“Như Newman viết 80 năm
trước đây: ‘Giáo Hội Công giáo đă cùng đồng
hành với xă hội loài người qua một cuộc cách
mạng từ những tháng năm quan trọng của ḿnh;
th́ nay cuộc cách mạng thứ hai đang khai mào. Giáo
Hội đă trải qua trọn vẹn một ṿng thay đổi
để chứng tỏ cho thấy rằng Giáo Hội độc
lập với tất cả những đổi thay ấy.
Giáo Hội đă gặp thử thách cả ở bên Đông
cũng như bên Tây, cả ở chế độ quân
chủ cũng như dân chủ, cả trong lúc ḥa b́nh cũng
như chiến tranh, cả vào thời đen tối cũng
như triết học, cả ở các xứ sở thời
cổ cũng như thời mới. Hôm nay đây, như
trong thời Đế Quốc Rôma, Giáo Hội vẫn đứng
vững như là một tiêu biểu cho cái thế giới
xoay vần trong một lănh vực linh thiêng bất
chuyển dịch. Đó là lư do tại sao tôi tin tưởng
rằng Giáo Hội đă làm nên Âu châu th́ dầu sao cũng
cứu Âu châu, và tôi tin những lời trọng đại
của phụng vụ Phục Sinh: ‘Toàn thể thế giới
cảm nghiệm và nh́n thấy những ǵ đă sụp đổ
được phục hồi, những ǵ già nua được
trở nên mới mẻ, và tất cả mọi sự trở
về với t́nh trạng hiệp nhất nhờ Đấng
chúng được bắt nguồn...’”
(Nguyệt san Inside
The Vatican, 12/1999, trang 55-57)
Thế nhưng, “những
ǵ đă sụp đổ được phục hồi và
những ǵ đă già nua trở nên mới mẻ” đây
là ǵ, nếu không phải là việc con người “trở
về với các truyền thống thiêng liêng của Kitô
giáo” (trang
352), tức là con người tái
nhận biết Thiên Chúa, một thực tại nhận
biết thần linh được thể hiêïn sống động
nhất và đích thực nhất qua việc con người
yêu thương nhau như anh em trong một gia đ́nh và
chung sống ḥa thuận với nhau.
Đúng thế, ḥa b́nh thế
giới chẳng những là dấu chứng tỏ con người
thực sự yêu thương nhau, mà c̣n là dấu chứng
cho thấy Nước Thiên Chúa thực sự đă trị
đến trên trần gian. Tại sao? Nếu không phải
v́ Thiên Chúa đă hoàn toàn thực hiện được
dự án cứu độ thần linh của Ngài:
· “Con người được
Thiên Chúa kêu gọi để làm nên một gia đ́nh duy
nhất”. (xem trang 357)
· “Ḥa b́nh sẽ đến
chỉ khi nào toàn khối nhân loại tái cảm nhận được
ơn gọi sâu xa của ḿnh là một gia đ́nh duy
nhất, môït gia đ́nh chấp nhận phẩm vị và
quyền lợi của con người, bất kể vai
tṛ, chủng tộc hay tôn giáo của họ, trước
cả và trên cả bất cứ những ǵ khác nhau hay khác
biệt”. (xem trang 360)
· “Chúa Kitô đến để
hiệp nhất những ǵ bị phân rẽ, để
hủy diệt tội lỗi và hận thù, và để làm
cho con người tái nhận thức được ơn
gọi nên một và t́nh yêu huynh đệ”. (xem trang 373)
Chính v́ ḥa b́nh thế giới
có một tầm vóc quan trọng liên quan đến dự
án thần linh vô cùng cao cả của Thiên Chúa đối với
phần rỗi của toàn thể loài người như
thế mà kể từ sau Công Đồng Chung Vaticanô II, Giáo
Hội Công giáo đă thành lập Ngày Ḥa B́nh Thế Giới
vào đầu năm Dương lịch, và cũng vào chính
ngày này vị lănh đạo Vương Quốc Vatican
hằng năm gửi cho nhân loại một Sứ Điệp
Ḥa B́nh. Sau đây là nguyên văn Sứ Điệp Ḥa
B́nh Năm Thánh 2000, một sứ điệp bao
gồm tất cả quá khứ, hiện tại và tương
lai, một sứ điệp bao gồm cả chiến
tranh cùng với những căn nguyên gây ra chiến tranh,
lẫn đường lối hiệu lực đem con người
đến ḥa b́nh chân thực, một sứ điệp
hết sức khẩn trương của Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II để mở màn cho một thiên niên
kỷ mới.
