Phụ Trương
Từ
THẦN
HỌC Á CHÂU,
THẦN
HỌC VIỆT
Đến
CHÚA KITÔ
TOÀN CẦU,
ĐẤNG
CỨU THẾ DUY NHẤT
“GIÁO HỘI TẠI Á CHÂU” KHÔNG
CÓ THẦN HỌC Á CHÂU
N |
gười ta đang b́nh
luận về văn kiện Hậu Thượng Hội
Giám Mục Á Châu, đó là Tông Huấn “Giáo Hội Tại Á
Châu” do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đúc kết và ban
bố tại Ấn Độ vào ngày Lễ Ánh Sáng của
xứ sở này, Chúa Nhật 7/11/1999. Ư tưởng chính của
việc b́nh luận ấy là vấn đề người
ta cho rằng bức Tông Huấn không nhấn mạnh đến
hay không phác ra một nền Thần Học Á Châu ǵ cả, để
nhờ đó có thể truyền bá phúc âm hóa đắc
lực cho dân chúng tại địa lục này!
Tuy nhiên, để có thể b́nh
luận một cách phân minh và chính xác, trước hết
cần phải thấu triệt trọn vẹn bức tông
huấn chỉ nam lịch sử hết sức quan trọng
này. Bức Tông Huấn cẩm nang “Giáo Hội Tại Á
Châu”, ngoại trừ phần mở và kết, gồm có
bảy phần chính:
·
Phần nhất
về những thực tại ở Á Châu, nhất là
về việc Giáo Hội hiện diện tại lục địa
này (cả đoạn 9);
·
Phần hai
về Chúa Cứu Thế là món quà quí nhất Giáo Hội trao
tặng cho Á Châu (10.2);
·
Phần ba về tác
động của Chúa Thánh Thần nơi các thực
tại phức tạp ở Á Châu mà Giáo Hội cần khám
phá ra để truyền giáo tại đây (18.3);
·
Phần bốn
về việc Giáo Hội phải loan báo và làm chứng cho
Chúa Cứu Thế cho các dân tộc Á Châu bằng việc hội
nhập văn hóa (cả đoạn 22);
·
Phần năm
về sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội tại
Á Châu cần phải được thực hiện
bằng việc hiệp thông nội bộ Kitô hữu
tại đây qua vấn đề đối thoại đại
kết trước (cả đoạn 30) rồi mới tới
đối thoại liên tôn sau (cả đoạn 31);
·
Phần sáu về
việc áp dụng học thuyết xă hội của Giáo Hội
vào mọi lănh vực có trọng tâm là chính phẩm giá của
con người (cả đoạn 33), và
·
Phần bảy
về vai tṛ của mọi thành phần Giáo Hội tại Á
Châu trong việc làm chứng nhân đích thực cho Chúa Kitô,
cho dù có phải tử đạo (cả đoạn 49).
Đ |
úng
thế, theo chủ quan và một cách minh nhiên, Tông Thư
“Giáo Hội Tại Á Châu” không hề đề cập đến
từ ngữ hay vấn đề Thần Học Á Châu.
Bởi v́, đây là văn kiện đúc kết Thượng
Hội Giám Mục Á Châu, mà trong cuộc thượng hội
này các vị nghị phụ không hoàn toàn bàn đến
vấn đề ấy như một chủ đề
riêng biệt, do đó bức Tông Thư hậu Thượng
Hội cũng không thể nào đúc kết ra ngoài đề
được.
Vả
lại, vấn đề Thần Học Á Châu là một
vấn đề thật là phức tạp, v́ nó là một
vấn đề trực tiếp liên quan đến các
nền đạo giáo và văn hóa hết sức phức
tạp và hoàn toàn khác biệt nhau ở phần đất
này: nếu tổng quát hóa quá sẽ dễ bị thiển
cận hay thiên lệch, đặt nặng đạo này hơn
đạo kia, nhấn mạnh nhiều đến văn hóa
này hơn văn hóa khác; ngược lại, nếu chi
tiết hóa quá cũng có thể thiếu sót, bởi không tỉ
mỉ và cẩn thận bao gồm đến mức
tối đa tất cả mọi đạo giáo và văn
hóa Á Châu trong đó.
