“Bởi thế, để
có thể cải tiến trào lưu ‘văn hóa tử vong’
hết sức nguy hại này, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II, vào ngày 27-6-1998, đă chia sẻ với các vị giám
mục Hoa Kỳ sang Rôma đợt 9 dịp ad limina
của các ngài, đă nêu lên giải pháp (xem lại
phần đầu của cùng bài Đức Thánh Cha nói
đây trong cuốn sách này ở trang 233-241) như sau:
· “Trong việc giảng
dạy chân lư về lương tâm và mối liên hệ
nội tại của nó với chân lư luân lư, qúi huynh sẽ
phải đương đầu với một trong
những mănh lực cả thể trong thế giới
hiện đại. Thế nhưng, nhờ đó, quí huynh
mới đang cống hiến cho thế giới tân
tiến này một việc phục vụ cao cả, v́ quí
huynh sẽ nhắc nhở cho thế giới về nền
tảng duy nhất có thể bảo tồn văn hóa
tự do: đó là điều mà Các Vị Lập Quốc
của quí huynh gọi là các chân lư ‘minh nhiên’ (self-evident)…
“Phẩm vị nội
tại và những quyền lợi căn bản bất
khả xâm phạm của chúng ta không phải là kết
qủa của việc xă hội đồng ư chung: chúng có
trước tất cả mọi cuộc trưng cầu
dân ư xă hội nữa và c̣n cung cấp cho những qui định
thấy được tính cách hợp lư của các cuộc
trưng cầu dân ư ấy. Lịch sử của thế
kỷ 20 này là một cảnh giác nghiêm nghị về các sự
dữ gây ra bởi sự kiện con người bị suy
giảm đến mức độ thành đồ vật
bị quyền lực tham lam vị kỷ hay những
luận lư ư hệ lạm dụng …
“Việc sống c̣n của
một nền quân chủ riêng biệt nào đó chẳng
những tùy thuộc ở cơ cấu tổ chức
của nó mà c̣n ở một lănh vực lớn lao hơn
nữa là tinh thần gợi hứng và thấm nhập
đường lối của nó vào việc lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Tương lai của một nền
dân chủ thực sự lệ thuộc vào thứ văn
hóa có khả năng làm nên những con người nam
nữ sẵn sàng bảo vệ một số sự
thật và giá trị.
“Nếu không có một tiêu
chuẩn khách quan để phán quyết giữa các ư
niệm khác nhau về sự thiện chung cũng như
riêng th́ các thể chế dân chủ bị giảm xuống
thành một cuộc tranh giành quyền lực sống
sượng. Nếu lề luật thuộc hiến và
lập pháp không dựa vào lề luật luân lư khách quan là
các nguyên lư đệ nhất của công lư và b́nh
đẳng, là bởi v́ các nguyên lư này đă trở thành
những vấn đề thuộc ư kiến riêng tư.
“Không khí của trào lưu
luân lư tương đối th́ không xứng hợp với
nền dân chủ. Thứ văn hóa này không thể
đáp ứng các vấn đề căn bản cho một
cộng đồng chính trị dân chủ: ‘Tại sao tôi
phải coi đồng hương của tôi b́nh
đẳng như tôi?’; ‘Tại sao tôi phải bảo
vệ quyền lợi của người khác?’ ‘Tại sao
tôi phải hoạt động cho công ích?’. Nếu các chân
lư luân lư không được công khai tuyên nhận như
thế th́ không thể nào có dân chủ được (xem Thông Điệp Rạng
Ngời Chân Lư, đoạn 101)”.
(tuần san L’Osservatore
Romano, ấn bản Anh ngữ,
Về “ánh sáng sự
sống” thực sự đă chiếu soi bóng tối
“văn hóa tử vong” trong thời đại văn minh
của con người trước ngưỡng cửa
của ngàn năm thứ ba đây cũng như măi măi sau
này, phải kể đến Thông Điệp “Rạng
Ngời Chân Lư” của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban
hành ngày Lễ Chúa Biến H́nh trên núi 6/8/1993. George Weigel, Tác
giả cuốn “Witness to Hope” (Cliff Street Books, 1999, trang 686-695), người viết về
cuộc đời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II,
đă phân tích thời cuộc liên quan đến văn hóa
hiện đại theo “ánh sáng sự sống” của
bức thông điệp Veritatis Splendor “Rạng
Ngời Chân Lư” này rất sâu sắc và chính xác như sau.
· “Công Đồng Chung Vaticanô
II đă có ít thời gian để bàn đến vấn
đề thần học luân lư. Tuy nhiên, cho dù Công Đồng
có tương đối hơi thiếu chú trọng
đến chủ đề này đi nữa, cũng có lúc
nhiều người đă đồng ư với nhau là
cần phải canh tân lại khoa thần học luân lư. Có
một ít vấn đề xẩy ra sau Công Đồng
đă làm phát sinh nỗi nóng ḷng này và đă gây ra việc bàn
căi công khai như là chiều hướng của việc
canh tân ấy.