“B́nh an dưới thế
cho người Chúa thương!”
1- Đây là lời loan báo của
các Thiên Thần để chào mừng Chúa Giêsu Kitô giáng sinh
2000 năm trước đây (x. Lk 2:14), cũng là lời chúng ta hân hoan nghe
vọng lại vào đêm thánh Giáng Sinh, thời điểm
long trọng khai mạc Cuộc Đại Mừng
Kỷ Niệm.
Vào lúc b́nh minh của một
tân thiên niên đây, chúng tôi muốn nêu lên một lần
nữa sứ điệp hy vọng phát xuất từ hang
Bêlem: sứ điệp đó là Thiên Chúa yêu thương
tất cả mọi người nam nữ trên trái đất
này và ban cho họ niềm hy vọng của một tân
kỷ nguyên, một kỷ nguyên ḥa b́nh. T́nh yêu của Ngài,
một t́nh yêu được hoàn toàn tỏ hiện nơi
Lời nhập thể, là nguồn gốc của ḥa b́nh
thế giới. Nếu được con người lănh
nhận tận đáy ḷng ḿnh, t́nh yêu này sẽ ḥa giải
con người với Thiên Chúa cũng như với nhau,
sẽ canh tân những mối liên hệ loài người và
sẽ khơi lên ước muốn sống một t́nh yêu
huynh đệ có thể loại trừ khuynh hướng
bạo lực và chiến tranh.
Cuộc Đại Mừng
Kỷ Niệm liên kết bất khả phân ly với sứ
điệp yêu thương và hoà giải này, một sứ điệp
vang vọng những ước mong đích thực nhất
của nhân loại ngày nay.
2- Nh́n đến một năm đầy
những ư nghĩa ấy, một lần nữa, Tôi xin
gửi đến mọi người lời chúc ḥa b́nh
của Tôi. Tôi xác nhận với mọi người là ḥa
b́nh là một điều khả dĩ. Nó cần phải được
cầu xin cùng Thiên Chúa ban cho như một ân huệ của
Ngài, song nó cũng cấn đến ơn Ngài trợ giúp để
được từ từ xây dựng lên bằng
những việc công b́nh và yêu thương.
Chắc chắn là có nhiều
điều phức tạp rắc rối trong những
vấn nạn khiến con đường dẫn đến
ḥa b́nh trở thành khó khăn và không phấn khởi cho
lắm, thế nhưng
ḥa b́nh vẫn là một nhu cầu sâu xa trong ḷng của
mọi con người nam nữ. Bởi thế,
con người không được phép nhụt chí t́m
kiếm ḥa b́nh. Việc t́m kiếm này phải được
bắt nguồn từ nhận thức là, cho dù có bị be
bét bởi tội lỗi, bởi ghen ghét hận thù và bởi
bạo lực đi nữa, con người vẫn được
Thiên Chúa kêu gọi để làm nên một gia đ́nh duy
nhất. Dự án thần linh này cần phải được
nhận thức và thực thi bằng việc t́m kiếm
các mối liên hệ ḥa hợp giữa các cá nhân và các dân
tộc với nhau, trong một thứ văn hóa hướng
đến Siêu Việt Thể, hướng đến
việc đề cao con người cũng như tôn
trọng thế giới thiên nhiên, những vấn đề
liên quan đến tất cả mọi người.
Đó
là sứ điệp Giáng Sinh, đó là sứ điệp
của Cuộc Mừng Kỷ Niệm, đó là niềm hy
vọng của Tôi khi bắt đầu một tân thiên niên
kỷ.
3- Trong thế kỷ chúng ta đang
bỏ lại sau lưng đây, nhân loại đă sót sa với
một chuỗi bất tận khủng khiếp là
chiến tranh, xung đột, tàn sát và “thanh lọc chủng
tộc”, gây nên khổ đau khôn xiết tả: cả
triệu triệu nạn nhân, gia đ́nh và xứ sở
bị hủy diệt, cả một biển cả tị
nạn, cùng quẫn, đói khát, bệnh hoạn, chậm
tiến và mất mát các nguồn lợi thiên nhiên phong phú.
