BẢN TUYÊN NGÔN CHUNG VỀ TÍN LÝ CÔNG CHÍNH HÓA

 

Đúng, Giáo Hội tự mình thật sự không phải là cùng đích, vì Giáo Hội hướng về vương quốc của Thiên Chúa, một vương quốc mà Giáo Hội là mầm mống, là dấu hiệu và là dụng cụ. Tuy nhiên, trong lúc còn xa cách Chúa Kitô và vương quốc này, Giáo Hội vẫn hiệp nhất bất khả phân ly với cả hai’ (ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 18; x Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu, 17: Tuần San L’Osservatore Romano ngày 7/11. Vương quốc không thể tách khỏi Chúa Kitô đến độ, ở một ý nghĩa nào đó, được đồng hóa với Người - x Origen, In Mt. Hom., 14, 7: PG 13, 1197; Tertullian, Adversus Marcionem, IV, 33, 8: CCSL 1, 634).

 

(Tuyên Ngôn, đoạn 18.1 và 18.2)

 

“Khi nói đến mối liên hệ bất khả phân ly giữa Chúa Kitô và vương quốc này thì không được bỏ qua sự kiện là vương quốc của Thiên Chúa – cho dù có để ý tới vấn đề vương quốc này còn ở trong giai đoạn lịch sử đi nữa – cũng không đồng hóa với Giáo Hội theo thực tại hữu hình và cơ cấu tổ chức của Giáo Hội. Thật vậy, không được gạt bỏ ‘tác động của Chúa Kitô và của Thần Linh ở bên ngoài biên giới hữu hình của Giáo Hội’ (ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 18). Thế nên, người ta cũng phải nhớ rằng, ‘vương quốc này quan tâm đến hết mọi người, đến cá nhân, xã hội và thế giới. Hoạt động cho vương quốc này nghĩa là nhận biết và phát triển việc làm của Thiên Chúa, những việc làm đang hiện diện trong lịch sử loài người và biến đổi lịch sử loài người. Xây dựng vương quốc của Thiên Chúa nghĩa là hoạt động cho việc giải thoát con người khỏi tất cả mọi hình thức của sự dữ. Tóm lại, vương quốc của Thiên Chúa là việc biểu dương và hiện thực trọn vẹn hoàn toàn dự án cứu độ của Thiên Chúa” (cùng nguồn vừa dẫn, 15).

 

Trong việc xét đến mối liên hệ giữa vương quốc của Thiên Chúa, với vương quốc của Chúa Kitô và với Giáo Hội, cần phải tránh những việc nhấn mạnh một chiều, như trường hợp của những ‘quan niệm cố ý đề cao vương quốc và đặt vương quốc này là trọng tâm của mình. Những quan niệm này nhấn mạnh đến hình ảnh của một Giáo Hội không quan tâm gì đến bản thân mình, mà chỉ hoàn toàn để ý tới việc làm chứng nhân và phục vụ vương quốc. Đó là một Giáo Hội cho người khác, như Chúa Kitô là một con người cho người khác vậy... Ngoài những khía cạnh tích cực, những quan niệm này thường cho thấy cả những khía cạnh tiêu cực nữa. Trước hết, chúng không nói gì đến Chúa Kitô, ở chỗ, vương quốc chúng nói tới đây lấy Thiên Chúa làm chính, vì, theo những quan niệm ấy, những người không có đức tin Kitô Giáo không thể hiểu được Chúa Kitô, trong khi các dân tộc, văn hóa và tôn giáo khác nhau có thể gặp nhau ở cùng một nền tảng chung nơi thực tại thần linh duy nhất, bất cứ dưới danh xưng nào. Bởi thế, những quan niệm ấy nhấn mạnh đến mầu nhiệm tạo dựng, một mầu nhiệm được phản ánh nơi tính cách đa văn hóa và niềm tin, song chúng không nói gì tới mầu nhiệm cứu chuộc cả. Ngoài ra, những quan niệm ấy còn cho thấy, vương quốc này không dành một chỗ nhỏ bé nào hết cho Giáo Hội cả, hay chỉ cho Giáo Hội một giá trị rất thấp để phản lại chủ trương Giáo Hội đã lấy mình làm chủ chốt trong quá khứ, và vì những quan niệm ấy coi Giáo Hội chính là một dấu hiệu, một dấu hiệu tất nhiên không thể nào không có tính cách mập mờ’ (cùng nguồn vừa dẫn, 17). Những luận giải này trái với đức tin Công Giáo, vì chúng chối bỏ duy nhất tính nơi mối liên hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội với vương quốc của Thiên Chúa”.

 

(Tuyên Ngôn, đoạn 19.1 và 19.2)

 

9.   Không được coi Giáo Hội như là một đường lối cứu độ tương đương hay cần được bổ khuyết bởi đường lối cứu độ nơi các tôn giáo khác.

 

·        “Từ những gì đã được nói đến trên đây, một số điểm theo đó cần phải được thần học suy tư trong việc đào sâu vào mối liên hệ giữa Giáo Hội và các tôn giáo khác đối với ơn cứu độ.