Chính v́ thế, tuy không kỹ
lưỡng phác họa hay tổng quan hướng dẫn
nền Thần Học Á Châu, Tông Thư “Giáo Hội Tại Á
Châu” cũng đă hết sức chú trọng đến t́nh
trạng đạo giáo và văn hóa phức tạp rất
khó khăn trong việc truyền bá phúc âm hóa của ḿnh, từ
đó, văn kiện hậu Thượng Hội này đă đề
nghị một vài cách thế và khuyến khích việc khai
triển một nền Thần Học Á Châu, như sau:
·
“Việc tŕnh bày
Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất cần
phải theo một phương pháp tuần tự đưa
người ta đến chỗ hoàn toàn thấu triệt được
mầu nhiệm này... Tổng quát mà nói phương pháp
kể truyện hợp với các h́nh thức văn hóa Á
Châu hơn. Thật thế, việc loan báo (ban đầu cho người không phải Kitô
hữu) về Chúa
Giêsu Kitô hiệu nghiệm nhất cần phải được
thực hiện bằng việc kể truyện về Người
như các Phúc Âm thuật lại. Những ư niệm siêu h́nh
nếu có, những ư niệm bao giờ cũng phải được
nêu lên hay diễn tả khi tŕnh bày về Chúa Giêsu, có thể
được hỗ tương bằng những khía
cạnh tương quan, khía cạnh lịch sử thậm
chí cả đến khía cạnh thiên nhiên vũ trụ
nữa. Các Nghị Phụ Thượng Hội cho rằng
Giáo Hội cần phải cởi mở đối với
những đường lối giúp vào việc khả dĩ
tŕnh bày cho thấy dung nhan của Chúa Giêsu ở Á Châu... Thượng
Hội đă đề nghị là việc dạy giáo lư sau đó
(cho
Kitô hữu sau khi đă được nghe loan báo tiên khởi
về Chúa Kitô và đă lănh nhận bí tích rửa tội) phải theo ‘một phương
pháp thu hút bằng những câu truyện kể, những dụ
ngôn và những biểu hiệu mang tính cách sư phạm Á
Châu’ (Relatio
post disceptationem, 15)
”. (đoạn 20.6)
· “Công việc loan báo Chúa Giêsu
bằng một đường lối khiến các dân tộc
Á Châu thấy họ gần gũi với Người, trong
khi đó vẫn trung thành với cả tín lư thần học
của Giáo Hội lẫn căn tính Á Châu riêng của ḿnh là
một thách đố cả thể”. (đoạn 20.5)
·
“Thượng Hội
Giám Mục này đă tỏ ra khuyến khích các nhà thần học
trong việc khôn ngoan phát triển một thứ thần học
hội nhập văn hóa, nhất là ở lănh vực Kitô học”.
(đoạn
22.1)
(Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II, Tông Huấn “Giáo Hội Tại Á Châu”,
L’Osservatore
Romano, ấn bản Anh ngữ, 10/11/1999)
Thật ra Thần Học Á
Châu đă có ở ngay trong các đạo giáo hay văn hóa Á
Châu rồi, Kitô hữu chúng ta chỉ cần khám phá và
hệ thống hóa tất cả lại mà thôi, chứ không
cần phải sáng tạo nên một khoa học mới nào
cả. Bởi v́, nếu thần học là tất cả
những ǵ về Thiên Chúa hay liên quan đến Thiên Chúa, th́
không ǵ liên quan hay qui về Thiên Chúa bằng các đạo
giáo và văn hóa Á Châu.
Chẳng hạn, Thiên Chúa có ư định
cứu độ loài người cho khỏi tội lỗi
và sự chết, th́ Ấn Giáo và Phật Giáo cũng
khao khát và t́m kiếm vượt thoát cho khỏi cuộc “đời
là bể khổ” và đầy “nghiệp chướng” này;
hay Thiên Chúa muốn loài người sống trên thế gian được
an vui thái ḥa trong sinh hoạt xă hội của họ, th́ Khổng
Giáo cũng thực hành “công, dung, ngôn, hạnh” (nơi nữ giới) và “nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín” (nơi
nam giới), c̣n Hồi
Giáo thực thi đức thuần phục; hoặc Thiên
Chúa muốn con người dù sống trong trần gian song cũng
không được dính bén với trần gian, trái lại
phải sống siêu thoát như không thuộc về thế
gian, th́ Lăo Giáo cũng khao khát và t́m kiếm “vô vi” thanh tịnh,
Do Thái Giáo sống trung thành với Giavê của ḿnh, không
“ngoại t́nh” với bất cứ một “ngẫu tượng”
nào v.v.
