|
Thông
Điệp
Caritas In Veritate – Yêu Thương
Trong Sự
Thật
của
Đức
Thánh Cha Biển
Đức
XVI
Dẫn Nhập
Chương 1: Sứ Điệp của Thông Điệp về Việc Phát Triển của
Các Dân Tộc
Chương 2:
Việc Phát Triển của Con Người trong Thời Đại của Chúng Ta
Chương 3: Tình
Huynh Đệ, Vấn Đề Phát Triển Kinh Tế và Xã Hội Dân Sự
Chương 5:
Việc Hợp Tác của Gia Đình Nhân Loại
Chương 6:
Việc Phát Triển của Chư Dân và Vấn Đề Kỹ Thuật
Kết Luận
Chương
Bốn
Việc
Phát Triển
của
Con Người,
Các Quyền
Lợi
và Nghĩa
Vụ,
Môi Trường
43. “Thực
tại
của
tình
đoàn
kết
nhân loại,
một
tình
đoàn
kết
bổ
ích cho chúng ta, cũng
áp
đặt
một
nhiệm
vụ
nữa”
[105]. Ngày nay nhiều
người
cho rằng
họ
không nợ
nần
gì với
ai hết,
ngoại
trừ
chính bản
thân họ.
Họ
chỉ
quan tâm tới
các thứ
quyền
lợi
của
họ,
và họ
thường
rất
khó lòng
đảm
nhận
trách nhiệm
cho việc
phát triển
toàn vẹn
của
riêng họ
cũng
như
của
người
khác.
Thế
nên cần
phải
kêu gọi
thực
hiện
một
cuộc
phản
tỉnh
mới
về
vấn
đề
làm sao những
quyền
lợi
bao gồm
cả
các nhiệm
vụ,
để
những
quyền
lợi
ấy
không trở
thành một
thứ
thuần
quyền
phép
[106]. Ngày nay chúng ta
đang
chứng
kiến
thấy
một
thứ
bất
nhất
trầm
trọng.
Một
đàng
là những
yêu cầu
về
các thứ
quyền
lợi
được
cho là của
mình, những
thứ
quyền
lợi
độc
đoán
và tự
bản
chất
không thiết
yếu,
được
kèm theo bằng
việc
đòi
hỏi
là chúng cần
phải
được
công nhận
và cổ
võ bởi
các cơ
cấu
công cộng,
trong khi
đó,
mặt
khác, các thứ
quyền
lợi
tối
thiểu
và căn
bản
vẫn
không
được
công nhận
và bị
vi phạm
nhiều
trên thế
giới
[107]. Người
ta thường
thấy
có sự
liên kết
giữa
những
đòi
hỏi
về
một
“thứ
quyền
thái quá”, thậm
chí tội
lỗi
và
đồi
trụy,
trong những
xã hội
thịnh
đạt,
với
tình trạng
thiếu
thốn
lương
thực,
nước
uống,
giáo dục
căn
bản
và việc
chăm
sóc sức
khỏe
tối
thiểu
ở
những
miền
đất
của
thế
giới
kém phát triển
cũng
như
ở
các vùng ngoại
ô thuộc
các trung tâm
đô
thị
lớn.
Cái liên kết
này là
ở
chỗ:
những
thứ
quyền
lợi
cá nhân, khi bị
tách khỏi
một
phạm
trù của
các thứ
nhiệm
vụ
là những
gì mang lại
cho chúng trọn
vẹn
ý nghĩa,
có thể
trở
thành hoang dại,
dẫn
tới
một
thứ
leo thang về
những
đòi
hỏi
thực
sự
là vô hạn
và bừa
bãi. Vấn
đề
quá nhấn
mạnh
đến
các thứ
quyền
lợi
đang
dẫn
tới
chỗ
gạt
bỏ
ra ngoài các thứ
nhiệm
vụ.
Những
nhiệm
vụ
đặt
giới
hạn
cho các quyền
lợi,
vì chúng hướng
cái nội
dung về
nhân loại
học
và
đạo
đức
học
là những
gì quyền
lợi
thuộc
về,
nhờ
đó
bảo
đảm
rằng
chúng không trở
thành một
thứ
quyền
phép. Như
thế
các nhiệm
vụ
là những
gì củng
cố
các quyền
lợi
và kêu gọi
bênh vực
cùng cổ
võ các quyền
lợi
này như
là một
công việc
cần
phải
được
thực
hiện
để
phục
vụ
công ích.
Bằng
không, nếu
cái nền
tảng
duy nhất
này của
quyền
lợi
con người
bị
hội
đồng
công dân cân nhắc
lại
thì các thứ
quyền
lợi
ấy
có thể
bị
thay
đổi
bất
cứ
lúc nào, và vì thế
nhiệm
vụ
tôn trọng
và thực
thi chúng bị
lu mờ
đi
nơi
ý thức
chung.
Các chính quyền
cùng các cơ
cấu
quốc
tế
bấy
giờ
có thể
không thấy
được
nữa
tính chất
khách quan và “bất
khả
vi phạm”
của
các quyền
lợi.
Khi
điều
ấy
xẩy
ra, việc
phát triển
đích
thực
của
các dân tộc
sẽ
gặp
nguy hiểm
[108].
Đường
lối
suy nghĩ
và tác hành như
thế
là những
gì gây tổn
thương
cho thẩm
quyền
của
các tổ
chức
quốc
tế,
nhất
là trước
mắt
của
những
xứ
sở
cần
phát triển
nhất.
