“Cũng thế, ở Tây Âu tất
cả khuynh hướng này h́nh như đang theo chiều
hướng phát triển của một mẫu thức
văn hóa hoàn toàn trần tục, một mẫu thức làm
cho toàn thể sự sống bị lệ thuộc vào các mục
đích thực tiễn và kinh tế, không c̣n chỗ cho sinh
hoạt thiêng liêng chuyên biệt nữa. Tuy nhiên một thứ
văn hóa không làm cho nhu cầu của bản tính thiêng liêng
con người thỏa măn không thể nào vĩnh viễn
thành công tốt đẹp được… Quí bạn có thể
cung cấp cho con người thực phẩm, giải trí,
vui chơi cùng với các hoàn cảnh tốt lành song họ vẫn
không thỏa măn. Quí bạn có thể từ chối họ tất
cả những thứ ấy, họ sẽ không phàn nàn than
trách bao lâu họ cảm thấy rằng họ sống chết
cho một cái ǵ đó.
“Cho dù chúng ta có coi con người
như là một con vật đi nữa, chúng ta cũng phải
công nhận họ là một loại thú vật có một
không hai biết hy sinh thiện ích của ḿnh cho lư tưởng
– một loài vật có khả năng tử đạo. Nhà
cầm quyền thấy được điều này, nên
lên tiếng kêu gọi con người b́nh thường hăy bỏ
nhà cửa và gia đ́nh họ để ra đi chết một
cách đau thương trong hầm hố cho quê hương
đất nước của ḿnh; và con người b́nh
thường ấy cũng không ngần ngại ra đi.
Người Cộng sản biết được điều
này, nên họ kêu gọi thợ thuyền làm việc vất
vả hơn và ăn uống ít hơn cho chương tŕnh
năm năm và cho việc cách mạng thế giới. Thế
nhưng, đến khi người lính chinh chiến trở
về, cũng là lúc Cộng sản đă hiện thực
được Lư tưởng của ḿnh, họ đành phải
cảm nhận cái không tương xứng giữa những
hy sinh của họ với những thành quả do họ gặt
hái được.
“Thế nên chính v́ cái
tương khắc nồng cốt của chủ nghĩa
duy vật này, là những ǵ vừa đề cao những
thành quả của việc con người gắt hái
được đồng thời lại vừa chối
bỏ thực tại của các quyền lực thiêng liêng
làm cho những gặt hái này được khả dĩ. Tất
cả những thành đạt cao cả nhất của
tinh thần con người, nơi cấp trật tư
tưởng hoặc tác hành, hay nơi bản chất về
luân lư, đều được dựa vào một tuyệt
đối thể linh thiêng, chứ không thể nào lại xẩy
ra nơi một thế giới thuần túy về kinh tế
hay ngay cả nơi các giá trị thuần nhân bản. Bản
tính của con người có thể nhận biết
được tính cách cao cả riêng của ḿnh và nhận
ra những khả năng cao hơn nữa của ḿnh chỉ
ở trong chiều hướng của cảm nghiệm về
đạo lư cũng như của những nguyên tắc
thiêng liêng tuyết đối mà thôi.
“Thế giới loài người
hiện hữu trong và cho một thứ thế giới thực
tại thiêng liêng vĩnh cửu. Cái trực giác căn bản
này nằm ở cốt lơi của tất cả mọi tôn
giáo, cho dù là một thứ tôn giáo sơ khai nhất. Có một
hôm tôi thấy được một dẫn chứng rất
hay về điều này, hoàn toàn bất ngờ, nơi một
đoạn tiểu thuyết của Edgar Wallace, một
đoạn tiểu thuyết ông đang diễn tả về
một cuộc bàn bạc liên quan đến tôn giáo. giữa
một viên chức da trắng và một vị y sĩ Tây
Phi. Viên chức da trắng nói ‘Trên thế gian này có những
vị thần linh mà anh cứ luôn luôn nói tới hay
chăng?’, và con người quê mùa đáp lại: ‘Ôi con
người, hăy biết rằng các Vị Thần Linh không
có ở trong thế gian này đâu; mà chính là thế gian này ở
trong các Vị Thần Linh đó’.
