“Con
Người Chuộng
Tối Tăm Hơn Ánh Sáng”
H |
ội Nghị Dân Số Cairô diễn ra trên b́nh diện
quốc tế năm 1994 là một trường hợp điển
h́nh cho thấy ư hệ và xu hướng duy nhân bản
của con người văn minh càng ngày càng lên đến
tuyệt đỉnh nơi lịch sử hiện đại
ngày nay. Ư hệ và khuynh hướng càng ngày càng duy nhân
bản, hay nói cách khác, ư hệ và khuynh hướng duy nhân
bản càng ngày càng hiện nguyên h́nh dạng của ḿnh
hơn, như thế cũng không có ǵ lạ và là một điều
tự nhiên không thể nào không xẩy ra, một khi con người
mỗi ngày một văn minh hơn, một thứ Văn
Minh Bê Bối hay Be Bét (chữ bê bối hay be bét
dịch theo âm của tên tháp babel, dù không thuận thanh
cho lắm song cũng nói lên được tinh thần và
hậu quả của việc xây tháp ấy), như thực tế cho thấy, đưa
con người đến chia rẽ và đổ nát (xem Gen 11:1-9), chứ không phải một
thứ “văn minh yêu thương” (thành ngữ này
bắt nguồn từ Đức Thánh Cha Phaolô VI, như
thành ngữ “văn hóa tử vong” bắt nguồn từ Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II)
cảm thông hiệp nhất của biến cố Thánh
Thần Hiện Xuống (Acts 2:1-12).
Thật
vậy, là người, theo tự nhiên, ai cũng muốn
sống, và đă sống th́ phải sống một sự
sống trọn vẹn, một sự sống dồi dào. Đó
là một thực tại, một thực tại hết sức
hiển nhiên.
Không
phải hay sao, cũng là một loài sinh vật như loài
người, tức là, về hữu thể, cũng có vóc
dáng (tuy khác h́nh thù) và khả năng sinh động (tuy khác
cấp độ) như con người, song loài vật
chỉ sống và vĩnh viễn sống ở mức độ
bản năng, trước sau như một, chứ không
tiến hóa như loài người. Đúng thế, văn
minh của con người chính là dấu chứng tỏ
tường nhất và là biểu hiệu hùng hồn
nhất cho thấy sự sống của con người là
loài "linh ư vạn vật" đă, đang và sẽ
càng ngày càng trọn vẹn hơn, càng dồi dào hơn.
Ở chỗ người ta không chỉ sống để
ăn mà ăn để sống, và không phải chỉ
sống cho ḿnh mà c̣n sống với nhau cũng như cho
nhau trong mối liên đới gia đ́nh và xă hội
nữa. Và điều chứng tỏ con người đă
và đang thực sự đạt đến tầm vóc
trưởng thành và trọn vẹn nhất của ḿnh là
ở chỗ, họ chẳng những đă ư thức được
quyền làm người bất khả vi phạm của
họ, mà c̣n tranh đấu để đ̣i hỏi
quyền làm người theo bản tính của ḿnh, nhất
là dấn thân trong việc bảo vệ quyền làm
người của nhau bị vi phạm nữa.