Thật
vậy,
những
xứ
sở
cần
phát triển
nhất
này
đòi
hỏi
là cộng
đồng
quốc
tế
hãy lãnh nhận
nhiệm
vụ
giúp cho những
xứ
sở
này trở
thành “những
thủ
công viên cho
định
mệnh
của
họ”
[109], tức
là, lãnh nhận
các nhiệm
vụ
của
họ.
Việc
chia sẻ
về
các nhiệm
vụ
hỗ
tương
này là một
kích thích tác hành mãnh liệt
hơn
là việc
chỉ
đòi
hỏi
quyền
lợi.
44. Ý niệm
về
quyền
lợi
và nhiệm
vụ
trong vấn
đề
phát triển
cũng
cần
phải
được
chú ý tới
các vấn
đề
liên quan tới
tình trạng
phát triển
về
dân số.
Đây
là một
khía cạnh
rất
quan trọng
của
việc
phát triển
đích
thực,
vì nó liên quan tới
những
thứ
giá trị
bất
khả
coi thường
của
sự
sống
và gia
đình
[110].
Việc
coi vấn
đề
gia tăng
dân số
như
là nguyên nhân căn
bản
cho tình trạng
kém phát triển
là lầm
lẫn,
thậm
chí theo cả
quan
điểm
kinh tế
đi
nữa.
Chỉ
cần
xét tới,
một
mặt
là tình trạng
suy giảm
đáng
kể
nơi
mức
tử
vong của
hài nhi và việc
gia tăng
trung bình tuổi
thọ
nơi
các xứ
sở
phát triển
về
kinh tế,
và một
mặt
là những
dấu
hiệu
của
cuộc
khủng
hoảng
xẩy
ra nơi
các xã hội
đang
được
ghi nhận
về
tình trạng
suy giảm
đến
độ
báo
động
nơi
mức
sinh nở
của
họ.
Cần
phải
hiển
nhiên tỏ
ra chú ý tới
vấn
đề
truyền
sinh một
cách hữu
trách nữa,
một
vấn
đề,
cùng với
những
vấn
đề
khác,
đang
góp phần
tích cực
để
thực
hiện
việc
phát triển
toàn vẹn
con người.
Trong mối
quan tâm của
mình về
việc
đích
thực
phát triển
con người,
Giáo Hội
kêu gọi
họ
hãy hoàn toàn tôn trọng
các thứ
giá trị
nhân bản
trong việc
thực
hiện
tính dục
của
mình. Tính dục
không thể
biến
thành những
gì là thuần
túy khoái lạc
hay
ăn
chơi,
việc
giáo dục
tình dục
không thể
biến
thành một
thứ
hướng
dẫn
về
kỹ
thuật
chỉ
nhắm
tới
chỗ
bảo
vệ
thành phần
thích thú cho khỏi
chứng
bệnh
khả
dĩ
hay khỏi
bị
“nguy cơ”
sinh
đẻ.
Điều
này sẽ
làm suy yếu
và coi thường
ý nghĩa
sâu xa của
tính dục,
một
ý nghĩa
cần
phải
được
công nhận
và chiếm
hữu
cách hữu
trách chẳng
những
bởi
cá nhân con người
mà còn bởi
cộng
đồng
nữa.
Thật
là vô trách nhiệm
khi coi tính dục
chỉ
là một
nguồn
khoái lạc,
và vì thế
điều
hành nó bằng
những
biện
pháp bắt
buộc
ngừa
thai.
Trong trường
hợp
nào
đi
nữa
cũng
cho thấy
hiện
lên những
ý nghĩ
hay những
chính sách duy vật,
và con người
cuối
cùng bị
rơi
vào những
hình thức
vi phạm
khác nhau.
Để
chống
lại
các thứ
chính sách như
thế,
cần
phải
bênh vực
thẩm
quyền
căn
bản
của
gia
đình
nơi
lãnh vực
tính dục
[111], chống
lại
Chính Quyền
cùng với
những
chính sách hạn
chế
của
nó, và
để
bảo
đảm
rằng
cha mẹ
được
trang bị
một
cách thích hợp
để
lãnh nhận
các trách nhiệm
của
họ.
Việc
cởi
mở
một
cách hữu
trách về
luân lý
đối
với
sự
sống
là những
gì tiêu biểu
cho một
nguồn
phong phú về
xã hội
và kinh tế.
Các quốc
gia
đông
dân
đã
có thể
vươn
lên khỏi
cảnh
nghèo khổ
là nhờ
không ít
ở
tầm
mức
dân số
của
họ
cùng với
các tài năng
của
dân họ.
Đàng
khác, các quốc
gia giầu
thịnh
trước
đây
hiện
đang
trải
qua một
giai
đoạn
bấp
bênh, và
ở
trong một
số
trường
hợp
còn suy giảm,
chính vì tình trạng
giảm
số
sinh của
họ;
điều
này
đã
từng
trở
thành một
vấn
đề
trầm
trọng
cho các xã hội
thật
giầu
thịnh.
Tình trạng
suy giảm
nơi
vấn
đề
sinh sản,
suy giảm
có những
lúc
ở
bên dưới
cả
chỗ
được
gọi
là “mức
thay thế”,
cũng
gây căng
thẳng
cho hệ
thống
an sinh xã hội,
gia tăng
tốn
phí cho các hệ
thống
này, thâm thủng
vào những
thứ
tiết
kiệm
và vì thế
các nguồn
tài chính cần
đến
việc
đầu
tư,
giảm
bớt
tính chất
sẵn
có của
thành phần
lao công chuyên nghiệp,
và hạn
hẹp
hóa “cái quĩ
não bộ”
là nơi
các quốc
gia có thể
nhờ
đó
thấy
được
các nhu cầu
của
mình.