“Đối với không ít
các nhà thần học, linh mục và giám mục, việc
buộc phải dùng các cuốn cẩm nang để
dạy khoa thần học luân lư ở các chủng viện
Công giáo, cũng như ở các phân khoa thần học cao
cấp, là điều quá đáng. Việc liên hệ của
thần học luân lư với thần học tín lư và tu
đức cũng bị suy giảm đi, như việc
nghĩ đến đời sống luân lư không dính dáng ǵ
tới ư nghĩ của Giáo Hội về sự sống
mới của ân sủng trong Chúa Giêsu Kitô cũng vậy. Điểm
đối chiếu chính yếu của khoa thần học
luân lư thời tiền Công Đồng là Mười Điều
Răn chứ không phải là Bài Giảng Trên Núi – nói như
thế không phải cho rằng Thập Điều sai, mà là
cấp trật hợp pháp của nó phải
được nh́n trong mối tương quan Kitô giáo chuyên
biệt. Người ta nghĩ rằng các Mối Phúc
Thật và Mười Điều Răn cần phải
được liên kết lại với nhau. Đời
sống luân lư phải được tái nhận thức
như là một sự sống lớn lên trong phúc
đức, những yếu tố làm cho chúng ta xứng
đáng với định mệnh của ḿnh, tức là
xứng đáng với sự sống đời
đời trong ánh sáng và t́nh yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí
Thánh.
“Khoa
thần học luân lư thời tiền Công Đồng
cũng gặp phải những khó khăn kiến thức
đối với quan niệm về tự do của con
người. Bởi thế, đời sống luân lư có
khuynh hướng được phác họa như là
một cuộc đối chọi giữa ư muốn
của tôi với ư muốn của Thiên Chúa, nên trong mọi
trường hợp vẫn xẩy ra vấn đề là
‘Tôi có thể làm tới đâu trước khi tôi bị bó
buộc phải làm theo ư muốn có quyền hơn tôi?’ Ân
sủng, nguyện cầu và ơn Chúa Thánh Thần soi sáng
cho linh hồn tất cả đều đóng một vai
tṛ tầm thường, thậm chí bị quên lăng, nơi
những ǵ được các cuốn cẩm nang thần
học luân lư tiền công đồng có chiều
hướng phác tả như là một cuộc đấu
lộn khủng khiếp giữa ư muốn của tôi
với các mệnh lệnh của Thiên Chúa.
“Công
Đồng kêu gọi phát triển khoa thần học luân
lư Công giáo được hoàn toàn bảo đảm.
Cuộc tranh luận bùng lên sau Công Đồng Chung Vaticanô II
đă bàn đến bản chất của vấn
đề phát triển này, cũng như đến các
mối liên hệ của nó với các nguồn thần
học luân lư Công giáo trong Thánh Kinh, theo các Giáo Phụ xưa
kia và theo Thánh Tôma Aquinas. Các đấu thủ thường
được phác họa thành hạng ‘cấp tiến’ và
‘bảo thủ’. Những vấn nạn được
tranh căi càng sâu xa và hào hứng th́ càng tỏ ra cho thấy các
nhăn hiệu ấy.
“Tính
cách luân lư của một tác động phải
được phán đoán chính yếu bởi đặc
tính của chính tác động ấy, hay bởi việc
tính toán căn cứ vào các ư hướng của con
người và các thành quả của tác động?
Mối liên hệ giữa việc quyết định
căn bản được Kitô hữu tỏ ra trong
việc chọn lựa Chúa Kitô – ‘một chọn
lựa nồng cốt’ theo một số nhà thần
học hậu công đồng – với những tội
đặc biệt mà tất cả mọi Kitô hữu
vấp phạm trong cuộc sống Kitô hữu của ḿnh
là ǵ? Có chăng một ‘lề luật’ luân lư được
ghi khắc nơi bản tính con người và trong cơ
cấu lựa chọn về luân lư, một việc lựa
chọn có thể nhờ lư trí biết được? Có
chăng một số tác hành, tự bản chất của
ḿnh, là sự dữ theo nội tại, ở bất cứ
lúc nào và ở bất cứ nơi nào, không hề có
luật trừ? Phải chăng tự do là một
đặc tính luân lư trung dung của ư muốn, có khả
năng gắn bó ḿnh một cách thân t́nh với bất
cứ một đối tượng nào? Hay phải chăng
tự do phải được hiểu là một thứ
tự do tuyệt hảo, như phương tiện giúp
cho con người lớn lên trong sự thiện nhờ
việc họ chọn lựa sự thiện?