Tuy
nhiên, thực tế hết sức phũ phàng cũng cho
thấy, chính khi con người đạt tới tầm mức
trưởng thành của ḿnh, ở chỗ nhận biết
và đ̣i hưởng quyền làm người xứng đáng
với thân phận của ḿnh như thế, họ lại
bị khủng hoảng hơn bao giờ hết. Nh́n vào
thế giới văn minh hầu như tuyệt đỉnh
ngày nay, (so
với thời "xưa", 10 năm trước đây,
thời mới từ đầu thập niên 1990, nhất
là thời 40 năm trước đây, từ thập niên
1960, đặc biệt là thời hơn 50 năm
trước đây, từ sau Thế Chiến Thứ
Nhất vào cuối thập niên 1940, chứ chưa nói ǵ đến
từ thời Cách Mạng Âu Châu vào thế kỷ 18 và 19), người ta thấy
hiện lên một cách hết sức rơ ràng h́nh ảnh
của một thế giới, trong đó, có một số
rất đông (các nước đang tiến) đang
hồ hởi tiến lên chóp đỉnh, cũng như
một số không ít (các nước tân tiến Âu Châu và
Bắc Mỹ) đă lên tới và đang reo ḥ ở trên
một chóp đỉnh... Thế nhưng, cũng từ
chính chóp đỉnh nhân quyền ấy, người ta đồng
thời cũng thấy cơ cấu lập pháp, hành pháp và
tư pháp của họ chẳng những reo ḥ mừng
rỡ mà c̣n la lối nhau, quát tháo nhau, v́ những va chạm
quyền làm người, khiến cho những con
người được “may phước” sống
trong xă hội “đi giầy tây” văn minh song
lại là một xă hội đang “đóng khố”
về luân lư ấy quay ra giành giật nhau, xô lấn nhau, “ly
dị” nhau, đến nỗi t́nh trạng “mạnh được
yếu thua” (người
khỏe được ‘quyền’ giết người
bệnh), “cá
lớn nuốt cá bé” (thai mẫu được
‘quyền’ giết thai nhi),
“cá mè một lứa” (đồng tính được
‘quyền’ luyến ái và lập gia đ́nh với nhau), của một thứ “luật
rừng” c̣n tệ hơn cả thời con người
tiền sử “ăn lông ở lỗ” ngày xưa, đă
và đang hết sức phũ phàng và trắng trợn
diễn tiến trên tháp đỉnh của lịch sử
văn minh loài người ngày nay.
“’Lạy Chúa, xin sai Thánh
Thần Chúa đến và xin canh tân bộ mặt trái đất’. Câu đáp ca của ngày
lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống này có một ư
nghĩa rất sâu xa, không phải v́ lời khẩn
nguyện này chứa đựng một niềm xác tín là
chỉ có Thánh Thần Chúa mới là nguyên lư tối cao và là
tác nhân chủ động trong việc ‘canh tân bộ
mặt trái đất’ nhờ việc Giáo Hội truyền
bá phúc âm hóa, mà c̣n v́ câu này nói lên một ư nghĩa sâu xa
huyền diệu của đối tượng cần
phải được Thánh Thần Chúa ‘canh tân’, đó là
‘bộ mặt trái đất’ nữa.
“Phải chăng ‘Bộ
mặt trái đất’ là chính văn hóa con người?
“Đúng thế. Nếu ‘từ
khởi nguyên Thiên Chúa bắt đầu dựng nên trời
đất’ (Gen.1:1) th́ có thể hiểu là từ
ban đầu ‘Thiên Chúa là Cha toàn năng’ đă dựng nên
‘muôn vật hữu h́nh và vô h́nh’, như tín điều đầu
tiên của Kinh Tin Kính được Kitô hữu chúng ta
vẫn tuyên xưng từ trước đến nay.
Nếu ‘trời’ là biểu hiệu cho ‘vật vô h́nh’ th́ ‘đất’
là biểu hiệu cho ‘vật hữu h́nh’.
“Tuy nhiên, trong ‘muôn vật
hữu h́nh’ được dựng nên này, chỉ có tạo
vật ‘được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa
và tương tự như Thiên Chúa’ (Gen.1:27) mới thật sự là và xứng
đáng là ‘bộ mặt trái đất’ mà thôi. Con
người là ‘bộ mặt trái đất’, tức là đại
diện, là thay mặt cho ‘muôn vật hữu h́nh’
trước nhan Thiên Chúa, Đấng đă đặt
họ ‘làm chủ trái đất’ (Gen.1:28). Bởi v́, theo phẩm vị và bản
tính bẩm sinh của ḿnh, họ được Đấng
Tạo Hóa ban cho khả năng và quyền năng ‘nhân linh
ư vạn vật’: khả năng ‘nhân linh ư vạn
vật’ của con người là luận biết và
quyền năng ‘nhân linh ư vạn vật’ của con
người là tự do.