Như
thế, theo nhăn quan Kitô Giáo, chúng ta thấy những ǵ được
gọi là Thần Học Á Châu này hoàn toàn phản ảnh hay
hợp với Mạc Khải Thần Linh. Áp dụng nguyên
tắc này, nguyên tắc là những ǵ hợp với Mạc
Khải Thần Linh hay phản ảnh Mạc Khải
Thần Linh đều có thể được gọi là
thần học, chúng ta có thể thiết lập bất cứ
một nền thần học nào, như Thần Học
Việt Nam chẳng hạn. Thật vậy, nơi văn hóa
Việt Nam, được thể hiện rơ ràng và tự
nhiên nhất qua ca dao và tục ngũ b́nh dân, chúng ta thấy
có mấy điểm nổi bật làm nên Thần Học
Việt Nam như sau.
Điểm Thần Học
Việt Nam thứ nhất về việc sống đức
tin hơn là sống tự nhiên, đó là “người ta
không nguyên sống bởi bánh mà c̣n bởi mọi lời
Thiên Chúa phán ra” (Mt
4:4; Dt 8:3), ở chỗ,
người Việt Nam chẳng những chủ trương
“có thực mới vực được đạo”
mà c̣n chủ trương có đạo mới có gạo:
“Lạy trời mưa xuống lấy nước tôi
uống, lấy ruộng tội cầy, lấy đầy
bát cơm, lấy rơm đun bếp”.
Điểm Thần Học
Việt Nam thứ hai về ư nghĩa đời sống hôn
nhân giữa hai người nam nữ, đó là “cả hai
nên một xương thịt” (Gen 2:24), qua việc họ gọi nhau, vợ gọi
chồng và chồng gọi vợ, là “ḿnh”, nghĩa là
cả hai trở thành ruột thịt với nhau, coi nhau như
anh em trong một gia đ́nh (xem Tobia 7:11), vợ gọi chồng là “anh” và chồng
gọi vợ là”em”.
Tuy nhiên, những người
chủ trương Thần Học Á Châu hay Thần Học
Việt Nam không phải chỉ muốn khám phá ra những
Mầm Mồng Thần Linh nơi đạo giáo và văn hóa
của chung các dân tộc Á Châu hay của riêng dân tộc
Việt Nam như thế, mà là muốn hệ thống hóa chúng
lại thành một hệ thống, một khoa học, như
kiểu Thần Học Thánh Tôma, vị đă áp dụng
Triết Tây (đặc biệt của Platô và Aristốt)
vào Thần Học Kitô Giáo, hay nói ngược lại, vị
đă cắt nghĩa Thần Học Kitô Giáo theo Triết
Tây hay bằng Triết Tây. Nếu thế, cần phải có
một bộ óc Tôma Á Châu hay Tôma Việt Nam hiện đại,
một bộ óc chẳng những nắm vững Thần Học
Kitô Giáo mà c̣n thấu triệt cả Triết Đông
(kể cả Hồi Giáo và Do Thái Giáo), để áp dụng
Triết Đông vào Thần Học Kitô Giáo một cách chính
xác và khéo léo, hay để Thần Học Kitô Giáo được
diễn tả một cách trung thực và thích hợp
bằng Triết Đông.
Thế nhưng, cho dù mai đây
hay ngay bây giờ đi nữa, Kitô hữu Á Châu chúng ta nói
chung và Việt Nam chúng ta nói riêng, có được một
nền Thần Học Á Châu hay Thần Học Việt Nam
như thế, chúng ta có bảo đảm là chắc
chắn sẽ thành công trong việc truyền bá phúc âm hóa cho
các dân tộc Á Châu hay Việt Nam hay chăng? Hay nền
Thần Học Á Châu hoặc Thần Học Việt Nam này,
như loại Thần Học Kinh Viện của Thánh Tôma,
chỉ thích hợp để dạy trong các đại chủng
viện, chỉ thích hợp cho giới trí thức t́m
hiểu hơn là tŕnh bày cho đa số b́nh dân, và chỉ
thích hợp cho việc đối thoại liên tôn hơn là
dạy giáo lư.