“Trong
cuộc đối chọi với ư nghĩa của tự
do, việc người Công giáo bàn căi về thần học
luân lư đă chạm phải một số vấn nạn
từng được sôi nổi tranh luận về
đời sống công cộng ở vào cuối thế
kỷ 20 này. Thông điệp Rạng Ngời Chân Lư Veritatis
Splendor được chính thức viết cho các vị giám
mục thuộc Giáo Hội Công Giáo và nhằm mục
đích phác họa cái khung sườn cho việc phát
triển cho một nền thần học luân lư Công giáo
chuyên chính. Thế nhưng, thông điệp Rạng Ngời
Chân Lư Veritatis Splendor không phải là một thông điệp
tầm thường, hay thậm chí là việc Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II tỏ ra mạnh mẽ nhập cuộc
nội chiến với các nhà thần học luân lư Công giáo.
Trái lại, cần phải đọc thông điệp này
như là một nhắc nhở cho con người nam
nữ về nét cao cả của một sự thật
cần họ phải sống ḥa hợp với, cũng là
một sự thật giúp cho họ đạt thành
định mệnh của họ, ở vào giây phút
quyết liệt trong việc Đức Giáo Hoàng t́m
kiếm một chủ nghĩa nhân bản mới.
“Thông
Điệp Rạng Ngời Chân Lư Veritatis Splendor không phải
chỉ được viết cho các người Công giáo mà
thôi, cũng không phải là việc Đức Giáo Hoàng
muốn khiển trách thành phần tội nhân cố ư làm
theo ư riêng của họ. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
cũng có kinh nghiệm làm mục tử trong việc
thấy rằng những cái hư hỏng thuộc cuối
thời điểm thế kỷ 20 này có một cái ǵ
đó rất mới mẻ. Chúng không phải chỉ nguyên
là câu truyện thành Sôđôma và Gômôra, như Sách Khởi Nguyên
thoáng cho thấy. Có một cái ǵ đó mới lạ ở
vào giai đoạn cuối thế kỷ 20 này, ngoại
trừ người thất học không có khả năng
làm cho nhau thấy được cảm quan về luân lư.
“Những
cuộc tranh luận ở vào sát thời điểm
thế kỷ 21 ấy cho thấy những ǵ con
người rất thường hay bị lẫn lộn
hết sức. Con người không đồng ư với
nhau về ư nghĩa lẫn lộn của những từ
ngữ như ‘đúng’ và ‘sai’, ‘nhân đức’ và ‘nhiệm
vụ’. Điều nhóm này cho là ghê tởm th́ lại là nhân
quyền của nhóm kia. Điều được một
số người coi là nhân đạo th́ lại bị
những người khác cho là việc lợi dụng
để sát nhân. Khi xẩy ra những vụ tranh căi
về luân lư th́ thế giới tân tiến rất
thường hay tỏ ra thái độ cóc cần xưa kia
của quan Phongxiô Philatô qua câu vấn nạn cho xong của
ông: ‘Chân lư hả? Chân lư là cái ǵ?’ (Jn
18:38). Philatô,
cũng như nhiều người tự cho ḿnh là tân
tiến, nghĩ rằng vấn nạn nêu lên đó là
việc để giải quyết cho xong một cuộc
tranh căi. Theo thông điệp Rạng Ngời Chân Lư Veritatis
Splendor th́ Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cho đó mới
chỉ là bước khởi đầu mà thôi.
“Cái
quan niệm tuyên truyền rằng, người ta có thể
sống tự do mà không cần dựa vào các sự thật
về luân lư bó buộc, đó là một đặc tính có
một không hai của đời sống hiện
đại. Từ Núi Sinai (nơi mà Mười Điều
Răn được hiểu là những điều
kiện luân lư cho dân Yến-Duyên được sống
tự do) đến Bản Tuyên Ngôn Độc Lập
của Hiệp Chủng quốc (làm cho người Hoa
Kỳ tuyên bố ḿnh là một nước độc
lập căn cứ vào những sự thật luân lư
‘hiển nhiên’), con người đă từng hiểu rơ ràng
là tự do và chân lư có rất nhiều liên hệ với
nhau. Điều này không c̣n nữa. Tự do không dính
liền với sự thật đă đi theo một
đường hướng không hề luyến tiếc ǵ
cả. Tách khỏi sự thật, tự do trở thành
một môn bài hành quyền, và môn bài cho phép hành quyền này là
cớ để tự do bung thoát. Sự thật về
luân lư không được công nhận làm cho con người
chỉ biết sống theo chủ trương
ư-muốn-quyền-lực của ḿnh. Do đó đă gây ra
t́nh trạng chao đảo lộn xộn. Và v́ con
người sợ bị chao đảo lộn xộn
nhất, nên họ sẽ tiến tới chỗ sử
dụng những xiềng xích tàn bạo để đem
lại trật tự cho cuộc sống xă hội. Tự
do thoát ly sự thật nó trở thành một kẻ tử
thù của chính bản thân ḿnh.