Ngoài ra, những
gia
đình
bé nhỏ
và có những
lúc bé tí
đang
có nguy cơ
bị
suy yếu
về
những
mối
liên hệ
xã hội,
và không thể
bảo
đảm
được
những
hình thức
hiệu
nghiệm
của
tình
đoàn
kết.
Những
trường
hợp
này là triệu
chứng
cho thấy
không
đủ
tin tưởng
vào tương
lai và kiệt
quệ
về
luân lý.
Bởi
thế,
một
lần
nữa
nó trở
thành một
nhu cầu
về
xã hội
và thậm
chí về
kinh tế
trong việc
giữ
lấy
cho các thế
hệ
tương
lai vẻ
đẹp
của
hôn nhân và gia
đình,
và sự
kiện
là các cơ
cấu
này
đáp
ứng
những
nhu cầu
và phẩm
giá sâu xa nhất
của
con người.
Theo chiều
hướng
này, các Chính Quyền
được
kêu gọi
là hãy ban hành các chính sách cổ
võ tính chất
tâm
điểm
và toàn vẹn
của
gia
đình
được
đặt
trên hôn nhân giữa
một
người
nam và một
người
nữ,
một
tế
bào căn
bản
sống
còn của
xã hội
[112], và lãnh trách nhiệm
đối
với
các nhu cầu
về
kinh tế
và tài chính, trong khi vẫn
tôn trọng
tính chất
liên hệ
thiết
yếu
của
nó.
45. Việc
nỗ lực
để
đáp
ứng những
nhu cầu sâu xa về
luân lý của con người
cũng gây ra những
âm dội quan trọng
và thiện ích
ở
lãnh vực kinh tế.
Kinh tế cần
đạo lý
để
hoạt
động
cho
đúng
đắn
– không phải là bất
cứ thứ
đạo lý nào, mà là một
thứ
đạo
lý lấy con người
làm chính.
Ngày nay chúng ta nghe nói nhiều về
đạo
lý nơi thế
giới
kinh tế, tài chính và thương
mại. Các trung tâm nghiên cứu
và các hội nghị
chuyên
đề
về
đạo
lý thương
mại
đang
gia tăng;
hệ thống
về
chứng chỉ
đạo
lý
đang lan tràn khắp
thế
giới phát triển
như
một phần
thuộc
phong trào của các ý nghĩ
liên hệ
với những
thứ
trách nhiệm của
thương
mại
đối
với
xã hội. Các ngân hàng
đang
đề ra các trương
mục
“có tính cách
đạo lý” và các quĩ
đầu
tư. “Việc
tài trợ
có tính cách
đạo lý” là những
gì
đang
được phát triển,
nhất
là qua thứ tiểu
tín dụng,
và phổ quát hơn,
tiểu
tài trợ. Những
tiến
trình này
đáng ca ngợi
và
đáng
được
ủng
hộ.
Những tác dụng
tích cực
của chúng cũng
đang
được cảm
nghiệm
thấy nơi
những
miền
đất
kém phát triển
trên thế giới.
Tuy nhiên, cần
phải phát triển
một
qui chuẩn lành mạnh
về
việc nhận
thức,
vì tĩnh từ
“đạo lý” có thể
bị lạm
dụng. Khi tiếng
này
được sử
dụng một
cách tổng quát, nó có thể
được giải
thích bất kỳ
ra sao, thậm chí cho
đến
độ nó bao gồm
cả những
quyết
định
và chọn lựa
trái với công lý và vấn
đề an sinh thực
sự của
con người.
Thật
vậy, nhiều
thứ lệ
thuộc vào hệ
thống căn
bản của
luân lý. Về vấn
đề này, giáo huấn
về xã hội
của Giáo Hội
có thể thực
hiện một
đóng góp
đặc
biệt, vì giáo huấn
này căn cứ
vào việc con người
được tạo
dựng nên “theo hình
ảnh
Thiên Chúa” (Gen 1:27), một
dữ kiện
làm xuất phát phẩm
giá bất khả
vi phạm của
con người và giá trị
siêu việt của
các tiêu chuẩn luân lý tự
nhiên.
Khi
đạo lý về
thương mại
không quan tâm tới hai trụ
cột này, nó chắc
chắn có nguy cơ
mất
đi
bản chất
đặc thù của
mình và trở thành mồi
ngon cho các hình thức khai thác;
đặc
biệt hơn
nữa, nó có nguy cơ
trở thành quị
lụy cho các hệ
thống kinh tế
và tài chính hiện nay hơn
là
điều
chỉnh những
khía cạnh hư
hoại về
chức năng
của chúng. Trong số
những
điều
khác, nó có nguy cơ
bị sử
dụng
để
biện minh cho vấn
đề tài trợ
liên quan tới các dự
án thực sự
là phi
đạo lý. Chữ
“đạo
lý”, bởi thế,
không
được
sử dụng
để
thực hiện
những
thứ phân biệt
về
ý hệ, như
thể
cho rằng các khởi
động
không chính thức
được
phác họa
sẽ không có tính cách
đạo
lý. Cần phải
có những
nỗ lực
– và thực
sự cần
phải
nói
đến
điều
này – chẳng những
để
tạo nên những
phần
hay những
đoạn
“có tính cách
đạo lý” của
kinh tế
hay của thế
giới
tài chính, mà còn bảo
đảm
là toàn thể nền
kinh tế – toàn thể
vấn
đề
tài chính –
đều có tính cách
đạo
lý, chứ không phải
chỉ là thứ
nhãn hiệu bên ngoài, nhưng
theo những
đòi
hỏi nội
tại nơi
chính bản chất
của nó. Giáo huấn
về xã hội
của Giáo Hội
hoàn toàn sáng tỏ về
vấn
đề
này, khi nhắc nhở
rằng kinh tế,
nơi tất
cả mọi
lãnh vực của
nó, là những gì tạo
nên một phần
của hoạt
động nhân loại
[113].