“Trong thế giới văn
minh tân tiến của chúng ta đây th́ sự thật ấy
không c̣n minh tường nữa; nó đă trở nên lu mờ
và huyền ảo. Tuy nhiên, nó không thể nào bị coi
thường mà có thể tránh thoát được hậu hoạn.
Thứ văn minh chối bỏ Thiên Chúa là chối bỏ nền
tảng của ḿnh. V́ vinh quang của con người là phản
ánh mờ mờ vinh quang của Thiên Chúa, và một khi vinh
quang của Thiên Chúa bị chối bỏ th́ vinh quang của
con người cũng biến mất.
“Tóm lại, t́nh trạng mất
đi cảm quan về đạo nghĩa, được
chứng tỏ qua việc thế giới tân tiến khô
đạo hay hận thù đối với Kitô giáo, là một
trong những điểm yếu nơi nền văn minh của
chúng ta, bao gồm cả mối nguy hiểm thực sự
đối với tính chất sống động thiêng
liêng của nền văn minh này, cũng như đối
với tính cách vững chắc của xă hội. Tuy nhiên, nếu
những nhu cầu thiêng liêng của con người không
được công nhận một cách mạnh mẽ, và nếu
chúng không được thỏa nguyện bằng tôn giáo
th́ chúng sẽ t́m kiếm bù đắp ở nơi khác,
thường là ở những sinh hoạt phá hoại và chống
lại xă hội… Nền văn minh không có chỗ cho đạo
giáo là một thứ văn hóa què quặt, mất gốc
thiêng liêng của ḿnh, phải chịu hậu quả cằn
cỗi và thui chột”.
Theo Tông Hiến Pastor Bonus
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II về công việc của
Ṭa Thánh Rôma, ban hành ngày 28-06-88, trong đó, ở khoản
141.3 có nói đến “nỗ lực làm cho các quyền lợi
của gia đ́nh được công nhận và bênh vực
trong sinh hoạt xă hội và chính trị, cũng như bảo
tŕ và phối kết những sáng kiến bảo vệ sự
sống con người từ lúc thụ thai và yêu chuộng
trách nhiệm sinh sản”, Hội Đồng Giáo Hoàng về
Gia Đ́nh đă tổ chức những cuộc họp quốc
tế với sự tham dự của những nhà lập
pháp và những chính trị gia thế giới, như những
lần sau đây:
Cuộc Họp Quốc Tế
Thứ Nhất của Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập
Pháp ở Âu Châu diễn ra tại Varese, Nước Ư, ngày
8-10/3/1993, về “Các Quyền Lợi của Gia Đ́nh
trước Ngưỡng Cửa của Ngàn Năm Thứ
Ba”, đề tài này cũng là đề tài cho Cuộc Họp
Thứ Nhất của Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập
Pháp ở Mỹ Châu, diễn ra tại Rio de Janeiro ngày
28-31/8/1993.
Cuộc Họp Quốc Tế
Thứ Hai của Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập
Pháp ở Mỹ Châu diễn ra tại Mexico City ngày 6-8/6/1996
về “Phẩm Giá của Gia Đ́nh và Sự Sống
trong Lănh Vực Chính Trị và Ngành Lập Pháp ở Mỹ
Châu theo Chiều Hướng của Thông Điệp Phúc Âm
Sự Sống”, và Cuộc Họp Quốc Tế Thứ
Hai của Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập Pháp ở
Âu Châu diễn ra tại Vatican ngày 22-24/10/1998 về “Mối
Liên Hệ giữa Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền
Năm 1948 và Hiến Chương Nhân Quyền về Gia
Đ́nh Năm 1983 của Ṭa Thánh Rôma”.