“Tuy
nhiên, cái tư tưởng cho rằng mọi người
được quyền tạo nên cho ḿnh một sự
thật riêng – tức là điều ‘đối với tôi’
là đúng – lại trở thành một yếu tố chủ
chốt trong việc lẫn lộn về luân lư hiện
đại. Cái sai lệch thời tân tiến hay ‘hậu tân
tiến’ về khuynh hướng ḷng tḥng này, gây ra bởi
việc cho rằng mọi thể chế về luân lư là
một cấu trúc theo văn hóa ‘được lưu
truyền lại’. Tôi được phép nghĩ rằng,
tôi có quyền định giá tự do và cái ‘tự do’ đó
có một ư nghĩa khách quan. Nghĩ như thế, theo các lư
thuyết gia thời hậu tân tiến, là tôi đang
đánh lừa ḿnh, v́ quan niệm về ‘tự do’ của
tôi là một quan niệm ‘đóng khung theo văn hóa’, như
người ta cho rằng hy sinh đứa con là một
tư tưởng cao cả vậy.
“Chống
lại với những bại hoại ấy nơi màn thảm
kịch luân lư về thân phận con người, trong thông
điệp Rạng Ngời Chân Lư Veritatis Splendor, Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đă nhấn mạnh là chúng ta thực
sự có tự do và tự do của chúng ta là điều
kiện cho bất cứ một ư tưởng nghiêm
chỉnh nào về ‘luân lư’. Đồng thời Đức
Giáo Hoàng cũng lập luận rằng, tự do có sẵn
một bộ phận, một năng lực làm phát sinh ra
nơi mọi người một ước vọng
hướng đến thiện hảo và tuyệt hảo.
Thông Điệp Rạng Ngời Chân Lư Veritatis Splendor mở
đầu bằng một bài suy niệm dài của Đức
Giáo Hoàng về đoạn Phúc Âm thuật lại câu
truyện con người trẻ giầu có đến cùng
Chúa Giêsu mà hỏi: ‘Lạy Thày, tôi phải làm ǵ để
được sự sống đời đời?’ (Mt 19:16).
Qua các thế kỷ, nhiều nhà dẫn giải Công giáo
đă cho con người trẻ giầu có này như là
một đứa con trai đi t́m ơn gọi làm linh
mục. Đối với Đức Gioan Phaolô II th́ anh ta
cũng như Mọi người, ở chỗ nêu lên
một vấn nạn ám ảnh, cũng là một vấn
nạn làm phấn khởi, mọi cuộc sống của
con người – đó là tôi phải làm điều
thiện nào để hoàn thành định mệnh
đời đời của tôi?
“Với
những ai không công nhận là yếu tính nơi hoàn cảnh
của con người tân tiến là tính cách đa diện
của nó, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cho họ biết
rằng, quí vị đúng đấy – đó chính là lư do
tại sao chúng ta phải suy nghĩ kỹ lưỡng
hơn về những khả dĩ của các sự
thật luân lư, cũng như về mối liên hệ
của những sự thật này với việc sống
theo tự do. Hơn thế nữa, Đức Giáo Hoàng c̣n
cho việc trao đổi công khai chính đáng về
những vấn đề này là một khả dĩ
thực sự. Trong chiều hướng kiến thức
bị chi phối bởi tương đối thuyết, Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đă nêu lên những chủ
trương đáng kể trong thông điệp Rạng
Ngời Chân Lư Veritatis Splendor, bằng việc nhấn
mạnh là có một lề luật luân lư phổ quát sẵn
có nơi thân phận con người – một thứ lề
luật làm ‘văn phạm’ cho cuộc trao đổi
về vấn đề luân lư quan trọng giữa dân chúng
của các nền văn hóa khác nhau cũng như của
những kinh nghiệm sống khác nhau. Đức Giáo Hoàng
c̣n thêm, việc hiểu biết về căn gốc
của đời sống luân lư này nơi bản tính chung
của con người là nền tảng để có
thể xây dựng một thứ nhân bản mới có
khả năng bảo vệ phẩm vị con
người.
“Việc
nhất trí của bức thông điệp về sự
kiện có những hành động tự nó là xấu (v́,
theo từ ngữ chuyên môn, có ‘những qui tắc luân lư
bất miễn trừ’) cũng đă đưa
người đọc vượt ra ngoài những căi
cọ có tính cách học giả để đi vào những
vấn đề công cộng khẩn trương. Đối
với lập luận cho rằng, những hành động
bối rối không biết phải làm sao có thể
được biện minh bằng những thành quả
của chúng, hay được căn cứ vào sự
kiện có nhiều điều lành hơn dữ bởi
đó mà ra, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhấn mạnh
rằng, người ta không bao giờ được làm
điều dữ để đạt điều
thiện. Cũng thế, đối với chủ
trương rằng không một hành động nào, nơi
nó và bởi nó, là xấu ở bất cứ nơi đâu
và bất cứ lúc nào, Vị Giáo Hoàng liệt kê ra những
hành động sát nhân, tàn sát, nô lệ, măi dâm, buôn bán
phụ nữ cùng trẻ em, và phá thai bao giờ cũng là
những sai lầm trầm trọng, v́ tự bản
chất của ḿnh, chúng gây tai hại nặng nề cho
nạn nhân cũng như cho chính ngay cả can phạm
nữa.
“Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng tấn công cả lập
luận cho rằng tính cách tế nhị về mục
vụ đ̣i phải giảm bớt phán đoán nghiêm
thẳng đối với thực tại của sự
dữ cũng như đối với những tác dụng
của nó liên quan đến sự phức tạp nơi
đời sống của mỗi một con người.
Các thứ thần học luân lư theo ‘thành quả thuyết
và ‘cân xứng thuyết’ có thể đă được các
mối quan tâm mục vụ chân chính khơi dậy. Thế
nhưng, việc các thứ thần học này chú trọng
nhiều đến ư hướng và thành quả đă làm
xoay hướng bản chất luân lư của những hành
động riêng biệt, cũng như làm xoay hướng
cách thức chúng h́nh thành nên đặc tính của những
người thực thi hành động riêng biệt ấy.
Kết quả trông thấy là chúng càng gây ra khó khăn
hơn trong việc bác bỏ sự dữ chủ yếu
ở một thế kỷ đă bị sẹo vết
bởi những hậu quả yểu tử và bầm
dập của nó.
“Đức
Giáo Hoàng cũng lập luận rằng, việc công
nhận thực tại luân lư đối với
những hành động tự chúng là xấu có những
ngụ ư chung quan trọng đối với một xă
hội tự do.
“Loài
người chênh lệch với nhau rơ ràng nơi các khả
năng về thể lư, tâm trí và thẩm mỹ, thế
nhưng, quyền b́nh đẳng của tất cả
mọi người trước luật lệ vẫn là
một nguyên tắc rường cột của thể
chế dân chủ. Làm sao chúng ta có thể làm cân đối
t́nh trạng hiển nhiên bất b́nh đẳng với
việc chúng ta dấn thân hoạt động cho quyền
b́nh đẳng về pháp lư và chính trị? Câu giải
đáp của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nằm ở
nơi quan niệm trách nhiệm luân lư b́nh đẳng. Khi
công nhận là mọi người có trách nhiệm như
nhau trước các qui tắc luân lư cấm làm sự dữ
có bản chất xấu là một nền tảng vững
chắc nhất trong việc bảo vệ nguyên tắc b́nh
đẳng trước pháp luật. Cũng có thể nói
tương tự như thế đối với việc
bảo tồn một xă hội dân sự thiết yếu
cho đời sống chính trị dân chủ. Những mối
liên kết thân hữu dân sự càng được h́nh thành
an toàn hơn, nhờ cảm quan đối với những
bó buộc hỗ tương về luân lư phát xuất
từ những tiêu chuẩn luân lư được chấp
nhận, hơn là từ những bó buộc thuần tính
cách giao kèo với nhau. Các thứ thần học luân lư Công
giáo hậu công đồng hạ giá hay thực sự
chối bỏ tầm quan trọng của các hành
động tự nó là xấu đă vô t́nh làm vững
mạnh thêm những khuynh hướng văn hóa
tương đối của vấn đề ‘tôi làm theo
kiểu của tôi’. Những bàn luận mập mờ
về đời sống luân lư theo chủ trương
riêng của ḿnh, tức những thứ thần học luân
lư như thế cũng chẳng giúp ǵ vào việc tái
kiến tạo những nền tảng luân lư cho một xă
hội tự do và đạo hạnh.
“Cũng
có những trớ trêu thê thảm về luân lư thần
học trong thời sử Công giáo hậu công đồng
đă được thông điệp Rạng Ngời Lư
Veritatis Splendor trực tiếp đối diện.
“Nhiều
nhà thần học luân lư Công giáo, thành phần mạnh
mẽ phê b́nh chỉ trích những ‘cuốn cẩm nang’
thời tiền công đồng v́ tính cách cứng ngắc
và luật phép của chúng, chưa bao giờ thực
hiện một cuộc dứt khoát hẳn với tính
chất cứng ngắc và pháp lư ấy – tức là với
tính cách đồng nhất giữa tự do và ư muốn,
cũng như với tính cách phản nghịch nhau giữa
lề luật và tự do phát xuất từ ư nghĩ
về đời sống luân lư như là một cuộc
đối chọi giữa ư muốn Thiên Chúa với ư
muốn của tôi. Cái vấn nạn căn bản có
chiều hướng sai lạc vẫn c̣n nguyên – ‘Tôi có
thể được phép làm tới đâu?’. Một
số tân thần học gia về luân lư, bằng việc
lái tâm điểm của cơ cấu luân lư từ tác
động luân lư sang ư hướng của tác nhân cũng
như sang thành quả của hành động, đă hạ
thấp cái ngăng trở luân lư Công giáo xuống khi cho
rằng, đúng thế, ‘các bạn có thể đi xa
hơn nữa’. Thế nhưng, điều này đă làm cho
đời sống luân lư tuôn trôi đi mất cái thảm
kịch cũng như những công trạng vốn có
của nó, và đă không giải quyết được
vấn nạn thuộc tâm thức về tự do cũng
như về mối liên hệ của nó với sự
thật và sự thiện.