Căn nguyên của biết bao khổ đau này chính là
chủ trương nổi vượt của con người,
với đầy những ước vọng muốn
thống trị và khai thác người khác, với các ư
hệ về quyền lực hay những ảo tưởng
chuyên chế bạo tàn, với các chủ nghĩa quốc
gia quá khích hay những mối thù ghét thuộc bộ tộc
xa xưa. Đă
có những trường hợp bạo lực dă man có
tổ chức, trường hợp bạo lực nhắm
vào việc tru diệt hay đầy đọa cả
nhiều dân tộc hay nhiều miền đất, đă
phải đương đầu với những cuộc
cưỡng chống bằng vơ trang.
Thế kỷ 20 trước
hết đă trối lại cho chúng ta một lời
cảnh báo cho rằng, chiến tranh thường lại là
nguyên cớ gây ra chiến tranh, v́ chúng chứa đầy
những hận thù ghen ghét, chúng tạo nên những t́nh
trạng bất công, cũng như chúng chà đạp lên
phẩm giá và các quyền lợi của con người.
Chiến tranh không giải quyết được các
vấn nạn của việc gây chiến, bởi thế,
ngoài những hư hại khiếp đảm do nó
tạo nên, chiến tranh c̣n cho thấy nó là một việc
làm hoàn toàn vô ích. Đối với nhân loại, chiến
tranh là một thảm bại. Chỉ trong ḥa b́nh và nhờ
ḥa b́nh mới bảo đảm được việc tôn
trọng phẩm vị của con người cùng với
các quyền lợi bất khả xâm phạm của họ (xem Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Sứ
Điệp cho Ngày Ḥa B́nh Thế Giới 1999, đoạn
1).
4- Trước bối cảnh
chiến tranh ở thế kỷ 20 ấy, nhân danh ḥa b́nh, có
những người đă lên tiếng và đă thực
hiện công cuộc bảo tŕ ḷng tôn trọng nhân loại.
Chúng
ta không thể nào không nhớ đến biết bao nhiêu là
con người nam nữ đă góp phần vào việc xác
nhận và việc long trọng công bố các quyền lợi
của con người, cũng như những người
đă giúp vào việc đánh hạ những h́nh thức
của chủ nghĩa chuyên chế bạo tàn, vào việc dứt
điểm chế độ thực dân đế
quốc, vào việc phát triển nền dân chủ và vào
việc thiết lập những tổ chức quốc
tế lớn. Những người sống một
cuộc sống theo chiều hướng bất bạo động
đáng khen đă cho chúng ta một gương sáng hùng
hồn. Gương liêm khiết và tín trung của họ, thường
tới độ tử đạo, đă cống hiến
cho chúng ta những bài học sâu đậm và sáng chói.
Trong
số thành phần hoạt động nhân danh ḥa b́nh, chúng
ta cũng không được quên những con người
nam nữ đă dấn thân mang lại những tiến
bộ cả thể về mọi lănh vực khoa học và
kỹ thuật, bằng việc có thể chế ngự được
các bệnh hoạn ghê gớm, cũng như việc
bồi dưỡng và kéo dài sự sống của con người.
Tôi
cũng không thể nào không nhắc đến các Vị
Tiền Nhiệm của Tôi đă hướng dẫn Giáo
Hội trong thế kỷ 20 này. Bằng giáo huấn cao đẹp
và bằng những nỗ lực không ngừng của ḿnh,
các vị đă vạch ra cho Giáo Hội thấy chiều hướng
trong việc cổ vơ một nền văn hóa ḥa b́nh. Tiêu
biểu cho nỗ lực đa diện này là trực giác
tiên liệu đúng lúc của Đức Phaolô VI trong
việc thành lập Ngày Ḥa B́nh Thế Giới từ
8/12/1967. Trải qua các năm từ đó, Ngày Ḥa B́nh
Thế Giới lại càng trở nên vững chắc
hơn, trở nên như là một cảm nghiệm tốt đẹp
trong tư tưởng cũng như trong cái nh́n chung về
tương lai nhân loại.