Thử hỏi, theo kinh
nghiệm, việc đối thoại liên tôn, bằng cách
tranh luận hay chia sẻ đạo lư với nhau, đă có
bao nhiêu người trở lại hoàn toàn v́ thuần phục
lư thuyết như thế. Điển h́nh là Thánh Tông Đồ
Dân Ngoại Phaolô, ai dám chê ngài là một nhà truyền giáo dở
hay không biết áp dụng phương pháp truyền giáo?
Thế mà, với lư thuyết độc thần của Kitô
Giáo (cũng là của Do Thái Giáo), và bằng một đường
lối lấy chính văn hóa đa thần của dân thành
Nhă Điển để mở đầu và nhờ đó đi
đến việc tŕnh bày giáo thuyết chân chính của ḿnh,
hầu kéo những bộ óc trí thức đệ nhất
thời ấy về với chân lư cứu rỗi là Tin Mừng
Phục Sinh, kết quả Sách Tông Vụ thuật lại
như sau:
·
“Khi họ nghe
về việc sống lại từ kẻ chết, một
số đă tỏ ra mỉa mai, c̣n một số th́ nói: ‘Chúng
tôi chắc phải nghe anh nói về đề tài này vào
những lúc khác thôi’” (Acts 17:32)
CÓ CẦN THẦN HỌC Á CHÂU,
THẦN HỌC VIỆT NAM?
G |
iả
sử vào năm 1948, có một bộ óc Tôma Á Châu hay Tôma
Việt Nam nào đó đă hoàn thành xong hệ thống
Thần Học Á Châu và trường phái Thần Học
Việt Nam, được Hội Đồng Giám Mục Á
Châu và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam chuẩn
nhận, và năm 1950, hệ thống Thần Học Á Châu
và trường phái Thần Học Việt Nam này được
thẩm quyền Giáo Hội địa phương chính thức
hóa, chẳng những để làm như là một khoa
thần học duy nhất cho việc giảng dạy
tại các đại chủng viện về phương
diện thần học tín lư cũng như thần học
luân lư, mà c̣n để làm như là một mẫu thức
duy nhất về phương diện thần học mục
vụ trong việc hiệu nghiệm hóa việc truyền
bá phúc âm hóa tại Á Châu và Việt Nam.
Thế nhưng, chúng ta có dám
chắc và khẳng định là bộ óc Tôma Á Châu hay Tôma
Việt Nam hết xẩy này, cho đến năm 1997, tức
trong ṿng 50 năm, với hệ thồng Thần Học Á
Châu của ḿnh ấy, sẽ gặt hái được “muôn
vàn hoa trái” (Jn
12:24, 15:5) trong
việc truyền giáo, chẳng những tại Á Châu chỉ
có gần 3% Kitô hữu mà c̣n trên khắp thế giới,
nhất là thế giới Kitô giáo Âu Mỹ đang bị phá
sản về nền “văn minh yêu thương” (Đức Phaolô
VI) và đang choáng váng
theo cuồng phong “văn hóa sự chết” (Đức Gioan
Phaolô II), như một
Mẹ Têrêsa Calcutta hay chăng, một con người Âu
Châu, không biết ǵ về Thần Học Á Châu, song từ
1948-1997 vẫn làm cho dân Á Châu nói chung và Ấn Độ
(Giáo) nói riêng nhận ra Dung Nhan Chúa Kitô, một dung nhan đích
thực của Người, không Á cũng chẳng Âu,
dung nhan của một Thiên Chúa làm người (như mọi
người ngoại trừ tội lỗi), một dung
nhan “đến không phải để được
hầu hạ mà là để phục vụ, để
hiến mạng sống ḿnh làm giá cứu chuộc cho
nhiều người” (Mt 20:28).