“Thực tế cho thấy,
chính nhờ khả năng và quyền năng ‘nhân linh ư
vạn vật’ này, con người đă thực sự là
một tác nhân làm thay đổi hoàn toàn ‘bộ mặt trái đất’,
bằng đời sống càng ngày càng văn minh
của ḿnh, với những phát minh mỗi ngày một tân
tiến khôn lường và tiện nghi hết sức, làm
nên biết bao nhiêu là kỳ công nhân tạo, đến
nỗi, chính lịch sử cũng không ghi nhận kịp
và tiên đoán nổi mức độ văn minh đang gia
tốc phát triển này sẽ đi về đâu, thậm
chí, đa số con người ngày nay cũng không thể
nào ngờ được, không thể nào hưởng
hết, không thể nào biết hết, không thể nào
sử dụng thông thạo như một chuyên viên nếu
không được huấn luyện đặc biệt
v.v.
“’Bộ mặt trái đất’
chẳng những được văn minh loài
người trang điểm diễm tuyệt đến
chói ngời bề ngoài như thế, nó c̣n được
con người ‘linh ư vạn vật’ biến đổi
sâu xa bằng chính văn hóa của họ nữa, để
‘bộ mặt trái đất’ cũng được vinh
dự mang bộ mặt nhân bản, không phải
như một chiếc mặt nạ giả tạo
tạm bợ, mà là một bộ mặt nhập thể,
tương tự như trường hợp con
người tạo vật trần gian được
thực sự mang dung nhan của Thiên Chúa nơi
‘Lời đă hóa thành nhục thể’ (Jn.1:14).
“Thật ra, văn minh cũng
là một h́nh thức văn hóa của con người, song
nó không phải là chính văn hóa và là tất cả văn
hóa, v́ văn hóa là tất cả những ǵ con người
sống động theo quan niệm làm người của
ḿnh ở một thời điểm và địa điểm
nào đó; nó bao gồm cũng như được
diễn tả hay biểu lộ ở nhiều và qua
nhiều phương diện khác nhau, như phương
diện xă hội (nhân sinh và tập tục), chính trị
(thể chế và luật lệ), văn học (văn
chương và khoa học), nghệ thuật (cảm
nhận và biểu hiện), kỹ thuật (phát minh và
tiện nghi), gia đ́nh (yêu thương và sự sống),
giáo dục (phẩm giá và nhân cách), kinh tế (lao động
và sản xuất), truyền thông (liên lạc và giao
tiếp). “Đúng thế, tuy không phải là yếu tố
‘là người’ của con người, như bản tính
tự nhiên tạo nên hữu thể con người, văn
hóa cũng là bộ mặt của con người ‘linh ư
vạn vật’, tức là tất cả những ǵ ‘làm
người’ của con người. Lịch sử cho
thấy, chỉ con người mới có tiến bộ,
mới tiến từ chỗ lạc hậu đến
chỗ văn minh, từ chỗ ăn lông ở lỗ đến
chỗ ăn sang mặc đẹp, từ chỗ sống
theo luật rừng mạnh được yếu thua đến
chỗ công bằng bác ái vị tha, từ chỗ mê tín
dị đoan đến chỗ khoa học thực
nghiệm, từ chỗ đa thê lắm thiếp đến
chỗ một vợ một chồng, từ chỗ quân
chủ chuyên chế đến chỗ dân chủ cộng
ḥa, từ chỗ cha mẹ đặt đâu con ngồi đó
đến chỗ chọn mặt gửi vàng, từ
chỗ trọng nam khinh nữ đến chỗ nam nữ
b́nh quyền, từ chỗ cầy sâu cuốc bẫm đến
chỗ máy móc gia tăng năng xuất, từ chỗ làng
mạc quê mùa mộc mạc đến chỗ thành thị
phồn hoa đô hội, từ chỗ năm châu bốn
bể xa cách đến chỗ gần gũi nhau hơn
như cùng nhau sống trong một khu làng hoàn vũ (global
village) v.v.