5- “B́nh an dưới thế
cho người Chúa thương!” Lời Phúc Âm chào mừng
này gợi lên một vấn nạn thấm thía, đó là thế
kỷ mới phải chăng sẽ là môït thế kỷ
b́nh an và là một thế kỷ tái cảm thức được
t́nh yêu huynh đệ giữa cá nhân cũng như giữa
các dân tộc với nhau? Dĩ nhiên là chúng ta không
thể nào thấy trước được tương
lai. Thế nhưng, chúng ta có thể bắt đầu
bằng một nguyên tắc chắc chắn là: ḥa b́nh
sẽ đến chỉ khi nào toàn khối nhân loại tái
cảm nhận được ơn gọi sâu xa của
ḿnh là một gia đ́nh duy nhất, môït gia đ́nh chấp
nhận phẩm vị và quyền lợi của con người,
bất kể vai tṛ, chủng tộc hay tôn giáo của
họ, trước cả và trên cả bất cứ
những ǵ khác nhau hay khác biệt.
Việc nhận thức này có
thể hiến cho thế giới như đang thấy
hiện nay, theo chiều hướng của tiến tŕnh toàn
cầu hóa, môït linh hồn, môït ư nghĩa và một hướng
đi. Tiến tŕnh toàn cầu hóa, với tất cả
những nguy hiểm của nó, cũng là những cơ hội
ngoại lệ và hứa hẹn nữa, chính là ở
chỗ nó là dịp cho nhân loại trở thành một gia đ́nh
duy nhất, được xây dựng trên các giá trị công
chính, b́nh đẳng và đoàn kết.
6- Để thực hiêïn được
điều này, con người cần phải hoàn toàn thay đổi
quan niệm, ở chỗ chủ trương không chỉ
nhắm đến t́nh trạng an sinh cho bất cứ
một côïng đồng chính trị, chủng tộc hay
văn hóa nào, mà là nhắm đến thiện ích của toàn
khối nhân loại.
Việc theo đuổi công ích của một cộng đồng
chính trị, được thể hiện ở việc
nhận thức và tôn trọng các quyền lợi được
Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền năm 1948 thừa
nhận, không thể tương khắc với công ích chung
của toàn thể nhân loại. Bởi vậy, cần
phải loại trừ những tư tưởng và
việc làm, thường được mang dấu vết
của các lợi lộc về quyền lực chính
trị, đặt quốc gia và Chính quyền của ḿnh
lên trên hết mọi giá trị khác. Theo chiều hướng
mới này th́ các phân biệt và khác biệt về chính
trị, văn hóa và cơ cấu, là những ǵ làm cho nhân
loại có lớp lang và tổ chức, đều hợp lư,
bao lâu chúng tương xứng với tư cách là phần
tử trong một gia đ́nh duy nhất, cũng như tương
xứng với các đ̣i hỏi về đạo lư và pháp
lư bởi đó mà ra.
7- Nguyên tắc ấy có một
tác dụng hết sức quan trọng, ở chỗ là xúc
phạm đến nhân quyền cũng chính là xúc
phạm đến lương tâm của con người
nữa, một việc xúc phạm đến chính nhân
loại. Thế nên, nhiệm vụ bảo vệ
những quyền này vượt ra ngoài biên giới về địa
dư cũng như về chính trị là những lănh
vực chúng bị vi phạm. Những tội ác
phạm đến loài người không thể cho là
việc nội bộ của một quốc gia.
Ở đây, con người đă tiến một bước
quan trọng trong việc thiết lập Ṭa Xử Tội Ác
Quốc Tế để cứu xét những tội ác vi
phạm ở bất cứ nơi chốn hay hoàn cảnh
nào. Chúng ta phải cảm tạ Thiên Chúa, v́ trong lương
tâm của con người ta cũng như của các dân
tộc đang phát triển một xác tín là không có giới
hạn nơi các quyền lợi của con người, v́
chúng là những ǵ phổ quát và bất phân chia.
8- Trong thời của chúng ta đây,
con số chiến tranh giữa các Quốc gia đă giảm
bớt. Sự kiện này, dù đáng mừng, nhưng nó
lại xuất hiện theo một chiều hướng
khác, nếu chúng ta xét đến những cuộc xung đột
nhau bằng vơ lực xẩy ra nơi một Quốc gia.