So
sánh như thế không có nghĩa là hoàn toàn phủ nhận
hay coi thường Thần Học Á Châu hay Thần Học
Việt Nam! Vấn đề ở đây là đường
lối truyền giáo nào dễ hơn, nhanh hơn và có
hiệu quả hơn: bộ óc (giảng dạy theo khoa học)
hay bộ ḷng (phục vụ trong yêu thương). Chúng
ta chờ cho tới bao giờ mới có hệ thống
Thần Học Á Châu hay trường phái Thần Học
Việt Nam đây, những ǵ mà theo nhiều bộ óc cho
rằng nếu không có th́ không thể truyền giáo tại Á
Châu hay tại Việt Nam được, hay có làm th́
gặt hái cũng chẳng được bao nhiêu. Cho dù
nếu có những ǵ họ cần ngay bây giờ đi
nữa, họ sẽ làm sao để tiến đến với
các người ngoài Kitô giáo đây, nhất là đến với
đa số thành phần b́nh dân, hay chỉ đến với
một ít trí thức bằng đối thoại liên tôn?
Họ nghĩ rằng sau cuộc
đối thoại liên tôn này các bộ óc thượng
thặng của Phật Giáo, Ấn Giáo, Hồi Giáo, Khổng
Giáo, Lăo Giáo, Cao Đài, Ḥa Hảo v.v. sẽ không nhiều th́
ít, không nhanh th́ chậm, rồi cũng “tin vào Tin Mừng và
chịu phép rửa (để) được cứu rỗi”
(Mk 16:16) hay sao?
Thế th́, c̣n ai gần gũi
Kitô Giáo bằng Do Thái Giáo, vậy mà, cho đến nay, thành
phần Dân Thiên Chúa tuyển chọn này đă chân nhận
nhân vật lịch sử Giêsu mang bộ mặt và gịng
máu hoàn toàn Do Thái “là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống” (Mt
16:16) chưa??
Tại sao chúng ta thuần túy
là người Á Châu, là người Việt Nam, hiểu
biết văn hóa của ḿnh hơn ai hết, lại không
thể làm cho chính dân ḿnh trở lại bằng các nhà
truyền giáo ngoại quốc, như những vị tiêu
biểu được bức Tông Huấn “Giáo Hội
Tại Á Châu” nêu gương như “Giovanni da Montecorvino,
Matteo Ricci và Roberto de Nobili” (cuối đoạn 20.8)???
Vấn đề then chốt
của việc truyền giáo tại Á Châu hay ở Việt
Nam ở đây, theo tôi, không phải là vấn đề
Thần Học Á Châu hay Thần Học Việt Nam, một
hệ thống khoa học cố gắng để tŕnh bày
cho dân Á Châu hay Việt Nam thấy Chúa Kitô dù là người
Do Thái, đă đến Á Châu và Việt Nam với bộ Âu
phục, song cũng là người Việt Nam, là người
Á Châu, mà là vấn đề làm sao vị thừa sai có
thể đến được với thành phần ngoài
Kitô giáo đă, tức là được những người
ngoài Kitô giáo chấp nhận đă. Bởi v́, theo kinh nghiệm tâm
lư thông thường cho thấy, một khi đă được
chấp nhận, được mộ mến, con người
ta mới dễ cảm thông nhau và mới dễ đối
thoại, nhất là một khi ḿnh đă được người
khác cảm phục hay kính phục th́ việc họ nghe theo
ḿnh cũng không bao xa và khó khăn nữa, bằng không,
nếu v́ tư cách của ḿnh mà bị mất thiện
cảm với dân, th́ đừng nghĩ đến
chuyện truyền giáo, đến chuyện Thần Học
Á Châu, Thần Học Việt Nam làm ǵ nữa. Sau khi chinh phục
được ḷng người rồi mới là thời điểm
của Thần Học Á Châu hay Thần Học Việt Nam,
tôi thiển nghĩ như vậy.
Đúng
thế, theo tiến tŕnh truyền giáo th́ giai đoạn đầu
tiên là chiêu dụ tín đồ, rồi đến giai đoạn
ban phép rửa tội, sau hết mới đến giai đoạn
dạy dỗ sống đạo, như thứ tự
cần phải thực hiện theo lệnh truyền phục
sinh của Chúa Kitô:
·
“Các con hăy đi
khắp thế gian tuyển mộ môn đồ nơi
tất cả mọi dân nước. Hăy rửa tội
cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Hăy dạy dỗ
họ thi hành mọi sự Thày đă truyền cho các con”
(Mt
28:19-20).
