 
·        Các con hăy đi khắp thế gian loan truyền tin mừng cho mọi tạo vật. Ai tin vào tin mừng và lănh nhận phép rửa th́ được cứu độ” (Mk. 16:15-16)

 

Sau nữa, về phần người đàn bà ở Samaritanô, dù ngoại lai tội lỗi chị cũng đă tỏ ra khao khát thứ “nước hằng sống” (Jn 4:10),  như Chúa Giêsu gợi lên cho chị biết và là thứ nước Người sẽ ban cho những ai đến với Người, thứ nước mà chị dù chưa hoàn toàn ư thức được giá trị của nó song cũng xin Người: “Hăy cho tôi nước này để tôi không c̣n khát và khỏi cứ phải đến đây kín nước nữa” (Jn 4:15):

 

·        Ai uống nước Tôi ban sẽ không bao giờ c̣n khát; không, nước Tôi ban sẽ trở nên một mạch nước trong họ vọt lên phát sinh sự sống đời đời” (Jn 4:14)

 

Phúc Âm Thánh Gioan đă dẫn giải tác động con người “uống” đây là tác động con người “tin tưởng” nơi Người, và “nước” đây là “Thần Linh”:

 

·        Vào ngày cuối cùng và cũng là ngày trọng đại nhất trong cuộc lễ, Chúa Giêsu đứng lên mà kêu lớn rằng: ‘Ai khát th́ hăy đến với Tôi; ai tin tưởng vào Tôi th́ hăy uống. Sách Thánh nói: ‘Những con sông chảy nước sự sống từ họ tuôn ra’. (Ở đây Người có ư nói đến Thần Linh mà những ai tin tưởng vào Người được nhận lănh…)” (Jn 7:37-39)

 

Như thế, “đạo tại tâm” nơi Kitô Giáo đây chính là Đức Tin, một “đức tin vâng phục” (Rm 1:5, xem cả 16:26), một cuộc sống theo Thần Linh, để có thể trở thành “những kẻ tôn thờ đích thực th́ tôn thờ Cha trong Thần Linh và chân lư” (Jn 4:23).

 

Thật vậy, nếu không có đức tin sống theo Thần Linh, con người dù ngoan đạo, sùng đạo, có ḷng đạo đến đâu đi nữa cũng vẫn có thể bị lầm lạc, vẫn có thể tôn thờ ngẫu tượng mà không biết, nghĩa là con người “không sống đức tin không thể nào làm hài ḷng Thiên Chúa” (Heb 11:6).

Điển h́nh nhất là trường hợp của vị Tông Đồ Trưởng Phêrô, một con người rất nhiệt thành và tâm thành, trong việc ngài thật ḷng yêu mến Thày ḿnh, khi tỏ ra thân t́nh can ngăn việc Thày sẽ bị khổ nạn như lời Thày tuyên báo, đă bị chính Người thẳng mặt nguyền rủa:

 

·        Hỡi tên Satan, hăy xéo đi cho khuất mắt Ta! Ngươi chỉ làm cho Ta vấp phạm thôi. Ngươi chẳng biết phán đoán theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa ǵ cả mà chỉ theo kiểu cách của loài người thôi” (Mt 16:23)

 

Cho dù có bị Thày ḿnh quở trách thậm tệ như thế, nhưng ai dám bảo hành động của Tông Đồ Trưởng Phêrô ấy là một hành động bởi tư tâm hay vọng tâm mà ra. Nếu vị tông đồ này đă hoàn toàn tác hành theo lương tâm chứ không phải theo tư tâm của ḿnh th́ hành động của ngài phải là một hành động chính tâm (theo Khổng Giáo), và nếu ngài đă tác hành hoàn toàn v́ kính mến Thày ḿnh chứ không phải v́ vọng tâm th́ hành động của ngài cũng là một hành động chân tâm (theo Phật Giáo), nhất là nếu ngài dù bị Thày khiển trách nặng lời như vậy song cũng vẫn không tự ái bỏ Thày mà đi th́ hành động của ngài phải là một hành động “thần hoạt tâm tử” (theo Lăo Giáo).