“Có
nới lỏng hơn bản văn của các cuốn
cẩm nang nặng về luật phép cũng không thể
coi đó là đă thực hiện được một
cuộc cải tiến chính yếu nơi ư nghĩ của
Công giáo về đời sống luân lư. Bức thông
điệp cho rằng cuộc canh tân khoa thần học
luân lư sẽ xẩy ra ở chỗ lấy lại và phát
triển tư tưởng là tự do được lư trí
hướng dẫn phải hướng về sự
thật và phải nên trọn nơi sự thiện –
nơi các mối phúc thật – của việc thăng hoa
con người, chứ không phải nơi việc
thắng được một ít lần đối
chọi nhau trong cuộc tranh đấu giữa ư muốn
giằng co quyết liệt giữa Thiên Chúa và tôi.
“Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II kết luận là, sự thật về
thảm kịch của đời sống luân lư cũng
như về tự do được tỏ hiện qua
gương mẫu của những ai sẵn sàng chết
đi hơn làm những ǵ họ biết là sai trái.
Chứng từ của các vị tử đạo là
một đối thủ dũng mănh nhất chống
lại chủ trương cho thấy rằng phẩm
vị của tự do là làm mọi sự theo như ư
của ḿnh. Vị tử đạo dạy cho chúng ta bài
học tự do thực sự là một cái ǵ đó riêng
tư và là một cái ǵ đó thực sự giải thoát khi
nó t́m kiếm sự thiện và từ bỏ sự dữ,
cho dù con người có phải chết đi nữa. Không
phải ai cũng được kêu gọi để
trở thành một vị tử đạo. Nhưng
mọi người đều được kêu gọi
để làm chứng nhân cho sự thật về luân lư, mà
‘chứng nhân’ là nguyên nghĩa của chữ ‘tử
đạo’ vậy.
“Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II thoạt loan báo ư định nói
đến ‘những vấn đề hoàn toàn và sâu xa
hơn liên quan đến chính nền tảng của khoa
thần học luân lư’ trong bức tông thư Thần Linh
Chúa Spiritus Domini năm 1987, một văn kiện ban hành
để kỷ niệm 200 năm qua đời của
Thánh Anphôngsô Liguori, nhà thần học luân lư có tiếng
tăm của thế kỷ 18. Thế là thông điệp
Rạng Ngời Chân Lư Veritatis Splendor đă có cả 6 năm
để thực hiện.
“Việc
hoàn thành bức thông điệp này đă phải chờ
đợi cho cuốn Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo phát
hành trước, một cuốn giáo lư được Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II ghi nhận trong bức thông điệp
này là ‘chứa đựng giáo huấn về luân lư Kitô giáo
được tŕnh bày đầy đủ và mạch
lạc’. Nếu muốn nhấn mạnh đến cả
hai dự phóng thực hiện này th́ cần phải tŕnh bày
một cách tích cực trọn vẹn kiến thức Công
giáo về đời sống luân lư nơi cuốn Giáo Lư
trước. Người ta nghĩ rằng như thế
sẽ dọn đường cho những suy tư chuyên
biệt sắc bén hơn về những nền tảng
của lập luận luân lư, cho việc b́nh phẩm
những khó khăn trở ngại nơi khoa thần
học luân lư hiện đại, và cho việc phân giải
mối liên hệ giữa các căn bản của luân lư
Công giáo với cuộc khủng hoảng của nền
văn hóa tân tiến.
“Việc
sửa soạn cho thông điệp Rạng Ngời Chân Lư
Veritatis Splendor bao gồm một số ủy ban giáo hoàng.
Trong tiến tŕnh soạn thảo, Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II đă bàn với các vị giám mục và các thần
học gia khắp thế giới. Cũng dễ dàng
thấy được ảnh hưởng của họ
nơi bản văn đúc kết bức thông điệp.
Việc bức thông điệp phê b́nh tư tưởng
tự-do-là-ư-muốn và tư tưởng đề cao
tự-do-trên-hết, là việc đi song song với
việc làm của Servais Pinckaers, một tu sĩ Đaminh
người Bỉ và là giáo sư luân lư thần học
ở Đại học Fribourg nước Thụy Sĩ.