Tông Huấn “Giáo Hội
Tại Á Châu” (đoạn
23.4) cũng đă
nhắc lại và khai triển thứ tự của
những giai đoạn truyền giáo ấy như sau:
·
“Thượng Hội
Giám Mục này nhận định rằng ‘việc
truyền bá phúc âm hóa ngày nay là một thực tại vừa
phong phú vừa năng động. Nó bao gồm nhiều
khía cạnh và yếu tố khác nhau, như việc làm chứng,
đối thoại, loan báo, dạy giáo lư, trở lại,
rửa tội, tham gia cộng đoàn giáo hội, Giáo Hội
nẩy mầm, hội nhập văn hóa và thăng tiến
toàn diện con người”.
Như thế, theo lệnh
truyền phục sinh của Chúa Kitô, nếu giai đoạn
đầu tiên của việc truyền giáo là chiêu mộ
Kitô hữu, tức là làm cho con người tiến đến
việc lănh nhận phép rửa và sống đạo, th́
theo Tông Thư “Giáo Hội Tại Á Châu”, giai đoạn đầu
tiên trước khi lănh nhận phép rửa này bao gồm các
“việc làm chứng, đối thoại, loan báo, dạy
giáo lư, trở lại”, mà hai việc đầu tiên được
kể đến ở đây trong số này là “làm chứng”
và “đối thoại”, song “làm chứng” rơ ràng được
đặt trước “đối thoại”.
Con tim (nhậy cảm) đi
trước lư trí (lập luận) là thế! Đó
là lư do bộ óc của các vị tông đồ chưa
hiểu ǵ về Thày của ḿnh th́ cơi ḷng của các vị
đă cảm được Người và đi theo Người
rồi: “Chiên Tôi th́ nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng
theo Tôi” (Jn
10:27). Nếu nói là sở
dĩ các vị tông đồ cảm được “Đức
Kitô” (Jn
1:41), được
“Con Thiên Chúa” (Jn
1:49) ngay từ đầu
là v́ Người có một bộ mặt, bộ phục Do
Thái như các vị, th́ tại sao thành phần biệt phái Pharisiêu
và Hội Đồng Do Thái nhất định không
chấp nhận nhân vật Giêsu Nazarét như các vị, và
tại sao viên đại đội trưởng Rôma thi
hành án tử của Người trên đồi tử giá, hoàn
toàn không phải Do Thái, lại là người đầu
tiên, mà là dân ngoại, nhận biết Người ngay sau
khi Người hoàn tất công cuộc cứu chuộc của
Người (xem
Lk 23:47)?
Bởi thế, một điều
quan trọng cần phải nhớ trong việc truyền
giáo là kể cả thành phần chưa thuộc về đàn
chiên của Chúa Kitô cũng đă được Người
gọi là chiên và coi là chiên của Người rồi: “Tôi c̣n
những con chiên khác chưa thuộc về đàn này.
Tôi phải dẫn chúng về nữa và chúng sẽ nghe
thấy tiếng Tôi” (Jn 10:16; xem Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo
số 836). Và đặc
tính làm nên chiên của Người là ở chỗ chúng có
khả năng nghe được tiếng Người, dù
thành phần chiên chưa chính thức này đang là một người
vô thần, Phật tử, Khổng gia, Lăo đồ, theo Hồi
giáo, theo Ấn giáo v.v., bằng không, dù là chính dân Do Thái được
Thiên Chúa tuyển chọn đi chăng nữa, về tinh
thần, cũng không phải là chiên của Người:
“Những công việc Tôi nhân danh Cha Tôi mà làm đều chứng
thực về Tôi, song quí vị không chịu tin Tôi, v́ quí
vị không phải là chiên của Tôi” (Jn 10:25-26). Do đó, vị thừa sai
nói riêng và Kitô hữu nói chung, về phương diện tông
đồ truyền giáo, chính là tiếng Chúa Kitô kêu gọi của
thành phần chiên lạc đàn của Người, thành
phần chắc chắn sẽ theo Chúa Kitô nếu cơi ḷng
họ thực sự nghe thấy đúng là tiếng Người
vang lên nơi họ.