Tiếc thay, những cuộc xung đột nhau bằng vơ
lực ấy thực tế lại xẩy ra không ít, ở
mọi lục địa và thường rất ư là tàn
bạo. Đa số bởi v́ chúng bắt nguồn từ
những động lực lịch sử dài ḍng về đặc
tính của chủng tộc, chi tộc hay thậm chí tôn
giáo, ngoài ra, trong lúc này đây, c̣n phải kể đến
cả các nguyên do khác về ư hệ, xă hội và kinh tế
nữa.
Những xung đột trong
nội bộ, thường được thực
hiện bằng việc sử dụng nhiều thứ vũ
khí cỡ nhỏ được gọi là vũ khí
‘nhẹ’ – những vũ khí thực ra cũng gây tử thương
– thường gây ra những hậu quả nặng nề
lan cả ra ngoài biên giới lănh thổ quốc gia, trở
thành một vấn nạn liên quan đến các lợi
lộc và trách nhiệm của thành phần ngoại
cuộc nữa. Người ta không thể chối căi được
rằng, tính chất hết sức phức tạp của
những cuộc xung đột này làm cho con người khó
ḷng hiểu biết và thẩm định được
những căn nguyên và những động lực xẩy
ra, song có một sự kiện bất khả tranh căi, đó
là sự kiện chính thành phần dân chúng phải chịu
khổ thê thảm nhất, v́ trên thực tế, người
ta đă không tôn trọng cả luật lệ thông thường
cũng như luật lệ tham chiến. Dân chúng chẳng
những không được bảo vệ mà thường
c̣n trở thành mục tiêu chính của những lực lượng
chống đối nhau nữa, khi chính họ không trực
tiếp dính dáng đến việc sử dụng vơ khí là
kết quả của một cơn sốt cao độ,
một cơn sốt biến họ vừa trở thành
nạn nhân vừa trở thành tay sát thủ các người
dân khác.
Tất
cả những thảm kịch chết chóc quá nhiều và
rùng rợn đă xẩy ra cho các trẻ em vô tội, cho phụ
nữ và cho người lớn không vơ bị, là những
thành phần trở nên các mục tiêu nhắm đến của
những cuộc xung đột đẫm máu xẩy ra ở
thời của chúng ta; thật sự là đă xẩy ra quá
nhiều, khiến chúng ta không khỏi cảm thấy
rằng đă đến lúc chúng ta cần phải thay đổi
chiều hướng, một cách quyết liệt và với
một cảm thức trách nhiệm sâu xa.
9- Trong mọi hoàn cảnh, đối
diện với những trường hợp thảm
khốc và phức tạp như thế, những trường
hợp phản ngược lại với tất cả
những “lư do” tuyên chiến, con người cần
phải xác nhận giá trị tiên thượng của vấn
đề luật nhân đạo và nhiệm vụ bởi đó
mà ra trong việc bảo đảm quyền được
trợ giúp nhân đạo cho các thường dân và người
tị nạn khổ đau.
Việc
công nhận những quyền lợi này cùng với việc
áp dụng hiệu nghiệm các quyền lợi ấy không được
căn cứ vào những lợi lộc của bất cứ
phe nào đang xung đột nhau. Ngược lại,
phải có nhiệm vụ khám phá ra tất cả mọi phương
tiện, theo qui chế hay không, có thể thỏa đáng các
mục tiêu nhân đạo tốt đẹp nhất. Tính
cách hợp lư về luân lư và chính trị của những
quyền lợi này thực sự được căn cứ
vào nguyên tắc là thiện ích của con người có trước
hết tất cả mọi sự và ở trên tất
cả mọi cơ cấu tổ chức của con người.
10- Đến
đây, Tôi muốn nhắc lại niềm xác tín của Tôi
là, khi gặp phải những cuộc xung đột
vơ trang tân tiến ngày nay, th́ việc thương lượng
giữa các phe có một tính cách hết sức quan trọng,
qua những nỗ lực xứng hợp ở việc
trung gian và ḥa giải được thực hiện bởi
những tổ chức quốc tế và theo miền.
Việc thương lượng cần phải có để
tránh đi những cuộc xung đột như vậy, cũng
như để chấm dứt những cuộc xung đột
ấy nếu đă bùng nổ, ở chỗ phục
hồi ḥa b́nh bằng một giải quyết công bằng
liên quan đến vấn đề quyền lợi và lợi
lộc.