Sau đây là nguyên văn những
nhận định của Những Chính Trị Gia và Các Nhà
Lập Pháp ở Mỹ Châu, cũng như ở Âu Châu, trong
Cuộc Họp Quốc Tế Lần Hai, về năo trạng
của con người ngày nay đối với cơ cấu
gia đ́nh cùng giá trị của sự sống con người.
Những nhận định
của Cuộc Họp Quốc Tế Lần Hai của Những
Chính Trị Gia và Các Nhà Lập Pháp ở Mỹ Châu.
“Bất chấp tất cả
mọi biến động lung tung xẩy ra nơi địa
lục to lớn của chúng ta, một thực tại vẫn
c̣n đó ở ngay tâm điểm của mọi quốc
gia, đó là gia đ́nh, một tế bào căn bản,
nguyên khởi và sống c̣n của xă hội. Trong đời
sống gia đ́nh làm nên bởi hôn nhân, sự sống con
người đă được thụ thai, sinh nở và
nuôi dưỡng. V́ gia đ́nh là cung thánh của sự sống,
do đó, những vấn nạn nghiêm trọng liên quan đến
sự sống của con người, như phá thai, trợ
tử cũng như các mối đe đọa và các cuộc
tấn công sự sống không thể là những vấn nạn
chẳng có liên quan ǵ tới gia đ́nh. V́ gia đ́nh là yếu
tố chính yếu tiên khởi của xă hội mà những
qui chế về kinh tế và xă hội phải góp phần
xây dựng gia đ́nh và phải làm cho gia đ́nh thêm vững
chắc.
“Ngày nay, chúng ta được
báo động trước t́nh trạng sự sống của
con người và gia đ́nh đang bị tấn công trong tất
cả mọi xứ sở của chúng ta. Bởi thế, họp
nhau lại tại Thành Phố Mễ Tây Cơ này, chúng tôi muốn
gửi đến các chính trị gia và các nhà lập luật
đồng nghiệp lời kêu gọi của chúng tôi
đây.
“Vào giây phút này chúng tôi muốn
phác tả cho thấy những đặc tính chính của cuộc
khủng hoảng...
Cuộc Khủng Hoảng
“Vấn đề dân số xẩy ra theo chiều hướng
khác nhau tại các quốc gia. Việc di dân tăng phát
đă gây ra những thách đố khác nhau. Tiến tŕnh của
việc làm giảm bớt và nắm vững t́nh trạng
tăng nhân số, được các chuyên gia coi như là vấn
đề chuyển tiếp về dân số, cũng
đang được tiến triển tốt đẹp
nơi nhiều vùng đất của chúng ta. Tuy nhiên, bởi
hiểu lầm về những dữ kiện dân số, tân
ư hệ Malthusian đă hào hứng phác họa ra các qui chế
kiểm soát dân số tại rất nhiều quốc gia của
chúng ta, qua việc ngừa thai, chặn thai, thậm chí phá
thai. Được các quốc gia giầu có nâng đỡ,
các tác nhân thuộc ư hệ hủy hoại và lầm lạc
này đă trở thành những tổ chức quốc tế
giầu tiền lắm của dấn thân vào việc,
như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gọi là, ‘âm mưu
chống lại sự sống’ (Thông Điệp Sự Sống
Con Người, đoạn 17). V́ họ mâu thuẫn với quyền lợi
của dân chúng mà các tổ chức quốc tế phải
nhắm vào việc phục vụ công ích phổ quát và phải
tránh những hoạt động không xứng hợp với
sứ vụ nguyên thủy của ḿnh.
“Trợ tử cũng vào hùa
với phá thai trong việc khinh thường sự sống.