“Thế nhưng, tất
cả những tiến bộ về mọi mặt
của con người đó, từ thời tiền sử
và thượng cổ đến thời khoa học kỹ
thuật tối tân tiến trước ngưỡng
cửa của ngàn năm thứ hai Kitô giáo hiện nay, con
người đă thực sự tỏ ra ḿnh càng ‘làm
người’, đúng như bản chất của văn
hóa đích thực, hay chưa?
“Xét về mặt nổi,
việc tiến bộ của con người trong việc
càng ngày càng ‘làm người’ hơn có thể bắt đầu
từ cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ
16, với phong trào thám hiểm thế giới, một phong
trào chẳng những đă giúp con người khám phá ra toàn
diện ‘bộ mặt trái đất’ của ḿnh ở
khắp nơi trên thế giới, mà c̣n đem văn minh Âu
Châu, trong đó có cả văn hóa Kitô giáo, đi trang điểm
‘bộ mặt trái đất’. Việc tiến bộ trong
việc ‘làm người’ của con người kể từ
phong trào thám hiểm thế giới này có thể được
tóm trong chữ ‘quyền’ và được diễn
tả bằng bộ ba danh từ kép: quyền lực hay
quyền năng (power), quyền hành hay quyền bính
(authority) và quyền lợi hay quyền hạn (right).
“Quyền lực hay quyền
năng là tất
cả những ǵ con người có thể thực hiện
theo khả năng sinh hoạt tự nhiên của ḿnh, đặc
biệt về cả phương diện khoa học
lẫn kỹ thuật: về khoa học, được
mở màn từ năm 1512 khi Copernicus công bố thực
tại trái đất và các hành tinh quay chung quanh mặt
trời, và về kỹ thuật, được bắt đầu
từ năm 1698 khi Thomas Suvery sản xuất máy chạy
bằng hơi nước.
“Quyền hành hay quyền
bính là tất cả những ǵ con người có thể
hành sự trong trách nhiệm lănh đạo của ḿnh, đặc
biệt về phương diện chính trị, được
mở màn với chế độ dân chủ bằng
cuộc cách mạng Pháp 1789, và với chế độ xă
hội chủ nghĩa bằng cuộc cách mạng Nga
năm 1917.
“Quyền lợi hay
quyền hạn là tất cả những ǵ con
người có thể thừa hưởng theo bản tính
bẩm sinh là người của ḿnh, đặc biệt
về phương diện xă hội, được đánh
dấu bằng cuộc đấu tranh nhân quyền đầu
tiên ở Hoa Kỳ chống lại chế độ
thuộc địa để giành độc lập vào
năm 1776, nhất là đă đạt đến tột đỉnh
của nó nơi bản Hiến Chương Nhân Quyền
của Liên Hiệp Quốc sau Thế Chiến Thứ Hai,
vào cuối năm 1948.
“Thế nhưng, thực
tế cho thấy, càng tân tiến con người càng đi đến
chỗ bị khủng hoảng về quyền lực,
quyền hành và quyền hạn của ḿnh, qua thái độ
con người tỏ ra tự phụ, tự măn và tự
nhiên thái quá.
“Trước hết, con
người tân tiến bị khủng hoảng ở
chỗ tỏ ra tự phụ về quyền lực
nơi các khám phá khoa học và phát minh kỹ thuật
của ḿnh, khi gạt Đấng Tạo Hóa ra ngoài bằng
chủ nghĩa duy lư (rationalism/idealism) hay duy vật
(materialism/communism).
“Sau nữa, con người
tân tiến bị khủng hoảng ở chỗ tỏ ra tự
măn khi lấy quyền hành chính trị để giải
quyết mọi sự như ư riêng của ḿnh theo trào
lưu tục hóa (secularism) và thực dụng (consequentialism),
bằng cách ban bố các khoản luật phi nhân bản
phản luân thường đạo lư làm người.