46. Khi chúng ta cứu
xét
đến những
vấn
đề
liên quan tới mối
liên hệ giữa
thương mại
và khoa
đạo
đức
học, cũng
như tới
việc tiến
hóa
đang xẩy
ra
ở các phương
pháp sản xuất,
vấn
đề
ở
đây
đó là việc
phân biệt giá trị
theo truyền thống
giữa các tổ
hợp kiếm
lợi và những
tổ chức
vô vị lợi,
không còn hoàn toàn chính
đáng
với thực
tại nữa,
hay không còn cống hiến
chiều hướng
cụ thể
cho tương lai nữa.
Trong các thập niên gần
đây, một
lãnh vực trung dung rộng
lớn
đã
xuất hiện
giữa hai loại
kinh doanh này.
Nó
được làm nên bởi
những tổ
hợp truyền
thống liên kết
với những
tổ hợp
riêng, những nhóm tổ
hợp hướng
đến vấn
đề an sinh xã hội,
và thế giới
đa dạng
của cái
được
gọi là “nền
kinh tế dân sự”
và “nền kinh tế
của mối
hiệp thông”.
Đây
không phải chỉ
là vấn
đề
của “khối
thứ ba”, mà là một
thực tại
kết hợp
mới bao rộng
gồm có những
lãnh vực riêng tư
và công cộng, một
thực tại
không loại trừ
lợi lộc,
nhưng coi lợi
lộc như
phương tiện
để chiếm
đạt các mục
đích nhân bản
và xã hội. Những
tổ hợp
ấy có phân chia các cổ
phần hay chăng,
cấu trúc về
pháp lý của chúng có tương
xứng với
những hình thức
được thiết
lập hay chăng,
đều trở
thành những gì thứ
yếu
đối
với việc
chúng chấp nhận
coi lợi lộc
như là phương
tiện
để
chiếm
đạt
mục
đích
của một
thứ thị
trường và xã hội
nhân bản hơn.
Hy vọng
những loại
kinh doanh mới
này sẽ thành công trong việc
tìm kiếm một
cấu
trúc về pháp lý và tài chính thích hợp
ở mọi
xứ
sở. Không tác hại
tới
tầm quan trọng
và những
lợi ích về
kinh tế
và xã hội của
những
hình thức thương
mại
truyền thống
hơn,
chúng lèo lái hệ thống
này tới
việc chấp
nhận
rõ ràng và hoàn toàn hơn những
nhiệm
vụ thuộc
về
các chủ thể
của
kinh tế. Và không phải
chỉ
thế thôi. Chính tính cách
đa dạng
nơi những
hình thức cơ
cấu của
vấn
đề
thương mại
đang làm xuất
hiện một
thứ thị
trường chẳng
những văn
minh hơn mà còn cạnh
tranh hơn nữa.
47. Cần phải
theo
đuổi
thực hiện
việc củng
cố những
loại thương
mại khác nhau, nhất
là những loại
có khả năng
coi lợi lộc
như phương
tiện
để
chiếm
đạt
mục
đích
của một
thị trường
và xã hội nhân bản
hơn, nơi
các xứ sở
bị loại
trừ hay
ở
bên lề tầm
ảnh hưởng
của nền
kinh tế toàn cầu.
Ở
những xứ
sở
ấy, rất
cần
phải
đẩy
mạnh
những dự
án theo chiều
hướng phụ
trợ,
được phác họa
và
điều
hành cách thích hợp, nhắm
đến
chỗ củng
cố
những quyền
lợi
vừa kèm theo cả
vấn
đề
đảm
nhận
các thứ trách nhiệm
tương
xứng theo
đó.
Trong các chương
trình phát triển cần
phải bảo
trì nguyên tắc
đặt
trong tâm vào con người như
là chủ thể
có trách nhiệm chính về
vấn
đề
phát triển. Quan tâm chính yếu
này cần
phải cải
tiến
các
điều
kiện
sống thực
sự
của dân chúng
ở
một
miền nào
đó,
nhờ
đó giúp họ
có thể
thi hành những nhiệm
vụ
không thể chu toàn bởi
cảnh
nghèo khổ hiện
tại
của mình. Mối
quan tâm về xã hội
không bao giờ
được
trở thành một
thái
độ trừu
tượng.
Những
chương
trình phát triển, nếu
chúng
được
thích
ứng với
các hoàn cảnh
cá nhân, cần phải
được
uyển chuyển;
và con người
được lợi
ích bởi
đó cần
phải
trực tiếp
tham dự
vào việc phác họa
và áp dụng
chúng. Các thứ
tiểu chuẩn
được áp dụng
cần phải
tha thiết với
việc phát triển
gia tăng theo chiều
hướng của
tình
đoàn kết
– nhờ
cẩn thận
kiểm
tra các thành quả – vì không có các thứ
giải pháp hiệu
lực
phổ quát nào hết.
Các chương trình
được
quản trị
điều
hành trên thực tế
đều lệ
thuộc rất
nhiều vào
đường
lối của
chúng.
“Chính các dân tộc có trách nhiệm
chính yếu trong việc
hoạt
động
cho việc phát triển
của mình. Thế
nhưng, họ
sẽ không hoàn thành
được
điều
này một cách
đơn
độc” [114]. Những
lời
này của
Đức
Phaolô VI ngày nay lại
càng hợp thời
hơn
bao giờ hết,
khi thế
giới của
chúng ta càng ngày càng trở nên hội
nhập
hơn. Những
động
lực của
vấn
đề liên quan khó có thể
là những gì tự
động.