Ở Bắc Mỹ Châu, những nỗ lực sử dụng
việc trợ tử đang đe dọa mạng sống
của hằng triệu con người không có khả
năng tự vệ, nhất là thành phần già yếu và tật
nguyền, những người có quyền được
yêu thương và chăm sóc trong gia đ́nh.
“Chính luật lệ là nguyên tắc của quyền
lợi cũng đang bị bại hoại. Ở đằng
sau những cuộc tấn công hủy diệt sự sống,
chúng ta thấy được chủ nghĩa pháp lư tích cực
và duy lợi, qua việc hạ bệ quyền sống vốn
có từ đầu xuống theo ư muốn tuyệt đối
của các nhà lập pháp, chuyên viên pháp luật hay vị lănh
thủ quốc gia. Gắn liền với những lực
lượng này là các h́nh thức tàn nhẫn của chủ
nghĩa tư bản (x Thông Điệp Bách Niên, đoạn
33) cùng với chủ
nghĩa cá nhân và hưởng thụ, làm suy giảm, thậm
chí hủy diệt đi cả giá trị lẫn trách nhiệm
của dục tính, hôn nhân và đời sống gia đ́nh.
Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhận định,
những lực lượng như vậy đang soi ṃn
đến tận gốc rễ của nền dân chủ
đích thực (x.
Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống, đoạn 20).
“Phương tiện truyền
thông xă hội thường
bị lạm dụng để cổ vơ ‘nền văn hóa
tử vong’ cũng như cổ vơ quan niệm duy vật và
duy lạc của con người, phản khắc với
các giá trị của hôn nhân và gia đ́nh.
“Qui chế về kinh tế của
các quốc gia chúng ta thường
không thiên về gia đ́nh. Phụ nữ bị buộc phải
làm việc ngoài nhà và không được nâng đỡ
để thực hiện sứ vụ làm mẹ của họ.
Ở một số quốc gia, những nạn xă hội
như t́nh trạng gia đ́nh bần cùng túng thiếu, cảnh
nhiều nhà chỉ có một cha hay một mẹ, t́nh trạng
thiếu niên bê tha, nghiện hút và tội ác bạo lực
trở nên tệ hại bởi các chương tŕnh an sinh
thất sách. Ở một số quốc gia khác lại thiếu
những khoản an sinh đầy đủ khiến cho
các gia đ́nh nghèo phải sống trong một t́nh trạng
rất thiếu kém và thê thảm.
“Các quyền căn bản của
cha mẹ về vấn đề giáo dục không luôn luôn được
công nhận. Các chương tŕnh dạy tính dục, do Chính
Phủ bó buộc và thường bởi các tổ chức
kiểm soát dân số điều khiển, vi phạm đến
quyền lợi của phụ huynh và cổ vơ các lối sống
hưởng lạc. Nhiều cha mẹ không được
tự do chọn cho con cái một chương tŕnh giáo dục
hợp với đức tin và lương tâm của ḿnh,
hay họ phải trả nhiều tiền cho một
chương tŕnh giáo dục như vậy.
“Trẻ em ở nhiều miền đất
đă trở thành nạn nhân của những khai thác vô loài,
qua việc lao động trẻ em, măi dâm trẻ em và h́nh ảnh
trẻ em khiêu dâm. Nỗi khổ của ‘các trẻ em bụi
đời’, nạn nhân của t́nh trạng thiếu kỷ
cương gia đ́nh, là một gương mù và là một
nỗi hổ ngươi cho nhiều thành phố lớn nhất
của chúng ta.
“Nữ giới phần lớn phải sống
trong cảnh bần cùng. Họ thường bị tổn
hại v́ thiếu học hành. Cùng với con cái, họ là những
nạn nhân chính của cảnh tan vỡ gia đ́nh. Ở một
số xă hội, họ là những nạn nhân cho quyền
lực dục tính của nam giới. Trái lại, phong
trào nữ giới cấp tiến, bằng việc phát
động ư niệm sai lầm về ‘giống tính’,
đồng thời đă làm hại họ ở hết mọi
quốc gia thuộc Mỹ Châu, làm thấm nhập từ từ
những thành kiến phản lại chủ nghĩa nữ
giới chân chính là chủ nghĩa bảo vệ phẩm vị
của nữ giới.