Niềm xác tín này chẳng
những dính dáng đến vai tṛ tích cực của các
cơ quan trung gian và ḥa giải mà c̣n phải được
bao gồm cả những tổ chức nhân đạo và
những cơ quan tôn giáo không thuộc cơ cấu tổ
chức chính quyền, những tổ chức và cơ quan
cổ vơ ḥa b́nh, một cách thận trọng và không có
những lư do nào thầm kín, giữa những phe đối
nghịch nhau, và giúp vào việc thắng vượt
những tranh giành lâu đời, hoà giải thù hằn và mở
đường hướng đến cùng một tương
lai mới. Trong khi tôn kính việc dấn thân cho ḥa b́nh cao
quí của họ, bằng một ḷng cảm kích sâu xa, Tôi
xin tưởng nhớ đến tất cả những ai
đă hy sinh mạng sống ḿnh cho người khác được
sống: Tôi dâng lên Thiên Chúa lời nguyện cầu cho
họ, và Tôi mời gọi những tín đồ khác cũng
làm như vậy.
11- Khi
thành phần dân chúng gặp phải những cuộc
tấn công của kẻ hung hăng bất chính, và khi
những nỗ lực về chính trị cũng như
việc hộ vệ bất bạo động cho thấy
không đi đến đâu, th́ dĩ nhiên là được
phép, thậm chí c̣n bị bắt buộc, phải có
những biện pháp cụ thể để giải giới
kẻ hung tàn bạo ngược. Tuy nhiên, những biện
pháp này phải được giới hạn theo thời
và phải nhắm đến chính đích điểm của
chúng. Phải sử dụng chúng bằng việc hết sức
tôn trọng luật lệ quốc tế được
thẩm quyền hợp pháp của quốc tế bảo đảm,
và không bao giờ chỉ được nhắm đến
thành quả can thiệp bằng vơ lực mà thôi.
Bởi
thế, muốn sử dụng những biện pháp can
thiệp ấy một cách hoàn toàn nhất và tốt đẹp
nhất, cần phải dựa vào tất cả những
qui định của Hiến Chương Liên Hiệp
Quốc, đă xác định rơ hơn nữa về
những khí cụ tác hiệu và những thể thức can
thiệp trong phạm vi của luật lệ quốc
tế. Về vấn đề này, chính Tổ Chức Liên
Hiệp Quốc phải cống hiến cho tất cả
mọi Quốc Gia Hội Viên một cơ hội như
nhau trong việc tham dự vào tiến tŕnh quyết định,
bằng cách loại bỏ đi những đặc ân và
những kỳ thị làm suy giảm vai tṛ và uy tín của
ḿnh.
12- Điều này mở ra
một lănh vực mới cho việc suy tư và bàn luận
đối với cả phương diện chính trị
lẫn pháp lư, một lănh vực tất cả chúng ta đều
hy vọng là sẽ được vun xới một cách
thiết tha và khôn ngoan. Một điều không thể
chần chờ được đó là việc cải
tổ lại luật lệ quốc tế cũng như
các cơ cấu quốc tế, một cuộc cải
tổ có khởi điểm và nguyên tắc thực
hiện nồng cốt đó là đặt căn bản
thiện ích của nhân loại cũng như của con người
lên trên mọi mối quan tâm khác. Một cuộc
cải tổ như vậy lại càng khẩn trương
hơn nữa nếu chúng ta để ư đến cái ngược
đời của t́nh trạng chiến tranh hiện đại,
như các cuộc xung đột gần đây đă cho
thấy, quân đội th́ được tối đa an toàn,
trong khi đó thành phần dân sự lại sống trong
những t́nh trạng nguy hiểm khiếp đảm. Không
một cuộc xung đột nào được phép tỏ
ra coi thường quyền được sống an toàn của
thành phần dân sự.
Ngoài
những quan tâm về pháp lư và cơ cấu ra, tất
cả những con người nam nữ thiện chí cũng
một nhiệm vụ cốt yếu, đó là nhiệm vụ
theo cá nhân ḿnh dấn thân hoạt động cho ḥa b́nh: đó
là việc dấn thân để hướng dẫn con người
sống ḥa b́nh, bằng việc tạo nên những khung
cảnh ḥa b́nh cũng như những phương pháp
bất bạo động, và bằng việc hết sức
cố gắng lôi kéo các phe xung đột nhau ngồi
lại để cùng thương lượng.