Những giải
pháp cần phải
được thận
trọng phác họa
tương xứng
với
đời
sống cụ
thể của
dân chúng, những giải
pháp
được dựa
vào một thứ
thẩm
định
khôn ngoan cho từng trường
hợp. Song song với
những
dự án lớn
cũng
có chỗ cho những
dự
án nhỏ, nhất
là cần
tất cả
mọi
chủ thể
của
xã hội dân sự,
cả
những con người
theo pháp lý và thể
lý, tỏ ra tích cực
vận
động.
Việc
cộng tác quốc
tế cần
đến dân chúng là thành phần
có thể trở
thành yếu tố
cho tiến trình phát triển
kinh tế và nhân bản
bằng tình
đoàn
kết với
việc hiện
diện của
họ, việc
trông nom họ, việc
huấn luyện
họ và tôn trọng
họ. Theo quan
điểm
này, tổ chức
quốc tế
có thể
đặt
lại vấn
đề về
sự hiệu
năng thực
sự của
guồng máy quan lại
và quản trị
của mình, một
guồng máy thường
quá
ư là tốn
phí.
Có những lúc xẩy
ra trường hợp
là những ai nhận
lãnh trợ giúp lại
trở thành lệ
thuộc vào thành phần
ra tay cứu trợ,
và thành phần nghèo khổ
lại phục
vụ cho việc
kéo dài những thứ
quan liêu
đắt
đỏ
là những gì làm tiêu hao
đi
một cách thái quá tỷ
lệ ngân quĩ
giành cho việc phát triển.
Thế
nên hy vọng rằng
tất
cả mọi
cơ
quan quốc tế,
cũng
như các tổ
chức
ngoài chính quyền, sẽ
quyết
tâm thực hành việc
làm hoàn toàn liêm khiết, bằng
việc
thông báo cho các cống hiến
viên cũng
như cho quần
chúng về
tỷ lệ
lợi
tức
được
phân phối
cho các chương trình hợp
tác, nội
dung thật sự
của
những chương
trình
đó,
và sau hết là việc
chi thu tỉ
mỉ về
chính cơ
cấu này.
48. Ngày nay,
vấn
đề phát triển
cũng liên quan chặt
chẽ tới
cả các nhiệm
vụ xuất
phát từ mối
liên hệ của
chúng ta với môi trường
thiên nhiên nữa. Môi trường
là tặng ân Thiên Chúa ban cho hết mọi
người, và trong việc
chúng ta sử dụng
nó chúng ta có trách nhiệm
đối với
người nghèo,
đối
với các thế
hệ tương
lai cũng như
với chung nhân loại.
Khi thiên nhiên, bao gồm cả
con người,
được
coi như là những
gì thuần túy tình cờ
hay tiến hóa
định
thì cảm quan về
trách nhiệm của
chúng ta bị yếu
kém
đi. Nơi
thiên nhiên, thành phần tín hữu
nhận thấy
thành quả tuyệt
vời của
việc Thiên Chúa sáng tạo,
những thành quả
chúng ta
được sử
dụng một
cách hữu trách
để
thỏa
đáng
các nhu cầu hợp
lý của chúng ta, về
vật chất
hay về những
gì khác, miễn là tôn trọng
mức cân bằng
nội tại
của tạo
vật. Nếu
nhãn quan này bị mất
đi, chúng ta sẽ
tiến tới
chỗ một
là coi thiên nhiên như là một
thứ cấm
kỵ bất
khả
động
chạm, hai là lạm
dụng nó. Không một
thái
độ nào trong hai thái
độ
này hợp với
nhãn quan của Kitô giáo về
thiên nhiên là hoa trái của
việc Thiên Chúa tạo
dựng.
Thiên nhiên là những gì thể
hiện dự
án của yêu thương
và sự thật.
Nó có trước chúng ta, và nó
được
Thiên Chúa ban cho chúng ta như
là môi trường cho
đời
sống của
chúng ta.
Thiên nhiên nói với chúng ta về
Đấng Hóa Công (cf Rm 1:20) cũng như
về tình Ngài yêu thương
nhân loại. Nó
được
định liệu
để “tái qui hồi”
trong Chúa Kitô vào lúc tận cùng thời
gian
(cf. Eph 1:9-10; Col 1:19-20). Bởi thế
nó cũng là một
“ơn gọi”
[115]. Thiên nhiên
ở
trong tay của chúng ta không phải
như là “một
đống phế
thải bừa
bãi”
[116], mà là như một
tặng ân của
Đấng Hóa Công, Vị
đã ban cho nó một
trật tự
sẵn có, giúp con người
có thể rút ra từ
nó những ngyyên tắc cần
thiết
để
“canh tác và trông coi nó”
(Gen 2:15). Thế nhưng,
cũng
cần phải
nhấn
mạnh rằng
hoàn toàn ngược
lại với
việc phát triển
khi coi thiên nhiên như là một
cái gì
đó quan trọng
hơn là con người.
Chủ
trương này dẫn
đến
những thái
độ
của
chủ nghĩa
tân ngoại
đạo hay một
chủ
nghĩa phiếm
thần
mới – việc
cứu
độ
của con người
không thể nào xuất
phát từ nguyên thiên nhiên,
được
hiểu theo ý nghĩa
thuần tự
nhiên.