“Sau hết, chúng tôi muốn
nói lên nỗi quan tâm sâu xa nhất của chúng tôi về một
tân ‘kiểu mẫu sức khỏe’ nhắm đến việc
làm cho quyền sống khỏe mạnh bị lệ thuộc
vào việc giải quyết của cá nhân hay của xă hội”.
(tuần san L’O
sservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 10/7/1996)
“Chúng tôi, từ tất cả
mọi quốc gia ở Âu Châu, đến đây để
suy nghĩ về đề tài nhân quyền và các quyền lợi
của gia đ́nh, và chúng tôi đă trao đổi về Bản
Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền đối với mọi
vấn đề liên quan đến gia đ́nh, một tế
bào căn bản của xă hội, một tế bào rất
cần cho xă hội ở sứ vụ không thể thay thế
của nó, ở việc phát triển của nó, ở những
khó khăn thử thách của nó cũng như ở những
chịu đựng của nó.
“Chúng tôi đă suy nghĩ về
mối liên hệ giữa Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân
Quyền Năm 1948 và Bản Hiến Chương về
Quyền Lợi Gia Đ́nh được Ṭa Thánh ban hành
năm 1983. Đây là một số những kết luận
tổng kết đă được Hội Nghị chúng
tôi nhất trí chuẩn nhận, chúng xin được chia
sẻ đặc biệt với những vị như
chúng tôi làm việc phục vụ xă hội để
mưu cầu công ích.
1.1
“Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền, được
long trọng công bố ngày 10 tháng 12 năm 1948, đă ban cho
Hiệp Chủng Quốc thẩm quyền về luân lư trong
việc thi hành sứ vụ đă được ủy nhiệm
cho nó, đó là sứ vụ hoạt động cho ḥa b́nh,
cho việc phát triển và bảo vệ quyền lợi của
mọi người. Các Chính Quyền đă được
mời gọi để đưa những quyền lợi
này vào việc lập pháp nghiêm cẩn của ḿnh. Việc lập
pháp này liên quan đến vấn đề bảo vệ sự
sống của mọi người (khoản 3), vấn
đề tôn trọng quyền tự do của mọi
người, và vấn đề công nhận những quyền
lợi nồng cốt khác nhau, bao gồm cả ‘quyền
kết hôn và lập gia đ́nh’ (khoản 16.1) là cơ cấu
được coi như ‘một đơn vị nhóm tự
nhiên và căn bản của xă hội’ và ‘được
xă hội và Chính Quyền bảo vệ’ (khoản 16.3).
Hơn nữa, tất cả mọi quyền lợi về
xă hội, dân sự, chính trị, kinh tế và văn hóa
được tuyên bố trong Bản Tuyên Ngôn c̣n nhắm
đến thiện ích của con người, của những
cơ cấu môi giới, cũng như của toàn thể cộng
đồng nhân loại.
1.2
“Người ta không phải chỉ được tôn trọng
như là ‘những hữu thể cá nhân’ mà là như những
con người được dựng nên theo h́nh ảnh của
Thiên Chúa, có khả năng nhận biết sự thật và
ḥa hợp việc ḿnh làm cho đúng với sự thật,
cũng như sống thuận ḥa với những người
khác trong xă hội (x.
ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Đức Tin và Lư Trí,
đoạn 3, 24). Bản
Tuyên Ngôn Năm 1948 hợp với quan điểm về
con người này và đă cho thấy những thành quả
của ḿnh.