Những trích dẫn dài căn cứ vào Thánh Âu-Quốc-Tinh
và những đề tài theo Thánh Bonaventura cho thấy
những khuynh hướng kỳ cựu của Đức
Hồng Y Joseph Ratzinger. Bản chất của hành
động luân lư cũng như việc khai sáng theo
triết lư và thần học về các hành động
‘tự nó là xấu’ đă liên quan đến mối chú tâm
của Tadeusz Styczén, SDS và Andrzej Szostek, MIC, là những
bạn học của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ở Đại
học Công giáo Lublin. Cũng như bất cứ một
văn kiện nào của Đức Giáo Hoàng, bức thông
điệp này chắc chắn đă được ngài
đem bàn với nhà thần học ở nội cung giáo
hoàng là Georges Cottier, một tu sĩ Ḍng Đaminh
người Thụy Sĩ.
“Tuy
nhiên Rạng Ngời Chân Lư Veritatis Splendor là một bức
thông điệp của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
nhiều nhất, cả về tư tưởng cũng
như h́nh thức. Phần thứ nhất của bức
thông điệp, phần về việc Mọi
người t́m kiếm sự thiện để
được sự sống đời đời, là
phần phản ánh những đề tài nhân loại
học thảm khốc đă được Karol Wojtyla
tŕnh bày từ những ngày c̣n ở Sân Khấu Rhapsodic. Kinh
nghiệm sống ở
“Báo
chí viết về bức thông điệp đă mạnh
mẽ tiên đoán là Đức Giáo Hoàng sẽ tái xác
nhận nền luân lư về tính dục Công giáo cổ
thời, thật ra những vấn đề này lại ít
khi được đề cập đến trong thông
điệp Rạng Ngời Chân Lư Veritatis Splendor; không
hiểu tại sao các nhà tường thuật cứ thích
tường tŕnh là Đức Giáo Hoàng vẫn tiếp
tục cho rằng tà dâm là sai quấy. Vào những tháng
trước khi ban hành bức thông điệp đă có
những suy đoán lan truyền cho rằng Giáo Hoàng ‘tuyên
chiến’ với những vấn đề cấp tiến
thần học, như thần học gia người Đức
là Giáo sư Norbert Greinacher ở Đại học Tubingen
đặt ra. Greinacher đă nói như thế theo các bản
tường thuật ở Ư được căn cứ
vào những tin tức lọt ra từ một bản
thảo chắc ăn của bức thông điệp
Rạng Ngời Chân Lư Veritatis Splendor. Báo chí Công giáo Anh
quốc c̣n làm cho các vấn đề bị lẫn lộn
hơn nữa, khi tường thuật rằng ‘nền
tảng của văn kiện này… là nguyên tắc về
thẩm quyền của giáo hoàng’ – lời tường
thuật này hoặc là coi thường hay cốù ư
đọc sai đi tư tưởng của Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II về những vấn đề
quyết liệt. Một tuần báo Công giáo Anh quốc khác
cho rằng Đức Giáo Hoàng đă bị bắt buộc
viết lại tất cả bức thông điệp v́ có
những phản ứng chống lại ‘bản thảo’
bị lộ. Vấn đề Đức Giáo Hoàng đang
bàn đến những vấn nạn có tầm mức quan
trọng quyết liệt đối với những xă
hội tự do th́ ít khi được nhắc đến
nơi những nỗ lực trước khi ban hành bức
thông điệp, để có thể thấy
được rằng Đức Giáo Hoàng chỉ chọn
lựa thành phần thần học gia nào thôi.
“Sau
khi ban hành bức thông điệp, Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II đă thường xuyên nhận được
phản ứng cả tích cực lẫn tiêu cực về
văn kiện Rạng Ngời Chân Lư Veritatis Splendor. Thế
giới thần học nói tiếng Đức
đă đặc biệt phê phán văn kiện này, cho
rằng Đức Giáo Hoàng đúng nơi những ǵ Ngài bài
bác, nhưng họ lại chủ trương rằng
bức thông điệp không phê phán một thần học
gia hữu trách nào đă viết hay dạy một lư
thuyết riêng biệt về ‘giải pháp căn bản’
(tức là chiều hướng sống của một
người là do thành quả về luân lư cao cả hơn
là do một số những hành động riêng nào đó,
bất kể là những hành động ấy có xấu
đi nữa). Cũng có những lời phê phán tương
tự như thế từ các thần học gia Hoa Kỳ.
Charles Curan đă nói một cách thản nhiên rằng ‘bức
thông điệp không phác họa h́nh ảnh thực sự của
khoa thần học luân lư Công giáo ngày nay’. Lawrence Cunningham
ở Viện Đại Học Đức Bà Notre Dame
đă diễn tả Veritatis Splendor như là một ‘Humani
Generis của thế hệ này’ và trách cứ là bức thông
điệp cố áp đặt những quan điểm
của một trường phái thần học duy nhất
trên toàn thể Giáo Hội. Nicholas Lash ở Đại Anh
quốc cũng trách cứ như vậy, nhưng ở
đây là việc áp đặt ‘một trường phái duy
nhất của triết thuyết luân lư’.