Cũng cần
phải loại
trừ chủ
trương ngược
lại, một
chủ trương
muốn hoàn toàn làm chủ
thiên nhiên bằng kỹ
thuật, vì môi trường
thiên nhiên không phải chỉ
có nguyên chất bị
mạo dụng
theo sở thích của
chúng ta; nó là một công cuộc
tuyệt vời
của
Đấng
Hóa Công chất chứa
một thứ
“văn phạm”
cho thấy những
mục
đích
và tiêu chuẩn
để
khôn ngoan sử dụng
nó, chứ không phải
để bừa
bãi khai thác nó.
Ngày nay việc phát triển
bị tác hại
nhiều chính là do bởi
những ý niệm
méo mó này.
Việc biến
thiên nhiên thành một thứ
tổng hợp
thuần túy những
dữ kiện
ngẫu nhiên sẽ
tiến
đến
chỗ vi phạm
tới môi trường,
thậm chí còn khuyến
khích các hoạt
động
không tôn trọng chính bản
tính của con người
nữa. Bản
tính của chúng ta, không phải
chỉ
được
tạo nên bởi
vật chất
mà còn bởi tinh thần,
nhớ
đó
có
được một
ý nghĩa siêu việt
cùng với các
ước
vọng, cũng
là những gì có tính chất
qui tắc
đối
với văn
hóa.
Con người dẫn
giải và hình thành môi trường
tự nhiên nhờ
văn hóa, một
thứ văn
hóa
được cống
hiến hướng
đi nơi
việc sử
dụng tự
do cách hữu trách, hợp
với huấn
lệnh của
lề luật
luân lý.
Bởi
thế, các dự
án phát triển
toàn vẹn con người
không thể
nào coi thường các thế
hệ
tương lai, nhưng
cần
phải
được
đánh
dấu bằng
tình
đoàn
kết và bằng
thứ
công lý liên thế hệ,
trong khi vẫn
chú trọng tới
các môi trường
khác nhau: về môi sinh, pháp lý, kinh tế,
chính trị và văn
hóa [117].
49. Những
vấn
đề
liên quan tới việc
chăm sóc và bảo
trì môi trường ngày nay cần
chú ý một cách thích
đáng
tới vấn
đề năng
lượng. Sự
kiện xẩy
ra là có một số
Quốc Gia, một
số nhóm và tổ
hợp năng
lượng
đang
tích trữ các nguồn
năng lượng
không thể phục
hồi là những
gì cho thấy một
trở ngại
trầm trọng
đối với
việc phát triển
ở những
xứ sở
nghèo.
Những
xứ sở
ấy
thiếu phương
tiện
về kinh tế
để
có
được những
nguồn
năng lượng
không thể
phục hồi
hay là
để
tài trợ nghiên cứu
các giải
pháp mới khác. Việc
tích trữ các nguồn
lợi thiên nhiên, một
việc cũng
xuất hiện
cả
ở
những xứ
sở nghèo, gây ra một
thứ khai thác và các cuộc
xung
đột thường
xuyên giữa các quốc
gia và trong các quốc gia. Những
thứ xung
đột
này thường xẩy
ra trên mảnh
đất
của những
xứ sở
ấy, với
con số trầm
trọng về
tử vong, hủy
hoại và băng
hoại hơn
nữa. Cộng
đồng quốc
tế có nhiệm
vụ khẩn
trương trong việc
tìm kiếm phương
tiện cơ
cấu
để
điều
hành việc khai thác các nguồn
lợi bất
khả phục
hồi
ấy,
bao gồm cả
các xứ sở
nghèo trong tiến trình
điều hành,
để
cùng nhau hoạch
định
cho tương lai.
Cả về
phương diện
này nữa, theo luân lý cũng
rất cần
đến tình
đoàn
kết mới
mẻ, nhất
là nơi những
mối liên hệ
giữa các quốc
gia
đang phát triển
và các quốc gia
ở
mức kỹ
nghệ cao [118]. Những
xã hội tân tiến
về kỹ
thuật có thể
và cần phải
giảm bớt
việc tiêu thụ
năng lượng
nội
địa
của mình, một
là bằng một
thứ tiến
hóa nơi các phương
pháp chế tạo
hay bằng việc
ý thức hơn
nữa về
môi sinh nơi thành phần
công dân của mình. Cần
phải
nói thêm là hiện
nay có thể chiếm
được tính cách hiệu
năng cải
tiến về
năng lượng
đồng thời
phấn khích việc
nghiên cứu các hình thức
thay
đổi về
năng lượng.
Tuy nhiên,
điều
cũng cần
nữa
đó là việc
tái phân phối
toàn cầu về
các nguồn
năng lượng,
nhờ
đó các xứ
sở
thiếu những
nguồn
lợi này có thể
với
tới chúng. Số
phận của
các xứ sở
này không thể rơi
vào tay của bất
cứ ai cho mình là kẻ
đầu tiên chiếm
được các thứ
chiến lợi
phẩm, hay bất
cứ ai có thể
thắng vượt
được những
người khác.
Ở
đây
chúng ta
đang bàn tới
các vấn
đề chính; nếu
chúng
được
đối
đầu
cách thích
đáng,
thì hết mọi
người
cần phải
sáng suốt
nhận ra tầm
ảnh
hưởng của
chúng
đối
với các thế
hệ
tương lai, nhất
là
đối
với nhiều
giới
trẻ
ở
các quốc
gia nghèo khổ, thành phần
“yêu cầu
đảm nhận
phần
chủ
động
của
mình trong việc kiến
tạo
một thế
giới
tốt
đẹp
hơn”
[119].