1.3
“Bản Tuyên Ngôn đă hơn một lần giúp vào việc
ngăn ngừa những xung khắc, vào việc đối
đầu với những h́nh thức chuyên chế độc
tài mới, vào việc đề cao ḷng trọng kính các quyền
lợi của con người, vào việc cổ vơ băi bỏ
chế độ thuộc địa đế quốc, cũng
như vào việc khích lệ phát triển và ḥa b́nh. Nó đă
cho thấy thành quả của ḿnh qua những việc thực
hiện như vậy.
1.4
“Tuy nhiên, chúng tôi, những con người nam nữ hoạt
động trong lănh vực chính trị và lập pháp
đang tham dự buổi họp này, muốn đồng
thanh nói lên rằng, Bản Tuyên Ngôn này thường bị
bỏ qua trong thực hành, thậm chí bị khinh thị,
hay bị bóp méo bằng những kiểu cắt nghĩa lại
những thứ quyền lợi đă được nó
công bố. Những méo mó như vậy đặc biệt
là đă làm giảm mất giá trị của cơ cấu
gia đ́nh.
Những Quyền Lợi của
Gia Đ́nh và
Quyền Sống Bị Khinh
Miệt
2.1 “Các
quyền lợi của con người mà tầm quan trọng
phổ quát của chúng được nhấn mạnh
năm 1948 không được công nhận một cách hoàn
toàn hay được tôn trọng ở mọi nơi, bởi
chính quyền hay bởi các cơ cấu tổ chức riêng
tư. Đây là một số trường hợp liên quan
đặc biệt đến gia đ́nh và sự sống
mà bất hạnh thay cũng xẩy ra ngay cả ở Âu
Châu nữa.
2.2
“Khoản 3: Quyền sống bị chối bỏ bởi
những khoản luật cho phép – thực ra là khuyến
khích – phá thai, hủy thai, và trợ tử ở nơi một
số xứ sở.
2.3
“Khoản 12: Quyền tôn trọng tính cách riêng tư và danh
thơm tiếng tốt của con người, qua những
vận động về báo chí, những tố giác xảo
quyệt, những ‘nhăn hiệu’ có tính cách kỳ thị
(như ‘những tên thủ cựu’, ‘những người
hùng luân lư’, ‘những kẻ cuồng nhiệt ủng hộ
sự sống’); thái độ cười nhạo thành phần
giới trẻ tỏ ra chống lại tính cách bi quan về
dục tính v.v.
2.4
“Khoản 16: Quyền kết hôn và lập gia đ́nh, qua
việc hạ giá cơ cấu hôn nhân; việc các vị
chính quyền không màng chi tới t́nh trạng lệch lạc
về đạo lư của xă hội (như tính cách hỗn
độn của giới trẻ, sống chung mà không hề
có ư dấn thân hay cảm quan trách nhiệm, t́nh trạng phát
triển về bạo lực, ngay cả trong việc chiêu
mộ đồng tính luyến ái mà không tôn trọng kẻ
khác và những tổ chức hiện hữu), việc thu
thuế gia đ́nh và các qui chế ác cảm với gia
đ́nh.
2.5
“Khoản 26: Quyền lợi của cha mẹ trong việc
chọn chương tŕnh giáo dục được cung cấp
cho con cái họ, qua việc lạm dụng việc dạy
tính dục cho con cái họ ở nhà trường hay nơi
những chương tŕnh chăm sóc sức khỏe, việc
ngừa thai và đôi khi phá thai cho vị thành niên đă
được tách khỏi quyền bảo vệ của
cha mẹ họ, việc giới hạn tự do của phụ
huynh trong việc chọn chương tŕnh giáo dục và học
đường cho con cái hợp với những niềm
xác tín của họ.