“Nhiều
thần học gia phê phán về bức thông điệp
lấy văn kiện này như là một nước
cờ của giáo hoàng trong cuộc đấu chọi
về quyền lực của kiến thức trong Giáo
Hội. Nỗ lực của bức thông điệp là
để làm kiên vững các nền tảng luân lư của
một xă hội tự do, một nền tảng hầu
như không được để ư đến ǵ cả.
Phản ứng thần học Công giáo về việc b́nh
luận đối với bức thông điệp cũng
không nắm vững được việc Đức Giáo
Hoàng cho thấy là v́ khoa thần học luân lư ‘mới’ là
một cái ǵ khác về luật phép nên nó đă bị bác
bỏ thẳng tay. Việc phát triển thực sự
về khoa thần học có thể sẽ bị trễ
cơ hội, gây ra bởi những phản ứng hoàn toàn
có tính cách chính trị đối với một bức thông
điệp nhắm đến việc làm cho khoa thần
học luân lư Công giáo nghĩ lại về sự thiện
cũng như về phúc đức như là chân trời
của cuộc sống luân lư.
“Một
số thần học gia luân lư nổi tiếng bên Tin Lành và
các triết gia luân lư người Do Thái có xu hướng
đọc bức thông điệp này một cách nghiêm
chỉnh, thậm chí một cách cảm mến hơn.
Gilbert Meilaender ở Đại học Oberlin College, một
người Tin Lành Luthêrô Hoa Kỳ, đă kết thúc bài b́nh
luận trang trọng bằng những lời nói lên là ông ta
‘khó ḷng nghĩ được rằng sẽ có một
lời tuyên bố nghiêm cẩn tương đương
nào khác về bản chất của luân lư thần học
trong lúc này ở nơi tổ chức Tin Lành’. Mỉa mai
thay, một khi các thần học gia Tin Lành muốn ‘bảo
tồn những vấn nạn của Phong Trào Cải Cách
cũng như trọng tâm của ngôn từ đức tin’
nơi thần học luân lư của ḿnh th́ họ đă
phải thực hiện việc trao đổi với
bức thông điệp Rạng Ngời Chân Lư Veritatis
Splendor. Hadley Arkes ở Đại học Amherst College
lấy làm lạ lùng cho rằng, tại sao một vài
thần học gia phê phán bức thông điệp đă không
nắm được những ǵ đang xẩy ra nơi
nền văn hóa hiện đại: ‘Trên hai mươi
năm qua’, Arkes viết, ‘mọi người tài xế taxi
đều biết rằng các viện đại học
của chúng ta đă trở thành những chủng viện
trong một niềm tin mới về chủ nghĩa luân lư
tương đối’. Arkes c̣n thêm, đó là một tin
rất buốn cho các thể chế dân chủ. Chúng ta
đánh giá tự do của ḿnh và tôn trọng tự do
của người khác v́ chúng ta hiểu ḿnh và những
người khác như là những tác nhân b́nh thường,
có khả năng hiểu được đúng sai.
Những ǵ thế giới tân tiến đă lăng quên và
những ǵ Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă cố
gắng lấy lại, đó là ‘mối liên hệ giữa
tự do và nền tảng luân lư của nó’, một nền
tảng được các chủ trương sống tự
do công nhận và gắn bó.
“Cái
khung sườn của bức thông điệp Rạng
Ngời Chân Lư Veritatis Splendor cho việc khai triển khoa
thần học luân lư Công giáo sẽ tiếp tục làm cho
cuộc sống Công giáo trong thế kỷ 21, và có thể
c̣n xa hơn thế nữa, được h́nh thành tốt
đẹp. Thế hệ học giả trẻ ngày nay có
được một loạt qui điểm đáng tin mà
họ ưng ư. Hơn cả các vị giáo sư của
ḿnh, thế hệ trẻ này tỏ ra muốn vật
lộn với đề bạt của bức thông
điệp, đó là thế hệ thời công đồng
của các thần học gia luân lư Công giáo phải tái xác nhận
các qui lệ của luật phép luân lư trong một tṛ
chơi bị hụt hẫng. Phản ứng đối
với bức thông điệp, nhất là ở Bắc
Mỹ, cho thấy là những triết gia và thần học
gia Công giáo trẻ này sẽ t́m được những
người cùng ḿnh trao đổi, nơi các nhà tư
tưởng Tin Lành và Do Thái, những người mà
cộng đồng của họ đă thoạt nghiệm
thấy được những hậu quả tàn hại
của chủ nghĩa luân lư chủ quan và luân lư
tương đối.