50. Trách nhiệm
này là một trách nhiệm
toàn cầu, vì nó liên quan chẳng
những tới
vấn
đề
năng lượng
mà còn với toàn thể
thiên nhiên tạo vật
là những gì không
được
lưu lại
một cách hao hụt
đi các nguồn
lợi của
nó cho các thế hệ
tương lai. Loài người
hành sử một
cách hợp lý một
thứ vai trò quản
thủ hữu
trách
đối với
thiên nhiên,
để bảo
vệ nó,
để
hoan hưởng các hoa trái của
nó và
để vun trồng
nó bằng những
đường lối
mới mẻ,
nhờ sự
trợ giúp của
các thứ kỹ
thuật tân tiến,
để nó có thể
xứng
đáng
cung
ứng và phục
vụ dân số
thế giới.
Hết mọi
người
đều
có chỗ của
mình trên trái
đất này:
ở
nơi
đây
toàn thể gia
đình
nhân loại cần
phải thấy
được các nguồn
lợi
để
sống cách xứng
với phẩm
giá của mình, nhờ
sự giúp
đỡ
của chính thiên nhiên – tặng
ân của Thiên Chúa ban cho con cái của Ngài – cũng
như bằng
việc chịu
khó và óc sáng tạo. Chúng ta
đồng
thời
cũng phải
nhìn nhận
phần vụ
nặng
nề của
chúng ta trong việc
trao trái
đất này cho các thế
hệ
tương lai
ở
một
điều
kiện
cả họ
nữa
có thể xứng
đáng
cư trú
ở
đó
và tiếp tục
vun trồng
nó.
Điều
này có nghĩa
là dấn thân thực
hiện
các quyết
định
chung “sau khi sáng suốt suy nghĩ
về
con
đường cần
phải
theo, những quyết
định
nhắm tới
chỗ
củng cố
mối
giao
ước giữa
con người
và môi trường, một
giao
ước
cần phản
ảnh
tình yêu thương sáng tạo
của
Thiên Chúa là
Đấng chúng ta xuất
phát và qui về”
[120].
Chúng ta hy vọng
rằng cộng
đồng
quốc tế
và các chính quyền
sẽ thành
đạt
trong việc
đối
đầu
với
những
đường
lối
tai hại gây ra cho môi trường.
Cũng thế,
các thẩm
quyền hữu
trách phải
hết sức
bảo
đảm là những
tốn
phí về kinh tế
và xã hội
trong việc sử
dụng
hết các nguồn
lợi
chung về môi trường
được
minh bạch tường
trình và hoàn toàn sinh lợi bởi
những
ai có trách nhiệm, không phải
bởi
những người
khác hay bởi
các thế hệ
tương
lai: việc bảo
về môi trường,
các nguồn lợi
và khí hậu là những
gì buộc tất
cả mọi
vị lãnh
đạo
quốc tế
hợp nhau tác hành và tỏ
ra sẵn sàng làm việc
cách thành tâm, tôn trọng luật
pháp và cổ võ tình
đoàn
kết với
các miền yếu
kém trên thế giới
này
[121]. Một trong những
thách
đố lớn
lao nhất gây khó dễ
cho nền kinh tế
đó là việc
đạt
được
việc sử
dụng hữu
hiệu nhất
– chứ không phải
lạm dụng
– các nguồn lợi
thiên nhiên, dựa trên một
thứ hiện
thực hóa ý niệm
về “tính cách hữu
hiệu” không phải
là một thứ
phi giá trị.
51.
Đường
lối nhân loại
đối xử
với môi trường
là những gì
ảnh
hưởng tới
đường lối
nhân loại
đối
xứ với
chính mình, hay ngược lại.
Điều
này kêu gọi xã hội
hiện nay hãy nghiêm cẩn
xét lại lối
sống của
mình, một lối
sống mà
ở
nhiều phần
đất trên thế
giới,
đang
hướng về
chủ nghĩa
khoái lạc và hưởng
thụ, bất
kể những
hậu quả
tai hại của
chúng
[122].
Điều
cần thiết
đó là một
chuyển hướng
hữu hiệu
về một
thứ tâm thức
có thể dẫn
tới chỗ
chấp nhận
những lối
sống mới
là những lối
sống mà việc
tìm cầu chân, thiện,
mỹ và mối
hiệp thông với
nhau vì sự phát triển
chung là những yếu
tố quyết
định việc
chọn lựa,
tiết kiệm
và
đầu tư
vấn
đề
tiêu thụ” [123]. Hết
mọi thứ
vi phạm
đến
tình
đoàn kết
và mối thân hữu
dân sự
đều
tác hại tới
môi trường, như
tình trạng suy yếu
về môi trường
ngược lại
làm
đảo lộn
những mối
liên hệ trong xã hội
vậy. Thiên nhiên, nhất
là trong thời
đại của
chúng ta, rất
hội nhập
với
guồng máy sinh
động
của
xã hội và văn
hóa là những
gì hiện nay khó có thể
tạo
nên một thứ
khả
biến
độc
lập.
Tình trạng sơ
xác khô cằn và suy
đồi
nơi việc
sản xuất
ở một
số miền
nông nghiệp cũng
là hậu quả
của vấn
đề kiệt
quệ và kém phát triển
nơi thành phần
dân cư của
chúng.
Chính thiên nhiên sẽ
được
bảo vệ
khi có những kích tố
cho việc phát triển
về kinh tế
và văn hóa. Ngoài ra, biết
bao nhiêu là nguồn lợi
thiên nhiên
đã bị
chiến tranh phung phá! Hòa bình nơi và giữa
các dân tộc cũng
giúp nhiều hơn
cho việc bảo
vệ thiên nhiên. Việc
tích trữ
các nguồn lợi,
nhất
là nước, có thể
gây ra các cuộc
xung
đột trầm
trọng
giữ thành phần
dân chúng trong cuộc.