“Sau hết, con người
tân tiến bị khủng hoảng ở chỗ tỏ ra
chỉ biết sống tự nhiên theo khuynh hướng
hưởng thụ (consumerism) và buông thả (nihilism), bất
xứng với phẩm vị làm người.
“Như thế, thực
tế hiện lên cho thấy hết sức rơ ràng ‘bộ
mặt trái đất’ ở vào thời điểm Mùa Đông
Lịch Sử ngay trước ngưỡng cửa của
ngàn năm thứ ba Kitô giáo này đă hoàn toàn bị méo dạng,
đă thực sự bị biến dạng, thậm
chí đă trở thành quái dạng nữa là đàng khác.
“’Bộ mặt trái đất’
hiện nay không méo dạng là ǵ, với chủ
thuyết duy nhân bản (secular humanism), một chủ
trương tôn sùng con người hơn cả Đấng
đă dựng nên con người? ‘Bộ mặt trái đất’
hiện nay cũng không biến dạng là ǵ, với
khuynh hướng luân lư tương đối (moral/ethical
relativism), một khuynh hướng biến dữ thành
quyền lợi theo chủ quan phi chân lư của ḿnh??
‘Bộ mặt trái đất’ hiện nay thậm chí c̣n
trở thành quái dạng nữa, với những
luật lệ chẳng những phi nhân bản mà c̣n
phản luân thường đạo lư làm người,
như luật cho phép phá thai, hợp thức hôn nhân đồng
tính luyến ái v.v.???
“Để có thể nh́n
thẳng và nh́n kỹ ‘bộ mặt trái đất’ đă
bị méo dạng, biến dạng và quái dạng này,
chúng ta hăy lắng nghe Vị Chủ Chiên Tối Cao của
Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ đă chia sẻ nhận định
của một người nh́n từ trên cao xuống
như ngài, (tất
nhiên sẽ là cái nh́n tổng quát, rơ hơn và chính xác hơn
những nhận định của người ở
dưới và ở trong cuộc là cái nh́n dễ bị chi
phối lệch lạc của con người chúng ta). Cái nh́n của ngài cho chúng ta
thấy căn nguyên sâu xa của một thứ văn hóa
ngài đă đặt tên cho nó là ‘văn hóa tử vong’...
“Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II, vào ngày 27-6-1998, đă chia sẻ với các vị giám
mục Hoa Kỳ sang Rôma đợt 9 dịp ad limina
của các ngài, như sau:
·
Chúng ta phải
nhận diện cuộc khủng hoảng văn hóa về
luân lư này như thế nào đây? Chúng ta có thể thoáng nh́n
thấy giai đoạn đầu tiên của nó theo
những ǵ Đức Hồng Y Gioan Henry Newman viết qua bức
Thư gửi cho Duke Norfolk: ‘Trong thế kỷ này,
(lương tâm) đă bị thay thế bởi cái giả
tạo, cái giả tạo chưa hề có ở 18 thế
kỷ trước đó và nếu có chăng nữa
cũng không thể nào lẫn lộn với nó. Đó
là quyền tự ư (self-will). Những ǵ xẩy ra đúng
ở thế kỷ 19 của đức hồng y Newman th́
càng đúng hơn ở lúc này đây. Những quyền
lực mạnh mẽ về luân lư nhấn mạnh rằng,
các thứ quyền của lương tâm bị vi phạm
bởi chính ư tưởng là có một thứ luật luân lư
được ghi khắc nơi nhân tính của chúng ta,
một thứ luật luân lư mà chúng ta có thể biết được
bằng việc phản tỉnh về bản tính của
ḿnh cũng như về các việc làm của ḿnh, và là
một thứ luật áp đặt một số trách
nhiệm trên chúng ta, v́ chúng ta công nhận chúng có tính cách
thắt buộc và chân thực phổ quát. Điều này
thường được nói là một việc hủy
hoại tự do. Thế nhưng ư niệm về ‘tự
do’ thực sự ở đây là ǵ? Phải chăng tự
do chỉ là việc làm theo ư ḿnh – ‘tôi phải được
phép làm điều này v́ tôi muốn làm như vậy’? Hay
phải chăng tự do là quyền làm những ǵ tôi
phải làm, phải tự nguyện liên kết với điều
tốt lành và chân thực (xem Bài Giảng
tại Baltimore ngày 8-12-1995)?