 

Ấy thế mà, khi sự việc thực sự xẩy ra đúng như ngài được Thày tuyên báo cho biết về cuộc khổ nạn, tử giá và phúc sinh của Người, th́ một con người chính tâm, chân tâm tâm tử như Phêrô lại là người duy nhất trong nhóm phạm một lỗi lầm khủng khiếp nhất, đó là việc ngài đă phũ phàng và trắng trợn chối bỏ Thày ḿnh trước mặt nhóm người tiểu tốt của giáo quyền Do Thái (xem Mt 26:69-75; Mk 15:66-71; Lk 22:54-60). Tuy nhiên, ngài đă nhận ra lỗi lầm của ḿnh (xem Mt 26:76; Mk 15:72; Lk 22:61), hoàn toàn không nản chí hay hổ ngươi đến phải thắt cổ tử tự như Giuđa Ích-Ca (xem Mt 27:3-5), một người trong nhóm của ngài đă phản bội bán nộp Thày ḿnh (xem Mt 26:14-16, 26:47-50). Trái lại, ngài đă làm lại cuộc đời, bằng việc tuyên xưng ḷng yêu của ḿnh ba lần (xem Jn 21:15-18) đối với Vị Sư Phụ chí tôn chí ái đă bị ngài chối bỏ ba lần, để rồi, cuối cùng, lịch sử cho thấy, cuộc đời ngài quả thật đă xẩy ra đúng như lời Thày tiên báo:

 

·        Thày bảo thật cho con biết: khi c̣n trẻ, con tự ḿnh thắt lưng lấy và muốn đi đâu th́ tùy ư; nhưng khi già đời rồi, con sẽ phải giang tay ḿnh ra cho người khác trói lại và dẫn con đi trái ngược với ư của con” (Jn 21:18; xem Acts 4:1-3, 5:17-18).

 

Trường hợp điển h́nh của vị trưởng tông đồ Phêrô trên đây cho thấy, con người tự bản chất dù tốt lành, “nhân chi sơ tính bản thiện” (trang 82), cũng vẫn cần phải có chính tâm, chân tâmtâm tử, nhờ đó có thể hoàn toàn giác ngộ để nhận ra chân lư và làm chứng cho chân lư.

 

Chân lư mà vị tông đồ Phêrô này nhận ra và làm chứng đây không phải là những ǵ do ngài tưởng nghĩ (nên đă bị Thày quở trách nặng lời), mà chính là những ǵ bị ngài chối bỏ (nên ngài đă ăn năn thống hối, tức đă trở về với chân lư).

Chân Lư ấy không c̣n là một Thực Tại Thần Linh Tối Thượng bắt con người phải tốn công t́m kiếm với những suy luận trừu tượng và bằng những quan niệm xác tín khác nhau nữa, trái lại, Chân Lư này “đă trở nên hữu h́nh cho chúng ta” (1Jn 1:2), trở nên một con người lịch sử mang danh Giêsu, Đấng mà tông đồ Phêrô đă nhận biết và tuyên xưng rằng: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16), Đấng cũng đă tự xưng với nhóm tông đồ của ḿnh rằng: “Thày là đường, là sự thật và là sự sống” (Jn 14:6).

 

Chúa Kitô “là sự thật”, chẳng những ở chính bản thân Người, mà c̣n ở tất cả những ǵ Người nói và làm nữa. Bởi thế, Người đă khẳng định với quan tổng trấn Philatô rằng:

 

·        Lư do Tôi được sinh ra, lư do Tôi đến thế gian là để làm chứng cho chân lư. Ai t́m kiếm chân lư th́ sẽ nghe thấy tiếng của Tôi” (Jn 18:37).

 

V́ chính ḿnh “là chân lư”, do đó, “chân lư” Chúa Kitô “đến để làm chứng” hay minh chứng đây không là ǵ khác ngoài bản thân Người, nghĩa là Chúa Kitô đến để tỏ ḿnh ra cho “dân riêng Người” (Jn1:11) cũng như cho chung con người biết Người là ai (xem Jn 8:24, 27) và từ đâu đến (xem Jn 8:14, 21), nhờ đó, họ có thể chấp nhận Phúc Âm của Người mà được cứu rỗi (xem Mk 16:16), được sống đời đời (xem Jn 3:16), “được Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa” (Jn 1:12).