Việc vui vẻ
đồng ý với
nhau về vấn
đề sử
dụng các nguồn
lợi có thể
bảo vệ
thiên nhiên và
đồng thời
cả mối
phúc hạnh của
các xã hội liên quan nữa.
Giáo Hội
có trách nhiệm
đối
với
thiên nhiên tạo vật
và Giáo Hội
cần phải
cương
quyết thi hành trách nhiệm
này trong
đời sống
xã hội.
Để thực
hiện
điều
này, Giáo Hội
cần phải
bênh vực
chẳng những
trái
đất,
nước, và không khí như
là tặng ân của
việc
tạo dựng
thuộc
về hết
mọi
người. Trên hết
Giáo Hội bảo
vệ nhân loại
khỏi bị
tự hủy.
Cái
được gọi
là sinh thái về nhân bản
cần phải
được hiểu
cách
đúng
đắn.
Tình trạng suy thoái về
thiên nhiên thực sự
liên hệ chặt
chẽ với
thứ văn
hóa hình thành việc chung sống
của con người,
ở chỗ,
khi “sinh thái về nhân bản”
[124]
được tôn trọng
trong xã hội thì sinh thái về
môi trường cũng
được phúc lợi.
Như
các nhân
đức của
con người
là những gì tương
liên với
nhau,
đến
độ
một
nhân
đức yếu
kém gây cho những
nhân
đức khác nguy hiểm
thế
nào, thì hệ thống
về
sinh thái là những gì
được
căn
cứ vào vấn
đề
tôn trọng dự
án cũng
ảnh hưởng
tới
cả tình trạng
lành mạnh
của xã hội
và mối
liên hệ tốt
đẹp
của nó với
thiên nhiên.
Để bảo
vệ thiên nhiên, việc
can thiệp của
những kích tố
hay cản trở
về kinh tế
cũng không
đủ;
thậm chí cả
đến vấn
đề giáo dục
cách thích
đáng cũng
không
đủ.
Đó là những
cách thức
quan trọng, thế
nhưng
vấn
đề
quyết liệt
ở
đây
là chiều hướng
luân lý chung của xã hội.
Nếu không biết
tôn trọng quyền
sống và quyền
chết tự
nhiên, nếu việc
thụ thai con người,
cưu mang và sinh nở
một cách nhân tạo,
nếu các phôi thai bào con người bị
hy sinh cho việc nghiên cứu,
thì lương tâm của
xã hội sẽ
tiến tới
chỗ mất
đi ý niệm
đối với
vấn
đề
sinh thái về nhân bản,
theo
đó, cả
vấn
đề
sinh thái về môi trường
nữa.
Thật là mâu thuẫn
khi nhấn mạnh
rằng các thế
hệ tương
lai tôn trọng môi trường
thiên nhiên khi các hệ thống
giáo dục của
chúng ta cùng với những
luật lệ
lại không giúp chúng tôn trọng chính bản
thân chúng.
Cuốn sách về
thiên nhiên là một cuốn
sách duy nhất và bất
khả phân chia: nó bao gồm
chẳng những
môi trường mà còn cả
sự sống,
tính dục, hôn nhân, gia
đình,
các mối liên hệ
về xã hội
nữa: tóm lại
là vấn
đề
phát triển toàn vẹn
con người. Những
nhiệm vụ
của chúng ta
đối
với môi trường
là những gì liên hệ
với các nhiệm
vụ của
chúng ta
đối với
con người là thành phần
được thấy
nơi chính mình và liên hệ
với nhau. Thật
là sai lầm
khi chủ trương
một
loạt những
nhiệm
vụ trong khi
đó
lại
chà
đạp lên các nhiệm
vụ
khác. Vấn
đề
ở
đây
đó
là cái mâu thuẫn
ngược ngạo
trầm
trọng nơi
tâm thức
của chúng ta với
việc
thực hành ngày nay: một
thứ nghịch
ngược
hạ giá con người,
lũng
đoạn
môi sinh và tác hại
xã hội.
52. Chân lý, và tình yêu
được nó tỏ
lộ, không thể
là những gì
được
sản xuất
ra: chúng chỉ có thể
được lãnh nhận
như là một
tặng ân. Nguồn
mạch tối
hậu của
chúng không phải là và không thể
là nhân loại mà chỉ
là Thiên Chúa,
Đấng chính là Chân Lý và Tình Yêu.
Nguyên tắc này hết
sức quan trọng
đối với
xã hội cũng
như
đối
với việc
phát triển, vì chẳng
có
điều
nào trong chúng có thể thuần
túy là sản phẩm
của nhân loại;
ơn gọi
phát triển về
phần cá nhân và chư
dân không dựa duy vào việc
chọn lựa
của con người,
mà là một phần
duy nhất của
dự án có trước
chúng ta và tạo nên một
nhiệm vụ
cần tất
cả chúng ta tự
nguyện chấp
nhận. Những
gì có trước chúng ta và tạo
nên chúng ta – Tình yêu và Chân Lý tồn
tại – cho chúng ta thấy
sự thiện
hảo là gì và niềm
hạnh phúc chân thực
của chúng ta là
ở
chỗ nào. Nó cho chúng ta thấy con
đường
dẫn
đến
chỗ phát triển
thực sự.
Đaminh Maria Cao
Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa
Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/encyclicals/documents/hf_ben-xvi_enc_20090629_caritas-in-veritate_en.html
(nhöõng choã
ñöôïc in ñaäm leân laø do töï yù cuûa ngöôøi dòch trong vieäc laøm noåi
baät nhöõng ñieåm chính yeáu quan troïng)
|
|