Quan
niệm về tự do như là vấn đề tự
quyết theo cá nhân hấp dẫn con người; được
mớm cho bởi giới trí thức, bởi phương
tiện truyền thông, bởi ngành lập pháp và tư pháp,
quan niệm tự do này trở nên một lực lượng
văn hóa mănh liệt. Tuy nhiên, cuối cùng nó hủy
diệt sự thiện riêng tư của cá nhân cũng
như hủy diệt công ích của xă hội.
Tự-do-là-tự-quyết, bởi việc nhấn mạnh
một chiều đến ư muốn tự quyết
của cá nhân như là nguyên lư cấu tạo duy nhất
của đời sống công cộng, làm phân ly các mối
giây ràng buộc giữa nam và nữ, giữa cha mẹ và con
cái, giữa người mạnh và kẻ yếu, giữa đa
số và thiểu số. Kết qủa gây ra là việc đổ
vỡ nơi xă hội dân sự, và là một cuộc
sống công cộng chỉ có các diễn viên c̣n lại đó
là việc tự quyết của cá nhân và chính quyền.
Như thế kỷ 20 đă dạy cho chúng ta thấy, đóù
là một liều thuốc mạnh cho bạo quyền
bạo lực.
Cuộc khủng hoảng
hiện nay về văn hóa luân lư, ở tận gốc
rễ của ḿnh, là một cuộc khủng hoảng
về hiểu biết bản tính của con người…
(tuần san
L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 1-7-1998, trang 3, đoạn
2 và 3)
(Đaminh Maria Cao
Tấn Tĩnh, BVL, Giáo Lư Cẩm Nang,
Cao-Bùi, 1999, trang
211-215;
Bộ Mặt Trái
Đất, Dân
Chúa Âu Châu 7-8/1999 và Dân Chúa Mỹ Châu 8/1999)
Chiều hướng “con
người chuộng tối tăm hơn ánh sáng” (Jn 3:19), có thể nói đă hiện
diện nơi con người ngay trước cả nguyên
tội, cho đến nay, càng văn minh chiều
hướng này mới càng có môi trường thuận lợi
để hiện nguyên h́nh dạng “vô thần” của ḿnh
thôi, đúng hơn, hiện nguyên h́nh tượng của
một thứ “duy nhân vô thần”, phản ảnh mộng
ước ban đầu của nữ nguyên tổ loài
người (xem
Gen 3:1-6). Hiện
tượng “duy nhân vô thần” này đă được
Christopher Dawson, một sử gia Công giáo Anh quốc nói đến
từ năm 1938: “Một xă hội mất đạo
nghĩa không sớm th́ muộn cũng sẽ thành một xă
hội mất văn hóa”. Sau đây là những nhận định
của ông từ năm 1932 (được tờ Nguyệt San
Công Giáo nổi tiếng nhất thế giới là Inside
The Vatican 12/1999, trang 53-55
trích
lại).