 

“Trước tất cả mọi sự, cần phải vững tin rằng ‘Giáo Hội, hiện nay đang lữ hành trên trái đất, cần thiết cho phần rỗi, ở chỗ, Chúa Kitô duy nhất là vị trung gian và là đường lối cứu độ; Người hiện diện đối với chúng ta nơi thân thể của mình là Giáo Hội. Chính Người đã minh định nhu cầu cần đến đức tin và phép rửa (x Mk 16:16; Jn 3:5), do đó, Người đồng thời cũng xác nhận nhu cầu cần đến Giáo Hội mà con người tiến vào qua cửa phép rửa’ (Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 14; x Sắc Lệnh Ad Gentes, 7; Sắc Lệnh Unitatis Redintegratio, 3). Điều tín lý này không được cho là phản lại với ý muốn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa (x 1Tim 2:4); ‘hai chân lý này cần phải hòa hợp với nhau, tức là chân lý về cơ hội thực sự cho ơn cứu rỗi nơi Chúa Kitô đối với tất cả nhân loại và chân lý về nhu cầu cần đến Giáo Hội để được cứu độ’ (ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 9; x Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, 846-847)”.

 

(Tuyên Ngôn, đoạn 20.1 và 20.2)

 

“Về vấn đề đường lối Thiên Chúa ban ơn cứu độ của Ngài – một ơn cứu độ bao giờ cũng được ban phát nhờ Chúa Kitô, trong Thần Linh, và có liên hệ một cách mầu nhiệm với Giáo Hội – cho cá nhân không phải là Kitô hữu, Công Đồng Chung Vaticanô II đã thu gọn trong một câu, đó là Thiên Chúa ban ơn này ‘theo những cách thức chỉ có một mình Ngài biết’ (Công Đồng Vaticanô II, Sắc Lệnh Ad Gentes, 7). Các thần học gia đang tìm cách để hiểu rõ ràng hơn vấn đề này. Công việc của họ phải được khích lệ, vì chắc chắn nó giúp ích cho việc hiểu biết hơn dự án cứu độ của Thiên Chúa cũng như những cách thức Ngài hoàn thành ơn cứu độ này. Tuy nhiên, từ những gì đã được nói đến trên đây về vai trò môi giới của Chúa Giêsu Kitô cũng như về ‘mối liên hệ chuyên nhất và đặc biệt’ (ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 18) Giáo Hội có đối với vương quốc của Thiên Chúa nơi loài người, một vương quốc tự bản chất là vương quốc đại đồng của Chúa Kitô Cứu Thế, cần phải làm sáng tỏ vấn đề là, sẽ trái với đức tin nếu coi Giáo Hội như một đường lối cứu độ cùng với những đường lối cứu độ được các tôn giáo khác phác tạo, những đường lối được coi như bổ khuyết cho Giáo Hội hay thực sự tương đương với Giáo Hội, cho dù những đường lối này được cho rằng cùng sánh vai với Giáo Hội để tiến đến vương quốc cánh chung của Thiên Chúa.

 

Chắc chắn các truyền thống tôn giáo khác nhau đều chất chứa và có những yếu tố tôn giáo phát xuất từ Thiên Chúa (x Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh Ad Gentes, 11; Tuyên Ngôn Nostra Aetate, 2), và đó là một phần của những gì ‘Thần Linh mang lại trong lòng người cũng như nơi lịch sử các dân tộc, nơi các nền văn hóa và nơi các đạo giáo’ (ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 29). Thật vậy, một số những kinh nguyện và lễ nghi nơi các tôn giáo khác có thể ở trong tình trạng sửa dọn cho Phúc Âm, ở chỗ, chúng là những cơ hội hay là những trợ giúp về huấn giáo trong việc làm cho lòng người mở ra trước tác động của Thiên Chúa (cùng nguồn vừa dẫn; Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, 843). Tuy nhiên, người ta cũng không thể qui cho những thứ này một nguồn gốc thần linh hay một năng lực cứu độ ex opere operato (tác hiệu), một năng lực xứng hợp với các bí tích của Kitô Giáo (x Công Đồng Chung Triđentinô, Decretum de Sacramentis, khoản 8, de sacramentis in genere: DS 1608). Ngoài ra, cũng không thể bỏ qua vấn đề là, nếu lệ thuộc vào những mê tín dị đoan hay những sai lầm (x 1Cor 10:20-21), những lễ nghi ấy còn làm ngăn trở cho ơn cứu độ nữa (x ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 55)”.

 

(Tuyên Ngôn, đoạn 21.1 và 21.2)

 

10. Không có vấn đề đạo nào cũng tốt như nhau.

 

·        Qua việc Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô đã đến, Thiên Chúa muốn rằng Giáo Hội được Người thiết lập để làm dụng cụ cứu độ toàn thể nhân loại (x Acts 17:30-31) (x Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, 17; ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 11). Chân lý đức tin này không làm giảm bớt lòng Giáo Hội chân thành trọng kính đối với các tôn giáo trên thế giới, trái lại, nó còn đồng thời cho thấy một cách sâu xa cái ý hệ chiết trung ‘làm nên đặc tính của khuynh hướng tương đối về đạo giáo, khiến cho người ta tin tưởng rằng đạo nào cũng tốt như nhau’ (ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 36). Nếu thực sự tín đồ của các tôn giáo khác cũng có thể lãnh nhận ân sủng thần linh, thì phải tin rằng, khách quan mà nói, họ đang ở trong một tình trạng thiếu hụt trầm trọng, nếu so với thành phần thuộc về Giáo Hội với đầy đủ những phương tiện cứu độ (x Đức Piô XII, Thông Điệp Nhiệm Thể: DS 3821)…. Tuy nhiên, ‘tất cả mọi con cái của Giáo Hội vẫn phải nhớ rằng tình trạng mình được nâng lên như vậy không phải là do công nghiệp riêng của mình, mà là do ân sủng của Chúa Kitô. Nếu họ không đáp lại ân sủng ấy trong tư tưởng, lời nói và việc làm, thì chẳng những họ không được cứu độ mà còn bị xét xử nghiêm thẳng nữa’ (Công Đồng Chung Vaticanô II, 14)”.