13- “B́nh
an dưới thế cho người Chúa thương!” Từ
vấn nạn chiến tranh, chúng ta tự nhiên hướng
tới một vấn đề có liên hệ chặt
chẽ khác nữa, đó là vấn nạn đoàn kết.
Công cuộc ḥa b́nh cao quí và cần thiết, một công
cuôïc bắt nguồn sâu xa từ việc loài người được
kêu gọi trở nên một gia đ́nh duy nhất và họ
cũng nhận thực như vậy, được đặt
nền tảng trên nguyên tắc là làm cho các nguồn lợi
của trái đất đạt đến mục tiêu chung.
Nguyên tắc này không làm mất đi tính cách hợp lư của
quyền tư hữu; trái lại, nó nới rộng
tầm hiểu biết và việc sử dụng tư
sản để bao gồm cả nhiệm vụ xă
hội của nó, một nhiệm vụ không thể châm chước
đối với thuận lợi của công ích và nhất
là đối với thiện ích của các phần tử
hèn kém nhất trong xă hội (x. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II, Thông Điệp Bách Niên, các đoạn 30-43). Tiếc thay, nguyên tắc
căn bản này phần nhiều đă bị coi thường,
như vẫn được thấy nơi khoảng cách
biệt liên tục và lớn rộng trên thế giới,
giữa một miền Bắc với đầy những
tiện nghi và nguồn lợi cùng với nhiều người
dân lớn tuổi, và một miền Nam đa số là người
trẻ hiện sống, song không t́m thấy được
những phát triển mong ước về xă hội,
văn hóa và kinh tế.
Không ai được lầm
lẫn nghĩ rằng nền ḥa b́nh bền vững th́ tương
đương với t́nh trạng không xẩy ra chiến
tranh như vẫn được mong ước. Không có ḥa
b́nh thực sự mà lại thiếu công bằng, chân lư,
chính trực và đoàn kết. Mọi dự tính sẽ
bị thảm bại nếu muốn phân rẽ hai
quyền lợi bất khả phân ly và liên thuộc nhau này,
đó là quyền sống ḥa b́nh và quyền phát triển
trọn vẹn theo t́nh đoàn kết. “Bất công, những chênh
lệch quá mức về xă hội và kinh tế, đố
kỵ, không tin tưởng nhau và kiêu hănh, bùng lên nơi con người
và nơi các dân nước, đă là những ǵ liên tục đe
dọa ḥa b́nh và là nguyên cớ gây ra chiến tranh. Mọi
sự được thực hiện để thắng vượt
những lệch lạc này đều là việc góp
phần vào công cuộc xây đắp ḥa b́nh và ngăn ngừa
chiến tranh” (Sách
Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo, số 2317).
14- Ở
vào thời điểm mở màn cho một tân thế
kỷ này, có một vấn đề làm nhức nhối lương
tâm nhân loại cũng như Kitô hữu chúng ta, đó là t́nh
trạng nghèo khổ của vô số triệu người
nam nữ. T́nh trạng này càng trở nên thê thảm
hơn nữa khi chúng ta nhận thấy rằng, các vấn
nạn kinh tế chính trong thời điểm của chúng
ta đây không phải la do bởi thiếu nguồn lợi,
cho bằng bởi những cấu trúc về kinh tế, xă
hội và văn hóa hiện nay được trang bị
yếu ớt trong việc giải quyết những đ̣i
hỏi của một cuộc phát triển chân chính.
Bởi thế, thành phần
nghèo, cả ở những xứ sở đang phát
triển cũng như ở những xứ sở trù phú và
giầu có, có lư “đ̣i quyền được tham hưởng
các của cải vật chất cũng như được
sử dụng khả năng của họ để làm
việc, nhờ đó kiến tạo nên một thế giới
công b́nh và trù phú hơn cho tất cả mọi người.
T́nh trạng tạo nên cho người nghèo tiến
bộ đó là một cơ hội rất tốt cho
việc phát triển về luân lư, văn hóa và ngay cả
về kinh tế của tất cả nhân loại” (Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II, Thông Điệp Bách Niên, đoạn 28). Chúng ta đừng nh́n
vào người nghèo như là một cái nạn, mà như là
một con người có thể trở thành những tay thợ
nồng cốt trong việc xây dựng một tương
lai nhân loại mới và nhân bản hơn cho hết
mọi người.