·
“Đa số con
người, bất kể theo chủ trương chính
trị nào, đều sẵn ḷng chấp nhận khoa
học, chế độ dân chủ và chủ nghĩa nhân
bản như là những yếu tố nơi nền
văn minh tân tiến, thế nhưng họ lại khó ḷng
chấp nhận tầm quan trọng của đạo giáo
nói chung và Kitô giáo nói riêng. Họ cho Kitô giáo ra ŕa cuộc
sống tân tiến và là những ǵ không nhất trí với
kiến thức tân kỳ. Theo họ, cuộc sống tân
tiến đối diện với sự kiện, trong khi đó
Kitô giáo bàn về những tín điều thiếu minh chứng
và bất khả thấu. Con người có thể trục
lợi nơi các niềm tin tưởng về đạo
nghĩa, bao lâu họ coi chúng như là một thứ xa
xỉ phẩm riêng tư của ḿnh; thế nhưng
những niềm tin tưởng này không có trách nhiệm ǵ
với đời sống xă hội cả, và xă hội dù
không có chúng cũng vẫn có thể sinh hoạt một cách
rất ngon lành. Chưa hết, ngoài xu hướng mập
mờ đối với đạo nghĩa được
coi như một vấn đề ngoài lề như
thế, c̣n có một cơ cấu tư tưởng
mạnh mẽ chủ động tỏ ra hận thù Kitô
giáo và coi việc hủy diệt tôn giáo là việc tuyệt đối
cần phải làm cho lợi ích của việc tiến
triển nền văn hóa tân tiến. Điển h́nh
nhất của thái độ này là ở Nga Sô, nơi mà
lần đầu tiên trong lịch sử loài người,
chúng ta chứng kiến thấy được cả
một chính quyền to lớn, hay là cả một đế
quốc hoàn vũ, chính thức chối bỏ bất cứ
một chi tiết nào về đạo giáo, thay vào đó
lại chấp nhận một chính sách về xă hội
cũng như giáo dục theo chiều hướng vô
thần ác nghiệt.
“Thế nhưng, khuynh
hướng ấy không phải chỉ hạn hẹp
ở Nga hay nơi những người theo cộng
sản. Cả ở Âu Châu và Mỹ Châu cũng có những
trào lưu phản đạo, trong đó có cả nhiều
cây viết tân thời chuyên nghiệp nhất của chúng ta
cùng với một ít con người thuộc ngành khoa
học. Trào lưu này chẳng những t́m cách tiêu diệt đạo
giáo mà c̣n t́m cách cách mạng cả luân thường và
hạ giá các lư tưởng đạo lư đă từng chi
phối xă hội Tây phương cho tới nay.
“Theo tôi th́ đây là một
trong những đặc tính nổi bật nhất của
t́nh trạng hiện nay. Nếu Âu châu loại trừ Kitô
giáo th́ nó cũng phải loại trừ cả bộ
luật luân lư của ḿnh nữa. Ngược lại, khuynh
hướng tân tiến muốn loại trừ tính chất
luân lư truyền thống sẽ càng tăng sức cho
cuộc nổi loạn về tri thức phản chống
lại với niềm tin về đạo nghĩa.
“Thoạt thấy th́
dường như những tác lực làm đổi thay
trong thế giới tân tiến này thực sự tỏ ra
thù ghét đạo giáo, và chúng ta đang tiến nhanh đến
một t́nh trạng văn minh hoàn toàn bị tục hóa.
Thế nhưng không dễ ǵ loại trừ được
đạo nghĩa như chúng ta tưởng đâu. Cá nhân
có thể dễ dàng chiều theo thái độ tiêu cực
của chủ nghĩa lập luận hoài nghi. Song nếu toàn
khối xă hội loại trừ đi tất cả các
niềm tin tốt lành, nó sẽ không thể nào chống
cự lại được những hậu quả tan nát
của vị kỷ và tư ích. Hết mọi xă hội đều
cậy nhờ vào phương tiện cứu giúp cuối
cùng là việc nhận thức được những
nguyên tắc chung cũng như những lư tưởng
chung, và nếu nó không kêu gọi ḷng trung thành nơi các
phần tử của ḿnh về vấn đề luân lư
cũng như tâm linh th́ nó chắc chắn không thể nào
không tan tành sụp đổ.