Những Nỗ Lực Bóp Méo Nhân
Quyền
3.1
“Những thứ lệch lạc này thực sự chỉ
là ‘việc cắt nghĩa lại’ Bản Tuyên Ngôn
Năm 1948, một việc cắt nghĩa làm xoay chuyển
tận gốc rễ cái ư nghĩa của nó. Vượt qua
mặt và vượt lên trên những quyền lợi
được Bản Tuyên Ngôn công nhận, tuyên
xưng và công bố là một số ‘những quyền lợi
nhân bản mới’ đang được đề ra bởi
những khuynh hướng văn hóa, những điều
đ́nh, những áp lực và những phương sách
đồng thuận, theo hoạch định của các
hoạt động liên quốc gia.
3.2
“Sau Hội Nghị ở Cairô (1994) và ở Bắc Kinh
(1995), nhiều cơ quan Liên Hiệp Quốc, thường
được hỗ trợ bởi Hiệp Hội Âu Châu,
đang cố gắng để chiếm được một
sự đồng thuận quốc tế về một số
quyền được gọi là ‘các thứ quyền mới’
này. Những quyền mới này đặc biệt bao gồm
‘vấn đề sức khỏe sinh sản’ (một phát
biểu thực sự cho thấy bao gồm cả việc
phá thai), và quyền của vị thành niên trong việc thực
hiện tác động tính dục với cả người
khác phái tính hay đồng phái tính với ḿnh, kèm theo việc
họ được sử dụng những dụng cụ
ngừa thai.
3.3
“Những
lệch lạc này hay những lệch lạc khác, như trợ
tử, việc phát triển đồng tính luyến ái và
paedophilia, đều được bộc phát bởi các
thứ triết lư duy lợi, ngộ thức, kể cả
bởi các thứ triết lư thực tiễn, buông thả
và khoa học (x.
ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Đức Tin và Lư Trí,
đoạn 46, 88, 89, 90, 91),
cũng như bởi ư hệ về ‘giống tính’. Bởi
thế, vấn đề ở đây không phải chỉ
là việc thêm thắt vào những quyền phổ quát
được công bố năm 1948 ‘những thứ quyền
lợi mới’, mà là việc làm mất đi ư nghĩa
nơi quyền lợi của con người cũng
như việc làm đảo lộn ư nghĩa chính yếu của
chúng. ‘Những tác nhân’ của chiều hướng mới
này hiểu ư nghĩa nơi quyền lợi con người
chẳng những theo quan niệm về con người mà
c̣n theo những chính sách được gọi là đồng
thỏa thuận nữa. Con người, gia đ́nh và cả
Chính Quyền cần phải được điều chỉnh
theo quan niệm ‘đồng thỏa thuận’ này, một việc
vừa theo chiều hướng tích cực vừa theo chiều
hướng tương đối.
3.4
“Đối với một số người th́ t́nh trạng
lệch lạc này cũng c̣n do bởi ảnh hưởng
về ư hệ của phong trào ‘Thời Mới’ ngày nay, qua
việc họ ‘linh thánh hóa’ thiên nhiên, đặc biệt
hơn nữa là ‘trái đất’. Theo quan điểm này th́
con người không được coi như là trung tâm của
lịch sử, là chủ thể của quyền lợi và
nghĩa vụ, mà chỉ là một tùy thể ngắn hạn
của thiên nhiên, cần phải được điều
chỉnh theo ‘khả năng nắm giữ’ của hành tinh
này.
3.5
“Ngược lại với những chiều hướng
tương đối và buông thả này, Bản Tuyên Ngôn
Chung Năm 1948 chủ trương lề luật tự
nhiên một cách đặc biệt, đó là chủ
trương khả năng bẩm sinh của con người
là để t́m kiếm những ǵ chân thật, ngay lành và
thiện hảo. Chúng tôi chấp nhận quan niệm về
con người này, và thấy nơi quan niệm ấy có một
nền tảng luân lư để xác nhận phẩm vị
cùng với các quyền lợi của hết mọi người,
kể cả những quyền lợi của cộng đồng
nhân loại căn bản là gia đ́nh”.
(tuần san L’O
sservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, ngày 20/1/1999)