15- Theo
chiều hướng này, chúng ta cũng cần phải cứu
xét đến mối quan tâm càng ngày càng lớn lên nơi
nhiều kinh tế gia cũng như nơi nhiều chuyên
gia về tài chính, thành phần mà, trong khi để ư đến
các vấn đề mới liên quan tới t́nh trạng
nghèo khổ, ḥa b́nh, môi sinh cũng như tới tương
lai của thế hệ trẻ, đă suy nghĩ về vai
tṛ của thị trường, về ảnh hưởng
thấm đậm những lợi lộc tiền tệ
và tài chính, về mức cách biệt rộng lớn
giữa kinh tế và xă hội, cũng như về những
vấn đề khác liên quan đến sinh hoạt kinh
tế.
Có lẽ đă đến lúc
con người cần suy nghĩ một cách mới mẻ
hơn và sâu hơn về bản chất của kinh tế
cũng như về những mục đích của nó. Cái được
coi là khẩn trương đó là việc tái xét lại quan
niệm về chính “sự thịnh vượng”, để
cho nó khỏi bị gắn liền với quan niệm duy lợi
hẹp ḥi là quan niệm dành một chỗ rất nhỏ
cho các giá trị như t́nh đoàn kết và chủ nghĩa
vị tha.
16- Đến
đây Tôi xin mời gọi các kinh tế gia và các chuyên gia
về tài chính, cũng như các vị lănh đạo chính
trị, hăy nhận ra tầm mức khẩn trương của
việc làm sao để có thể bảo đảm được
những công việc về kinh tế và những qui định
liên quan đến chính trị phải nhắm đến
thiện ích của mọi người cũng như của
con người toàn diện. Đây không phải chỉ là
một đ̣i hỏi về đạo lư mà c̣n cần cho
cả một nền kinh tế lành mạnh nữa. Kinh
nghiệm đă chứng thực là việc thành công
về kinh tế càng ngày càng lệ thuộc vào việc
cảm nhận thức được con người ta
cùng với các khả năng của họ, lệ thuộc
vào việc tham gia hoàn toàn hơn của con người,
lệ thuộc vào việc con người tăng tiến cũng
như cải tiến kiến thức hiểu biết và
thông đạt, lệ thuộc vào t́nh đoàn kết
mạnh mẽ hơn.
Đó là những giá trị,
chẳng những không lạ đời đối với
kinh tế và thương mại, c̣n là những giá trị
làm cho chúng trở thành một khoa học và một hoạt động
hoàn toàn “nhân bản”. Một thứ kinh tế không đếm
xỉa ǵ đến chiều kích đạo lư và không t́m
cách phục vụ lợi ích của con người – của
mọi người cũng như của con người toàn
diện – th́ không thể nào thực sự cho ḿnh là “kinh
tế” được, nếu hiểu theo nghĩa của
việc sử dụng nguồn lợi vật chất hợp
lư và chân chính.
17- Chính
sự kiện nhân loại được kêu gọi để
làm nên một gia đ́nh duy nhất vẫn c̣n bị tách đôi
một cách thê thảm bởi t́nh trạng nghèo khổ – ở
vào lúc mở màn cho thế kỷ 21 này, c̣n hơn một
tỉ bốn trăm triệu người đang sống
trong bần cùng – tức cho thấy cần phải khẩn
trương xét lại những mẫu thức tác động
việc h́nh thành các qui định về phát triển.
Đối với vấn đề
này, những đ̣i hỏi hợp lư về hiệu
năng của kinh tế cần phải được cân
bằng hơn nữa với những đ̣i hỏi về
việc tham gia chính trị cũng như về sự công
bằng xă hội, mà không dẵm lại những bước
lỗi lầm của ư hệ đă xẩy ra trong thế
kỷ 20. Về phương diện áp dụng
thực hành, điều này có nghĩa là làm cho việc đoàn
kết trở thành một phần ḥa hợp trong guồng
máy liên thuộc về kinh tế, chính trị và xă hội,
một liên thuộc được tiến tŕnh toàn cầu
hóa đang có khuynh hướng kết hợp lại với
nhau.