“Trong quá khứ, xă hội đă
có được một nguyên tắc liên kết trong các
niềm tin về đạo giáo, đạo giáo thực
sự là tâm điểm sống c̣n của cả cơ
cấu xă hội. Nếu một quốc gia chưa có
căn bản chung về đạo giáo th́ nó nỗ lực
tạo nên một cách nhân tạo, như việc chính thức
tôn thờ Cê-Sa đă trở thành một quốc giáo của
Đế quốc Rôma vậy. Bởi thế, ngày nay,
nếu quốc gia không c̣n thể nào nại đến các
nguyên tắc luân lư cổ xưa là những ǵ thuộc
về truyền thông Kitô giáo, th́ nó buộc phải tạo
nên một niềm tin chính thức mới cũng như các
nguyên tắc luân lư mới là những ǵ ràng buộc thành
phần công dân của ḿnh.
“Việc cộng sản
loại trừ tôn giáo và luân lư Kitô giáo đă không dẫn đến
việc bỏ bê kiểm soát xă hội cũng như
dẫn đến việc mặc cho tự do buông thả
về ư nghĩ liên quan đến các vấn đề tin
tưởng. Trái lại, nó đă gắn liền với
t́nh trạng tăng cường việc kiểm soát
của xă hội đối với các niềm tin
tưởng và cuộc sống tâm linh của mỗi
người công dân. Thật vậy, điều những
người Cộng sản đă thực hiện không
phải là loại trừ tôn giáo mà chỉ là thay thế
niềm tin chính thức cổ truyền bằng đạo
giáo Cộng sản mới mẻ và ngặt nghèo hơn. Đảng
Cộng Sản là một môn phái đạo giáo hiện
hữu để truyền bá đức tin chân thật. Đảng
này có Ṭa Tra Vấn để theo dơi và trừng trị
lạc giáo. Nó sử dụng vũ khí ra vạ tuyệt
thông đối với những phần tử bội giáo
hay bất chính giáo. Nó lấy các bản viết của Mác
làm thánh kính vô ngộ của ḿnh, và nó tôn kính Lêninh nếu
không phải là một vị Thiên Chúa th́ cũng là một
vị cứu thế và là một vị tiên tri…
“Lúc mà xă hội đ̣i
buộc các phần tử của ḿnh phải hoàn toàn trung
thành với ḿnh là lúc nó mặc lấy một quyền bính
mang tính cách tôn giáo. V́ con người chính yếu là loài tâm
linh nên bất cứ một quyền lực nào đ̣i
kiểm soát toàn thể con người đều buộc
phải biến đổi những mục tiêu tương
đối và riêng biệt để tiến đến lănh
vực của những giá trị tuyệt đối
thuộc lănh giới tôn giáo. Ngược lại, nếu
chính quyền đồng ư giới hạn các mục tiêu
của ḿnh ở lănh vực chính trị, th́ chắc
chắn nó đă công nhận lư tưởng của nó
chỉ là một lư tưởng tương đối và nó
phải chấp nhận tính cách tối thượng
của các lư tưởng linh thiêng vượt ra ngoài
tầm tay của nó.
“Đây là một giải pháp đă
được xă hội Tây phương chọn lựa cho
đến nay, song là một giải pháp chất chứa
việc hiện hữu của một quyền linh độc
lập, dù quyền linh này là một niềm tin về đạo
giáo hay là một lư tưởng luân lư chung. Nếu vắng
bóng những điều này th́ chính phủ chắc chắn
sẽ nắm quyền hành tuyệt đối hầu
như thuộc về lănh vực tôn giáo vậy, mặc dù
không nhất thiết phải cùng một đường
lối như chính quyền Cộng sản đă thực
hiện. Chúng ta có thể dễ nhận thấy một
kiểu cách tục hóa khác hợp với các nhu cầu
của xă hội tư bản: thật vậy, chúng ta đang
chứng kiến việc nổi dậy của một cái
ǵ đó theo loại này ở Hiệp Chủng quốc, cho
dù nó mới chỉ có mầu sắc của những ǵ
tồn tại nơi truyền thống Cải Cách cổ
xưa.